Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
v ũ KHẮC KHOAN<br />
DOẨN VẦN<br />
XA NƯỠC<br />
AN TIÊM
ĐOẢN VĂN XA NƯỚC
ĐOẢN VĂN XA NƯỚC<br />
tác phẩm cuối cùng của<br />
Vũ Khắc Khoan<br />
An Tiêm xuất bản năm 1995<br />
KỶ NIỆM<br />
3 0 NĂM<br />
THÀNH LẬP<br />
NHÀ XUẤT BẢN<br />
A N T IÊ M<br />
at<br />
SÀI-GÒN: 1 9 6 5<br />
PARIS: 1995<br />
Bản quyền : Bà Vũ Khắc Khoan, Hoa Kỳ
v ú KHẮC KHOAN<br />
ĐOẢN VĂN XA NƯỚC<br />
A N T I Ê M
“'T£•«. K<br />
x . Nko-íc. CT S/ t / U1.1-C £<br />
,ív. v t / ~" - ' ......—lL<br />
ITịỉ ỹ: /$/■': US ^ ^<br />
^ "'"'À<br />
tVv<br />
4 ìk, c uủ va; 6 \ h-U : L?i U l'<br />
% ! t u I y * x ^<br />
\krt_t Cvv V-/'7Lvt '<br />
C-A^Í^-ặ. íc -£ v \<br />
1Ạ í < £ t-'i'^?'<br />
n v v ịk t / ú<br />
U Ị±U t'U w j<br />
Ũ t y ~ r C Ị | ' ^UỊJ_ c / |- J w .'t<br />
4-(.w,<br />
^5^e- -Cu’ Cyl-c t íctr VA_^LC*■, / t c^-vi y<br />
V tU~ — t-v^3V/ éC-tL K j2_ /VtvA-í' ^vu^v vwh^4> £c-$_.<br />
C/Lv
Bữa rượu cuối cùng<br />
với<br />
Lê Quang Luật<br />
Viết thay cho Nguyễn Đức Chiểu, Nghiêm Xuân Hông<br />
Mai Ngọc Liệu...<br />
1<br />
Bữa rượu cuối cùng uống với Lê Quang Luật<br />
là một bữa bất ngờ. Cho Luật và cho tôi. Bởi<br />
chúng tôi gặp nhau bất ngờ, khoảng 11 giờ trưa<br />
một ngày trong tuần, giữa đường Hiền Vừơng.<br />
Tôi dừng lại bên fê đường mua bao thuốc lá. Luật<br />
khật khưỡng đóng cửa xe đi tới. Nhìn thấy Luật,<br />
tôi cầm bằng mất một ngày. Nhìn thấy tôi, chắc<br />
Luật cảm thấy ngay cái vô tích sự hiện diện như<br />
một luật sư trước một phiên tòa. Không ai chào<br />
ai. Không ai lên tiếng. Cả hai bước vào một quán<br />
phở gà.<br />
— Đế chứ ?<br />
— Đế thì đế.<br />
Chúng tôi uống nhiều hơn ăn. Và ăn thì lại<br />
càng nhiều hơn nói. Câu chuyện nhát gừng : Tôi<br />
nói tôi nghe. Luật thỉnh thoảng nhếch mồm cười,<br />
cái lối cười nhếch lên đôi mép, yên lặng, cái<br />
lối cười để người đối diện biết rằng mình cười,
thế thôi. Cười như vậy rồi cũng nói. Phều phào.<br />
(Anh đã mất 2, 3 cái răng cửa. Chưa có thì giờ đi<br />
sửa. Kệ mẹ.) Chuyện gì ? Anh nói anh nghe.<br />
Nhưng tôi biết anh đang nói gì. Bởi chúng tôi hiểu<br />
nhau. Còn cái gì phải nói nữa ? Giữa Luật và tôi,<br />
câu chuyện hầu như vô ngôn mà thắm thiết, kéo<br />
dài đã từ lâu, đã từ bao giờ. Đối thoại lâu ngày<br />
tưởng như trở thành độc thoại. Một thứ độc thoại<br />
có tiềm năng đối thoại.<br />
— Nữa, mày.<br />
— Nhớ hồi quán rượu Hồ Tây.<br />
— Ờ, ờ ...<br />
— Nhớ hồi trường L u ật...<br />
— Tiên sư thằng ...<br />
Mỗi “thăng” là tiêu biểu một chế độ, một<br />
quãng lịch sử, một thất bại của trí thức, một thất<br />
bại của Luật. 9 tháng 3-1945. Rồi 19 tháng<br />
8-1945. Rồi 19 tháng 12-1946. Rồi 20 tháng<br />
7-1954.<br />
— Gọi cái gì ăn không ?<br />
— Ản làm mẹ gì.<br />
— Nữa không ?<br />
— Nữa thì nữa.<br />
Nữa là nữa rượu. Rượu nữa. Rượu đã trở<br />
thành một nhu cầu cho Luật bây giờ. Không uống<br />
Luật thôi là Luật. Uống, càng lúc càng ít lời. Và<br />
càng hiếm hoi, những nhếch mép trên một khuôn<br />
mặt mà tôi đã thuộc nằm lòng từng nét. Một vầng<br />
trán mênh mông. Một tảng cằm vạm vỡ. Hai nét<br />
10
hằn chảy xuôi từ cánh mũi xuống một đôi môi cắn<br />
chặt một điếu thuốc hút dở dang. Không một nét<br />
nhỏ cho một biểu lộ tình cảm. Thoáng nhìn, nghĩa<br />
là sơ giao, tưởng như vậy. Nhìn kỹ, đã cùng Luật<br />
lận đận vào sinh ra tử, đến một lúc nào đó, tôi<br />
mới reo lên trong bụng rằng ... À, còn cái mũi.<br />
Cái mũi đó, trên khuôn mặt đó, giữ vai chủ động.<br />
Nó nhìn xuống miệng. Và khi miệng nhếch mép<br />
thì mũi lập tức khăn khít tỏ tình đến lấp cả nhân<br />
trung. Thừa dịp, đôi mắt vội biểu đồng tình, nheo<br />
nheo sau cặp kính cận thị, tròng mắt lóe lên<br />
những ánh nhìn ấm áp ý tình. Ý có thể đùa đùa<br />
giễu cợt. Mà tình thì thật sự chân tình. Tôi thường<br />
nghĩ : chơi với Luật được là vì cái mũi của hắn.<br />
Nhưng cũng vì cái mũi mà Luật đã mất đi đến<br />
một nửa cái tỉnh táo của vầng trán mênh mông và<br />
cái cương quyết của tảng cằm vạm vỡ, những đức<br />
tính cần thiết cho một lãnh tụ. Nhất là trong địa<br />
hạt chính trị. Bởi Lê Quang Luật, người bạn tôi<br />
đó, là một nhân vật quan trọng. Một lãnh tụ<br />
Thiên Chúa giáo. Một chính trị gia trong suốt thời<br />
gian từ trước 1945 đến 1963.<br />
— Độ này cậu uống kém rồi đấy !<br />
“Cậu” là “cậu Khoan”. Chúng tôi quen gọi<br />
nhau như vậy.<br />
— Thì cứ uống đi.<br />
— Một xị nữa.<br />
Nhà tôi ở cuối đường Duy Tân. Tiệm phở<br />
11
Hiền Vương là một tiệm phở quen thuộc. Chủ<br />
nhân đứng ngay sau quầy hàng, con dao trong tay<br />
sắc như nước, tay trái giơ lên quơ một cỗ lòng gà.<br />
Một lát sau, cả gan, m'ê, lòng, tim, được xếp mỏng<br />
trên một đĩa.<br />
— Trứng non nữa, ông ơi !<br />
Chủ nhân toét mồm cười :<br />
— Biết rồi, khổ lắm ...<br />
Chủ nhân, vốn có “óc văn nghệ”, đang tập chơi<br />
đàn mandoline, mê nhạc Văn Phụng. Cũng có<br />
biết tôi nên cố tình nhắc lại câu văn Vũ Trọng<br />
Phụng. Tôi nhìn mớ trứng non, đành phải thỏa<br />
hiệp vì bỏ lửng câu văn bất hủ đó, chủ quán<br />
muốn người “đồng điệu” là Khoan tôi phải “nối<br />
điệu” :<br />
... Nói mãi.<br />
Mớ trứng non vừa được ngon lành xếp có ngọn<br />
trên đĩa lòng gà. Người chủ quán nhíu mắt nhìn<br />
tôi, rồi giơ lưỡi dao, xẻo thêm vài quả trứng nữa :<br />
— Tặng ông ... văn nghệ.<br />
“Ông văn nghệ” lại là tôi. Tôi nâng ly rượu<br />
hướng về phía ông chủ tiệm :<br />
— Phở ơ i... chào mi.<br />
Và tợp một tợp. Và rót thêm một ly. Lại tợp<br />
thêm một tợp. Cho trôi cái giây phút thỏa hiệp<br />
giữa văn nghệ và phở gà, cái giây phút phở gà văn<br />
nghệ giao duyên. Tôi cúi xuống nhìn ly rượu. Tôi<br />
đang nghĩ rằng cái người trí thức đang ngồi trước<br />
mặt tôi đó, trong suốt cuộc đời đã không bao giờ<br />
12
thỏa hiệp. Với cộng sản. Với Ngô Đình Diệm.<br />
Với Phật Giáo. Với Thượng Đế. Do vậy mà thất<br />
bại. Nhưng rực rỡ và huy hoàng ...<br />
2<br />
Gặp Lệ Quang Luật từ năm nào, tôi không<br />
nhớ rõ. Từ lâu lắm, hình như vậy. Lớp nhất, lớp<br />
nhì năm xửa năm xưa, chắc như vậy.<br />
— Nhớ không ? Nghỉ hè, Trung Bắc học<br />
hiệu ...<br />
Và nhớ. Năm đó khoảng Nguyễn Thái Học<br />
dõng dạc bước lẽn máy chém. Những vụ biểu<br />
tình, bãi khóa. Tôi, trên dưới 10 tùổi. Luật hơn tôi<br />
một tuổi. Tôi thấy nổi lên — lênh đênh khói sóng<br />
Thần Phù — một vài khuôn mặt, một vài giọng<br />
nói. Những bài “ám tả” Pháp văn, những câu văn<br />
dớ dẩn của những Jean Marquet và Jeanne<br />
Leuba. II fait íroid. II fait froid. Le vent du Nord<br />
souffle le delta. Hoa sấu rụng đầy đường. Tiếng<br />
ve sầu kéo dài vào những giấc ngủ trưa đẫm mồ<br />
hôi mùa hè Hà-nội. Nhớ rồi.<br />
— Cái hồi đi tập Septo, nhớ không ?<br />
Sân vận động khu nhà Riêm Hà-nội. Bãi đá<br />
bóng giữa sân. Con đường trải than sỏi vòng<br />
quanh để chạy. Những vũng cát để nhảy. Những<br />
cột barre fixe, barre parallèle, lành lạnh hơi<br />
sương sớm. Chao ôi là nhớ. Gió heo may từng<br />
đợt. Những tảng ngực trần xạm nắng. Vươn lên,<br />
13
vươn lên. Vượt qua, vượt qua. Cháy lên những<br />
buồng phổi. Mối tình trai trong lành thắm thiết<br />
tưởng như mang keo sơn đào-viên kết-nghĩa. Từ<br />
sân trường Trung Bắc học hiệu đến bãi đá bóng<br />
Septo, Luật và tôi như hình và bóng, từ mùa dế<br />
mèn đến mùa nhót chín. Rồi bẵng đi một dạo,<br />
chúng tôi thôi gặp nhau. Mấy năm ? vẫn qua<br />
những câu chuyện nhát gừng, giữa hai tọp rượu, ở<br />
những quán cóc dọc đường Hà-nội và Saigon.<br />
— Lúc gặp mày ở sân trường Luật. Tao vừa ra<br />
xong số báo Monôme. Mày vừa dựng xong vở<br />
Thế Chiến Quốc. Năm nào nhỉ ?<br />
— 1942,43.<br />
Thế là khoảng trên 10 năm. Nhớ. Khoảng trên<br />
10 năm, từ xong tiểu học, qua trung học, lên đại<br />
học ... tôi không gặp Luật. 10 năm, thời gian<br />
trưởng thành. Và cũng là thời gian trở thành. Phụ<br />
trách tờ báo Monôme cho Tổng Hội Sinh Viên.<br />
Luật trở thành nhà báo thực thụ. Dựng vở Thế<br />
Chiến Quốc và Nửa Đêm Truyền Hịch của Trần<br />
Tử Anh cho Tổng Hội Sinh Viên, tôi trở thành<br />
một thứ thiêu thân đêm đêm đâm đầu vào ánh<br />
đèn rìa sân khấu.<br />
— Ăn một chút đi, mày.<br />
Luật nhón một miếng gan nhỏ. Rồi lại tọp một<br />
tọp. Lúc bấy giờ mặt trời đã đúng Ngọ. Giờ tan<br />
sở. Xe cộ đổ từ đường Duy Tân xuống như thác<br />
lũ, ứ đọng nơi ngoặt sang đường Hiền Vương một<br />
chiêu. Hai ngã tư Hai Bà Trưng và Pasteur đèn<br />
14
đỏ kéo dài, tôi nhìn ra, hoa mắt. Tôi quay lại.<br />
Luật vẫn còn khật khưỡng.<br />
— Nữa, mày.<br />
— Thì nữa.<br />
Và rượu nữa. Và yên lặng. Còn gì để nói nữa<br />
đâu ? Lê Quang Luật đã già, yếu gan, yếu ruột,<br />
yếu phổi,, yếu tim. Yếu hết. Chỉ còn lại nguyên<br />
một bộ óc. vẫn tinh tường, vẫn sắc sảo. Và sau<br />
cặp mắt kiếng cận, những ánh mắt vẫn tò mò, vẫn<br />
đêm đêm, khi tỉnh rượu, lúc nửa khuya, dọi vào<br />
những trang sách, dọi sâu vào một tâm thức u<br />
uẩn nhiều bực dọc, hối tiếc, những câu hỏi và<br />
những rắp tâm làm một cái gừ Yếu hết, nhưng<br />
Luật vẫn cố gắng giữ nguyên phong độ một sinh<br />
viên độc thân. Gian phòng lầu 3 một tòa building<br />
đường Tự Do chất ngất đầy sách, Luật sống ở đó,<br />
thường trắng đêm đọc ngấu nghiến từng trang<br />
sách, ghi ghi chép chép từng câu từng chữ, đủ<br />
loại, những thiên về tư tưởng Thiên Chúa giáo.<br />
Từ Saint Thomas d’Aquin, Pascal, đến Gabriel<br />
Marcel để ngừng lại khá lâu nơi Mounier ... Tôi<br />
biết Luật muốn viết một tác phẩm cho đời anh.<br />
Một tác phẩm với đúng ý nghĩa của danh từ tác<br />
phẩm. Một tác phẩm kinh khủng :<br />
— Viết như chúng mày thì viết làm mẹ gì ?<br />
Tao sẽ viết cho chúng mày xem. Một tác phẩm ...<br />
kinh khủng.<br />
Nửa đùa, nửa thật. Đùa là đùa chúng tôi,<br />
Nghiêm Xuân Hồng và tôi. Và thật, rất thành<br />
15
thực với chính Luật, tôi biết. Một tác phẩm kinh<br />
khủng. Một tác phẩm giãi bày tất cả những thao<br />
thức khôn nguôi của một người trí thức Thiên<br />
Chúa giáo sống trọn vẹn cái khắc khoải giữa<br />
một niềm tin vô điều kiện (nhưng Thượng Đế xa<br />
vời, Thượng Đế bỏ con rồi sao ? Trên cây Thánh<br />
giá, phải chăng chính Christ đã có lúc buông<br />
xông niềm tin ?) và một tinh thần duy lý đến<br />
cùng. Giữa Thiên-đường ( có Thiên-đường thì ai<br />
lên đó ? Chắc chắn là không có mày rồi, Khoan<br />
ơi !) và ĐỊa-ngục (tao đâu là con nít mà dọa ?)<br />
— Tao hỏi thật. Mày có tin là có “sừ lủy” hay<br />
không ?<br />
Yên lặng.<br />
— Dis m oi... Est-ce qu’il existe ? II n’ existe<br />
pas.<br />
Có một đêm, ỡm ờ, như một nhân vật Samuel<br />
Beckett:<br />
— Pas encore.<br />
Đôi mép lại được dịp nhếch lên. Cái mũi tò<br />
mò nhìn xuống miệng. Nhưng, đêm đó, đôi mắt<br />
Luật không cười.<br />
3<br />
Hà-nội năm xưa có quán rượu dựng ven bờ hồ<br />
Hoàn Kiếm. Mùa lạnh, gió dừng ngoài khung cửa<br />
kính đóng kín, mưa nhỏ giăng mờ mặt hồ, men<br />
16
ượu như có tăng thêm chất ngấm. Mùa hè gọi<br />
một ly Rhum soda. Một phần ba Rhum St.James,<br />
hai lát chanh mỏng và một chút soda. Chất đắng<br />
của mía Bắc Phi lên men, thoảng một chút thơm<br />
mát dợi của chanh cốm ngoại ô Hà-nội, hơi soda<br />
lăn tăn xông lên mũi, cục đá chạm thành ly nghe<br />
đong đưa như guốc gỗ Phi Mã gõ trên mặt hè<br />
tinh sương họp chợ Đồng Xuân, gió hồ lùa vào<br />
mái tóc chúng tôi lúc đó còn xanh mướt, chúng tôi<br />
ngất ngưởng đi vào tâm sự của chính chúng tôi.<br />
— Tao muốn thực hiện một thứ sân khấu<br />
không phân cách diễn viên với khán giả.<br />
Ba mươi sáu phố phường Hà-nội bỗng lên đèn,<br />
màu xanh giới nghiêm. Gió nổi. Lạnh thấm vai.<br />
Luật lừng khừng :<br />
— Thì, đợi đó, làm gì có diễn viên với khán<br />
giả?<br />
Tôi vẫn đuổi theo ảo ảnh nửa khuya sân khấu :<br />
— Trần Tử Anh và tao đang viết một vở kịch<br />
thơ. Nửa Đêm Truỳên Hịch. Tao đưa cả âm nhạc<br />
vào kịch. Âm nhạc bối cảnh. Nguyễn Xuân Khoát<br />
nhận lời rồi.<br />
Tôi mê man với câu chuyện kịch, Luật cắt<br />
ngang :<br />
— Bây giờ mà mày còn nói chuyện kịch à ?<br />
Tôi nhìn Luật. “Bây giờ” lúc đó là khoảng cuối<br />
năm 1944. Tôi tự hỏi thì sao ? Tuy vẫn hiểu rõ ý<br />
nghĩa của chữ “bây giờ”. Rằng thời thế đã đến<br />
hồi nghiêm trọng', vở kịch ngoài đời sửa soạn đi<br />
17
vào màn kết. Quân đội Đồng minh phản công ở<br />
khắp mặt trận, từ Âu qua Ả. Quân Đức sa lầy<br />
trong sa mạc tuyết trắng Nga Sô. Hitler sử dụng<br />
khí giới bí mật cuối cùng. Hàng vạn viên đạn<br />
bay V2 bay sang Luân Đôn, những tiếng nổ chát<br />
chúa báo hiệu sự cáo chung của chế độ Quốc Xã.<br />
Quân Y tan rã, De Gaulle lên tiếng kêu gọi.<br />
Quân đội Nhật Bản đánh ván bài cuối cùng,<br />
từng đoàn máy bay cảm tử đâm đầu hara-kiri<br />
xuống từng đoàn chiến thuyền Mỹ lừ lừ tiến vào<br />
Thái Bình Dương.<br />
Giọng nhát gừng của Luật thủ thỉ bên tai —<br />
Luật lúc đó đang làm chủ bút một tờ nhật báo,<br />
đang bám sát thời sự —, tôi hiểu thêm tình hình<br />
quốc nội. Tôi nghe xôn xao những rộn rịp tự lòng<br />
của từng đoàn thể, từng đảng phái, nhịp theo âm<br />
hưởng cuộc chuyển mình những phong trào vận<br />
động độc lập cho đất nước. Tôi nghe thì thầm<br />
những tên tuổi lưu vong bên kia biên giới, những<br />
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng<br />
Khanh ... Mặt Trận Việt Nam Cách Mệnh Đồng<br />
Minh Hội, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội ra<br />
đời. Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc<br />
Dân Đảng, Dân Chính, nhóm Đệ Tam, Đệ Tứ,<br />
Tân Dân Chủ ... Sửa soạn. Và nhóm Sinh viên.<br />
Vào khoảng mùa đông năm 1944. Tổng Hội<br />
Sinh Viên chỉ còn có một mục đích. “Bất thành<br />
văn”. Đó là gây xúc động yêu nước tích cực<br />
18
trong sinh viên và thanh niên, trong mọi giới<br />
đồng bào. Bằng mọi phương cách, nhất là những<br />
hoạt động xã hội, văn học và nghệ thuật.<br />
Tiếng-Gọi-Sinh-Viên từ giảng đường Đại học<br />
Hà-nội qua năm cửa ô vang dội trên cả nước.<br />
Trại hè Tương Mai, trại hè Suối Lồ tấp nập<br />
thanh niên. Vở Thế Chiến Quốc, vở Lam Sơn, vở<br />
Nửa Đêm Truỳên Hịch trình diễn trên sân khấu<br />
Nhà Hát Lớn Hà-nội. Đêm đêm, những buổi họp<br />
ban Quản Trị Tổng Hội Sinh Viên mang không<br />
khí những buổi họp Đảng. Chúng tôi, lúc đó tôi<br />
phụ trách tiểu ban Kịch — linh cảm bị dõi theo<br />
bởi những bóng đen mật vụ Pháp và Nhật, bị<br />
giám sát, ảnh hưởng, can thiệp bởi những phe<br />
nhóm chính trị. Dương Đức Hiền, hội trưởng<br />
Tổng Hội ngấm ngầm gia nhập Tân Dân Đảng<br />
liên kết với những Nguyễn Đình Thi, Cù Huy<br />
Cận. Đa số chúng tôi cương quyết bảo nhau giữ<br />
mạnh thế đứng của người sinh viên dân tộc.<br />
— Luật dằn giọng :<br />
— Nhưng chúng mày tiêu cực. Kịch làm cái<br />
mẹ gì ?<br />
Tôi nóng m ặ t:<br />
— Thế mày thì làm gì ?<br />
Luật mím môi, cắn chặt điếu thuốc Bastos.<br />
Tròng mắt xa dần, xuyên qua tấm kính Nhà Thủy<br />
Tạ, lướt nhanh trên mặt hồ, từng nhịp cầu Thê<br />
Húc, tròng mắt xa thẳm. Yên lặng buông thõng<br />
giữa chúng tôi. Lỹ rượu đã cạn từ bao giờ. Chiêu<br />
19
đã xuống trên trời Hà-nội loạn. Mưa bụi giăng<br />
khắp nẻo. Tôi nghĩ đến những người thân cùng<br />
lứa, những Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng,<br />
những Sĩ Ngọc và Chu Ngọc.<br />
