The possibility of utilizing red mud from bauxite ore in production of bricks from red mud – clay system at low temperature_2011
Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
TẬN DỤNG PHẾ THẢI BÙN ĐỎ TỪ QUẶNG BAUXITE ĐỂ SẢN<br />
XUẤT GẠCH ĐẤT SÉT NUNG Ở NHIỆT ĐỘ THẤP<br />
NGUYỄN THỊ THANH THẢO, VŨ HUYỂN TRÂN, NGUYỄN VĂN CHÁNH<br />
Bộ môn Vật liệu xây dựng, Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí M<strong>in</strong>h, Việt Nam.<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Bùn đỏ là chất thải từ quá trình sản xuất nhôm theo công nghệ Bayer. Thành phần của bùn<br />
đỏ gồm hỗn hợp nhiều chất rắn với các oxit kim loại như Fe 2 O 3 , Al 2 O 3 , SiO 2 , Na 2 O…. Bùn có<br />
màu đỏ do có chứa nhiều oxit sắt. Bên cạnh đó, bùn đỏ chứa một hàm lượng khá lớn xút trong<br />
nó. Chính điều này làm cho bùn đỏ có độ pH lớn, thông thường từ 13 trở lên. Đây là những<br />
thành phần có hại và không dễ dàng phân hủy. Do đó, cho đến nay người ta vẫn chưa tìm ra<br />
được biện pháp triệt để nào để xử lý. Một trong những giải pháp xử lý vấn đề này là sử dụng<br />
bùn đỏ làm nguyên liệu để sản xuất vật liệu xây dựng. Cụ thể trong bài báo là tận dụng bùn đỏ<br />
để sản xuất gạch xây với hệ nguyên liệu chính là bùn đỏ và đất sét trên cơ sở nguyên lý chế tạo<br />
vật liệu Geopolymer.<br />
Geopolymer là từ được sử dụng để chỉ các loại vật liệu tổng hợp từ vật liệu có nguồn gốc<br />
alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e. Từ Geopolymer lần đầu tiên được sử dụng bởi giáo sư Joseph Davidovits từ<br />
những năm 1970. Nguyên lý chế tạo vật liệu Geopolymer dựa trên khả năng phản ứng của các<br />
vật liệu alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e trong môi trường kiềm để tạo ra sản phẩm bền và có cường độ. Hệ<br />
nguyên liệu để chế tạo vật liệu Geopolymer bao gồm hai thành phần chính là các nguyên liệu<br />
ban đầu và chất hoạt hóa kiềm. Nguyên liệu ban đầu thường ở dạng alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e nhằm cung<br />
cấp nguồn Si và Al cho quá trình Geopolymer hóa xảy ra. Chất hoạt hóa kiềm được sử dụng phổ<br />
biến nhất là các dung dịch NaOH, KOH và thủy t<strong>in</strong>h lỏng N<strong>at</strong>ri Silic<strong>at</strong> nhằm tạo môi trường<br />
kiềm và tham gia vào các phản ứng Geopolymer hóa.<br />
Vật liệu Geopolymer tổng hợp từ alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e được tạo thành từ mạng lưới<br />
Poly(Sial<strong>at</strong>e) trên cơ sở các các tứ diện SiO 4 và AlO 4 với công thức như sau:[1]<br />
M n [-(SiO 2 ) z <strong>–</strong> AlO 2 ] n .wH 2 O<br />
Trong đó:<br />
- M là các nguyên tử kiềm như K, Na hay Ca.<br />
- n là mức độ đa trùng ngưng.<br />
- z là 1, 2, 3 hay >3.<br />
Quá trình tổng hợp để tạo thành vật liệu Geopolymer được gọi là quá trình Geopolymer hóa<br />
các nguyên vật liệu ban đầu nhờ vào các chất hoạt hóa kiềm khác nhau. Quá trình hoạt hóa kiềm<br />
cho các vật liệu alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e là một quá trình phức tạp và đến nay vẫn chưa được mô tả một<br />
cách rõ ràng[2]. Các bước phản ứng không diễn ra tuần tự mà hầu như diễn ra cùng lúc và chồng<br />
lắp vào nhau. Do đó, rất khó phân biệt cũng như khảo sát các bước phản ứng một cách riêng<br />
biệt.<br />
Tuy nhiên, quá trình phản ứng hóa học tạo thành geopolymer có thể được phân ra thành các<br />
bước chính sau: [3][4]<br />
- Hòa tan các phân tử Si và Al trong nguyên liệu nhờ vào các ion hydroxide trong dung<br />
dịch.<br />
- Định hướng lại các ion trong dung dịch tạo thành các monomer.