Một vừng trăng huyết<br />
Rụng đỏ kinh kỳ<br />
Rượu thơ dừng gót lưu ty<br />
Sớm nổi mẩy thành cố quận<br />
Chiêu lên khói ải biên thùy<br />
Thơ họ Vũ đó. Nói lên một chút tâm tư<br />
của cả một thế hệ. Tôi bỗng thấy cái cần thiết<br />
gặp người con trai đó, áo xanh bạc phếch màu<br />
trời, vầng trán mênh mông nỗi đau thế sự. Đêm<br />
nay chăng ?<br />
Tôi quay lại Luật. Mắt anh long lanh. Hình<br />
như anh muốn nói một cái gì, nhưng anh giữ yên<br />
lặng. Bởi anh biết rằng tôi cũng biết. Rằng anh<br />
không tiêu cực. Rằng anh đang sửa soạn. Anh<br />
đang móc nối. Anh đang hoạt động. Một cái gì<br />
sẽ xảy ra. Phải xảy ra. ơ ngay đây. Việt Nam.<br />
Chắc chắn.<br />
Tiệm phở Hiền Vương vào 1 giờ trưa, vắng<br />
ngắt. Chỉ còn tôi với Luật. Không một cái gì nhắc<br />
nhở đến Hà-nội quán rượu Le Lac. Sao hôm đó,<br />
uống với nhau vài xị đế, bữa rượu cuối cùng<br />
giữa tôi và Luật —, tôi lại nhớ về ngày và nơi cũ ?<br />
Gió Saigon thổi từ bờ sông. Gió Hà-nội, chiều đó,<br />
thổi loạn trời đất. Chiều đó, chia tay, tôi còn nhớ,<br />
20
tôi có ngập ngừng :<br />
— Liệu có gì không mày ?<br />
Giọng Luật, chiều đó, chia tay, như có đanh<br />
lạ i:<br />
— Có là cái chắc.<br />
Chiều đó, khoảng cuối năm 1944.<br />
4<br />
Cung Tiến xoay nhẹ cổ tay. Rượu không sánh<br />
ra ngoài một giọt. Chiếc ly dong dỏng trong vắt<br />
đầy tới ba phần tư. Tôi nhón một miếng íromage<br />
nhỏ và tọp một tợp rượu. Rượu chát sẫm màu vỏ<br />
lựu không lạnh mà cũng khởhg quá ấm, trên dưới<br />
8 độ bách phân, dạt dào trôi qua cổ họng quện<br />
với chất béo ngậy thoáng vị chua của íromage sữa<br />
dê, tôi thầm nghĩ cái anh chàng nhạc sĩ tài cao<br />
tuổi quá tuần nghi hoặc này quả là người biết ăn<br />
biết uống. Và biết đặt những câu hỏi bất ngờ.<br />
Tiến rằng :<br />
— Tôi có đọc loạt bài của ông về Lê Quang<br />
Luật. Thế Lê Quang Luật là ai, hở ông ?<br />
— Tôi không biết trả lời ra sao. Lê Quang<br />
Luật là ai ? Tại sao lại viết về một người mà một<br />
người như Tiến cũng không biết rõ lai lịch ? Chả<br />
nhẽ một lần nữa (lần đầu tiên, trong vở Thành<br />
Cát Tư Hản), lại ỡm ờ :<br />
— Lê Quang Luật chỉ là cái cớ.<br />
Tôi đưa ly rượu lên miệng, mùi thơm rượu<br />
21
chát thoáng qua mũi.<br />
Hồi đó, khoảng đầu 1945, rượu chát là một xa<br />
xỉ phẩm. Hàng hoá nhập cảng vắng mặt ở khắp<br />
thị trường Hà-nội. Người vùng quê Bắc Việt nai<br />
lưng trồng gai cho Nhật, thi nhau nhai hết cái gì<br />
có thể cho vào miệng để nhai — củ chuối là một<br />
loại cao lương mỹ vị — từ rạ trên mái 'đến rơm<br />
ngoài đồng, từ lá trên cành đến rễ cây si, sau khi<br />
đã nhai sạch cả làng, mới bồng bế kéo nhau lên<br />
tỉnh. Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hà-nội.<br />
Nhất là Hà-nội. Để ôm nhau mà chết. Chết dọc<br />
đường. Chết hè phố. Chết không mùi. Chết khổ.<br />
Chết lặng. Chết vô danh. Chết Ât Dậu. Mỹ thả<br />
bom dọc đường rầy xuyên Việt. Than ứ lại từng<br />
đoàn wagon đen ngòm. Miền Nam đốt thóc thay<br />
than. Gạo Saigon nhọc nhằn chuyển ra từng tạ.<br />
Dân chúng tỉnh thành được phát phiếu thực<br />
phẩm. Phiếu A dành cho dân Tây và công chức<br />
cao cấp, thừa ăn thừa hút. Phiếu B : gạo và vài<br />
bao thuốc lá Mic. Phiếu c : một chút gạo. Gạo<br />
Saigon ăn cật bụng chỉ một giờ sau là lại đói meo.<br />
Tôi, trên 20 tuổi lúc bấy giờ, ăn không bao giờ<br />
biết no. Tất cả chỉ chờ đợi từng ngày. Cái gì sẽ<br />
xảy ra ? Viên Toàn Quyền Đông Dương bay vào<br />
Saigon. Lính Pháp đêm đêm cấm trại. Trên sân<br />
trường Đại học, sinh viên Việt tụm năm tụm ba,<br />
nhỏ nhỏ to to, sinh viên Pháp gườm gườm đi đi<br />
lại lại. Thần kinh căng thẳng, không khí Hà-nội<br />
nhằng nhịt những luồng điện ngầm. Gót ủng quân<br />
22
đội Phù Tang nện mạnh hè đường 36 phố<br />
phường. Trại giam Sơn La chật ních chính trị<br />
phạm. Trần Trọng Kim bí mật đáp chiếc thuyền<br />
Nhật Bản sang Trân Châu Cảng.<br />
Và tôi tìm được câu trả lời Cung Tiến. Viết về<br />
Lê Quang Luật là viết về thời Lê Quang Luật.<br />
Bởi cuộc sống của Luật song song đã nhịp theo<br />
con đường Việt Nam lên xuống. Từ 45 đến 54. Từ<br />
54 đến 63. Và từ 63 đến bữa rượu hôm đó, trong<br />
quán phở đó, với tôi. Viết về Luật, cũng là viết về<br />
tôi, về chúng tôi, thế hệ 45.<br />
— Tụi Nhật sa lầy ở Hoa Nam. Nguyễn Tường<br />
Tam gia nhập Mặt Trận Việt Cách của cụ<br />
Nguyễn rồi.<br />
— Hình như tụi Võ Nguyên Giáp lập Mặt<br />
Trận khác thì phải.<br />
— Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Có cả<br />
Nguyễn Ái Quốc ở trong đó. Đệ Tam. Mày đọc<br />
tập Manifeste chưa ? Độc lập là giai đoạn đầu<br />
mà.<br />
— Tao không hiểu sao tụi Pháp ở đây lại<br />
khuyên khích tụi Hàn Thuyên xuất bản sách của<br />
Nguyễn Bách Khoa ... Nguyễn Du và Truyện<br />
Kiều. Mày đọc chưa ? Sặc mùi Mác Xít.<br />
— Tụi Pháp chơi trò chính sách giai đoạn.<br />
Mác Xít chống Phát Xít. Nhưng yếu quá. Tao<br />
chắc ở đây tụi Nhật phải ra tay trước. Tao có gặp<br />
tụi thằng Nguyễn Thiệu Lâu, Cù Đình Lộ,<br />
23
Nguyễn Đức Chiểu. Chúng nó đồng ý lập thành<br />
một nhóm. Mày nghĩ sao ?<br />
“Mày” là tôi. Tôi nghĩ sao ? Tôi có nghĩ gì đâu.<br />
Buột miệng :<br />
— Chẳng nghĩ mẹ gì cả. Làm thì làm.<br />
Luật nhìn tôi, yên lặng. Rồi thủng thẳng :<br />
— Trừ mấy thằng mình ra thì tao không tin<br />
thằng nào cả. Thăng Dương Đức Hiền muốn gặp<br />
tao và mày.<br />
— Sao lại tao và mày ?<br />
— Chắc nó cho rằng tao với mày cùng một<br />
nhóm.<br />
— Gặp làm gì ?<br />
— Chắc tụi nó muốn “cộng tác” với tụi mình.<br />
— Tụi nó là tụi nào ? Tân Dân Chủ ?<br />
— Thì còn tụi nào nữa. Nó mời đi ăn. Mày<br />
nghĩ sao ?<br />
Lại một lần nữa, buột miệng :<br />
— Chẳng nghĩ mẹ gì cả. Đi thì đi.<br />
Nơi hẹn là một tiệm ăn, tiệm Majestic, đường<br />
Hàng Bông Đêm. Đó là một tiệm khá sang.<br />
Chuyên bán đồ ăn lối Pháp, chúng tôi ít khi lai<br />
vãng bởi một lẽ giản dị là đắt tiền. Chúng tôi<br />
bước lên lầu và nhìn thấy ngay Dương Đức Hiền<br />
một mình thu hình ở một góc phòng cạnh tấm<br />
cửa kính, sát bao lơn nhìn xuống đường. Trần nhà<br />
thấp, đèn tỏa xuống âm u, tấm cửa kính dán<br />
ngang dọc vài miếng giấy cắt dài đê phòng oanh<br />
24
kích, phòng ăn vắng khách, ánh đèn xanh giới<br />
nghiêm ngoài đường hắt vào vài dẫy bàn ăn khăn<br />
bàn mênh mông trắng toát, tôi thấy tôi bị hút vào<br />
một không khí đặc biệt. Đến mãi lúc đó tôi mới<br />
biết rằng người bạn thân của tôi là Lê Quang<br />
Luật không đùa. Và Luật và tôi, Luật thì tính<br />
toán từ trước, tôi thì vì một thăng bạn, vì nhận<br />
thấy đã đến lúc phải làm một cái gì, vì chiều hôm<br />
đó gió lạnh lộng ngoài trời, hai đứa chúng tôi thắt<br />
thêm một vòng duyên nợ, đi vào một trò chơi,<br />
luật chơi đầy khúc mắc, mà việt vị trong đa số<br />
trường hợp, có nghĩa là vĩnh viễn việt vị.<br />
5<br />
Từ bữa cơm với Dương Đức Hiền buổi đó đến<br />
nay, khoảng 30 năm đã qua. Khói sương mờ lối<br />
cũ, thấp thoáng tận cùng ký ức, còn lại chỉ là một<br />
vài ấn tượng nhạt nhòe, một vài âm thanh ray rứt.<br />
Nhất là âm thanh, đối với riêng tôi, cái thời đó là<br />
một thời đại dựng lên bằng âm thanh. Tiếng gió<br />
mùa thu và tiếng lòng của ly biệt. Dứt áo và nhớ<br />
thương. Chưa dứt áo đã nhớ thương. Nhớ thương<br />
nhưng dứt áo. Trong đêm thu đã sang cùng heo<br />
may có sương lam mờ cả mây trời, còi tàu ray rút,<br />
người ra đi để lại hình bóng bên cánh song có<br />
người nhớ thương canh cánh bên lòng đan áo cho<br />
ai. Đó là thời đại của Đặng Thế Phong vừa nổi<br />
bật, của Văn Cao còn lấp ló, của “mầm non văn
nghệ” (!) Phạm Duy. Thời đại đó đặc biệt là thời<br />
đại của khan hiếm. Thuốc lá trộn lấy mà hút.<br />
Mua về từng gói 500 gam, ngâm cà phê pha<br />
loãng, một chút mật ong, một chút rượu Rhum<br />
rồi phơi khô. Nhồi tẩu, hút vào vị còn ngai ngái,<br />
hơi thơm thoảng mùi cỏ đồng cháy chiều thu.<br />
Bánh mì trộn bột gạo, quá nhiều bột gạo, như<br />
tấm bánh mì hôm đó của nhà hàng Magnific, mà<br />
dư vị còn giữ lại trên đầu lưỡi của tôi đến tận bây<br />
giờ là cái vị rời rạc của những miếng cơm nguội<br />
nắm vụng. Tóm lại, bữa cơm hôm đó không ngon.<br />
Nghĩ lại, cũng không phải vì bánh, mà là do cái<br />
không khí chung của cuộc gặp mặt. Chúng tôi đã<br />
biết nhau từ trước, đã nhiều lần gặp gỡ chuyện<br />
trò trên sân trường đại học — chúng tôi hôm đó<br />
bỗng dưng trở nên những người xa lạ, ý tứ giữ gìn,<br />
mỗi lời cất lên tưởng như một lời “phát biểu”, về<br />
thái độ, quan điểm, lập trường. Luật hút thuốc<br />
luôn miệng. Hiền cố gắng giữ trọn vai trò một<br />
người đang đấu tranh tích cực. Anh ăn ít, nói<br />
mạnh, trợn mắt nhìn thẳng vào người đối diện.<br />
Riêng tôi, nhìn Luật và Hiền, nghe hai người đối<br />
đáp, dần dần cảm thấy tất cả cái ngao ngán của<br />
một trò chơi — trò chơi chính trị — người chơi<br />
chỉ là một thứ quân cờ, thế thắng tối hậu luôn<br />
luôn nằm trong tay kẻ biết vứt bỏ một bên cái<br />
phần thiêng liêng nhất của con người là phần tình<br />
cảm.<br />
26
Người bồi bàn lặng lẽ rút xuống dưới nhà.<br />
Hiền đặt chén cà phê xuống bàn, nhìn thảng :<br />
— Chắc mình chả cần phải dài dòng. Các cậu<br />
cũng biết tại sao anh em lại bảo mình đi gặp các<br />
cậu.<br />
Luật cười khẩy, lối cười của L u ật:<br />
— Anh em là ai ?<br />
Hiền cũng cười:<br />
— Nhóm mình. Như nhóm của cậu. Của các<br />
cậu.<br />
“Của các cậu”, như vậy có nghĩa là đối với<br />
người “anh em”, Khoan tôi là người trong nhóm<br />
của Luật. Tôi cũng không cải chính. Luật nhìn<br />
Hiền :<br />
— Toa cứ nói đi.<br />
Hiên :<br />
— Mình nói thẳng : Anh em muốn mời các<br />
cậu cộng tác. Các cậu nghĩ sao ?<br />
Luật lại cười:<br />
— Cộng tác ? Thì ít nhất cũng phải cho biết<br />
cộng tác để làm gì chứ ?<br />
Hiền giơ tay như muốn ngăn tiếng cười của<br />
L u ật:<br />
— Dĩ nhiên. Mình sẽ nói.<br />
Hiền nhìn quanh rồi tiếp :<br />
— Chỗ này kín đáo, các cậu đừng sợ.<br />
Tôi buột miệng :<br />
— Thì đã làm gì đâu mà sợ ?<br />
27
Hiền :<br />
— Nhóm mình theo đuổi một mục đích rất rõ<br />
ràng. Trong hiện tại, đường lối là chống Phát xít.<br />
ở đây là Nhật và Pháp. Mục tiêu là độc lập.<br />
L u ật:<br />
— Toa cứ nói tiếp đi. Rồi sao ?<br />
Hiền :<br />
— Độc lập đã, rồi tính sau. Mình cần độc lập.<br />
Mục tiêu đầu tiên mà tất cả những người yêu<br />
nước đồng ý theo đuổi trong hiện tại là độc lập.<br />
Các cậu xem, chúng ta một cổ đôi ba tròng. Hết<br />
Tàu rồi Tây lại Nhật. Bây giờ thì cả Nhật lẫn Tây.<br />
Chúng ta phải thanh toán tất cả để xây dựng một<br />
nước Việt Nam độc lập. Trong công cuộc đó,<br />
thanh niên phải góp công góp sức góp chính đời<br />
sống của mình. Chúng ta phải nhận nhiệm vụ.<br />
Mãi đến lúc đó, tôi mới nhận ra rằng đôi mắt<br />
của Hiền hơi lác. Và khi anh dãn giọng, khi anh<br />
trợn mắt, đôi mắt của anh tuy hướng thẳng vào<br />
người đối diện mà cứ như là nhìn vào chỗ không<br />
người. Luật vẫn điềm tĩnh. Anh đưa điếu thuốc<br />
lên miệng, lim dim cặp mắt nhìn Hiền. Rồi chậm<br />
rã i:<br />
— Moa muôn biết rõ 2 điểm.<br />
Hiền vội:<br />
— Cậu cứ nói.<br />
L u ật:<br />
— Điểm thứ nhút : Nhóm toa chủ trương xây<br />
dựng ra sao, một khi được độc lập.<br />
28
— Còn điểm nữa ?<br />
— Thí dụ như bằng lòng cộng tác thì cộng tác<br />
trên căn bản nào ?<br />
Hiền cúi đầu suy nghĩ. Luật nhìn tôi. Tôi nhồi<br />
thuốc vào tẩu, quẹt que diêm. Diêm làm ở Bến<br />
Thủy, hơi ẩm, quẹt tới ba que mới cháy. Mùi cỏ<br />
khô thoảng gian phòng. Hiền ngửng đầu :<br />
— Mình trả lời cậu về điểm thứ nhì trước.<br />
Nhóm mình có tổ chức.<br />
Luật cười lên tiếng :<br />
— Thế nhóm moa không có tổ chức à ?<br />
Tôi vội đưa chiếc tẩu lên miệng, cố gắng lập<br />
nghiêm. Nhóm, tổ chức ... Gì mà dữ vậy ! Tôi lên<br />
tiếng :<br />
— Nhóm nào mà chả có tổ chức của nhóm<br />
đó ?<br />
Hiền giơ tay :<br />
— Xin lỗi. Xin lỗi. Mình chưa nói xong. Mình<br />
chỉ định nói là theo tinh thần của nhóm, thì khi<br />
một cá nhân đã ưng thuận, cá nhân đó sẽ do một<br />
người trong nhóm giới thiệu để gia nhập và sẽ<br />
triệt để tuân theo kỷ luật của nhóm. Mình sẽ giới<br />
thiệu các cậu. Nếu các cậu đồng ý.<br />
“Mình” ! Tôi không ưa cái lối xưng hô đầy<br />
âm tính này, nhất là ở miệng một người như<br />
Hiên giọng điệu thấy như trịch thượng. Tôi chưa<br />
tìm được một cầu trả lời thích đáng, Luật đã lên<br />
tiếng :<br />
29
— Như vậy có nghĩa là nhóm moa phải giải<br />
tán ?<br />
Hiền gật đầu :<br />
— Như vậy hợp lý hơn. Cậu thấy không ...<br />
Luật cắt ngang :<br />
— Hợp lý với toa. Với nhóm của toa.<br />
Hiền hơi sững người. Anh n ó i:<br />
— Dầu sao mình cũng đặt vấn đề vối anh em.<br />
Vê trường hợp của các cậu. Trường hợp của các<br />
cậu.<br />
Trường hợp. Ô hay, ai đã xin mà đặt vấn đề ?<br />
Tôi thấy nghẹn đến cổ. Tôi rằng :<br />
— Chúng tôi cũng vậy. Cũng sẽ đặt vấn đề với<br />
anh em trong nhóm. Vê trường hợp của các cậu.<br />
Hiền như không để ý đến phản ứng của tôi.<br />
Vội gật đầu :<br />
— Đồng ý. Và bây giờ xin sang vấn đề thứ<br />
nhất.<br />
Từ lúc này tôi không còn để ý đến lời của<br />
Hiền. Thấp thoáng, tôi thấy lập đi lập lại một số<br />
danh từ. Phát Xít. Đồng Minh. Mặt trận Thái<br />
Bình Dương. Mặt trận Bắc Phi. Moscou. Berlin.<br />
Dân Chủ cũ. Dân Chủ mới. Tư bản. Thợ thuyền.<br />
Trí thức. Vô sản. Phản động. Tiến bộ ...<br />
Cứ như vậy thao thao bất tuyệt. Mắt trợn, tay<br />
nắm, mình mình cậu cậu. Đại khái như vậy, cứ<br />
như vậy. Đến một lúc, bỗng một danh từ được<br />
nêu lên. Tân Dân Chủ. Tôi lắng tai nghe. Giọng<br />
Hiền dằn xuống :<br />
30
— Do vậy, chúng ta phải xây dựng một nền<br />
dân chủ đặc biệt. Một nền dân chủ đúng nghĩa<br />
của danh từ. Người dân sẽ thực sự làm chủ số<br />
phận của mình. Đó là cái chế độ chúng tôi chủ<br />
trương trong giai đoạn độc lập, giai đoạn chuyển<br />
mình ở Việt Nam...<br />
Tôi cắt ngang :<br />
— Chuyển mình. Chuyển mình đến đâu ?<br />
Hiền nhìn tô i:<br />
— Theo sự tiến hóa tất yếu của lịch sử.<br />
T ô i:<br />
— Theo Marx ?<br />
Hiền không trả lời. Trong sự yên lặng, giọng<br />
Luật từ tốn cất lên :<br />
— Chúng ta nên thành thực với nhau. Toa ở<br />
trong nhóm Tân Dân Chủ phải không ?<br />
Hiền hơi lộ vẻ sửng sốt. Giọng anh không dấu<br />
nỗi niềm kiêu hãnh :<br />
— Sao các cậu biết ?<br />
L u ật:<br />
— Biết chứ. Thôi bây giờ thế này. Đằng nào<br />
thì toa cũng phải hỏi lại nhóm của toa. Tụi này<br />
cũng vậy. Có thế nào, gặp nhau sau. Đồng ý ?<br />
Dĩ nhiên là đồng ý. Và chia tay. Đặc biệt, nắm<br />
tay của Hiền rất chặt.<br />
Chúng tôi không gặp lại nhau, biết rằng có gặp<br />
lại cũng vô ích. Hiền đi theo con đường của Hiền.<br />
Và Luật và tôi, con đường của chúng tôi.<br />
31
Sau ngày 19 tháng 8-1945, Hiền được Mặt<br />
Trận Việt Minh đưa ra giữ một chân Bộ trưởng<br />
trong chính phủ đầu tiên của Việt Nam Dân Chủ<br />
Cộng Hòa do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Sau<br />
ngày 19-12-1946, toàn quốc kháng chiến, tôi nghe<br />
tin Hiền bị hạ tầng công tác, bị đầy đi phụ trách<br />
đám thanh niên hộ đê. Và sau đó ít lâu nghe tin<br />
Hiên mất.<br />
Từ bữa cơm đó đến bữa rượu trong quán phở,<br />
từ tiệm ăn Magniíic đường Hàng Bông Đêm đến<br />
con đường Hiên Vương Saigon, khoảng 30 năm<br />
đã qua và hơn một ngàn dặm ngăn chia xa cách.<br />