- Đóng rắn các monomer thông qua các phản ứng trùng ngưng polymer để tạo thành các<br />
cấu trúc polymer vô cơ.<br />
Quá trình Geopolymer hóa bắt đầu bằng sự phá vỡ các mối liên kết giữa Si, O. Tiếp theo đó<br />
sẽ có sự hình thành các pha mới và quá trình này bao gồm quá trình tổng hợp bằng dung dịch<br />
kiềm. <strong>The</strong>o đó diễn ra sự xâm nhập của các nguyên tử Al vào cấu trúc Si-O-Si. Từ đó tạo thành<br />
các gel alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e [4]. Với gốc là các nhóm poly(sial<strong>at</strong>e), qua quá trình trùng ngưng<br />
polymer sẽ tạo thành những chuỗi polymer với phân tử lượng rất lớn. Mạng lưới các polymer vô<br />
cơ này nhìn chung bao gồm các gel alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e tồn tại ở dạng không gian 3 chiều. Trong đó,<br />
các điện cực âm trong các ion Al có dạng tứ diện sẽ liên kết với ion dương từ các kim loại kiềm<br />
như Na, K nhằm cân bằng được điện tích.<br />
2. THỰC NGHIỆM<br />
Nguyên liệu chính được sử dụng là đất sét Đồng Nai và bùn đỏ lấy từ nhà máy hóa chất<br />
Tân Bình tại thành phố Hồ Chí M<strong>in</strong>h. Đất sét có vai trò là nguyên liệu cung cấp nguồn Si và Al<br />
cho quá trình chế tạo sản phẩm theo công nghệ Geopolymer. Bùn đỏ do có chứa một lượng xút<br />
lớn nên đóng vai trò tạo ra môi trường kiềm cho quá trình Geopolymer hóa diễn ra. Đất sét và<br />
bùn đỏ lấy từ nguồn về được phơi khô trong điều kiện ngoài trời. Sau khi phơi khô, nguyên liệu<br />
được đập nhỏ bằng búa rồi sàng qua sàng có kích thước lỗ 1mm. Nguyên liệu đã sàng được đem<br />
sấy khô trong lò sấy ở 105-110 o C đến độ ẩm không lớn hơn 2%. Đất sét và bùn đỏ được trộn với<br />
nhau với tỉ lệ bùn đỏ tăng dần từ 40% đến 90% theo khối lượng. Chất phụ gia hoạt hóa có thành<br />
phần chính là kiềm và n<strong>at</strong>ri silic<strong>at</strong> được đưa vào hỗn hợp với tỉ lệ thay đổi từ 8ml đến<br />
16ml/100g tổng nguyên liệu gồm bùn đỏ và đất sét để thúc đẩy quá trình tạo thành sản phẩm.<br />
Một lượng nước được đưa vào với tỉ lệ thay đổi tăng giảm tùy theo lượng phụ gia sử dụng để<br />
đảm bảo hỗn hợp đạt độ ẩm tạo hình từ 22% đến 23%. Hỗn hợp sau khi trộn được tạo hình trong<br />
khuôn lập phương có cạnh là 50mm. Mẫu sau tạo hình được đưa đi sấy với nhiệt độ 110 o C. Sau<br />
khi sấy, mẫu được nung với nhiệt độ thay đổi ở 400 o C <strong>–</strong> 600 o C <strong>–</strong> 800 o C. Một số mẫu sau sấy<br />
được giữ nguyên không nung. Mẫu hoàn chỉnh được thử nghiệm cường độ chịu nén, độ bền<br />
nước, độ hút nước, phân tích phổ hồng ngoại FTIR và phân tích TEM.<br />
3.1 Đặc trưng kĩ thuật của đất sét và bùn đỏ<br />
3.1.1 Đặc trưng kĩ thuật của bùn đỏ<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
Thành phần hóa học của bùn đỏ được xác định bằng phương pháp XRF (bảng 1). Kết quả<br />