Trong nắng chói miền Nam, trước một ly rượu đế<br />
và một khuôn mặt cũ là Luật, tôi nghĩ miên man<br />
từ khi Hiền đã nằm xuống đến những khuôn mặt<br />
khác đã thấp thoáng trước mặt, sau lưng, quanh<br />
quất đâu đây trong cuộc sống của tôi. Ai còn, ai<br />
mất ? Một ánh nắng tà. Một đợt gió thoảng qua.<br />
Tôi nhìn Luật. Anh đưa ly rượu lên miệng, ngừng<br />
lại, giữ kịp một cơn ho. Trong chói chang nhiệt<br />
đới, tôi cảm thấy lành lạnh. Và ngùi ngùi. Giọng<br />
Luật phều phào :<br />
—Xị nữa ?<br />
6<br />
Tôi bước ra khỏi quán rượu, đi về phía sông<br />
Seine. Lúc bấy giờ vào khoảng 3 giờ chiều một<br />
ngày cuối tháng 10, có mặt trời. Tôi nhìn xuống<br />
32
mặt sông : mây trời trôi theo những gợn sóng<br />
nhỏ. Bỗng dưng tôi thấy cần phải ném một cái gì<br />
xuống mặt sông trước mặt, khuấy động một tác<br />
phẩm Vĩnh Ân đang hoàn thành. Châm vội một<br />
điếu gauloise. Rít nhanh một vài hơi. Và vứt mẩu<br />
thuốc xuống giòng sông. Nhè nhẹ, rất nhè nhẹ,<br />
bước vào thế giới Thanh Tâm Tuyền.<br />
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuôhg dòng sồng<br />
Mà lòng mình phơi trên kề đá<br />
Con thuyên xuôi<br />
Chiều không xanh không tím không hòng<br />
Nhìn quanh chỉ thấy người. Vui, trẻ, đẹp.<br />
Những ống khói tàu mệt lả mờ trong sương, tận<br />
cùng chân trời ký ức, trở lại vẫn một hình ảnh cũ.<br />
Lê Quang Luật, buổi trưa đó. Tôi đi lại quãng<br />
đường vừa qua, trở về nơi quán cũ. Đẩy cửa bước<br />
vào :<br />
— Một vin chaud.<br />
Rượu nho đỏ hâm nóng, một chút đường —<br />
một chút thôi — và một chút bột quế. Trời<br />
lạnh — lạnh Hà-nội, lạnh Đà Lạt. Tôi nâng ly<br />
rượu tự mời. Nốc cạn. Đáy ly còn chút cặn. vẫn<br />
còn chút cặn. Tôi dựa vào tường, nhồi thuốc<br />
vào tẩu, nghe ấm hơi men từ đan điền dâng thẳng<br />
lên đầu. Khu chợ Monffetard bỗng trở thành khu<br />
chợ Bến Thành. Đâu đây vãng vẳng nhịp song<br />
loan cầm trịch 6 câu vọng cổ. Chiếc cyclo thả<br />
33
giữa gió trời, bắt con đường Lê Văn Duyệt, xuyên<br />
qua ngã tư Hồng Thập Tự, ven chợ Đũi, ngoẹo<br />
Phan Thanh Giản, rẽ sang tay trái Duy Tân, đi<br />
thẳng, đi thẳng, đậu lại cuối đường. Bên kia<br />
đường là tiệm phở gà. Trong tiệm vẫn Luật và<br />
Khoan tôi. Lúc bấy giờ đã 2 giờ trưa. Đã 1975.<br />
— Làm gì bây giờ ?<br />
Bây giờ - 2 giờ trưa, 1975 — bây giờ thì gì củng<br />
lỡ rồi. Ban Mê Thuộc mất. Nắng xế ngang vào<br />
quán phở vắng tanh. Bao giờ đến lượt Pleiku ?<br />
Tôi nâng ly rượu, lưỡi nghe tê đắng. Ngẩng lên<br />
nhìn L u ật:<br />
— Tinh hình ... sao mày ?<br />
Và thấy ngay là thừa. Tinh hình ra sao, ai mà<br />
không biết, kể cả người vừa đặt câu hỏi là tôi.<br />
Luật trả lời bằng một câu chửi thề :<br />
— Tiên sư chúng nó !<br />
Chúng nó là Cộng sản và Thiệu.<br />
— Lũ em mày ở Pháp ra sao ?<br />
Lũ em của Luật sống ở Pháp và tôi biết nếu<br />
Luật muốn thì cái việc sang Pháp để sống không<br />
phải là khó.<br />
Luật nhìn tôi khá lâu, cái nhìn làm men rượu<br />
bốc hết khỏi đầu. Trong một lúc, trước mắt tôi,<br />
không là một người thấm mệt. Mà là Luật của<br />
1945, Luật của 1954.<br />
— Tao ở lại.<br />
Nắng xiên mái tóc hoa râm Lê Quang Luật.<br />
34
Anh băng qua đường, như không để ý đến xe cộ<br />
đổ xuống từ ngã tư Hai Bà Trưng. Như đã băng<br />
qua cuộc đời, không hề thỏa hiệp. Ngay cả với<br />
Thượng Đế. Anh viết, trong một số Xuân nguyệt<br />
san Vấn Đề :<br />
“Con sẽ về với Người. Con đầy tội lỗi, con biết.<br />
Nhưng đứng trước Người, con vẫn nguyên vẹn là<br />
con, trong tâm vẫn còn sinh khí của Người, thân<br />
xác vẫn mang hình ảnh của Người. Con vẫn là tác<br />
phẩm của Người. Và đứng thẳng trước mặt<br />
Người, con sẽ xin Người một lời phán xét cuối<br />
cùng.”<br />
Giờ đây Luật đã về với Thượng Đế. Những<br />
gì xảy ra là việc riêng của Người và Luật. Riêng<br />
tô i... thỉnh thoảng, như buổi chiều quán nhỏ hôm<br />
nay, nắng quái bờ sông lạ — nếu Thánh đường có<br />
còn leo lét ở đó, Việt Nam ? — tôi nuôi cái bâng<br />
khuâng trong dạ. Gọi nữa một ly. Gọi thêm một<br />
ly nhỏ. Và đọc thầm một câu thơ nhỏ. Một câu.<br />
Cho một mình mình nghe. Một câu không một<br />
chút liên hệ nào với Luật, với tôi, với tất cả những<br />
gì đã xảy ra cho tôi và Luật, giữa tôi và Luật. Một<br />
câu đọc thầm, đọc mãi. Cho đến khi câu thơ trở<br />
lại chỉ còn là một mớ tiếng động vô nghĩa. Phố<br />
ngõ lên chiều mãi nhớ thương. Cho đến khi ngoài<br />
trời, Paris rực ánh đêm, người con gái Paris thoăn<br />
thoắt trở về, đi lên hun hút, cầu thang vang gót<br />
nhọn, cửa phòng mở ra đóng lại, những tiếng<br />
động cô đơn, một câu hát nói tình yêu và ánh<br />
35
sáng mặt trời, thì thầm tâm sự với gương.<br />
Tôi ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt của cô chủ<br />
quán. Đôi mắt có đuôi. Nhìn xuống bàn, ly đã<br />
cạn. Bèn :<br />
— Một ly nữa.<br />
Và nâng ly, uống cạn tình bạn vào lòng.<br />
36
Nhận đường<br />
Khi tập Thơ Say được ấn hành vào khoảng<br />
năm 1940 tôi vẫn chưa để ý đến tác giả và tác<br />
phẩm. Tôi chưa quen Vũ Hoàng Chương và cái<br />
không khí vũ trường gợi lên ở những dòng đầu<br />
tác phẩm, khúc nhạc bống êm ái, điệu kèn biếc<br />
quay cuồng, đối với tôi lúc bấy giờ đã trở nên tẻ<br />
nhạt. Tôi không đọc thêm và xếp ngay tác phẩm<br />
và tác giả sang bên lê cuộc sống vào lúc đó còn<br />
nhiều trò chơi khác quyến rũ hơn.<br />
Nhưng đến khi tập Mây ra đời thì tôi thấy như<br />
vừa bắt được một tần số đặc biệt của tiếng thơ.<br />
Và tôi nhận thơ của Chương như là thơ của thế<br />
hệ chúng tôi, những người lúc nhỏ còn được nuôi<br />
dưỡng trong cái khí hậu Đường Thi và Liêu Trai<br />
Chí Dị. Từ đó, tôi trở thành người bạn thiết của<br />
Chương. Và cũng từ đó, niềm cảm thú của tôi về<br />
thơ dừng lại. Nơi Chương.<br />
Tôi đọc thơ Thanh Tâm Tuyền với cái tâm<br />
thần đó, và với cái tâm thần đó, tôi khựng lại<br />
trước một thế giới lạ hoắc mà tôi thấy thật ngại<br />
ngùng khi phải hé cửa ngó vào. Con tàu đã vượt
khỏi Lào Cai, Yên Báy. Đã qua rồi Bắc Ninh<br />
xanh màu lá mạ. Tôi bỏ vùng ấn tượng lạc vào<br />
mê cung lập thể. Không còn nữa, những đường<br />
xanh bóng trăng, đường xanh lối xóm, sông mưa<br />
thuyền buộc, trăng khuyết ngựa dừng, cửa ngõ<br />
buông xuân, xanh màu khóm trúc. Tôi bước từ<br />
một thế giới lung linh huyền ảo, để đối diện một<br />
thế giới sừng sững và chói chang, trưa nắng giữa<br />
ngã năm ngã sáu có chợ có ga đường tàu mải miết,<br />
tiếng máy nổ chuyến xe buýt chạy trong buổi chiêu,<br />
ngõ cụt, côhg rãnh, cây già, đá sỏi bùn nước mặn<br />
nòng, kề đá, những chòm cây xe cộ, những cột đèn,<br />
dây điện, những ống khói tàu mệt lả, những sân ga<br />
vắng, những chuyến ô tô ray, những đám cỏ hèn<br />
bên diện tích xi-măng khô, bánh thép lăn nhanh<br />
thành chấn động. Tôi đối diện thế giới của những<br />
bidonvilles dựng lên bằng những hòm gỗ Nestlé,<br />
lon sữa Guigoz, ciment và cột đèn béton armé,<br />
ngoại ô chới với bên giòng dây điện mỏng con<br />
đường hẻm cụt và chuyến xe già. Nơi đây dân sinh<br />
sống hầu như chỉ gồm những người nửa đêm ...<br />
ngủ ôm lấy mình, đàn ông co quắp chân tay, đàn<br />
bà rũ tóc thành một cơn bão mặn, bây quỷ nhảy<br />
xung quanh. Và<br />
Một người treo cổ trên cành cây,<br />
Trong công viên giữa thành phố.<br />
Tôi bước vào thế-giới-đó-hôm-nay, không một<br />
lời mời đón {Hãy dừng đây chàng say, xin bẻ<br />
38
thuyên quay hướng, xin giục ngựa quay đâu, v'ê<br />
cùng chúng em, hãy dừng đây sương gió lạnh bên<br />
ngoài) không một lời hứa hẹn dăng tình (đây cầm<br />
ca người mộng gái xưa Kim Lăng, lũ chúng em ca<br />
nhi, đón dâng chàng một buổi, nỗi yêu mê cuông<br />
dại nên từ lâu, họp cùng chúng em, có nàng tiên<br />
má hông nâu, giúp đôi cánh biếc dâng s'âu lên<br />
khơi). Nơi đây :<br />
Chiêu không xanh không tím không hòng<br />
Không mời đón, không hứa hẹn, thế giới<br />
Thanh Tâm Tuyền cũng không đóng cửa. Ra vào<br />
thông thả. Anh không tuyệt đối như nhóm<br />
Xuân-Thu Nhã-Tập hồi nào xóa nhòa biên giới<br />
giữa Thơ và Đạo, nghĩ rằng Thơ không gửi, Thơ<br />
không cần người đọc, đạt đạo rồi, người dạt dào<br />
lâng lâng tự tại. Anh nghĩ ngược lại rằng Thơ là<br />
để gửi. Thơ anh đầy ắp một niềm chia xẻ, nhắc<br />
nhở gần nhau, tuyên bố Tôi - không - còn - cô -<br />
độc, chủ trương Sống với. Sống - với những người<br />
còn sống, những người đã chết.<br />
Tôi được quyên kêu gọi<br />
Những người đã chết xin có mặt<br />
Những người còn sống xin giơ tay<br />
Sống - với như một phương tiện khước từ cô<br />
độc. Sống với như một cứu cánh.<br />
Nhân danh<br />
Tĩnh yêu tự do người.<br />
39
Nhân danh<br />
Tình yêu tự do người<br />
Giữa trưa, trời Saigon tối sẫm, đổ mưa thác lũ,<br />
tạnh ráo hoảnh, nắng chang chang. Khói nước<br />
bốc lên từng đám cháy lẻ. Bàn Cờ, Xóm Mới,<br />
Ngã Ba Ông Tạ, Phú Nhuận, Phú Thọ, Chi Lăng.<br />
Khói xe kẹt mở đèn xanh đèn đỏ. Mùi chợ Thái<br />
Bình khét lẹt, mùi chợ Cá tanh ngòm, mùi cột<br />
đèn trẻ con đái bậy, mùi nhựa đường hắc ín đen<br />
thui. Nhà vách ván mái tôn loang loáng cắm<br />
xuống vũng nước bùn lầy. Bàn chân gấu quần ướt<br />
ẩm từ hẻm này lội sang hẻm khác, dùi đầu vào<br />
sâu hẻm cụt, hơi nóng hừng hực thân xác trần<br />
trùng trục, mùi người, mùi vật, mùi rác, mùi bùn.<br />
Những chiều vê, gió bờ sông thổi bồng mái tóc<br />
người con gái, xóa nhòa nếp trán người đàn ông.<br />
Nắng hắt ngang và thế giới đó mang bề sâu. Đêm<br />
xuống “nằm mơ những ngôi sao mặt trăng”, thế<br />
giới đó mang bề cao.<br />
Những ngực thương nhau<br />
. không áo<br />
Thế giới đó mang tình người.<br />
Và tiếng động an lành buổi sáng “mùa hè lên<br />
tiếng cười trong bàn tay nước suối” cỏ dại lan trên<br />
kẽ nứt xi-măng, cây trứng cá mọc đầu hẻm. Nhà<br />
bên kia, cánh hoa giấy đỏ tươi màu.<br />
40
Và tôi làm quen với thế giới Thanh Tâm<br />
Tuyền<br />
Ngoại ô chới với bên giòng giây điện mỏng con<br />
đường hẻm cụt, rêu cỏ bám xanh thêm ? Tôi<br />
không để ý nhưng trong hỗn hợp cô độc và đám<br />
đông, sống-với và hắt hủi, trăng sao và cột giây<br />
điện, “môi son họng súng”, “da trắng như tiếng hát.<br />
ở trên trời” và “trại hủi”, một sớm mở mắt bắt<br />
gặp-<br />
Mẩu bánh mì ở góc bàn<br />
Và cốc nước trong như mắt đẹp<br />
Một chiều dưng dưng “phố ngõ lên chiều mãi<br />
nhớ thương”, trong cái chát chúa, hỗn độn và chói<br />
chang thế giới đó, tôi bỗng bắt kịp tần số một hòa<br />
âm kỳ diệu, cái thứ hòa âm nhiều thổn thức.<br />
Một người da đen một khúc hát đen<br />
Bâu trời đen sâu không cùng.<br />
Tân số hòa âm đen.<br />
Thanh Tâm Tuyền hiên khô. Anh chỉ muốn :<br />
Giữa p hố đông đón đợi<br />
Những ước mơ hiên đi cùng mọi người<br />
Và mỗi khi<br />
Buổi chiêu vào chật khoang xe. Đèn thấp lên.<br />
Tiếng máy nổ...<br />
41
Anh không đòi hỏi nhiều<br />
... bám chặt cửa xe (anh chỉ) xin một chân<br />
đứng.<br />
Nhưng trên những thành ô tô buýt người ta xô<br />
chạm vô tình. Và ... chúng ta không kiếm được một<br />
lời nào mà nói<br />
Giữa đám đông, vùng biển đen dâng trùm ánh<br />
tịch mịch.<br />
Tiếng nói bị bóp nghẹt. Quanh anh, chỉ còn<br />
câm lặng, chỉ còn mênh mang một nỗi đêm im<br />
Chúng tước lấy tiếng nói<br />
Giam tôi trong bóng tối<br />
Tôi khóc không ra lời.<br />
Và tôi đi lang thang<br />
Tôi đi tìm tiếng nói<br />
Cho ra tới ban ngày<br />
Người ta níu lại hỏi<br />
Cớ sao chịu đọa đây<br />
Cớ sao mà không nói<br />
Linh hòn tôi rách nát<br />
Lời nói còn ở đâu<br />
Tôi khóc nào ai thấy<br />
Thằng điên vẩn đi tìm<br />
Đất đai và tiếng nói<br />
Bời đêm dài lặng câm.<br />
42
Bởi chỉ còn trơ lại một mớ danh từ rỗng tuếch.<br />
Những hòn ma hoang đâu ngọn cây<br />
Xác chết rữa nát<br />
Trong kẹt rừng khô<br />
Nghĩa là những lời mê sảng, những ám hiệu của<br />
mặt biển đen không. Nói gì và với ai bằng cái thứ<br />
ngôn ngữ bơ vơ đó ? Có sát gần bên nhau mỗi<br />
ngày th ì:<br />
Mỗi ngày đứng bên nhau (vẫn cứ)<br />
không quen nhau.<br />
Đời câm lặng diễu qua cửa sổ “chuyến xe buýt<br />
chạy trong buổi chiêu. Trời mưa, mưa ngoài châu<br />
thành (và nếu lãng mạn một chút, anh có thể viết<br />
thêm mưa trong lòng tôi) không tìm thấy bến<br />
không đỗ lại". Anh ở trong một nhà tù vây bủa<br />
bởi một dãy tường câm chuyển động.<br />
Chúng (trong thế giới Thanh Tâm Tuyền,<br />
chúng hay nó, hay kẻ kia, được dùng để gọi những<br />
nhân vật phản diện, những Tân Cối, Đổng Trác<br />
hay Tào Tháo, những tên độc tài cộng sản, đế<br />
quốc, xâm lăng, cường hào ác bá, ngu dân).<br />
Chúng hỏi : tiếng nói để làm gì ?<br />
Tương lai đây chùm nho<br />
Như trò chơi<br />
Nó nói<br />
Tự trói hai tay lại<br />
Hạnh phúc sẽ đi tới<br />
43
Mặt mũi dùng làm gì<br />
Mọi người là đòng đội<br />
Trí não dùng làm gì<br />
Chân lý không lừa dối<br />
Thiên tài dùng làm gì<br />
Chúng nhắc lại : mầy sẽ có hạnh phúc, mày sẽ<br />
có thiên đường, mầy đang có chân lý, mày đòi trí<br />
não làm gì, tiếng nói làm gì ? Không ai trả lời.<br />
Chúng bèn lấy ngay sự lặng thinh đó để biện<br />
minh cho sự tước đoạt.<br />
Còn trơ lại con người như một con số đòng đội<br />
(mặt mũi dùng làm gì ?)<br />
Tự do như một nỗi buôn phiên. Tình yêu như<br />
hơi thở của người đàn bà ngoại tình (làm sao biết<br />
được nếu cứ lặng thinh) như màu da trắng nõn<br />
man trá (có thể là thơ ngây màu trắng nõn đồng<br />
trinh nhưng làm sao biết được nếu cứ lặng thinh),<br />
như những bức thư tình không viết được. Người<br />
đàn ông co quấp chân tay. Nửa đêm mọi người<br />
ngủ ôm lấy mình.<br />
Bắt đầu từ chỗ bắt đầu. Bắt đầu là lời. Nhựng<br />
lời là hành động. Thượng Đ ế nói sáng và làm ra<br />
sự sáng. Nếu yêu, nói yêu chưa đủ.<br />
Phải làm mới tình yêu<br />
Như nhìn vào vũ trụ<br />
Khi thế giới vừa dựng<br />
Sẽ mời mọc tình nhân<br />
44
Khi mặt trời vừa mọc<br />
Đòi gặp mùa xuân.<br />
Phải đến với tình yêu bằng con đường chưa ai<br />
tới, trao người yêu màu hoa nào chưa ai trao<br />
nhau, nói yêu nhau bằng những nghĩa chữ còn<br />
hoang, thề yêu nhau bằng những câu thê thốt lạ<br />
thường sống yêu nhau nơi không gian còn tiết<br />
trinh.<br />
Phải coi chúng ta là những người thứ nhứt<br />
Trên trái đất này biết yêu nhau<br />
phải: sáng tạo từ ngữ yêu đương<br />
Ngôn ngữ đó trực tiếp. Ngôn ngữ đó không<br />
hàm hồ. Ngôn ngữ đó không bơ vơ. Ngôn ngữ đó,<br />
ngôn ngữ hành động, nói — làm. Là những ngón<br />
tay, những gót chân, những nụ cười, những ngón<br />
<strong>Xa</strong>y âm thầm trò chuyện, những bước chân thỏ<br />
rừng, sợi tóc đen như một chuỗi cười, là những<br />
chiếc hồn đày như nước nguyên vào môi vào má<br />
vào răng, là cổ nõn tròn như cánh hoa trăng, là<br />
ngực ai bát ngát thiên nhiên<br />
những ngực thương nhau<br />
không áo<br />
là ngón tay câu lấy ống kèn, là hai cánh tay dài<br />
quằn quại, là khuôn mặt vớ tan tràn truồng dã thú,<br />
là những vuốt ve trên bàn tay, âu yếm trên da mặt,<br />
là điếu thuốc ghì chặt trong vành môi người, điếu<br />
45
thuốc như một lời (vì có nụ cười sau làn khói),<br />
điếu thuốc chờ niêm hắt hủi, điếu thuốc nói giã từ,<br />
cháy trên môi như người bạn chết, ngôn ngữ đó,<br />
ngôn ngữ thân xác. Thân xác T.T.T. Ngôn ngữ đó,<br />
Thanh Tâm Tuyền. Anh là tiếng nói, là tiếng khóc,<br />
là tiếng thơ, là tiếng cười. Anh nói yêu bằng ngôn<br />
ngữ do anh sáng tạo bằng chính anh, và anh trở<br />
thành người tình đích thực. Và tình yêu, tiếng hát<br />
trên trời.<br />
Nhân danh nó — nghĩa là tình yêu, tự do,<br />
người — Anh đòi quyền kêu gọi những người đã<br />
chết, những người còn sống, có mặt và giơ tay. —<br />
Cổ anh đã chết đày những tiếng nói đòi trở<br />
thành hành động, một rừng danh từ đòi thực<br />
hiện (như những đứa trẻ bào thai đến ngày sinh<br />
nở của mình chờ đợi làm người, như anh đang<br />
chờ đợi) — để<br />
Cười lên sặc sỡ<br />
La qua mái ngói<br />
Thành phố đông ruộng<br />
Bấu lấy tim tôi<br />
Thành nhịp thở<br />
Ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh<br />
Cây già đá sỏi bùn nước mặn nòng<br />
Chảy máu<br />
Tiếng kêu<br />
Tiếng kêu, tiếng hát trên trời hình dung một thứ<br />
hạnh phúc ngày mai.<br />
46
Hạnh phúc ngày mai ?<br />
Trong rừng danh từ Thanh Tâm Tuyền ngôn từ<br />
hạnh phúc hầu như vắng mặt. Nó, nốt nhạc<br />
majeur đó, hạnh phúc, chỉ có mặt năm lần dọc<br />
theo con đường khám phá (cho riêng tôi) nhọc<br />
nhằn (riêng đối với tôi) từng câu từng chữ từng<br />
vần từng điệu 123 trang in ba tập thơ của anh tôi<br />
có trước mặt, là Liên là Đêm là Mặt Trời Tìm<br />
Thấy.<br />
Lần đầu tiên là một thất bại. Hạnh phúc, một<br />
kiến trúc kỷ hà hình chóp, vừa với tới, chưa kịp<br />
bén tay, thì lại tự tay người trong cuộc xô đổ<br />
Anh xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc.<br />
Lãn thứ nhì là một hứa hẹn hão huyền. Một<br />
khẩu hiệu chính trị người hồ lên chưa chắc đã tin,<br />
đã chỉ coi là một cái cớ. Như Libertế - Egalité -<br />
Fraternité 1879. Như Độc Lập - Tự Do - Hạnh<br />
Phúc của người cộng sản sau khi lên cướp chính<br />
quyền tại Việt Nam ngày 19-8-1945.<br />
Hạnh phúc sẽ đi tới<br />
Mặt mủi dùng làm gì ?<br />
Lãn thứ ba là một ảo ảnh giữa trưa sa mạc,<br />
người bộ hành nhìn tia nắng mặt trời đúng ngọ<br />
mà tưởng bóng rợp cây dừa, vực mặt xuống cát<br />
bỏng mà cho là suối nước trong. Lần thứ ba, hạnh<br />
phúc thu lại là một cái bóng mờ.<br />
Người ta tàn nhẫn đóng cửa không thèm bô'<br />
thí tiếng kêu than bóng hạnh phúc chỉ là kẻ ăn<br />
47
mày khốn nạn.<br />
Lần thứ tư là một thứ hạnh phúc phức tạp về<br />
vị trí thời gian :<br />
Nhưng người chết còn mở mắt đây<br />
Hai bàn tay nấm chặt hư vô<br />
Mà hình dung hạnh phúc ngày mai.<br />
Lan này anh khảng định : hạnh phúc ngày mai.<br />
Nó đã tuột khỏi tầm tay con người hôm nay.<br />
Hạnh phúc sẽ đi tới. Nó sẽ. Nó ngày mai. Nó phải<br />
được hình dung trong trí tưởng để có thể sẽ thành<br />
hình trong một ngày mai của những người đã chết<br />
mà mắt còn mở — tưởng như thị giác có thể chụp<br />
được — mà hai bàn tay còn nắm khư khư —<br />
tưởng như mười ngón tay còn đủ khả năng nắm<br />
bắt, mặc dầu cái tưởng rằng chụp được, cái tưởng<br />
rằng nắm bát được đó chỉ là hư vô. Cái ngày mai<br />
đó lại là cái ngày mai của những người chết.<br />
Nghĩa là đã thuộc vào quá khứ.<br />
Lần thứ tư hạnh phúc chỉ còn là một thứ kiến<br />
trúc trong trí tưởng sẽ có thể thành hình trong<br />
một ngày sắp tới của một thời dứt khoát đã cáo<br />
chung.<br />
Bốn lần trên hạnh phúc xuất hiện trong Đêm.<br />
Trong Liên — chắc là tên một người đàn bà —<br />
tuyệt nhiên hạnh phúc vắng mặt.<br />
Lần cuối cùng người ta tìm thấy hạnh phúc<br />
trong Mặt Trời Tìm Thấy. Dưới ánh sáng mặt trời<br />
do anh tìm thấy, anh hết do dự. Anh quả quyết:<br />
48
Anh sẽ hôn em thời khấc hạnh phúc mong<br />
manh. Mà vĩnh viễn đó.<br />
Mong manh bởi chưa thành hình. Anh sẽ. Vĩnh<br />
viễn bởi đã thuộc vào dĩ vãng. Hạnh phúc trong<br />
một thứ futur antérieur.<br />
Đó, hạnh phúc, nói lên, mô tả, quan niệm, hình<br />
dung trong thế giới Thanh Tâm Tuyền. Ngôn từ<br />
đó, trong thế giới anh, bơ vơ. Am hiệu đó, mập<br />
mờ. Nó không phải của anh, không thuộc vào<br />
rừng danh từ Thanh Tâm Tuyền. Anh mượn tạm<br />
nó để tạm thời chỉ định cái mà chính anh cũng chỉ<br />
mới phác họa được trong trí tưởng những nét<br />
tổng quát của một thứ mô hình anh chưa nắm<br />
bắt. Như một ánh lân tinh trên bãi tha ma. Ngập<br />
ngừng, chập chờn giữa hai cõi âm dương. Cái đó,<br />
ngôn ngữ thân xác chưa có ngôn từ để chỉ định.<br />
Cái đó, hạnh phúc của anh, anh biết rằng phải<br />
hiện hữu, anh cảm thấy đã hiện hữu — ở một<br />
kiếp nào ? — nhưng như một sắp tới, một chưa<br />
thể thành hình sẽ thành hình, sẽ tới, nhưng ở một<br />
thời đã cáo chung. Cái đó phải nguyên như một<br />
nụ hôn nguyên. Cái đó, một giấc ngủ hòn thảo<br />
mộc có cơn mơ những ngôi sao mặt trăng. Cái đó,<br />
da trắng, cỏ non, tiếng hát trên trời. Anh nghĩ rằng<br />
cái đó phải tìm ra ngôn từ để trực tiếp chỉ thẳng<br />
vào nó, hét lên tên nó, xếp nó vào rừng danh từ<br />
của anh để có thể kêu gọi những người đã chết,<br />
những người còn sôhg thực hiện nó.<br />
49
Nhưng cho đến Mặt Trời Tìm Thấy, anh vẫn<br />
chưa tìm thấy.<br />
Đã nhiều lần, bằng ngôn ngữ thân xác chính<br />
anh sáng tạo, anh đã nhờ tình yêu để nói hạnh<br />
phúc. Nhưng hạnh phúc cái đó không chỉ là tình<br />
yêu. Ngôn ngữ anh còn ghì người đàn bà hôn vào<br />
môi vào má vào răng. Cái đó, cái anh tạm thời gọi<br />
là hạnh phúc đó, không có môi không có má,<br />
không có răng, không thù hận, không đau khổ,<br />
lừa lọc, man trá. Nó không cổ nõn để rúc thành<br />
tiếng cười, không bàn tay để đặt trong bàn tay,<br />
không gót chân thỏ rừng chạy trên cỏ sắc, không là<br />
màu đen xoáy sâu hun hút con đường địa ngục,<br />
không hình thù hay chưa hình dung nổi hình thù,<br />
không mùi vị âm thanh hay đã vượt âm thanh trở<br />
thành vô thanh, vô hương, vô sắc ? Ngôn ngữ anh<br />
bất lực mà ngôn từ mượn tạm, hạnh phúc, lại đã<br />
bị chúng cưỡng hiếp, lạm dụng, hóa trang. Ngôn<br />
từ đó bay nhảy, ám hiệu đó thản nhiên trong đêm<br />
đen im lặng. Sự sống đã rút lui, nó là một xác chết<br />
rữa nát trong kẹt rừng khô.<br />
Trong một huyền thoại Hy Lạp, thuở thần linh<br />
còn ở lẫn với người, có vua Midas vì luôn luôn<br />
thắc mắc về lẽ sống nên đã đuổi theo tìm gặp nhà<br />
hiền triết Silène. Và khi hai người đối diện trong<br />
một khu rừng vắng, khi Midas ngập ngừng cất<br />
tiếng để hỏi đâu là hạnh phúc của con người, thì<br />
50
đây là câu trả lời của Silène :<br />
— Hỡi giống người khốn nạn sinh ra do ngẫu<br />
nhiên và đau khổ, ta không hiểu tại sao ngươi lại<br />
muốn biết một điều chẳng mảy may ích lợi cho<br />
ngươi ? Hạnh phúc ư ? Thì đó chính là cái mà<br />
không bao giờ nữa ngươi còn đạt được, cái ở<br />
ngoài tầm tay với của ngươi. Bởi hạnh phúc của<br />
con người là đừng sinh ra làm con người, đừng<br />
hiện hữu, đừng là cái gì cả.<br />
Thanh Tâm Tuyền nhỏ hơn tôi tới hai 20 tuổi.<br />
Nhưng anh già hơn Midas, anh già bằng Silène.<br />
Bởi từ lâu, anh đã biết rõ những điều Silène thủ<br />
thỉ cùng Midas. Nhưng anh muốn trở lại cái thời<br />
mà hạnh phúc — dầu chỉ là một kiến trúc hình<br />
dung trong trí tưởng — hạnh phúc còn có thể<br />
hiện hữu — dầu chỉ như một giấc mơ những ngôi<br />
sao mặt trăng. Như một đứa trẻ xoá vội một thế<br />
cờ bí để bày một ván khác, bắt đầu từ chỗ bắt<br />
đầu, như một người tuổi đã 40, một sáng tỉnh dậy<br />
muốn làm lại cuộc đời, anh muốn khởi đầu bằng<br />
thời khắc của chính anh.<br />
Anh nói : Hãy quên hết trí nhớ ... Sẽ gặp lại<br />
thời ấu thơ hay vĩnh viễn hay hãi hùng.<br />
Quên hết, không còn nhớ thương<br />
Không còn tỉnh dậy.<br />
Vứt hết, ném trả<br />
Hết nước mất, hết giọng cười<br />
Hết phách hồn trí tuệ<br />
Cho rừng sâu lịch sử loài người.<br />
51
Chối từ quá khứ, quên hết trí nhớ<br />
Chối từ một nửa thế giới<br />
Thế giới sương mù trong trí nhớ.<br />
Rồi anh mời người đồng hành :<br />
Hãy nhìn anh rất lâu, thật lâu. Cho tia mất gỡ<br />
dan những hình bóng u hoài phủ trên xác ướp.<br />
Thời gian quay tròn quanh nó ròi tan vỡ. Khởi đâu<br />
bàng thời khấc của chúng ta.<br />
Thời khắc anh, thời khắc nguyên, khi những<br />
danh từ phân biệt hôm qua và ngày mai chưa<br />
hiện hữu, thời khắc kéo dài ấm áp hôm nay.<br />
Thời gian trong suốt.<br />
Chẳng phân văn<br />
Như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ<br />
Như lá cây thâm ngả phủ vai trân<br />
Như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng<br />
Trời đất và người đàn bà còn là thiên nhiên.<br />
V ớ i:<br />
Con đường chưa ai tới<br />
Màu hoa nào chưa ai trao nhau<br />
Những nghĩa chữ còn hoang<br />
Câu thề thốt lạ thường<br />
Nơi không gian còn tiết trinh<br />
Với em còn là pho tượng rực rỡ<br />
Với anh còn là thiên tài ngây thơ.<br />
Nhưng con đường nào mà chưa ai tới ? Màu<br />
hoa nào mà người ta chưa trao nhau, khi yêu ?<br />
Nghĩa chữ nào còn hoang một khi đã thốt thành<br />
lời ? Mà lời thế nào mà không ẩn một bóng đêm<br />
52
phản thệ và không gian nào còn giữ được tiết<br />
trinh ? Đã qua, cái thời con gái ủ dưới mái rêu.<br />
Cái sáp sửa mờ trong mù sương. Cái sắp tới<br />
nhưng trong một cáo chung. Cái ước mơ nhưng<br />
trong một bài ca kể lại. Ràng nàng đã chết. Rằng<br />
nàng đã sống. Chiều nghiêng. Đêm xuống. Trên<br />
chiếu bạc vê sáng, chỉ còn kẻ thua : con người.<br />
Không ai làm lại cuộc đời. Không một ai có thể<br />
bắt đầu bằng một quá khứ. Anh trở thành giấc<br />
mộng. Anh chỉ là giếc mộng.<br />
*<br />
Tôi không ngạc nhiên khi thấy anh luôn luôn<br />
bị ám ảnh bởi một đen sầm sẽ sập xuống, bao<br />
trùm tất cả. Chiêu xuống, đêm đen, bóng tối tới lui<br />
trong thế giới anh như một điệp khúc. Anh co<br />
rúm thân hình, đau cái đau thú dữ cháy rừng, sợ<br />
bóng tối như người tiền sử, sợ lặng thinh như một<br />
đứa trẻ thơ. Anh sợ những chiêu phi thường ngồi<br />
lặng nhìn mình ở lại, bạn bè chia tay ném bỏ lại cô<br />
đơn. Anh sợ nỗi đêm im bập bênh hôn đảo nổi.<br />
Anh gục xuống ngực người đàn bà, nói thầm với<br />
mình rằng mình không còn cô độc, anh chỉ thấy<br />
gấp gấp hơi thở người đàn bà ngoại tình. Anh biết<br />
bát ngát màu da trắng nõn là vô vàn man trá, con<br />
rắn điêu ngoa. Anh ngửng đầu và chỉ là đêm, chỉ<br />
là màu đen tối xậm. Đêm như một người da đen<br />
một khúc hát đen trong một bâu trời đen sâu<br />
53
không cùng. Như một nét nhạc xanh cung thương<br />
đêm, tiếng cười dữ tợn người con gái đêm, giọng<br />
trâm đềm hút.<br />
Tôi không ngạc nhiên khi thấy gần kề cái<br />
thời khắc tạm gọi là hạnh phúc, anh vẫn hoang<br />
mang, anh vẫn hoảng hốt, anh vẫn dừng lại. Hình<br />
như anh biết, rằng cái thời khắc hạnh phúc đó<br />
mong manh và vĩnh viễn, vĩnh viễn nhưng mong<br />
manh — Cái thời khắc đó chỉ là một dự phóng.<br />
Và dự phóng đó lại là dự phóng trong một<br />
thời mà anh biết dứt khoát đã cáo chung. Anh<br />
nói : anh sẽ hôn em, nhưng lại biết rằng ngay<br />
trước khi cử chỉ âu yếm được phác hoạ, đôi tay<br />
vừa mở rộng, môi vừa tới môi, thì ... bống nhiên<br />
hè đường tách lìa khỏi linh hôn, những cột đèn đổ<br />
xuôhg, ròi dây điện cuôh lấy chúng ta, bóp chết<br />
mọi hy vọng.<br />
Và tôi không ngạc nhiên khi thấy anh ôm em<br />
trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới.<br />
Không ngạc nhiên bởi tôi biết, chúng tôi —<br />
một vài người bạn quanh anh — biết, anh đã<br />
chấp nhận sống với cái thế giới anh dựng lên.<br />
Không hối hận<br />
Đi một mình trên con đường anh phải đi một<br />
mình<br />
Tràn truồng dã thú<br />
Đón anh ở cuối đường<br />
H ố sâu vĩnh viễn<br />
Không có em.<br />
54
Anh đã chấp nhận sống với cái thế giới do anh<br />
dựng lên, thế giới bidonville không chấp nhận<br />
hạnh phúc. Thế giới bidonville, thế giới<br />
anti-bonheur.<br />
55
Bên kia, Bên này<br />
Gửi m ột người bạn già sắp xuống tóc<br />
— Xong chưa ?<br />
— Rồi.<br />
— Mấy giờ cất cánh ?<br />
— Còn lâu. Một tiếng nữa.<br />
— Kiếm cái gì uống chăng ?<br />
Một chút ngần ngừ. R ồ i:<br />
— ừ thì uong.<br />
Chúng tôi đi vào một quán rượu, kiếm một cái<br />
bàn cạnh khung cửa kính nhìn rộng ra ngoài trời<br />
phi trường. Người nữ chiêu đãi tóc vàng mắt<br />
xanh, thân hình óng ả, tiến tới bàn chúng tôi,<br />
dáng đi như múa.<br />
— Uống gì ?<br />
Lại một chút ngần ngừ :<br />
— Mây uống đi. Tao không khát.<br />
— Thì uống cái không khát. Làm một chút gì<br />
mạnh chăng.<br />
— T hôi...<br />
N. nhìn người nữ chiêu đ ã i:<br />
— Một Seven up<br />
Tôi dẫy nẩy :<br />
— Không có up với down gì cả. Làm cái
Bourbon coi.<br />
— Thôi mày.<br />
Tôi chợt nhớ ra. Gật gù :<br />
— Up thì up vậy. Còn tao, vì không phải là<br />
mày ...<br />
N. tiếp ngay :<br />
— Và một bourbon on the rocks Jack Daniels.<br />
Tôi cười nửa miệng, rút bao thuốc nhồi tẩu.<br />
Ngoài trời gió lộng, cái thứ gió bất thần đến, đi<br />
không ai hay. Tôi bỗng nhớ đến chữ Như Như.<br />
Nó dấy lên. Rồi chợt biến. Nhưng vẫn còn đó,<br />
chắc thế. Thấy nó, không thấy nó, đâu phải tại<br />
nó ? Cũng như N.. Lừng lững cạnh tôi đã non nửa<br />
thế kỷ, do nguyên nhân nào dun dủi tôi không rõ,<br />
dấn thân, nhập cuộc, quay cuồng. Cùng tôi, cũng<br />
ưu tư, cũng bi bi phẫn phẫn. Đến nay, hành trình<br />
bắt đầu đi vào đoạn chót cuộc đời đã gục xuống<br />
bên đường nhiêu bạn đồng hành, đã tan tác, đã<br />
trắng tay những người còn lại, N. vẫn đó, đối diện<br />
tôi. Tôi nhìn N. ? Tôi nhìn kỹ. Đối diện tôi chỉ<br />
còn là một thứ “mờ mờ nhân ảnh” nhắc nhở đến<br />
N.. Một N. đã cằn mái tóc, và trên vầng trán<br />
mênh mông nét nhăn đã rõ. Một thứ tạm gọi là<br />
N.. Nhưng vẫn cứ là N..<br />
Khoảng một tiếng nữa, N. sẽ lên đường. Bây<br />
giờ là 6g rưỡi chiều. 7g30 phi cơ cất cánh, ơ đây,<br />
phi trường L.A., bay thẳng sang Pháp F.303 hãng<br />
Air France.<br />
58
Và một lần nữa, N. sẽ lại thay hình đổi dạng.<br />
Một nhân vật mới sẽ xuất hiện sau chuyên viễn<br />
du, mà tôi chưa biết gọi là gì. Gọi là gì nhân vật<br />
đó, tóc xuống gọn, hệ và lụy cuộc sống bên này<br />
theo tóc cũng sẽ bay đi. Đại đức, Sa di hay Tì<br />
kheo ? Không được, chắc N. cũng đồng ý với tôi<br />
như vậy. Anh đâu có muốn đi tìm một cách xưng<br />
hô khác thường để tô điểm cho một cái tên ?<br />
Ngay cả cái tên “N.” rồi cũng sẽ biến mất trong<br />
giao dịch hằng ngày. Trong hồ sơ lý lịch phía bên<br />
kia, anh sẽ khai một cái tên mới. Một cái tên mà<br />
hoài bão của người đặt không còn hướng về cuộc<br />
sống bển này. Một cái tên như là một suy tưởng<br />
rốt ráo mà nhất cử nhất động, nhất niệm khởi đi<br />
sẽ phải lấy làm chuẩn.<br />
Thích ... gì đây ?<br />
— Tao thường nghĩ đến một nơi an nhiên,<br />
không yêu không thù không ganh đua ghen ghét,<br />
không còn dây dưa những phiền trọc của sinh<br />
bệnh lão và tử. Tao nghĩ đến lòng đài sen Phật tổ,<br />
cánh sen phơn phớt màu hồng tinh khiết nuột nà<br />
mà che chở như bàn tay mẹ. Tao vẫn nguyện kiếp<br />
kiếp được sống một cuộc sống an tịnh trong<br />
những cánh sen an tịnh.<br />
N. nói với tôi như vậy nhiều lần. Cái ý đó đã<br />
trở thành một ám ảnh nơi anh. Tôi không ngạc<br />
nhiên khi thấy anh ký tên Tịnh Liên vào mấy<br />
cuốn sách giáo lý Đại thừa anh vừa xuất bản.<br />
Giữa phố phường L.A. đông nghẹt chúng sinh<br />
59
uôn bán, tôi cũng không ngạc nhiên khi bất chợt<br />
tròng mắt anh xa thẳm. Như trong mênh mông<br />
vô thủy vô chung, anh vừa ghi được kinh và vĩ<br />
tuyến cái thế giới anh hằng suy tưởng. Như anh<br />