cho thấy thành phần Fe 2 O 3 chiếm tỉ lệ lớn với 47,44% trong bùn đỏ giúp tạo màu đỏ cho gạch.<br />
Thành phần Al 2 O 3 cũng là nguồn cung cấp lượng Al cho quá trình Geopolymer hóa. Kết quả<br />
phân tích phổ hồng ngoại của bùn đỏ được thể hiện ở hình 1.<br />
Bảng 1: Thành phần hóa học của bùn đỏ<br />
Fe 2 O 3 Al 2 O 3 SiO 2 Na 2 O TiO 2 CaO SO 3 P 2 O 5 Cr 2 O 3<br />
47,44% 31,26% 6,17% 6,64% 6,73% 0,41% 0,44% 0,24% 0,22%
3.1.2 Đặc trưng kĩ thuật của đất sét<br />
Hình 1: Phân tích phổ hồng ngoại của bùn đỏ.<br />
Đất sét được thử nghiệm tính chất cơ lý theo tiêu chuẩn TCVN 4345:1985 (bảng 2) và<br />
thành phần hóa học theo tiêu chuẩn TCVN 7131:2002 (bảng 3). Kết quả cho thấy tỉ lệ thành<br />
phần SiO 2 và Al 2 O 3 trong đất sét lần lượt là 65,7% và 14,6%. Đây là thành phần cung cấp lượng<br />
Al và Si cho quá trình Geopolymer hóa. Kết quả phân tích phổ hồng ngoại IR của đất sét được<br />
thể hiện ở hình 2.<br />
Bảng 2: Tính chất cơ lý của đất sét<br />
Kết quả<br />
Tính chất cơ lý<br />
thử nghiệm<br />
Bảng 3: Thành phần hóa học của đất sét<br />
Thành phần<br />
Tỉ lệ %<br />
hóa học<br />
Giới hạn chảy 32,8% SiO 2 65,7<br />
Giới hạn lăn 14,3% Al 2 O 3 14,6<br />
Chỉ số dẻo 18,5% Fe 2 O 3 6,4<br />
Độ ẩm tạo hình 22,6% MgO 0,6<br />
Độ co khi sấy ở 100 o C 4,9% CaO 0,2<br />
Độ co khi nung ở 1000 o C 2,5% SO 3 0,05
Hình 2: Phân tích phổ hồng ngoại của đất sét.<br />
3.2 Tính chất cơ lý của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ<br />
3.2.1 Cường độ chịu nén<br />
Khi tỉ lệ bùn đỏ tăng lên thì cường độ chịu nén của mẫu giảm dần (Hình 3). Nhiệt độ có ảnh<br />
hưởng lớn đến mức độ thay đổi cường độ của mẫu khi tỉ lệ bùn đỏ - đất sét thay đổi. Hình 3 cho<br />
thấy nhiệt độ tạo mẫu càng cao thì mức độ giảm cường độ càng lớn khi tỉ lệ bùn đỏ tăng dần.<br />
Khi lượng bùn đỏ tăng lên hay lượng đất sét giảm đi thì yếu tố nhiệt độ ít ảnh hưởng đến sự thay<br />
đổi cường độ của sản phẩm và ngược lại. Nguyên nhân vì đất sét là nguyên liệu chính cung cấp<br />
thành phần Al và Si cho quá trình Geopolymer hóa và sự giải phóng Al và Si cho quá trình này<br />
chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhiệt độ.<br />
Hình 3: Quan hệ giữa tỉ lệ bùn đỏ và<br />
Hình 4: Quan hệ giữa tỉ lệ phụ gia và<br />
cường độ chịu nén của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ. cường độ chịu nén của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ.<br />
Khi tỉ lệ phụ gia sử dụng tăng thì cường độ của mẫu tăng. Hình 4 cho thấy ít có sự chênh<br />
lệch về cường độ giữa các mẫu chỉ sấy ở 110 o C khi tỉ lệ phụ gia sử dụng tăng dần. Mức chênh<br />
lệch lớn nhất xảy ra ở những mẫu được tạo ở nhiệt độ 400 o C và 600 o C. Đến 800 o C thì mức<br />
chênh lệch cường độ giữa các mẫu lại giảm đi. Như vậy có thể kết luận rằng tỉ lệ phụ gia có ảnh<br />
hưởng nhiều nhất đến cường độ mẫu tại khoảng nhiệt độ từ 400 o C đến 600 o C.