vừa thoáng thấy biến hiện ánh hồng những cánh<br />
hoa sen.<br />
— Tao thường quán cái ý đó mỗi ngày ngồi<br />
trước bàn thờ Phật tổ.<br />
Tịnh Liên ? Thích Tịnh Liên ? Nghe cũng xuôi.<br />
Ờ, thì Thích Tịnh Liên.<br />
Người nữ chiêu đãi đặt một ly Seven up trước<br />
mặt N. và trước mặt tôi một ly nhỏ Jack Daniels.<br />
Tôi vừã định với lấy tấm giấy nhỏ ghi giá tiền,<br />
tấm giấy đã nằm gọn trong tay N., N. rằng :<br />
— Để tao.<br />
Rồi cười. Phá lên cười. Tiếng cười hồn nhiên<br />
như không duyên cớ, dòn tan, rúc rích mãi không<br />
thôi. Tiếng cười đặc biệt chỉ có ở N. nhắc đến khá<br />
nhiều chuyện cũ. Tôi với vội ly rượu, nhắp một<br />
chút. Cái men Jack Daniels tôi bỗng thấy cũng kỳ<br />
như cái cười của N.. Lần đầu, nhất là những<br />
người quen vị Scotch, thấy có hơi trối. Cái cay, cái<br />
đắng, cái nồng của Jack Daniels như có pha thêm<br />
một chất xúc-tác nào đó khiến cho cái vị kết cục<br />
trở nên ngang ngang. Nhưng đến khi đã ngấy tất<br />
cả những Ballantine, Black and White, Johnny<br />
Walker, Silvas Regal ... thì nhấp cái ngang ngang<br />
đó, một chiều nhớ rượu đế nhà, lại thấy hay hay<br />
và chỉ hai, ba lần sau sẽ bén giọng liền, sẽ bắt<br />
60
ghiền ngay cái hương và vị Jack Daniels. Như nhơ<br />
nhớ giọng nói một người đàn bà. Như thấy thiếu<br />
tiếng cười một người bạn. N. ngưng tiếng cười:<br />
— Tao có duyên với ông thầy này. Biết ông từ<br />
ngày xưa ngoài Bắc.<br />
Một lát sau :<br />
— Tao sang bên đó chừng ba, bốn tháng rồi<br />
lại quay về.<br />
Tôi định hỏi ai quay về. Nhưng chỉ nhìn N. và<br />
nhấp thêm một chút men. Một chút đắng. Một<br />
chút cay. Một chút ngang ngang. Và cạn cả đắng<br />
lẫn cay. Ngang ngang cũng cạn. Tôi nhìn ra phía<br />
quầy rượu, bắt gặp cái nhìn của người nữ chiêu<br />
đãi. Mắt tôi có thần hay do ngẫu nhiên mà luyện<br />
được 12 thành công lực có thể cách không hô<br />
tửu ? Chỉ biết răng người nữ đó đã đứng trước<br />
tôi. Mà rằng :<br />
— Một nữa ?<br />
— Đúng như vậy.<br />
Một nụ cười. Một nheo mắt. Rồi người nữ lại<br />
lẫn vào đám đông ăn uống. Tôi chợt nhớ đến cái<br />
truyện dài của N. đăng dở dang trên một bán<br />
nguyệt san :<br />
— Mày có ý định viết tiếp cái truyện đó<br />
không ?<br />
— Nếu ... thấy cần.<br />
Tôi không hỏi : chẳng hạn ? Vì biết rằng vô<br />
ích. Vì mới chợt nhớ ra rằng ở đó, phía bên kia,<br />
không cần đến văn chương. Cái gì cũng bất khả<br />
61
thuyết, cái gì củng tâm truyền tâm kiểu Phật tổ<br />
với ông Ca Diếp thì làm sao mà có văn và thơ ? Ớ<br />
đó, ngôn từ, màu sắc, âm thanh, hương vị, tất cả<br />
sẽ tự diệt để đi vào tịch mịch. Còn chăng, rồi ra<br />
sẽ chỉ là một vài thấp thoáng quang minh ẩn hiện<br />
trong một khoảng phi thời gian và không gian, nơi<br />
mấp mé biến hiện giữa hữu và vô, giữa không và<br />
sắc, giữa một pháp giới trùng trùng điệp điệp và<br />
một đường chim bay mịt mùng không vết tích. Tôi<br />
nhìn xuống ly rượu. Rượu cạn đã từ lâu. Một bàn<br />
tay nữ đã đặt trước tôi một ly nhỏ. N. lại thò tay<br />
vào túi:<br />
— Tao còn một ít dollars. Tiêu cho hết. Mai<br />
tiêu francs.<br />
Tôi nâng lv rượu :<br />
— Mày còn cái gì phải tiêu cho hết nữa<br />
không ?<br />
Câu trả lời đến sau một chút ngập ngừng.<br />
Nhưng rất gọn :<br />
— Còn mày.<br />
Tôi đặt ly rượu xuống bàn. Và thầm đọc qua<br />
ánh mắt N. những lời anh không nói rõ. Rằng<br />
mai, tao sẽ bước vào vùng đất mới: tao sẽ cắt đứt<br />
mọi phiền não cuộc sống bên này. Rằng mày<br />
cũng là một thứ phiền não của tao đó. Kh. ơi, thôi<br />
giã từ.<br />
Giã từ, nghe có gọn đấy. Nhưng ... cái mớ bòng<br />
bong lưu niệm bủa vây quanh tôi và N. ngày một<br />
62
thêm đan kết với tuổi đời chúng tôi chồng chất,<br />
cái mớ lung linh phiền tạp đó, tạm gọi là tình<br />
bằng, đâu có phải là một mớ giấy lộn mệnh danh<br />
là dollars là francs để có thể tung hết qua<br />
cửa sổ ? Những năm, những tháng, những ngày,<br />
những nơi, những chốn ...<br />
— Tất cả chỉ là vọng tưởng.<br />
N. khẳng định như vậy. Nhất niệm khởi và<br />
trùng trùng điệp điệp cả một pháp giới thành<br />
hình. Từ cái cụ thể đến cái vô hình. Nhưng ... tại<br />
sao lại khởi ? Thái cực sinh lưỡng nghi. Tại sao<br />
lại sinh. Vả tất cả là vô hình và trống không. Sự<br />
mờ tối ở trên mặt vực. Phải có sự sáng, thì có sự<br />
sáng. Nhưng tại sao lại phải ? Tại sao ?<br />
— Mày rắc rối lắm. Tại sao lại cứ nghĩ đến<br />
chuyện xa vời. Hãy nhìn ngay vào cái bây giờ, cái<br />
ở đây. Nhìn thấy không ? Chung quanh mày là<br />
những cái miệng chúng sinh há hốc. Cái khẩn cấp<br />
không phải là trả lời những câu hỏi mày nêu ra.<br />
Mà chính là tìm một con đường để thoát ra khỏi<br />
ta bà này.<br />
Nhất niệm khởi. Những tấm gương dựng lên<br />
bóng lộn, kéo dài như những dãy hành lang ngang<br />
dọc, đan kết mãi không thôi. Gương bên phải,<br />
bên trái, gương trên đầu, gương dưới chân, gương<br />
trước mặt và sau lưng, gương trực chiếu và phản<br />
chiếu vô cùng vô tận. Nhất cử nhất động biến<br />
thành vô lượng số những múa may và quay cuồng.<br />
Ta giữ thế, kẻ địch tới tấp bủa vây. Ta âm mưu<br />
63
điên đảo. Chung quanh vụt hiện ra những trận đồ<br />
cuồng phong cuồn cuộn. Ta mở rộng vòng tay.<br />
Hằng hà sa số hình dáng lả lơi mời đón. Ta chỉ là<br />
một thứ Narcisse đuổi theo, được bắt và gặp lại<br />
hình ảnh của chính mình.<br />
Nhất niệm khởi. Nhân động niệm mà có quang<br />
minh, nhân quang minh mà có hình sắc, nhân<br />
hình sắc mà có mùi hương. Con đường giải thoát<br />
chỉ là con đường trở vê. Từ cái phức tạp trở về cái<br />
mộc mạc đơn sơ. Từ cái vô lượng trở về cái nhất<br />
như nguyên thủy.<br />
— Gọi là gì ?<br />
— Là cái tâm của mày.<br />
N. tiếp :<br />
— Gọi là tâm. Tạm gọi là tâm.<br />
— Sao lại tạm.<br />
— Bởi ở bên kia, không xài ngôn từ bên này.<br />
Cứ như vậy, câu chuyện giữa N. và tôi đã nhiều<br />
lần tiếp diễn. Giữa hai ly rượu. Tàn khuya một<br />
khúc tì bà. Trên một chuyến đò dọc. Trong một<br />
quán trọ ven bờ một con sông lạ. Cứ như vậy, cho<br />
đến bây giờ, ở đây, phi trường L.A.. Bây giờ thì<br />
con đường đã trải rộng. Bên kia, rạng đông. Bên<br />
này, N. khởi sự lên đường.<br />
Khởi sự lên đường. Đi vào một cuộc phiêu lưu.<br />
Cuộc phiêu lưu chót cuộc đời ? Khi còn ở Việt<br />
Nam, N. hay dùng chữ phiêu lưu để nói về một<br />
chuyến hành hương trở về đất Phật. Rừng hoang<br />
64
ngút ngàn, rễ cổ thụ vươn dài như con trăn mốc<br />
canh cổ mộ, đàn bò ung dung tự tại, những cánh<br />
chim vô danh rợp trời, những con báo gấm,<br />
những con voi trắng, những tấm áo vàng trật vai,<br />
những bình sữa thơm ngậy sức sống, những bát<br />
mật ong óng ánh ráng chiều, An độ ven triền núi<br />
Hy Mã Lạp Sơn, một ngàn lẻ một kiếp chúng<br />
sinh ngoi ngóp. Và một gốc bồ đề, nếu cuộc<br />
phiêu lưu dẫn tới đích. Bằng không ...<br />
— Nếu rút cuộc, không có gì ráo trọi, nếu<br />
chết... là hết và sống là thế đó ...<br />
— Cuộc phiêu lưu nào mà không có những rủi<br />
ro của một canh bạc ? Chẵn hay lẻ. Tao sẽ cúng<br />
dường cái thân xác của tao cho thú trong rừng.<br />
Chiều nay, ở N. cái tâm trạng đó không còn.<br />
Anh không nôn nóng đợi chờ. Anh không hồi hộp<br />
đợi người mở bát. Anh bình thản bước những<br />
bước trở về. Đường một chiều quen quen lạ lạ.<br />
Bình dị, vắng lặng. Còn đó, cây đa bến cũ. Còn<br />
đó, con đò năm xưa. Mảnh gương cuối cùng rồi<br />
cũng chìm vào lòng nước. Đâu còn hình còn<br />
tướng để soi gương ? Tịch tịch lăng già nguyệt.<br />
Tôi nhìn ra tấm cửa kính. <strong>Xa</strong> tắp phía chân<br />
trời phi trường, một ánh đèn le lói tím sậm. Tôi<br />
nhấp một chút rượu, hướng vê cái đóm lập lòe<br />
đơn chiếc đó và chỉ cho N.<br />
— Mày nhìn thấy không ?<br />
65
Từ những ngày xa xưa, tôi vẫn nghĩ rằng những<br />
đóm lửa trong đêm khuya hình như tự chúng đã<br />
mang sẵn một nỗi nhớ thương kỳ dị. Chúng là<br />
những nỗi nhớ thương. Tôi không nói ý nghĩ đó<br />
với N.. Tôi biết trước câu trả lời. Rằng vọng<br />
tưởng. Tôi nhìn N. :<br />
— Mày còn nhớ những đóm lửa cháy ngày<br />
trước ?<br />
— Nhớ chứ. Quảng Yên. Bắc Giang. Đông<br />
Triều.<br />
Sông Hồng, Sông Luộc, Sông Lô, Sông<br />
Thương. Những chuyến đò chiều xuống. Những<br />
chuyến đò trăng xuông. Tiếng gọi đò nửa khuya<br />
vang trên mặt sông vắng lặng. Tiếng sóng vỗ mạn<br />
thuyền. Tiếng vạc ăn đêm. Và mưa.<br />
— Thằng cha Duyên Sơn hay đọc một bài thơ<br />
c ổ ...<br />
— Bài gì ?<br />
— Tao không nhớ. Đại khái là nghe mưa.<br />
Thuở tóc xanh nằm nhà kỹ nữ nghe mưa rơi<br />
ngoài hiên vắng. Đầu hai thứ tóc nhân một<br />
chuyến đò dọc chưa biết cập bến nào, chợt nghe<br />
mưa rơi trên mui thuyền. Đầu bạc ngồi một mình<br />
trên thềm đá cổng chùa nghe mưa rơi trên mái<br />
tam quan.<br />
C hợt:<br />
— Kh. này, tóc mày cũng bạc gần hết rồi đó.<br />
— Nghĩa là ...<br />
— Đúng.<br />
66
Nghĩa là ... một mái tam quan cho Kh. tôi ?<br />
Giã từ tất cả ? Cái ửng đỏ thếp vàng một “rừng<br />
phong thu đã”. Cái trầm bổng trúc tơ mưa phách<br />
dồn mau khúc hành tì bà bắt vào khổ dựng. Giã<br />
từ tất cả. Coi tất cả chỉ là vọng tưởng. Một mái<br />
tam quan cho tôi, nghe mưa rơi để nhớ lại hay<br />
nghe mưa rơi để quên đi ? Tôi đưa vội ly rượu lên<br />
miệng, dốc cạn đến đáy ly.<br />
Từ ngoài, một giọng nữ vọng vào :<br />
— Hành khách chuyến bay số 303, xin sửa<br />
soạn lên tàu.<br />
Có tiếng xô động lao xao trong quán rượu. N.<br />
đặt trên bàn một nắm dollars:<br />
— Mày tiêu hộ tao. T hôi... đến giờ rồi.<br />
Ngần ngừ một lát. Một chút gợn trong tròng<br />
mắt đã xa vời. N. đứng lên :<br />
— Mày ngồi đây, gọi thêm mà uống.<br />
Quay đi. Vai xuôi xuôi, lưng hơi còng, đầu chúi<br />
ve phía trước. Cửa mở. N. lẫn vào đám đông bên<br />
kia quầy vé. Cánh cửa tự động khép kín.<br />
Bên này, quán rượu, một câu thơ của Chương<br />
bỗng dưng lẩn quẩn trong đầu. Đọc rất khẽ, vừa<br />
đủ cho tai nghe.<br />
Chúng ta mất h ết... chỉ còn nhau<br />
Và sựng lại. Lẩm bẩm một mình :<br />
— Này ông Vũ Hoàng Chương, ý ông nghĩ<br />
sao ? Thơ ông hay thật. Nhưng ông đã để lại<br />
cho chúng tôi một câu rất hỏng. Này ông Vũ<br />
67
Hoàng Chương, ý ông thế nào ? Chúng ta mất<br />
hết. Đúng. Mất hết. Kể cả nhau, ông ơi.<br />
Hình như có cười lên tiếng. Một vài chúng sinh<br />
ngoảnh lại, ngỡ ngàng. Trong số có người nữ tóc<br />
vàng. Vụt nhớ lại câu Anh ngữ độc nhất một anh<br />
bạn thuộc nằm lòng sau 5 năm lưu đày. Bèn cười<br />
duyên với người nữ đã đứng bên cạnh :<br />
- One more.<br />
Người nữ toét miệng cả cười.<br />
Minnesota 84<br />
68
“Mệ” La Khê<br />
Người “cai” đứng cạnh tôi, rút chiếc khăn<br />
quàng nơi cổ, lau mồ hôi trán. Anh ngửng lên<br />
nhìn trờ i:<br />
— Mưa mãi thầy à. Thầy nhìn kìa.<br />
Mây từng tảng đen xì dâng lên từ chân trời mù<br />
mịt ngập sâu trong sương khói rừng Lào. Một cơn<br />
gió nóng hâm hấp thổi lại từ phía đó. Cây rung,<br />
cỏ gianh xào xạc.<br />
— Gió Tây. Chưa mưa.<br />
— Đó, rồi thầy xem.<br />
Tên thật của anh là Tư. Nhưng từ ngày làm<br />
việc với tôi, anh tự phong là “cai”. Và từ “cậu” tôi<br />
được phong làm “thầy”.<br />
*<br />
Năm đó, khoảng 1943, tôi thường đi lại miệt<br />
rừng hoang Trung Việt, chủ tâm tìm trong đám<br />
cây dại, một loại vỏ dầy có thể thay thế cây đay<br />
để bật thành bông, kéo dài thành sợi, dệt thành<br />
vải. Được một số anh em hùn vốn, tôi chiêu tập<br />
một số thợ rừng đi kiếm cây, bóc vỏ, đóng hàng<br />
để chở về Hà-nội. “Sở làm” nằm trên con đường<br />
69
xe lửa Xuyên Việt. “Bàn giấy” đặt trong một<br />
quán phở đối diện ga Xóm Cục gần vùng Đông<br />
Hà. Tôi ở trọ cách đó khoảng 10 cây số, trong<br />
một trang trại vắng vẻ. Chủ trại là một vị lãnh<br />
binh cựu trào, đầu tóc bạc phơ. Ông cụ ngang dọc<br />
một thời đã từng cầm binh đánh giặc Cờ Đen, đã<br />
bỏ đi theo Văn Thân khởi nghĩa và bây giờ thì ...<br />
— Chán rồi, thầy ạ. Tôi lui v'ê đây mai danh<br />
ẩn tích, bạn với núi rừng, mỗi ngày chỉ còn hai<br />
bữa rượu. Nhưng từ khi thấy dân tình khổ sở, một<br />
cổ đôi ba tròng, thời tôi chỉ uống có bữa chiều.<br />
Bầu bạn còn trơ lại đôi vợ chồng già.<br />
Cụ Lãnh ở với người thiếp thứ ba, người trong<br />
vùng thường gọi là bà Ba. Đối với chồng, bà còn<br />
trẻ cách nhau tới 30 tuổi. Đối với chồng, bà một<br />
niềm kính phục. Nâng giấc sớm hôm, sửa soạn<br />
bữa rượu buổi chiêu, trông nom vườn tược, trang<br />
trại chỉ một mình bà.<br />
Cụ Lãnh nhìn người thiếp trẻ, rồi quay lại tô i:<br />
— Thầy cho tôi bao nhiêu tuổi ? Tám chục rồi<br />
đó. Có nằm xuống cũng là vừa. Cái trại này để lại<br />
cho mụ Ba. Hậu sự thì lo đủ rồi.<br />
“Hậu sự” là hai cỗ quan tài mộc, xếp song<br />
song trên cặp mễ, trong một căn nhà lá cuối trại.<br />
Ngoài bữa độc ẩm, cụ Lãnh chỉ còn cái thú là<br />
ngắm nghía hai cỗ “hậu sự”. Cụ đặt nhẹ bàn tay<br />
lên mặt cỗ quan tài. Bàn tay xương xẩu gân xanh<br />
nổi lên nhằng nhịt, cái bàn tay đã từng nắm chặt<br />
nhiêu đốc kiếm, vuốt nhẹ mặt gỗ óng vàng :<br />
70
— Thầy xem, gỗ vàng tâm đó. Chắc lắm thầy<br />
ơ i...<br />
Ngoài vườn có tiếng chim hót. Nắng yếu dần.<br />
Trong đợt gió Lào đã thấy len vào hơi lạnh của<br />
rừng. , ’<br />
— Chiều rồi. Ớ đây rừng núi. Đêm xuống mau<br />
lắm.<br />
Cụ kéo chiếc khăn lụa bạch quàng lên đầu.<br />
Thế rồi một già một trẻ, chúng tôi lững thững vê<br />
nhà. Khói lam chân núi dâng lên tím ngắt. Nắng<br />
quái hất qua hiên lọt vào gian phòng. Nắng tắt.<br />
Ngọn đèn dầu leo lét. Cụ Lãnh xoa hai bàn chân<br />
vào với nhau, rồi leo lên tấm phản gỗ. Cụ xếp<br />
chân bằng tròn, một tay với bình rượu, một tay<br />
giơ ra mời tôi. Cụ rót đầy hai chén lớn :<br />
— Uống đi, thầy, ơ đây sơn lam chướng khí.<br />
Uống tí rượu nó nóng người, đỡ bệnh lắm đó.<br />
Độ ấy, tôi đâu biết uống rượu ? Tôi nâng chén<br />
đáp lễ rồi lại đặt xuống chiếc mâm gỗ mộc. Cụ<br />
Lãnh đã cạn gần một nửa chén. Cụ nhón một bìa<br />
đậu nướng, bẻ một miếng, chấm đậm vào dĩa<br />
muối vắt chanh, đưa lên miệng. Cụ lại cán thêm<br />
nửa quả ớt chỉ thiên. Rồi chén rượu lại được nâng<br />
lên. Một tọp nữa. Một tiếng khà. Chén rượu cạn.<br />
Bữa rượu chiều đó, ngay hôm đầu tôi từ chuyến<br />
xe Xuyên Việt bước xuống sân ga La Khê — một<br />
căn ga nhỏ cách thành phố Vinh khoảng vài trăm<br />
cây số — đi bộ qua vài nhịp cầu sắt lớn, nước<br />
sông cuồn cuộn màu xanh rêu, mặt cầu rộng<br />
71
thênh thang có đường đủ cho ô tô chạy song song<br />
với đường xe lửa, cả hai con đường qua cầu vẫn<br />
chạy song song, bữa rượu “tẩy trần” chiều đó,<br />
một già một trẻ, kéo dài đến mãi lúc trăng lên,<br />
vắt vẻo ngang ngọn cây tre, mà chén rượu vẫn<br />
còn nắm vững trong tay cụ Lãnh.<br />
— ơ đây, chỉ được cái tĩnh. Ngày ngày qua lại<br />
hai chuyên xe lửa ra vô. Rồi hết. Còn con đường<br />
bộ th ì...<br />
Cụ Lãnh bỏ lửng câu chuyện, với tay cầm bìa<br />
đậu cuối cùng trên dĩa. Cụ bẻ làm đôi. Rồi cười:<br />
— Thầy một nửa, tôi một nửa.<br />
Lúc đó, tôi đã ăn xong. Tôi đỡ lấy nửa bìa đậu<br />
rồi lại trịnh trọng đặt vào đĩa.<br />
— Thưa cụ, tôi đủ. Xin mời cụ.<br />
Cụ Lãnh phá lên cười:<br />
— Thầy phải tập uống rượu đi. Nam vô tửu<br />
thì hỏng đó !<br />
Tôi nhìn ra phía cổng. Tôi nhìn rõ hai con<br />
đường chạy ngang qua cổng. Đường rầy xe lửa lấp<br />
loáng ánh trăng song song với con đường trải đá.<br />
<strong>Xa</strong> nữa, lớp lớp bạc phếch sương rừng u u minh<br />
minh. Tôi quay lại cụ Lãnh :<br />
— Thưa cụ, thế con đường trải đá ... chắc<br />
cũng có ô-tô qua lại chứ ?<br />
Cụ Lãnh nhìn tô i:<br />
— Ô tô nào ? Quanh vùng này chỉ có mình<br />
tô i...<br />
— Dạ ô tô vô Nam. Con đường này vô<br />
72
Nam mà.<br />
— Đâu có. Thầy nhầm rồi. Ai mới đến cũng<br />
nhầm cả. Con đường này là con đường cụt. Nó<br />
chỉ dẫn đến ga Xóm Cục rồi hết. Cái ga thầy tính<br />
lập sở đó. Ngày mai tới đó rồi thầy biết.<br />
Cụ từ từ nâng chén, lơ đãng nhìn ra xa, rồi lại<br />
tiếp :<br />
— Muốn vô Nam, phải ngoẹo bên kia cầu.<br />
Tôi nhớ lại lúc xế trưa, khi dời khỏi nhà ga La<br />
Khê khoảng 100 thước tới một ngã ba, tôi có nhìn<br />
thấy một lối rẽ tay trái, mặt đường cũng trải nhựa<br />
bóng loáng. Lối rẽ men theo dòng sông rồi mất<br />
hút trong rừng. Thì ra đó mới là con đường cái vô<br />
Nam, con đường bộ dẫn đến Đông Hà, Quảng<br />
Trị, Thừa Thiên ... Còn con đường bộ thênh<br />
thang thẳng tắp song song với đường rầy xe lửa,<br />
đưa tôi lên cầu, qua cầu, đến cổng trại cụ Lãnh<br />
lại chỉ là một con đườg c ụ t:<br />
— Thầy xem. Ớ bên kia cầu, nó còn được trải<br />
nhựa đàng hoàng, trông nom cẩn thận. Sang đến<br />
bên này là ... hỏng cả. Đá đổ thì lởm chởm, chỗ<br />
có chỗ không. Mặt đường thì lỗ chổ ổ gà. Kỳ quá.<br />
Chẳng gì thì cũng là con đường. Có phải không<br />
thầy ? Mà lại dài tới 10 cây số ngàn.<br />
Cụ ngừng một lát rồi gật gù :<br />
— Thật đúng là thằng Tây. Nó đã cần thì tốn<br />
mấy cũng làm. Mà đã không cần thì bỏ ra một xu<br />
cũng nhất định không bỏ.<br />
Lậi ngừng, lại tiếp. Lần nầy cụ Lãnh nghiêng<br />
73
sang mặt triết lý :<br />
— Thật đúng là tình đời.<br />
Tôi cố giữ một tiếng cười, nhìn bình rượu. Bình<br />
rượu vơi một nửa. Mối thiện cảm của tôi đối với<br />
ông già ngồi trước mặt tự nhiên tăng gấp đôi. Tôi<br />
tìm một câu an ủi (!) :<br />
— Thưa cụ, chắc trước kia Tây nó cũng có ý<br />
dùng quãng đường này. Chứ ... hơi đâu mà lại rẽ<br />
quặt vô rừng, tốn công tốn của ...<br />
Cụ Lãnh gật gù :<br />
— Thầy nói đúng. Thầy xem ... cả một cây cầu<br />
sắt lớn ô tô, xe lửa ra vào thong thả đâu phải<br />
chuyện dỡn ? Đây là chưa kể cái quãng đường 10<br />
cây số ngàn này. Thật ra là Tây nó định cho chạy<br />
thảng đó. Nhưng sau lại thôi...<br />
— Dạ thưa cụ có biết tại sao không ạ ?<br />
Cụ Lãnh vuốt nhẹ chòm râu hàm bạc phơ. Cụ<br />
trầm ngâm yên lặng. Tôi nghe thấy cái yên lặng<br />
ngoài trời, núi rừng chuồi vào đêm hoang vắng.<br />
Cụ Lãnh thủng thỉnh :<br />
— Lâu ngày tôi cũng quên đ i... Mà tại sao,<br />
mụ Ba hè !<br />
Bà Ba đang ngồi ăn trầu ngoài hiên. Bà nói<br />
vọng vào :<br />
— Quan Lãnh không nhớ sao ? Tại Mệ đó.<br />
Tôi đã được nghe kể lại cả cuộc đời cụ Lãnh<br />
vốn sinh trưởng ngoài Bắc, lang bạt sông hồ một<br />
thời rồi cùng với người thiếp trở về ẩn nơi miệt<br />
rừng La Khê. Anh bạn giới thiệu tôi vào trọ nơi<br />
74
đây đã mấy lần dặn dò :<br />
— Ông bà xưng hô với nhau theo lối xưa. Anh<br />
đừng tỏ vẻ ngạc nhiên.<br />
Tôi không hề ngạc nhiên về lối xưng hô của<br />
cặp bạn già. Nhưng “Mệ” là ai mà lại dính đến<br />
quãng đường cụt này ? Tôi hỏi ngay :<br />
— Thưa cụ. “Mệ” là ai vậy ?<br />
Tôi có cảm tưởng ông già đối diện bất giác<br />
sững người. Bình rượu lại được nâng lên, từ từ<br />
dốc vào chén. Chén rượu cạn trong một tợp.<br />
Giọng cụ Lãnh như xa ra :<br />
— Tôi có tật uống tham như vậy. Võ biền mà.<br />
Thầy tha lỗi cho nhá.<br />
Và câu chuyện chuyển sang một hướng khác.<br />
Đêm hôm đó, tôi ngủ ở một chái bên căỉi nhà<br />
gỗ ba gian hai chái. Ánh trăng rọi vào mặt, tôi<br />
ngửi thấy mùi hương hoa nhài từ vườn thoảng<br />
vào. Tôi nghĩ lan man đến con đường cụt, đến<br />
rừng cỏ gianh, đến căn ga xép Xóm Cục chập<br />
chờn hình ảnh một bà “Mệ” miền Trung. Trằn<br />
trọc mãi cho đến khi gà gáy nửa khuya, sương<br />
ngoài vườn tỏa vào lạnh toát chiếc chăn đơn, tôi<br />
mới thiếp đi được một giấc.<br />
— Đó, thầy xem.<br />
Anh Tư chỉ tay lên trời. Gió đổi chiều từ Tây<br />
chuyển sang Đông, từ biển thổi vào. Trong luồng<br />
gió nghe như có lành lạnh hơi nước. Tôi nhìn ra<br />
đám thợ. Tất cả cũng đang ngửng lên nhìn trời.<br />
Tôi quay lại anh T ư :<br />
75
— Anh cho họ nghỉ.<br />
— T rờ i! Bây giờ mới một giờ trưa mà.<br />
— Sắp mưa rồi. Họ mà ốm thì khổ.<br />
— Dạ, thế có tính ngày hôm nay không ?<br />
Tôi tặc lưỡi:<br />
— Thôi thì tính cho họ vậy.<br />
— Thầy dễ quá.<br />
Năm đó tôi mới khoảng 25 tuổi. Bây giờ nghĩ<br />
lại chuyện năm xưa thấy nó giống như một giấc<br />
mộng hồ vừa tỉnh. Năm đó và đến mãi sau, hình<br />
như tôi đã coi tất cả như những trò chơi, rất<br />
nhiều khi nguy hiểm nhưng người trong cuộc tuy<br />
mê chơi, tuy có lúc đã đem cả cuộc đời của mình<br />
khép vào luật chơi, mà vẫn chưa hoàn toàn nhập<br />
cuộc. Diễn viên còn phần nào tỉnh táo để ngắm<br />
nhìn nhân vật. Tôi đã chơi trò cách mạng. Tôi đã<br />
chơi trò đảng phái. Vậy thì dựng xưởng dệt, lần<br />
mò trong rừng để tìm cho ra một loại cây ... đối<br />
với tôi, cũng là một trò chơi. Cho nên, tôi ít để ý<br />
đến được hay thua, thành công hay thất bại. Cho<br />
nên, dễ dãi.<br />
Anh Tư giơ tay ra hiệu. Đám thợ hình như<br />
cũng chỉ đợi có thế. Họ tung nón reo mừng và tôi<br />
vụt nhớ đến những ngày nghỉ học bất thần, và tự<br />
nhiên tôi cũng thấy vui lây. Tôi hét lớn :<br />
— Anh bảo cho họ biết tôi tính cả ngày.<br />
Một loạt nón lại được tung lên. Tiếng reo át cả<br />
tiếng gió. Và trời xầm xập đổ mưa. Quán phở<br />
chật ních người. Anh Tư xoa tay :<br />
76
— Anh em mời thầy vào uống chén rượu.<br />
— Anh cứ vào với anh em đi. Tôi ra xem con<br />
ngựa ra sao.<br />
Tôi rảo bước đi ra phía sau quán phở. Con<br />
ngựa được buộc dưới mái hiên. Thấy tôi nó ngủng<br />
đầu, nhe răng hí lên một tiếng. Nó tuy nhỏ người<br />
nhưng khỏe. Tôi thuê nó hàng tháng để di chuyển<br />
từ trại cụ Lãnh đến đây làm việc. Ngày ngày trừ<br />
Chủ Nhật. Tôi vỗ vào đầu ngựa rồi quay ra phía<br />
cửa quán. Quán hẹp, người đông, mùi người, mùi<br />
phở xông lên, mùi lá cây mục, cỏ ẩm, từ ngoài<br />
đưa vào, tôi gọi chung là mùi “sông hồ”. Lâu<br />
ngày, khứu giác của tôi đã làm quen với cái mùi<br />
“tứ chiếng” đó.<br />
— A, mời ông chủ.<br />
— Mời thầy.<br />
Tôi ngồi xuống cạnh anh Tư. Anh Tư nâng<br />
chai rượu rót đầy hai chén. Rồi hét lớn :<br />
— Ê, ông quán. Cho đồ nhắm đây.<br />
Ông chủ, ông quán bưng lên một đĩa thịt luộc.<br />
Thịt trâu luộc. Anh Tư nâng chén :<br />
— Mời thầy.<br />
Tôi nâng chén lấy lệ. Thịt trâu ăn ví như thịt<br />
bò nhưng dai. Chấm vào muối đưa lên miệng<br />
cùng một miếng ớt, chiêu một ngụm rượu, anh<br />
Tư gật gù:<br />
— Thầy ôi, rượu và ớt. ơ đây phải dùng<br />
những thứ đó mới chống nỗi sốt rét.<br />
Đám thợ ồn ào. Ăn ớt nhiều hơn thịt. Uống<br />
77
nhiêu hơn ăn. Tôi nhìn ra ngoài. Mưa đã ngớt.<br />
Gió ngừng. Không khí oi bức lạ lùng. Tôi nâng<br />
chén rượu, nhấp một chút. Men thô, rượu đắng,<br />
cổ họng cháy ran. Bát phở trâu bốc khói. Tôi ăn<br />
vội vài miếng. Rồi đứng dậy. Lúc đó khoảng 2 giờ<br />
chiều.<br />
— Tôi vê, anh Tư.<br />
Anh Tư mặt đỏ gay, líu lưỡi:<br />
— Còn ... sớm, thầy.<br />
— Thôi, cảm ơn anh. Từ đây về cầu La Khê,<br />
10 cây số ngàn đó.<br />
Tiếng người nhao nhao chào hỏi theo tôi ra<br />
khỏi quán. Mưa tạnh từ lâu. Mặt trời bắt đầu ngã<br />
về hướng Tây. Tôi nhồi một tẩu thuốc. Thuốc<br />
vùng Thanh Hóa tuy có trộn một chút mật ong<br />
mà hơi dầu vẫn còn ngai ngái. Tôi dắt ngựa đi ra<br />
phía trước cửa quán, đối diện với nhà ga. Nhà ga<br />
một từng xây bằng gạch quét vôi màu vàng kệch,<br />
tên ga Xóm Cục viết bằng sơn đen. Tất cả cũ kỹ,<br />
loang lỗ, nhòe nhoẹt, ẩm thấp và tưởng như đang<br />
lịm dần trong một giấc ngủ hốt hoảng giữa một<br />
cơn sốt rét rừng. Tất cả, kể cả ông xếp ga mà tôi<br />
chỉ nhìn thấy thấp thoáng qua khung vuông<br />
guichet bán vé một lần nói chuyện với ông về việc<br />
chở hàng và giới thiệu anh Tư. Giọng vùng Quảng<br />
Ngãi. Mặt ông xanh bủng màu lá rừng. Giữa mùa<br />
gió Lào nóng ran, ông run lập cập trong một<br />
chiếc áo bành tô nhà binh sờn cổ. Gặp ông một<br />
lần, nói với ông chỉ dăm ba câu. Cả cuộc đời ông<br />
78
tôi biết qua lời tóm tắt của anh Tư. Ngắn và gọn<br />
như một dòng tiểu sử ghi trên mộ chí một người:<br />
— Sốt rét ăn vào gan. Bà vợ qua đời năm<br />
ngoái. Chịu trận một mình ở đây. Đợi về hưu trí.<br />
Ở đây một căn ga xép đường rừng. Ớ đây Xóm<br />
Cục, nơi đợi về hưu trí, nơi tận cùng một đời<br />
người. Tôi bỗng nghĩ đến cụ Lãnh. Người xếp ga<br />
già và cụ Lãnh. Một người một mình đợi giờ mãn<br />
kiếp xếp ga. Một người chiều chiều độc ẩm đợi<br />
tắt một tia nắng quái thiếp vàng một cỗ quan tài.<br />
Một cái trại hoang vu và một căn nhà ga mục hơi<br />
rừng. Hai cuộc sống thoi thóp trên một con<br />
đường cụt. Cuộc viễn du con đường cụt chấm dứt.<br />
Con đường rầy xe lửa đồng hành vẫn thẳng tấp<br />
tiến vào Nam.<br />
Sau La Khê là Xóm Cục là Đông Hà, Quảng<br />
Trị, là Huế. Những địa danh quyến rũ. Những<br />
chân trời mới lạ. Mây trắng vắt ngang đèo. Biển<br />
xanh và trời xanh ngát mắt. Gió lộng mái tóc<br />
xanh. Con tàu tốc hành rít lên một hồi còi từ biệt.<br />
Đèn signal ga xép lắc lư trong đêm mờ sương<br />
rừng. Con đường cụt ngẩn ngơ lẩn mình trong<br />
đám cỏ gianh.<br />
*<br />
Ánh nắng lấp lánh trên những ổ gà còn đọng<br />
nước mưa. Khói bốc mờ đường. Ngựa đi bước<br />
một. Tôi vẫn bận tâm v'ê con đường cụt. Nhớ lại,<br />
có lần tôi đã có ý bâng quơ trước mặt anh Tư :<br />
79
— Không hiểu sao họ lại bỏ dở quãng đường<br />
này ?<br />
Anh Tư không bắt chuyện. Không ai muốn bát<br />
chuyện xa gần có dính líu đến con đường cụt.<br />
Nhưng tôi vẫn muốn rõ ngọn ngành. Tôi lại h ỏ i:<br />
— T h ế ... gần đây có nhà của ai không, anh<br />
Tư ? Có cái trại nào ...<br />
Anh Tư cắt ngang :<br />
— Trại cụ Lãnh là cái trại độc nhất trong<br />
vùng.<br />
Một lát sau, anh tiếp :<br />
— Tôi với anh em thợ ở trong xóm tít đằng<br />
kia.<br />
Vừa nói, anh vừa giơ tay chỉ vê phía bên kia<br />
đường rầy, phía sau quán phở, nơi có lối rừng đi<br />
lên mạn Banaphao, nằm bên kia biên giới<br />
Lào-Việt. Lối rừng nhỏ, người đi phải xếp hàng<br />
một, mỗi bước đi là một nhát dao phạt ngã cỏ<br />
gianh.<br />
— Anh ở xa quá nhỉ ?<br />
Anh Tư lửng lơ :<br />
— Cũng không xa lắm, thầy ôi. Với lại, mỗi<br />
tuần về nhà có một Tân, cũng chả ngại.<br />
Câu chuyện nhát gừng đến đó chấm dứt. Từ đó<br />
tôi cũng thôi không hỏi. Từ đó đến mãi hôm nay,<br />
lúc bấy giờ khoảng 2 giờ 30 chiều. Con đường cụt<br />
vẫn giữ nguyên vẹn cái huyền bí lạ lùng mà quyến<br />
rũ của một nấm cổ mộ thời tiền sử vừa mới tìm ra<br />
nhung chưa khai quật. Con đường bốc khói trắng<br />
80
mờ. Tôi liên tưởng đến một khuôn mặt thiếu phụ<br />
Ba Tư ẩn hiện sau tấm voile đen. Tôi vụt nhớ đến<br />
một người, hình ảnh tưởng tượng của một giáng<br />
hình đàn bà, mà cụ Lãnh vô tình gợi đến trong<br />
bữa ăn đầu tiên.<br />
— Quan Lãnh quên rồi sao ? “Mệ” đó !<br />
Ô, tại sao lại không hỏi anh Tư ? “Mệ” là ai ?<br />
Và bất thần, chân ngựa vấp vào một hòn đá,<br />
đầu ngựa chúi vê phía trước. Tôi giật mình vội<br />
kẹp chặt đôi vế vào mình ngựa, tay nắm chắc giây<br />
cương. Ngựa lại bước đều. Tôi nhìn ra chung<br />
quanh. Ánh nắng lấp lánh trên đường rầy xe lửa.<br />
Cỏ gianh mọc ngút tận rừng hoang. Không một<br />
hơi lam khói bếp. Không một vết tích người.<br />
Không một mạch nhỏ rẽ ngang. Tôi nhớ lại câu<br />
nói của anh Tư :<br />
— Không có ai ở cả. Suốt dọc 10 cây số ngàn.<br />
Trại cụ Lãnh là cái trại độc nhất của cả vùng này.<br />
Trời bỗng tối xầm. Và chỉ một lát sau là mưa<br />
lại đổ xuống. Tôi nâng cao cổ áo, kéo sụp mũ<br />
xuống gần mắt. Từng giọt một, nước mưa lọt vào<br />
cổ, vào lưng, vào ngực, tạt vào mặt. Tôi vuốt mặt<br />
không kịp, mắt như bị bao phủ bởi một tấm kính<br />
mờ, thấp thoáng một chút xanh của lá và cỏ, ngả<br />
nghiêng vài ba cành cây trơ trụi ven rừng. Người<br />
và ngựa ướt đẫm. Con ngựa đi bước một thỉnh<br />
thoảng lại lắc mạnh đầu, rũ nước, thở phì.<br />
Khoảng 15 phút sau, mưa tạnh ráo hoảnh. Trời<br />
trở lại trong veo.'Tồi bỏ mũ rũ nước rồi lại đội<br />
81
lên đầu. Tôi nhìn sang bên mặt. Một gốc bàng cổ<br />
thụ thưa lá sừng sững ngay cạnh đường : tôi biết<br />
là đã đi được non 5 cây số. Còn một nửa đường<br />
nữa. Nhìn đồng hồ, lúc đó khoảng 3 giờ chiều.<br />
Nắng lại chói rực sau rừng. Hơi nước bốc lên ngả<br />
màu lam ở tít đằng xa, bạc phếch đầu ngọn cỏ<br />
gianh lay lắt. Không khí lại oi bức. Tôi rút khăn<br />
lau mồ hôi nhỏ giọt trên trán, giựt mạnh giây<br />
cương. Con ngựa như tỉnh ngủ, từ bước một,<br />
chuyển sang nước kiệu. Tôi hất mũ ra sau lưng,<br />
giựt thêm giây cương, con ngựa vươn cổ phi dài.<br />
Vô ích. Ngựa càng phi nhanh, luồng gió gây lên<br />
lại tạt thêm hơi nóng vào mặt. Tôi từ từ ghìm<br />
cương. Con ngựa lại trở về lối đi cũ, bước một.<br />
Đúng lúc đó, trong im sững của rừng già lặng<br />
gió — chỉ còn tiếng chân ngựa lọc cọc mặt đường<br />
— giữa lúc đó, sau lưng tôi, bỗng từ xa vẳng tới<br />
ba tiếng còi ô tô. Ba tiếng, khô và gọn.<br />
Phản ứng đầu tiên của tôi là ngoắt vội giây<br />
cương sang bên mặt. Con ngựa sa hai chân trước<br />
xuống rãnh nước mưa sát lề đường. Tôi chúi<br />
xuống theo, đôi vế kẹp chặt, đứng hẳn lên bàn<br />
đạp, nắm chặt giây cương. Con ngựa lấy đà chồm<br />
lên khỏi mặt đường, rồi đứng sững trong bãi cỏ<br />
gianh. Tôi ngồi vững lại- trên yên, ngoái cổ lại<br />
đằng S^ỊJ. Gần xa, chỉ thấy khói bốc trên mặt<br />
đường, rói giật giây cương. Con ngựa bám chặt<br />
lấy bãi cỏ gianh, cúi đầu vùng vằng. Tôi lại giựt<br />
giây cương, giựt mạnh. Vô ích. Con ngựa nhất<br />
82
định không tiến thêm một bước. Tôi vừa định<br />
ngoái cổ lại một lần nữa thì cũng vừa lúc đó, tôi<br />
cảm thấy như bị cuốn vào một luồng gió lạnh.<br />
Con ngựa rùng mình và bất giác tôi cũng rùng<br />
mình theo. Luồng gió lạnh ngấm vào người và<br />
ngựa. Lông ngựa dựng lên và tôi thấy tóc đằng<br />
sau gáy của tôi dựng đứng. Đồng thời với luồng<br />
gió lạnh, một chiếc ô tô từ từ chạy qua. Tôi trố<br />
mắt nhìn theo. Chiếc xe đi trong im sững. Không<br />
một tiếng bánh xe di chuyển. Không một tiếng<br />
nước vũng bắn tung. Không có tiếng máy. Khói<br />
bốc trên mặt đường không chuyển động, cỏ bên<br />
đường đứng nguyên thảng tắp. Chiếc ô tô đi trong<br />
một giấc mơ. Người tài xế hai tay đặt trên bánh<br />
lái, nhìn thẳng trước mắt như một pho tượng,<br />
phục sức như một võ quan, chiếc cát kết trắng<br />
ngay ngắn trên đầu, áo trắng có ngù vai đỏ, quần<br />
đen sọc đỏ. Tôi hiểu tại sao lại nhìn rõ được từng<br />
chi tiế t: hắn ngồi đằng trước, một mình, lộ thiên.<br />
Chiếc xe kiểu cổ thịnh hành khoảng đầu thế kỷ,<br />
chỗ ngồi người lái lộ thiên riêng biệt với những<br />
chỗ ngồi sau, giống như chiếc xe song mã ngày<br />
trước, chú xà ích cầm cương một mình đăng<br />
trước. Đằng sau, chiếc ô tô giống như một cái tủ<br />
kính với khoảng 4 chỗ ngồi, người ngồi đối diện<br />
với nhau. Nhưng chỉ một người ngồi. Chính giữa.<br />
Một thiếu phụ, hay thấp thoáng chỉ là mấy vòng<br />
khăn vành giây màu vàng quí tộc, một vạt áo màu<br />