3.2.2 Độ bền nước<br />
Trong cùng một nhiệt độ nung, độ bền nước giữa các mẫu có tỉ lệ bùn đỏ khác nhau gần<br />
như tương đương. Sự khác nhau về độ bền nước chỉ xảy ra giữa các mẫu có cùng tỉ lệ bùn đỏ<br />
nhưng nhiệt độ nung khác nhau. Hình 5 cho thấy khi nhiệt độ tăng dần từ 110 o C đến 600 o C, độ<br />
bền nước tăng đều từ 0,42 đến 0,85. Độ bền nước tăng ít ở khoảng nhiệt độ từ 600 o C đến 800 o C.<br />
Với tỉ lệ phụ gia sử dụng thay đổi từ 8 đến 16ml/100g nguyên liệu, độ bền nước tăng lên ở<br />
những mẫu được chế tạo ở nhiệt độ thấp như mẫu sấy ở 110 o C và 400 o C (Hình 6). Đối với<br />
những mẫu được chế tạo ở nhiệt độ cao như 600 o C và 800 o C, độ bền nước thay đổi không đáng<br />
kể khi tỉ lệ phụ gia sử dụng tăng lên.<br />
Như vậy có thể thấy yếu tố quyết định nhiều nhất đối với độ bền nước là nhiệt độ tạo mẫu.<br />
Để mẫu được xem như có khả năng bền nước, tức độ bền nước trên 0,75 thì nhiệt độ tạo mẫu<br />
phải từ 600 o C trở lên.<br />
Hình 5: Quan hệ giữa tỉ lệ bùn đỏ và độ bền nước<br />
của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ.<br />
Hình 6: Quan hệ giữa tỉ lệ phụ gia và độ bền nước<br />
của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ.<br />
3.2.3 Độ hút nước<br />
Hình 7: Quan hệ giữa tỉ lệ bùn đỏ và<br />
độ hút nước của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ.<br />
Hình 8: Quan hệ giữa tỉ lệ phụ gia và<br />
độ hút nước của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ.<br />
Hình 7 cho thấy khi tỉ lệ bùn đỏ tăng lên thì độ hút nước cũng tăng lên. Mức độ tăng tương<br />
đối đồng đều ở các nhiệt độ nung khác nhau. Khi tỉ lệ bùn đỏ tăng lên nghĩa là tỉ lệ đất sét giảm<br />
đi trong khi đất sét là nguồn cung chính thành phần Al và Si cho quá trình Geopolymer hóa. Khi<br />
nguồn cung cấp này giảm đi thì quá trình sản s<strong>in</strong>h sản phẩm Geopolymer cũng giảm đi và làm<br />
cho các lỗ rỗng giữa các hạt vẫn còn tồn tại. Từ đó làm cho độ hút nước tăng lên.
Kết quả (Hình 8) cho thấy ở tất cả các mẫu, khi tỉ lệ phụ gia tăng lên thì độ hút nước giảm<br />
đi. Điều này chứng tỏ, khi tỉ lệ phụ gia tăng lên, các phản ứng Geopolymer hóa xảy ra mạnh mẽ<br />
hơn và tỉ lệ các hạt ban đầu biến đổi thành vật liệu Geopolymer nhiều hơn. Điều này làm giảm lỗ<br />
rỗng giữa các hạt và làm giảm độ hút nước của mẫu.<br />
3.3 Cấu trúc của gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ<br />
3.3.1 Phân tích TEM<br />
Kết quả TEM với tỉ lệ phóng đại 30000 lần (Hình 9) cho thấy mạng lưới Geopolymer có<br />
cấu trúc là tập hợp của các mảnh thủy t<strong>in</strong>h vô định hình đã hình thành trong mẫu.<br />
Hình 9: Kết quả TEM cho thấy mạng lưới Geopolymer trong mẫu gạch từ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ được<br />
nung ở nhiệt độ 600 o C và tỉ lệ phụ gia là 16ml/100g nguyên liệu.<br />
3.3.2 Phân tích phổ hồng ngoại FTIR<br />
Kết quả phân tích FTIR (Hình 10) cho thấy các vạch phổ tại các vị trí 3620cm -1 và 3697cm -<br />
1 là do các nhóm hydroxyl O-H trong mẫu. Các vạch phổ tại các vị trí 1630cm -1 và 3450 cm -1<br />
hầu hết là do nước hấp thụ trong mẫu.Vùng có số sóng nhỏ hơn 1033 cm -1 là vùng hấp thụ đặc<br />
trưng của Geopolymer. Trong phạm vi vùng này, các mẫu gạch đều cho ra kết quả tương tự<br />
nhau.Vùng hấp thu mạnh nhất ở các vị trí trong vùng từ 1033cm -1 đến 997cm -1 cho thấy sự hình<br />
thành Geopolymer trong mẫu. Số sóng của các mẫu nung 400 o C, 600 o C, 800 o C lần lượt là<br />
1033cm -1 , 1011cm -1 , 1010cm -1 . Đó là dao động tương ứng với các tứ diện Si-O có trong mẫu [5].<br />
Có thể thấy số sóng của các mẫu giảm dần khi nhiệt độ nung tăng lên. Điều này chứng tỏ trong<br />
mẫu có sự thay thế dần nguyên tử Al trong các tứ diện Si-O để tạo thành mạng lưới Si-O-Al của<br />
Geopolymer [6]. Các vạch tại các vị trí 913 cm -1 và 795 cm -1 của đất sét yếu dần khi so sánh với<br />
các mẫu gạch. Đây là các vạch đặc trưng cho liên kết Al-OH và Al-O có trong đất sét [6]. Hiện<br />
tượng này có thể được giải thích là do thành phần Al trong đất sét đã chuyển sang một mạng<br />
lưới khác.