hồ thủy, một khuôn mặt dài trắng toát, một đôi<br />
83
mắt đen thẳm. Người thiếu phụ ngồi thẳng, hai<br />
bàn tay đặt trên lòng. Chiếc xe đi qua — cách tôi<br />
khoảng 2 thước — tôi bắt gặp gương mặt đó<br />
nghiêng lại và đôi mắt đó ngời lên một ánh đen<br />
lành lạnh. Chỉ một thoáng rồi người thiếu phụ trở<br />
lại thế ngồi cũ, nhìn thẳng trước mặt, tròng mắt<br />
xa vời. Chỉ có thế. Một vài nét và màu và một lóe<br />
mắt. Một chập chờn hiện diện mờ ảo hình hài<br />
thiếu phụ. Và một cảm giác : dờn dợn, lạnh ngắt.<br />
Cảm giác bao trùm một vùng đường cụt. Trời<br />
chiều, rừng hoang, bãi cỏ gianh, người ngựa, nước<br />
vũng trên đường, tất cả bỗng dưng ngừng trệ,<br />
bỗng dưng tê cóng, bỗng dưng im sững. Cho đến<br />
khi chiếc xe xa dần, màu vàng khăn vành giây<br />
thấp thoáng qua khung kính hậu mờ trong sương<br />
lam lúc bấy giờ đã lan ra đến bãi cỏ gianh, đến<br />
tận mặt đường. Chiếc khăn vành giây. Người<br />
thiếu phụ. Bất giác tôi hét lớn :<br />
— Mệ !<br />
Tiếng hét của tôi tắt ngấm trong yên lặng của<br />
bãi cỏ gianh. Con ngựa rùng mình. Cả ngựa và tôi<br />
như chợt tỉnh một cơn mơ hoảng. Quần áo còn<br />
ướt đẫm nước mưa, lạnh thấm vào từng tế bào cơ<br />
thể, lạnh ôm dần lấy người, tôi giựt mạnh giây<br />
cương. Con ngựa chụm 4 chân chồm xuống mặt<br />
đường. Tôi giựt thêm giây cương. Ngựa phi nước<br />
đại. Tôi không nghĩ gì nữa, chăm chú nhún người<br />
theo đà ngựa phi và tiếng vó ngựa dập đều xuống<br />
mặt đường. Và khi cả người tôi chỉ còn là nhịp<br />
84
phi của ngựa thì trong tai tôi bỗng inh lên như<br />
một luồng gió lạ, như một tiếng thở dài. Một thứ<br />
âm thanh kỳ dị mà âm ba càng lúc càng như<br />
muốn vươn lên, dìu theo nhịp ngựa để bắt gặp<br />
một tần số đặc biệt, cái tần số âm trở thành màu,<br />
thanh trở thành giáng. Màu vàng, màu hồ thủy và<br />
màu đen lạnh ngắt. Và một giáng người thiếu<br />
phụ. “Mệ”. Tiếng ai gọi “Mệ” vang lên trong tai.<br />
Vó ngựa càng mau, tiếng gọi càng gấp. Tiếng gọi<br />
đuổi theo tôi và ngựa. Ngựa và tôi phi trong một<br />
giấc mơ.<br />
*<br />
Tôi bàng hoàng mở mắt và thấy mình gục trên<br />
mình ngựa, con ngựa đang cúi đầu gậm cỏ ngay<br />
trước cổng trại. Tôi nhìn đồng hồ. Đồng hồ ngưng<br />
chạy chắc đã từ lâu, kim chỉ đúng 4 giờ kém 15.<br />
Tôi tụt xuống đất, đầu óc quay cuồng, bắp vế mỏi<br />
nhừ, bả vai dờn dợn, khuỷ tay ơn ớn lạnh, toàn<br />
thân ê ẩm. Tôi cố gắng dắt ngựa vào tàu, phía<br />
đằng sáu trại. Bà Ba đang hái hoa nhài ngoài<br />
vườn, thấy tôi, bà ngửng đầu :<br />
— Hôm nay thầy về trễ. Quan Lãnh tôi đang<br />
đợi thầy uống rượu.<br />
Con bướm vàng chập chờn trên mấy luống<br />
cải ánh nắng xiên ngang. Nắng yếu dần. Nắng<br />
tắt. Sương mù che cổng trại. Cụ Lãnh cười nâng<br />
chén :<br />
— Uống đi, thầy. Thầy dầm mưa như vậy<br />
85
uống đi cho nó nóng người.<br />
Lúc bấy giờ, tôi đã thay quần áo, đầu óc trở lại<br />
tỉnh táo như thường. Tôi nhăn mặt uống một<br />
ngụm. Men rượu nóng ran cổ họng, men rượu<br />
chảy loang ra khắp cơ thể. Tôi thấy ấm áp lạ<br />
lùng. Cụ Lãnh cười:<br />
— Uống nữa đi. Trông thầy cỡi ngựa mà tôi<br />
nhớ ngày xưa quá. Cái lối cỡi ngựa đó là lối của<br />
thằng Tây. Còn lối của ta thì thần tình hơn. Kiệu<br />
băm, đặt bát nước trên yên không rớt một giọt.<br />
Cụ Lãnh nâng chén rượu lên miệng, tròng mắt<br />
mất hút vào sương và khói những ngày xưa. Tôi<br />
ngồi yên, trong đầu chập chờn một hình giáng<br />
thiếu phụ. Cụ Lãnh bỗng phá lên cười:<br />
— Thầy có biết mình gọi cái lối cỡi ngựa của<br />
thằng Tây là gì không ? Xin lỗi thầy. Mình gọi đó<br />
là kiểu chó. Như chó chạy đó.<br />
Cụ Lãnh lại nâng chén lên miệng. Lại ngồi<br />
yên. Tôi thừa dịp :<br />
— Thưa cụ, lúc chiều cụ có thấy chiếc ô tô<br />
nào chạy qua đây không ?<br />
Cụ Lãnh đặt chén rượu xuống mâm :<br />
— Ô tô nào ? Vùng này có ai ở đâu ? Mà bữa<br />
trước tôi đã nói với thầy đường này là đường cụt<br />
mà.<br />
Tôi biết đây là lần thứ nhì tôi nhắc đến chuyện<br />
này. Nhưng tôi vẫn c ố :<br />
— Dạ, tôi nhớ. Nhưng có thể là vô ý đi lạc rồi<br />
vòng lại qua cầu ...<br />
86
Tôi nghĩ rằng có thể là như vậy. Một chiếc xe<br />
vô ý lạc đường. Nhưng ... tại sao xe lại từ phía sau<br />
tôi, từ phía Xóm Cục đi lên ? Mà nếu xe vòng lại<br />
thì tại sao tôi lại chỉ gặp có một lần ? Hay là, lần<br />
trước, tôi không để ý nên không nhìn thấy ? Hay<br />
là tại lúc đó trời mưa ? Hay là vì hơi nước<br />
bốc lên che khuất ? Hay là sương rừng đầy đặc ?<br />
Hay l à ...<br />
Giọng cụ Lãnh cất cao, cắt ngang những “hay<br />
là” của tô i:<br />
— Thầy thấy ô tô à ?<br />
— Chính mắt tôi nhìn thấy mà.<br />
— Thế thì lạ thiệt. Ô tô nào mà qua cầu<br />
được ?<br />
— Thưa cụ, tại sao lại không qua cầu được ?<br />
— Thầy quên rồi sao ? Câu hư mà.<br />
Tôi vụt nhớ ra. Câu bằng sắt nhưng chỗ dành<br />
cho xe cộ và bộ hành qua lại thì lát gỗ. Hôm mới<br />
đến, có chỗ tôi phải bám chắt vào thành cầu để đi<br />
qua mấy tấm ván mục. Tôi nhớ lại tấm biển<br />
“nguy hiểm” Sở Lục lộ cắm vào chỗ cầu hư. Như<br />
vậy, ô tô nào còn dám qua lại. Như vậy, nghĩa là<br />
thế nào ? Chiếc ô tô biến đi đâu ? Mà ở đâu mà<br />
hiện ra ?<br />
— Lạ thật. Đích mắt tôi nhìn thấy chiếc xe.<br />
Nghe thấy cả tiếng còi nữa. Xe kiểu cổ. Người tài<br />
xế ngồi ngoài, đàng sau một người ngồi. Một<br />
người đàn bà.<br />
Càng nói tôi càng cảm thấy người đối diện lắng<br />
87
sâu thêm vào im lặng. Tôi nhìn cụ Lãnh. Ông cụ<br />
cúi đầu nhìn xuống mâm rượu buổi chiều. Tôi<br />
ngắm mớ tóc bạc phơ búi gọn thành một búi nhỏ<br />
chỉ thiên. Tôi nghĩ đến cỗ “hậu sự” ngoài kia,<br />
trong gian nhà lá cuối trại. Tôi liên tưởng đến<br />
trạm cuối cùng của con đường cụt ngân ngơ trong<br />
bãi cỏ gianh. Tôi nghĩ đến người xếp ga một mình<br />
lủi thủi trong căn ga xép. Tất cả hầu như đã ràng<br />
buộc với nhau bởi một thứ duyên nợ lạ lùng nào<br />
đó để cùng tìm vê đây, thoi thóp, cho qua đi<br />
những ngày chót của cuộc đời. Buồn nhưng im<br />
lặng. Như một rớt nắng chiều lả dần trên những<br />
luống cải hiền lành. Vậy thì, người thiếu phụ khăn<br />
vành giây đó, nhắc tới làm gì ? Mặt ao đã lắng,<br />
con chim bay trên trời đã tưởng như bay trong<br />
lòng nước, tôi không nỡ kéo dài câu chuyện.<br />
Tôi nâng chén rượu lên miệng, chợt nhận thấy<br />
cái động tác đó đã trở nên quen thuộc. Rượu qua<br />
lưỡi đã bớt cay xè, qua cổ họng đã trở nên ấm áp.<br />
Tôi đổi giọng :<br />
— Cụ mua rượu ở đâu, uống êm không xóc.<br />
Ông cụ cười:<br />
— Rượu cất ở đây đó. Lão chi cất, tôi quên<br />
bẵng mất tên. Lão cất rượu tên chi, mụ Ba hè !<br />
Tiếng bà Ba từ ngoài hiên vọng vào :<br />
— Tôi cũng quên mất tiêu, cứ quen gọi là lão<br />
Năm.<br />
Cụ Lãnh tiếp :<br />
— ơ, lão Năm. Phải rồi. Lão già dữ hé.<br />
88
Bà Ba :<br />
— Đâu có, lão còn thua tuổi quan Lãnh chứ.<br />
Cụ Lãnh :<br />
— Chắc cũng ngang ngửa tuổi tôi, Mụ nhớ<br />
không, hồi Ngài ngự ra đây, lão đã ở đây rồi mà.<br />
Giọng bà Ba như lảng ra :<br />
-— Trời. Xưa quá rồi. Tôi quên hết rồi.<br />
Cụ Lãnh như không nghe thấy, vẫn tiếp :<br />
— Ngài ngự ra cùng với “Mệ” đó. Vụ đổ cầu<br />
đó.<br />
Tiếng “Mệ” làm tôi tỉnh hẳn người. Tôi vội:<br />
— Thế ra “Mệ” là ...<br />
Câu hỏi gián tiếp của tôi chìm trong im lặng.<br />
Bà Ba đứng dậy bỏ vào phòng bên. Cụ Lãnh cúi<br />
đầu nhìn xuống mâm rượu. Trong yên lặng, tôi<br />
nghe rõ từng tiếng con chim sẻ chiêm chiếp ngoài<br />
hiên. Một lát sau, Cụ Lãnh nhìn tôi, giọng nói<br />
như hả hết hơi men, và lần đầu tiên từ ngày tôi<br />
đến, cụ hỏi tôi về việc làm ăn. Tôi biết cụ muốn<br />
chuyển hướng qua chuyện khác bèn cũng ngưng<br />
hỏi thêm. Tôi trình bày qua loa để cụ biết rõ mục<br />
đích của chúng tôi và nhất là những khó khăn đã<br />
gặp và rồi ra chắc chắn sẽ tăng lên gấp bội trong<br />
tương lai, nếu công việc phát triển.<br />
— Các thầy còn trẻ mà dám nghĩ đến việc lớn<br />
như vậy thiệt là đáng quý. Có điều cạnh tranh với<br />
nó về mặt kinh tế không dễ đâu. Trước các thày,<br />
đã có người làm rồi, như đám Bạch Thái Bưởi<br />
ngoài Bắc, đám Tiên Long trong Trung. Nhưng<br />
89
ốt cuộc đều thất bại. Thầy có biết tại sao<br />
không ?<br />
Cụ ngừng lại một lát rồi tiếp :<br />
— Thằng Tây nó nắm đằng chuôi. Nó cạnh<br />
tranh với mình không xong thì nó dùng quyền<br />
dùng thế để mà đàn áp. Như vậy thì thắng làm<br />
sao nổi ?<br />
Bình rượu lúc đó đã gần cạn. Cụ Lãnh rót đầy<br />
hai chén. Cụ nâng chén mời tôi :<br />
— Uống, thầy. Nói chuyện với thầy tôi thấy<br />
trẻ hẵng lại. Như ngày còn ở trong bưng.<br />
Tôi uống một ngụm. Chén nầy là chén thứ nhì.<br />
So với những ngày đầu, tửu lượng của tôi đã có<br />
mòi tiến bộ. Tôi làm thêm một ngụm nữa. Cụ<br />
Lãnh gật gù tán thưởng. Cụ cũng tợp một ngụm<br />
rồi thủng thảng :<br />
— Thầy ơi, với cái thằng Tây thì chỉ có một<br />
cách thôi. Đó là đánh, đánh thật hăng. Cả nước<br />
đánh là xong.<br />
Bữa rượu coi như muốn kéo dài. Tôi thấy đầu<br />
hơi choáng váng bèn xin lỗi đi nghỉ. Đang đối ẩm<br />
trở thành độc ẩm, bữa rượu chấm dứt lúc nửa<br />
khuya.<br />
*<br />
Tôi leo lên giường, vừa đặt mình nằm thì cơn<br />
rét bỗng nhiên kéo đến. Cả người tôi run lập cập.<br />
Tôi cố ngồi dậy, mặc thêm áo, đắp cả cái áo đi<br />
mưa ra ngoài tấm chăn lính mang theo. Nhưng vô<br />
90
ích. Rét từ trong rét ra, từ ruột, từ những khớp<br />
xương, từ toàn thể tế bào tỏa ra khắp cơ thể. Tôi<br />
có cảm tưởng nằm trong một tấm băng dầy trôi<br />
trên mặt đại dương tiến lên Bắc cực. Tôi nghiến<br />
răng chịu trận, nhắm nghiền mắt cố tìm giấc ngủ.<br />
Tôi đếm từ m ộ t... hai, ba, bốn ... Đến khoảng 300<br />
thì cơn rét rút lui. Tôi thấy người mỏi nhừ nhưng<br />
lại ấm áp như vừa uống cạn một chén rượu ngon.<br />
Tôi từ từ duỗi thẳng chân tay, nghe hơi nóng lan<br />
khắp thân thể. Bèn nhắm mắt vỗ nhẹ giấc ngủ, thì<br />
vừa lúc đó, bỗng từ trong tai lại vang lên cái âm<br />
thanh kỳ dị buổi xế trưa. Tôi bị hút theo đà di<br />
động của cơn lốc. Không cưỡng được —, như<br />
người lăn tròn xuống giốc. Không thể ngừng, như<br />
người bị cuốn vào dòng nước lũ. Tôi cảm thấy<br />
mất tiêu sức lực, đầu nhẹ bỗng, thân xác nặng<br />
chiu nhưng tay chân rời rã, mồ hôi vã ra như tắm.<br />
Bỗng âm thanh mất hút. Toàn thể trong tôi và<br />
ngoài tôi tụt hẫng vào một hố sâu im lặng thăm<br />
thẵm đen ngòm. Tôi từ từ mở mắt. Giương to<br />
mắt.<br />
Từ lâu, chắc thế, “Mệ” vẫn lặng yên đứng cạnh<br />
chân giường.<br />
*<br />
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Tiếng gà gáy<br />
rộn ngoài vườn, tiếng chim ríu rít, tiếng gió lùa<br />
trong lá, tiếng bát đũa dưới bếp, những âm thanh<br />
quen thuộc và bình yên sinh hoạt một trại miệt<br />
91
ừng hàng ngày làm tôi tỉnh hẳn ngủ. Đầu óc tôi<br />
nhẹ nhàng thư thái, hầu như tất cả những gì xảy<br />
ra đêm trước, qua đi như một cơn bão lốc. Trời<br />
lại xanh thẳm, trời đẹp vô cùng.<br />
Nhưng khi bước ra hiên trước, vừa định xuống<br />
vườn thì tôi thấy choáng váng chóng mặt. Tôi<br />
phải vịn vào bờ tường ngồi xuống bực thềm.<br />
Tiếng bà Ba từ trong bếp vọng ra :<br />
— Thầy dậy sớm quá. Hôm nay chủ nhật mà.<br />
Tôi trả lời lấy lệ :<br />
— Dạ. Hôm nay nghỉ.<br />
— Đêm qua chắc thầy ngủ ngon giấc. Ây cứ<br />
uống như thầy là vừa. Tửu nhị trà tam mà. Quan<br />
Lãnh tôi uống nhiều quá.<br />
Bà cụ — bà Ba chắc cũng đến 60 tuổi — sống<br />
nơi neo người nên thèm nói chuyện. Ngưng một<br />
lát, lại tiếp :<br />
— Mà ở đây không có rượu thì cũng buồn. Có<br />
phải không, thầy ?<br />
— Dạ.<br />
— Thầy đợi một chút rồi ăn sáng.<br />
— Dạ.<br />
Tôi từ từ đứng dậy. Thấy đỡ chóng mặt, tôi<br />
nhồi một mồi thuốc rồi đi về phía tàu ngựa. Con<br />
ngựa cất đầu hí, tôi đổ một ít thóc vào máng. Con<br />
ngựa cúi đầu ăn. Tôi vuốt nhẹ bờm ngựa. Mùi<br />
ngựa, mùi rơm lẫn với mùi hoa sấu ngoài vườn và<br />
mùi thuốc tẩu ngai ngái, tất cả thoảng trong gió<br />
sớm, tôi thấy ngây ngất như vừa cạn một chén<br />
92
ượu nhỏ. Máu như chảy nhanh hơn. Lồng ngực<br />
là gian nhà trống. Tôi ngửng đầu nhìn ra ngoài.<br />
Ánh nắng buổi mai vàng nhẹ hất vào hai cỗ hậu<br />
sự, đối diện chuồng ngựa. Màu gỗ vàng tẩm lên<br />
nước óng chuốt. Tôi quay nhìn ra phía khác.<br />
*<br />
Thường ngày, điểm tâm chỉ có cháo trắng với<br />
đậu kho. Hôm nay có thêm món xôi lạc. Tôi ăn<br />
trước với bà Ba. Cụ Lãnh thì phải xong bữa trà<br />
buổi sớm rồi mới tính đến chuyện ăn. Tôi húp vội<br />
bát cháo rồi xin phép vào phòng.<br />
Ngày hôm đó, tôi bỏ bữa ăn trưa, trong người<br />
thấy bức rức khó chịu. Và khi mặt trời ngả bóng,<br />
đối diện cụ Lãnh và chai rượu thì tôi biết rằng<br />
cơn sốt chưa dứt. Tôi gượng nâng chén, gượng<br />
nhấp một chút nhưng rượu qua miệng chỉ còn<br />
chất đắng và cay. Tôi đặt chén xuống mâm, nhìn<br />
cụ Lánh uống rượu. Hôm đó bà Ba luộc con gà<br />
con, gan lòng xếp riêng một đĩa. Cụ Lãnh gắp<br />
miếng gan rồi chỉ miếng mề :<br />
— Thầy còn răng, ăn miếng này đi. Tôi thì<br />
chịu rồi đấy.<br />
Cụ tọp một tọp rượu rồi tiếp :<br />
— Già thì miếng tiết miếng gan. Các cụ xưa<br />
nói thiệt là đúng. A... mụ Ba hè ... lá chanh đâu<br />
hè.<br />
Vừa lúc đó bà Ba ở dưới bếp lên, bưng vào<br />
một đĩa thịt gà luộc và một đĩa con đầy rau mùi<br />
93
và lá chanh cắt chỉ.<br />
Cụ Lãnh cười:<br />
— Con gà cục tác lá chanh mà. Nào mời thầy.<br />
Cụ Lãnh đã nhai ngon lành cả một buồng gan.<br />
Tôi gắp một miếng mề, định đưa lên miệng<br />
nhung lại đặt vào bát. Rồi cứ cúi đầu nhìn miếng<br />
m'ê trong bát. Miếng mề như lớn dần. Tôi thấy rõ<br />
từng thớ thịt, từng thớ gân, màu của gân và màu<br />
của thịt. Thớ thịt nhỏ tắp. Thớ gân xù xì. Thớ thịt<br />
màu nâu tai tái có chỗ xen vào một chút rèn rỉ<br />
đồng. Thớ gân trắng lộ bềnh bệch. Tôi ngước<br />
nhìn cụ Lãnh. Đầu ông cụ cúi xuống mâm rượu,<br />
mái tóc thưa thớt, da đầu từng mảng lộ ra đỏ hỏn.<br />
Một chùm lông bạc phếch từ lỗ tai mọc dài ra<br />
ngoài. Tôi bất giác nghĩ đến những con chuột già<br />
đầu đã lỗ chỗ trụi lông một đêm từ cống chui lên<br />
ướt át, bất thần bắt gặp một chiếc xe nhà binh<br />
tám bánh nghiền nát. Tôi nghĩ đến hai cỗ hậu sự<br />
phía sau trại. Tôi nghĩ đến những con giun ngoằn<br />
ngoèo bám vào đám rễ cây cỏ gianh, những con<br />
giun mập mạp, tròn lẵn, mọng chất màu của đất,<br />
những con giun sẽ chui qua cỗ hậu sự bám chặt<br />
vào thân xác cụ Lãnh chôn sâu trong mộ. Gỗ<br />
vàng tâm rồi ra cũng mục. Hai năm, ba năm sẽ<br />
qua đi. Và tấm thân đó, quắc thước một thời,<br />
thập bát ban võ nghệ dọc ngang, tất cả, những<br />
phút sảng khoái chén rượu đầu ghềnh, những<br />
đêm bi phẫn, những hối tiếc, lo lắng, tất cả sẽ bị<br />
đục, nhấm, tiêu, tan, sẽ chỉ còn để lại một vài<br />
94
khúc xương và một cái sọ rỗng không. Tôi nghĩ<br />
đến lòng đất lạnh và bốn bể đại dương. Về đấy,<br />
tất cả, hay sao ? Tôi nghĩ đến cái thường gọi là<br />
cõi âm. Đến một vành khăn màu nắng chiều sắp<br />
tắt.<br />
— Kìa, thầy. Nghĩ gì vậy. uống đi chứ. Tôi<br />
giật mình. Miếng mề vẫn còn nằm nguyên trong<br />
bát. Tôi miễn cưỡng nhắp thêm một chút rượu.<br />
Và nhai trệu trạo vài miếng cơm. Đợi cụ Lãnh<br />
uống cạn chén thứ ba, tôi đặt đũa xuống mâm :<br />
— Hôm nay phải xin phép cụ đi nghỉ sớm.<br />