Hình 10: Phân tích phổ hồng ngoại FTIR của mẫu đất sét và mẫu gạch từ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ.<br />
4. KẾT LUẬN<br />
Từ các kết quả nghiên cứu, những kết luận được đưa ra như sau:<br />
- Với tỉ lệ bùn đỏ từ 40% đến 90% tổng khối lượng nguyên liệu khô và nhiệt độ nung từ<br />
600 o C trở lên, mẫu gạch từ hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ có thể đạt được cường độ chịu nén trên 50<br />
kG/cm 2 và độ bền nước trên 0,75.<br />
- Ở cùng tỉ lệ nguyên liệu sử dụng, cường độ chịu nén tăng lên khi nhiệt độ nung tăng lên.<br />
Cường độ chịu nén của mẫu nung ở nhiệt độ 600 o C và 800 o C gần như tương đương nhau.<br />
Khi tỉ lệ bùn đỏ tăng từ 40% đến 90% thì cường độ mẫu giảm đi. Khi tỉ lệ phụ gia sử dụng<br />
tăng từ 8ml đến 16ml/100g nguyên liệu, thì cường độ chịu nén tăng lên.<br />
- Nhiệt độ nung có ảnh hưởng rất lớn đến độ bền nước. Ở mẫu chỉ sấy ở 110 o C thì độ bền<br />
nước khoảng 0,4; mẫu nung ở 400 o C, 600 o C và 800 o C có độ bền nước lần lượt là 0,6; 0,8 và<br />
0,9. Độ bền nước của mẫu không thay đổi đáng kể khi tỉ lệ bùn đỏ và tỉ lệ phụ gia thay đổi.<br />
- Khi tỉ lệ phụ gia tăng thì độ hút nước giảm và khi tỉ lệ bùn đỏ tăng thì độ hút nước tăng.<br />
Khi nhiệt độ tạo mẫu dưới 600 o C thì độ hút nước tăng khi nhiệt độ tăng. Độ hút nước giảm<br />
trong khoảng nhiệt độ từ 600 o C đến 800 o C.<br />
- Các kết quả phân tích TEM và phổ hồng ngoại FTIR cho thấy sự hình thành sản phẩm<br />
Geopolymer với cấu trúc là tập hợp của các mảnh thủy t<strong>in</strong>h vô định hình trong mẫu gạch từ<br />
hệ đất sét <strong>–</strong> bùn đỏ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.Joseph Davidovits, Chemistry <strong>of</strong> Geopolymeric System Term<strong>in</strong>ology, Géopolymère '99:<br />
Second Intern<strong>at</strong>ional Conference, 1999, pp. 9-39.<br />
2.František škvára - Alkali activ<strong>at</strong>ed m<strong>at</strong>erials or geopolymers?, Ceramics − Silikáty<br />
51(2007), pp. 173-177.<br />
3.Nguyen Van Chanh, Bui Dang Trung, Dang Van Tuan, Recent research geopolymer<br />
concrete, <strong>The</strong> 3rd ACF Intern<strong>at</strong>ional Conference, ACF/VCA 2008, pp. 235-241.<br />
4.Muhd Fadhil Nuruddi, Construction <strong>of</strong> <strong>in</strong>frastructures for susta<strong>in</strong>able futures, Sem<strong>in</strong>ar<br />
Nasional Aplikasi Teknologi Prasarana Wilayah, 2010.<br />
5.S Perera, M G Blackford, E R Vance, J V Hanna, K S F<strong>in</strong>nie and C L Nicholson,<br />
Geopolymers for the Immobiliz<strong>at</strong>ion <strong>of</strong> Radioactive Waste, Scientific Basis for Nuclear Waste<br />
Management XXVIII, Vol. MRS 824 (2004), pp. 607-612.<br />
6.ZhangYunsheng,Sun Wei,Chen Qianli,Chen L<strong>in</strong>, Synthesis and heavy metal<br />
immobiliz<strong>at</strong>ion behaviors <strong>of</strong> slag based Geopolymer, Journal <strong>of</strong> hazardous m<strong>at</strong>erials, 143,<br />
(2007), pp. 206-213.<br />
Abstract<br />
THE POSSIBILITY OF UTILIZING RED MUD FROM BAUXITE ORE IN PRODUCTION<br />
OF BRICKS FROM RED MUD - CLAY SYSTEM AT LOW TEMPERATURE<br />
Red <strong>mud</strong> <strong>from</strong> <strong>bauxite</strong> <strong>ore</strong> is a by-product <strong>of</strong> the Bayer process for ref<strong>in</strong><strong>in</strong>g alum<strong>in</strong>ium.<br />
Millions <strong>of</strong> tons <strong>of</strong> <strong>red</strong> <strong>mud</strong> produce annually and these cause adverse affect on the environment.<br />
This paper aims to study the <strong>possibility</strong> <strong>of</strong> <strong>utiliz<strong>in</strong>g</strong> <strong>red</strong> <strong>mud</strong> <strong>in</strong> <strong>production</strong> <strong>of</strong> <strong>bricks</strong> <strong>from</strong> <strong>red</strong><br />
<strong>mud</strong> - <strong>clay</strong> <strong>system</strong> based on Geopolymer technology. Geopolymer technology is based on the<br />
reaction between an alkal<strong>in</strong>e solution and an alum<strong>in</strong>osilic<strong>at</strong>e source to form a product with<br />
durability and strength. An alkal<strong>in</strong>e activ<strong>at</strong>ion admixture is added to the <strong>red</strong> <strong>mud</strong> - <strong>clay</strong> <strong>system</strong> to<br />
acceler<strong>at</strong>e the form<strong>in</strong>g process. <strong>The</strong> effect <strong>of</strong> mix proportions and temper<strong>at</strong>ure tre<strong>at</strong>ment on the<br />
mechanical properties and the structure <strong>of</strong> the samples is experience by chang<strong>in</strong>g the <strong>red</strong> <strong>mud</strong><br />
r<strong>at</strong>e <strong>from</strong> 40% to 90% <strong>of</strong> the total weight <strong>of</strong> the dry m<strong>at</strong>erials, the alkal<strong>in</strong>e activ<strong>at</strong>ion admixture<br />
r<strong>at</strong>e vary <strong>from</strong> 8ml to 16ml for each 100g solid mixture. Also, the temper<strong>at</strong>ure tre<strong>at</strong>ment is<br />
gener<strong>at</strong>ed <strong>from</strong> the sample with dry<strong>in</strong>g process <strong>at</strong> 110 o C only and the sample with he<strong>at</strong><strong>in</strong>g<br />
temper<strong>at</strong>ure <strong>from</strong> 400 o C to 800 o C. <strong>The</strong> result shows th<strong>at</strong> with temper<strong>at</strong>ure tre<strong>at</strong>ment <strong>of</strong> 600 o C<br />
and the r<strong>at</strong>es <strong>of</strong> <strong>red</strong> <strong>mud</strong> <strong>from</strong> 40% to 90% <strong>of</strong> the total weight <strong>of</strong> the dry m<strong>at</strong>erials, the <strong>bricks</strong><br />
<strong>from</strong> <strong>red</strong> <strong>mud</strong> - <strong>clay</strong> <strong>system</strong> meet the qualific<strong>at</strong>ion <strong>of</strong> hav<strong>in</strong>g the compressive strength m<strong>ore</strong> than<br />
50kG/cm 2 and the w<strong>at</strong>er resistance factor m<strong>ore</strong> than 0,75.<br />
Keyword: <strong>red</strong> <strong>mud</strong>, <strong>clay</strong>, Geopolymer, <strong>bricks</strong>.