Cụ Lãnh ngừng tay rót rượu, nhìn tô i:<br />
— Không được, hôm nay có đồ nhắm ngon.<br />
Thầy phải say với tôi một bữa chứ.<br />
— Xin khất cụ đến bữa khác. Đêm qua tôi lên<br />
cơn sốt. Hôm nay hãy còn choáng váng.<br />
— Ây chết. Sao thầy không cho tôi hay ? Thế<br />
đã thuốc men gì chưa ?<br />
— Dạ, không sao. Bớt lắm rồi. Chỉ còn chóng<br />
mặt một chút thôi. Mai chắc hết.<br />
Bà Ba nói vọng vào :<br />
— Thầy có lạnh không ?<br />
— Dạ, có.<br />
— Đúng là sốt rét rồi. Chắc cũng phải vài ba<br />
bữa mới dứt cơn.<br />
Tôi đứng dậy xin lỗi về phòng. Cánh liếp khép<br />
hờ, phòng ngập ánh trăng. Tôi nhồi một tẩu<br />
thuốc. Hút xong tẩu thuốc, tôi vẫn ngồi yên trên<br />
giường, đầu óc mênh mang trống rỗng. Như vậy,<br />
95
khá lâu. ở ngoài bữa rượu đã tàn. Tôi nghe tiếng<br />
dọn dẹp bát đũa, tiếng guốc cụ Lãnh vào phòng,<br />
và từ xa vẳng lại, bay qua cổng trại, vài ba tiếng<br />
vạc ăn đêm. Rồi yên lặng tỏa ra từ rừng và núi.<br />
Yên lặng bao trùm căn nhà lá ba gian hai chái.<br />
Đêm đi vào khuya. Bỗng thoáng một mùi hương<br />
lạ, không phải hương hoa sói, hoa ngâu ngoài<br />
vườn đưa vào. Cũng không phải hương hoa cau<br />
cạnh bể nước mưa. Hương tưởng như hương hoa<br />
lan, loài hoa lan trắng, cánh dài thon nét búp<br />
măng, thường bày cúng trong am trong miễu. Mùi<br />
hương tan loãng trong phòng. Tôi cởi áo leo lên<br />
giường, nằm thẳng, mắt dõi theo một đôi thạch<br />
sùng đuổi nhau dưới mái rơm. Đôi thạch sùng<br />
mất hút. Mắt tôi vẫn mở, tâm thần căng nhẹ như<br />
tiềm tàng những ba động báo hiệu mới<br />
sắp-xảy-ra. Tôi nhắm mắt, ánh trăng xuyên qua<br />
mí mắt. Tôi quay mặt vào tường, ánh trăng dọi<br />
trắng một mảng tường đất quét vôi vàng. Cái<br />
sắp-xảy-ra chắc là êm dịu, chắc là mát dợi. Giốc<br />
thoải đồi cỏ xạnh rêu. Ao sâu ngập hoa bèo tím<br />
ngắt. Trời xanh thẳm một sáng mùa thu. Tôi biết<br />
giấc ngủ không lại. Tôi vừa định ngồi dậy thì một<br />
giọng hát bỗng vang lên, giọng hát như vảng lại từ<br />
xa vắng muôn đời, người hát không để ý đến tiếng<br />
hát, hát như chim rừng hót muộn, như gió thổi<br />
bãi cỏ gianh. Đó là một bài hò đường trong xa lắc<br />
xa lơ có cây có cội, chim và cành, mình và ta, xa<br />
nhau và nhớ nhau. Tôi nghẹn người lắng tai.<br />
96
Giọng hát từ ngoài hiên thoảng vào, trầm trầm<br />
tâm s ự :<br />
Chim xa cành đương còn thương cây nhớ cội<br />
Người xa người khổ lắm người ơi<br />
Thà ràng chẳng gặp thời thôi<br />
Gặp ròi mối đứa một nơi sao đành.<br />
Tiếng cụ Lãnh cắt ngang :<br />
— Mụ Ba chưa đi ngủ hè.<br />
Giọng hát im bặt. Cụ Lãnh tiếp :<br />
— Sớm mai đi chợ, mụ Ba nhớ mua rượu<br />
nghe.<br />
— Dạ. Mà dạo này quan Lãnh uống nhiều<br />
quá đó. Không tốt đâu.<br />
Giọng bà Ba trầm trầm. Giọng hát lúc nãy<br />
cũng trầm trầm. Yên lặng trở lại. Tôi nghĩ vẩn vơ<br />
đến mối tình giữa “hai đứa”, tình lộng gió rừng,<br />
“đứa” ở lại ven rừng chim lá hót trên cành cổ thụ,<br />
“đứa” đi mải miết sông hồ, rồi bỗng một đêm<br />
trăng sáng như đêm nay, mỗi đứa mỗi nơi bỗng<br />
nhớ đến nhau, bỗng thấy rằng người xa người khổ<br />
lắm người ơi. Tôi nghĩ lan man. Tôi tưởng tượng.<br />
Tôi đặt giả thuyết. Không phải vô cớ mà bà Ba<br />
cất tiếng. Bà Ba đã ngót sáu mươi. Nhưng trong<br />
quá khứ, trước khi gặp cụ Lãnh, biết đâu ? Tôi<br />
cười thầm và chợt thấy thương cho bà Ba, thương<br />
cho cụ Lãnh và luôn tiện thương cho cả cái gã<br />
đàn ông nào đó do tôi tưởng tượng dựng lên. Tôi<br />
định đi sâu thêm một bước vào câu chuyện tình<br />
97
ca dao đó thì mùi hương lạ lúc nãy lại thoảng<br />
ngát gian phòng. Tôi không biết là tỉnh hay đang<br />
ở trong một giấc mơ kỳ dị. Mùi hương lan ra, rất<br />
gần, rất gần tôi. Mùi hương thơm nồng và ấm,<br />
dờn dợn mà quyến rũ. Tôi nghĩ đến mùi<br />
muội-hương mô tả trong những truyện kiếm hiệp<br />
Trung Hoa. Tôi vùng dậy nhưng toàn thần đã trở<br />
nên tê liệt. Và cái sắp-xảy-ra linh cảm lúc nãy<br />
đang xảy ra. Ngay cạnh tôi. Đó là một hiện diện<br />
trong phòng — tôi biết chắc như vậy, tuy chưa<br />
nhìn thấy — quanh quất gần xa, từ xa lãng đãng<br />
lại gần, rất gần. Ngay sát bên tôi. Tôi định thần,<br />
hé mắt : “Mệ” đã ngồi ngay bên đầu giường.<br />
Ngay sát bên tôi. Hình như tôi cố gắng hét lớn.<br />
Nhưng chỉ vừa kịp há miệng thì tôi cảm thấy ngay<br />
là vô ích. Vô ích. Có kêu cũng là vô ích. Có vùng<br />
lên, có chạy khỏi gian phòng, cũng là vô ích. Tôi<br />
chuồi vào một giấc mơ nhằng nhịt những đường<br />
rầy xe lửa, ông xếp ga, cụ Lãnh, bà Ba, một gã<br />
đàn ông vạm vỡ, một người tài xế y phục võ quan<br />
và một con đường cụt. Và rừng. Rừng bạt ngàn<br />
với hằng hà sa số những mạch nhỏ, ngã ba, ngã<br />
tư, ga xép, sông chảy cuồn cuộn xanh rì cuốn theo<br />
một chiếc ô tô kiểu cổ, sương dâng mù mịt và<br />
thấp thoáng mấy vành khăn vàng. Và một bàn tay<br />
là năm cánh hoa lan mát dợi. Bàn tay đặt trên<br />
trán tôi rực lửa. Tôi vùng lên, ngụp xuống. Rồi<br />
vùng lên. Và tỉnh giấc.<br />
Trời rạng đông.<br />
98
Cả ngày hôm sau, tôi nằm lả trên giường, phải<br />
nhờ người nhắn anh Tư đến trại để dặn dò công<br />
việc. Anh Tư nhìn tôi ái ngại:<br />
— Thầy cứ nằm nghỉ vài bữa. Công việc để<br />
mặc tôi.<br />
Rồi rút trong túi ra một gói thuốc quinine b ộ t:<br />
— Thầy uống đi. Tôi sẽ nhờ ông xếp ga nhấn<br />
mua ở Vinh. Bệnh này chữa ngay không sao đâu,<br />
thầy.<br />
Tôi lấy một nửa rồi trao lại anh Tư. Anh Tư<br />
nhất định :<br />
— Thầy giữ lấy đi. Thầy cần hơn tôi mà. Rồi<br />
anh đi lấy nước bắt tôi uống ngay. Câm chén<br />
nước đưa lên miệng, bỗng dưng tôi nghĩ đến một<br />
người chưa từng gặp mặt. Lão Năm. Tôi nhìn anh<br />
Tư:<br />
— Anh Tư có biết ông già bán rượu cho cụ<br />
Lãnh không ?<br />
— Lão Năm. Biết chứ. Lão ở bên kia cầu.<br />
— Lão chắc người vùng này ...<br />
— Đâu có. Lão người vùng Quảng. Nhưng<br />
sống ở đây cũng lâu năm lắm. Nghe nói trước cả<br />
ngày Tây làm đường xe lửa. Thầy hỏi lão làm gì ?<br />
Tôi lảng chuyện :<br />
— A ... Nghe cụ Lãnh khen lão nấu rượu<br />
ngon nhất vùng. Tôi cũng định mua vài lít về biếu<br />
ông cụ.<br />
Anh Tư nhìn tôi, lặng thinh. Nhưng trước khi<br />
ra về, anh ngập ngừng :<br />
99
— ở đây đất dữ lắm. Thầy có nghe ai nói gì,<br />
thầy cũng đừng nên để ý. Thầy cứ nghỉ cho khỏe.<br />
Công việc ở sở thầy để mặc tôi. Thôi, xin phép<br />
thầy, tôi ra sở.<br />
Tôi nhìn theo hút anh Tư ra đến cổng, bỗng<br />
thấy bâng khuâng mà không hiểu tại sao bâng<br />
khuâng.<br />
*<br />
Cả ngày hôm đó tôi ở trong phòng. Gần trưa,<br />
bà Ba bưng vào cho tôi một tô cháo hành.<br />
— Ăn cho nó ra mồ hôi. Cố ăn đi thầy.<br />
Nhìn bà, tóc nhuốm bạc, hai bàn tay gân guốc,<br />
xạm nắng ngoài trời, tôi thấy thật khó mà liên<br />
tưởng đến tiếng hát đêm qua. Tôi gợi chuyện :<br />
— Cụ thức khuya quá.<br />
— Dạ.<br />
— Đêm qua ngủ đầy giấc rồi mà thấy cụ vẫn<br />
chưa đi nghỉ.<br />
— Ây chết, tôi làm thầy mất ngủ.<br />
— Không sao đâu, cụ. Đêm qua tôi ngủ sớm<br />
mà. Lúc tỉnh giấc, chắc cũng đến 1,2 giờ sáng ...<br />
— Dạ ...<br />
— Lúc cụ hát đó.<br />
Bà Ba nhìn tôi ngạc nhiên :<br />
— H á t... Đâu có ?<br />
— Cụ quên rồi. Cụ hát bài chi như bài hò<br />
đó. Tôi nằm trong này nghe rõ mồn một. Tôi còn<br />
nhớ mà. Chim xa cành đương còn thương cây<br />
100
nhớ cội...<br />
Bà cụ gật gù :<br />
— Người xa người khổ lắm ... Nhớ, tôi nhớ.<br />
Hồi trước, thỉnh thoảng vui miệng cũng có hát<br />
chơi. Nhưng đã lâu rồi, từ hồi đến đây với<br />
quan Lãnh, tôi đâu còn lúc nào rảnh mà hát với<br />
xướng ? Thầy xem, vườn tược, bếp núc, chợ búa,<br />
giặt giũ, rồi lại phải lo cho quan Lãnh tôi, trăm<br />
việc một tay, thì giờ đâu mà hát ?<br />
Tôi nghĩ bà cụ đã bắt đầu lẩm cẩm hay quên ...<br />
Hay là lúc đó buột miệng hát chơi nên không để<br />
ý ? Bởi ... nếu bà cụ không hát thì ai hát ? Ai ?<br />
Tôi vội nghĩ ngay sang chuyện khác.<br />
*<br />
Mặt trời ngả dần vê Tây. Tôi nằm im nghe<br />
tiếng guốc cụ Lãnh bước xuống thềm. Tiếng guốc<br />
xa dần cùng tiếng ho húng hắng. Qua cánh song,<br />
tôi nhìn thấy cánh áo nâu phấp phới gần cổng<br />
trại. Mái tóc bạc phơ phất trong gió chiều đã nổi<br />
lên từ bên kia đường rầy, bên kia con đường cụt,<br />
bên kia bãi cỏ gianh, từ miệt rừng Lào. Một lát<br />
sau, ông cụ lững thững đi vào, mất hút sau tấm<br />
liếp nứa. Ông cụ sẽ đi về phía sau trại, sẽ dừng lại<br />
trước tàu ngựa. Vó ngựa đạp xuống đất chắc sẽ<br />
gây những âm hưởng trong tiềm thức ông già.<br />
Tròng mát ông già sẽ xa vời hướng về ngày cũ<br />
chiến khu, tròng mắt dần dần thu hẹp dọi thẳng<br />
vào những ngày sắp tới, nắng quái hắt vào hai cỗ<br />
101
hậu sự đặt song song trên cặp mễ. Một cho tôi.<br />
Một cho mụ. Mụ Ba hè, tôi sẽ đi trước mụ. Mụ ở<br />
lại một mình. Mụ yên chí. Gỗ vàng tâm tốt lắm.<br />
Thiên niên vạn đại.<br />
*<br />
Tôi giơ tay với cuốn sổ lương thợ, giở một vài<br />
trang, tính nhẩm. Một lát sau, trước mắt tôi bỗng<br />
lóe lên những ngôi sao vàng đó. Những đưởng kẻ<br />
song song trên trang giấy đột nhiên xê đi dịch lại.<br />
Tôi vụt nghĩ đến một chuyến xe lửa tốc hành trật<br />
đường rầy giữa đêm khuya. Những con số đua<br />
nhau nhảy múa là những hành khách nhốn nháo<br />
trong đêm đen dầy dặc miền rừng. Tôi định thần<br />
đặt cuốn sổ lương sang bên cạnh. Yên lặng trở lại<br />
gian phòng. Ngoài trời gió lộng. Có tiếng lá khô<br />
rơi, tiếng bầy sẻ lìa cành bay vút lên cao. Nắng<br />
xiên cánh song. Nắng chiều vàng vọt sao mà<br />
buồn.<br />
Tôi đột nhiên phát giác trong tôi một tâm<br />
trạng kỳ lạ, tâm trạng một người đợi một người.<br />
Tôi bỗng nhớ lại đại ý một bài Đường thi ông cụ<br />
thân sinh thường ngâm những khi uống rượu. Bài<br />
thơ nói về mưa rơi, nửa khuya một người đợi một<br />
người đến chơi cờ. Tiếng giọt mưa ngoài hiên rơi<br />
đều xuống sân cỏ cây hòe mọc lẫn với tiếng người<br />
dập nhẹ quân cờ xuống bàn cờ. Cảnh đạm bạc,<br />
tình bằng tha thiết mà rất đàn ông. Không biết có<br />
chút tình bằng nào trong tâm trạng của tôi lúc<br />
102
ấy giờ ? Tôi vùng dậy, tiếng giép bà Ba cũng vừa<br />
tiến gần cửa phòng :<br />
— Thầy ra sơi rượu.<br />
Tôi ngần ngừ:<br />
— Mời hai cụ cứ dùng trước.<br />
Tôi nghe thấy tiếng guốc cụ Lãnh bước lên<br />
thềm. Rồi giọng cụ Lãnh cất lên :<br />
— Sao, thầy Vũ đâu ?<br />
— Thầy sắp ra. Quan Lãnh cứ dùng trước đi.<br />
Người tôi tỉnh táo như thường nhưng không<br />
hiểu sao tôi không muốn rời gian phòng. Tôi ra<br />
phía cửa sổ, nâng cánh liếp ; Màu nắng lẫn với<br />
màu hoàng hôn nhợt sắc. Sương chiều dâng lên<br />
mờ cổng trại. Tôi cố nhớ lại nguyên văn bài<br />
Đường thi chờ bạn. Càng cố gắng, chữ nghĩa càng<br />
xa vời. Tôi ngồi trước bàn nhồi một tẩu thuốc. Cụ<br />
Lãnh nói vọng vào :<br />
— Thầy Vũ. Mời thầy.<br />
Tôi thấy ngại ăn ngại uống. Tôi muốn giữ<br />
nguyên vẹn cái cảm giác đang hiện hữu trong tôi.<br />
Hơi đói mà không ăn. Thích nhấp một chút rượu<br />
mà không uống. Như muốn đợi một món ăn đặc<br />
biệt, một tợp rượu ngon hơn. Cảm giác lâng lâng,<br />
nhẹ bỗng lẩn vào một chút thiếu thốn, tự nó gây<br />
một đòi hỏi, tự nó biến thành một tâm trạng, cái<br />
tâm trạng mở rộng, sẵn sàng, đón chờ. Tôi nói<br />
vọng ra :<br />
— Dạ, mời cụ, cụ cứ dùng bữa đi.<br />
— Thế thầy không ăn à ?<br />
103
— Dạ không.<br />
— Thầy lại bắt chước thằng Tây rồi. Om mà<br />
nhịn cơm là khốn đấy.<br />
— Dạ, thật tình không thấy đói.<br />
Chiều hôm đó, cụ Lãnh uống rượu một mình.<br />
Tôi một mình ngồi trước cửa sổ, hút hết tẩu này<br />
lại nhồi tẩu khác, lắng nghe tiếng động trong nhà<br />
lắng dần. Tiếng guốc cụ Lãnh vào phòng. Bà Ba<br />
chắc cũng đã dọn xong bếp núc, chắc cũng đã đi<br />
ngủ. Bà Ba im hơi lắng tiếng. Tôi đặt chiếc tẩu<br />
xuống bàn rồi men lại giường.<br />
Đêm đó sương mù, che dịu ánh trăng. Tối đầu<br />
thu lành lạnh. Tôi đắp tấm chăn ngang ngực, nằm<br />
thẳng. Và tôi biết cái tâm trạng bồn chồn chờ đợi<br />
trong tôi từ chiều vẫn dõi về một hướng. Tôi chờ<br />
một mùi hương. Tôi đợi một giọng hò, và một<br />
bàn tay nhỏ đặt lên trán.<br />
Nhưng đêm đó, yên lặng lạ thường. Trong nhà.<br />
Ngoài trời. Đêm đó “Mệ” không lại. Tôi thiếp đi<br />
lúc nào không biết, tỉnh giấc trời đã sáng rõ mặt<br />
người. Thấy người khỏe khoắn như thường, tôi<br />
mặc quần áo tính chuyện ra sở. Nhưng cả anh Tư<br />
vừa mới đến và bà Ba đều nhất định giữ tôi ở lại<br />
nhà.<br />
— Thầy nghỉ nốt hôm nay đi. Tôi đã nấu bát<br />
cháo hành thầy ăn rồi đi nằm cho nó lại người.<br />
— Sức khỏe là trọng, thầy ơi. Công việc ở sở<br />
thầy cứ mặc tôi thu xếp.<br />
*<br />
104
Cả ngày hôm đó tôi ở nhà, hết ra lại vô. Tôi<br />
xuống tàu ngựa cho ngựa ăn. Tôi ra cổng trại. Tôi<br />
vào bếp tán gẫu với bà Ba. Và chăm chú nghe bà<br />
nói về món đậu phụ nấu giả ba ba.<br />
— Dễ lắm, thầy ơi. Đậu phụ phải rán qua đi.<br />
Rồi chuối xanh xắt nhỏ, thịt lợn ba chỉ...<br />
— Có cần mẻ không cụ ?<br />
— Có chứ. Một chút thôi. Cân nhất là rau<br />
tía tô.<br />
— Chà, lôi thôi dữ.<br />
— Nhưng được việc lắm. Vừa uống rượu được<br />
lại vừa ăn cơm được. Thầy có thích món đó<br />
không ?<br />
— Thích chứ. Mẹ tôi cũng hay nấu món đó.<br />
— Bà cụ năm nay bao nhiêu tuổi rồi ?<br />
— Dạ, cũng ngang ngửa tuổi cụ. Nhưng đâu<br />
có mạnh bằng cụ ?<br />
— Ớ đây một mình, không mạnh cũng phải<br />
mạnh thầy ơi.<br />
Tôi đứng dậy bước lên thềm. Cụ Lãnh đang<br />
pha trà. Tôi có mang theo một cái phin pha cà<br />
phê. Cà phê mua ở tiệm chạp phô trước cửa ga<br />
La Khê. Tôi pha một ly rồi ngồi xuống cạnh cụ<br />
Lãnh. Lúc bấy giờ nước trong chiếc ấm đồng<br />
đang réo sôi trên chiếc hỏa lò. Cụ Lãnh đổ nước<br />
sôi vào chén tráng sạch. Rồi cụ mở bao trà bằng<br />
thiếc lấy ra một dúm bỏ vào cái ấm đất màu gan<br />
gà.<br />
— Cái ấm này là ấm song ẩm. Không có thầy<br />
105
thì tôi thường dùng chiếc độc ẩm. Vừa nói, cụ vừa<br />
rót nước sôi vào ấm rồi lại đổ đi ngay. Thấy tôi<br />
ngạc nhiên, cụ Lãnh vừa cười vừa giải thích :<br />
— Như vậy nó mới sạch hết bụi bặm. Thế gọi<br />
là làm lông trà đó. Sau uống mới yên chí.<br />
Cụ từ từ chế nước vào ấm. Một lát sau, trà<br />
ngấm, cụ mới rót tất cả ra chiếc tống rồi lại san ra<br />
hai chiếc chén quân nhỏ. Cụ đưa cho tôi một<br />
chén rồi nâng chén của mình lên ngang mũi.<br />
— Chén thứ nhất uống lấy hương. Thầy dùng<br />
đi. Cà phê được cái tỉnh ngủ nhưng uống ráo lắm<br />
mà uống xong lại hay chua miệng. Trà uống<br />
không ráo, cũng tỉnh ngủ mà cái vị nó khác hẳn.<br />
Nó ngọt cổ họng.<br />
Tôi vừa uống cạn ly cà phê. c ổ họng quả thấy<br />
vị chua còn rớt lại. Tôi nâng chén trà đưa ngang<br />
mũi. Hương trà thơm ngát. Tôi nhấp một ngụm.<br />
Nước trà vị chát nhưng chỉ sau một lát cổ họng đã<br />
thấy ngọt ngào mát dợi.<br />
— Trà thơm và ngon thật.<br />
— Trà Thiết Quan Âm đó thầy.<br />
Thật ra tôi cũng không hiểu thứ trà đó ra sao.<br />
Chắc là trà quý. Tôi tấm tắc khen mãi nhưng từ<br />
chối chén thứ nhì, nhồi một tẩu thuốc rồi vào<br />
phòng. Lúc bấy giờ mới có 10 giờ sáng. Tôi mang<br />
cuốn sổ lương ra ngồi tính toán, chăm chú dò<br />
từng con số. Tôi lấy giấy viết mấy bức thư. Nhìn<br />
đồng hồ vẫn chưa tới 12 giờ trưa. Buổi trưa tôi<br />
húp vội một bát cháo rồi lại vào phòng. Tôi nằm<br />
106
duỗi thẳng chân tay, lắng nghe lũ sẻ hót nhảm<br />
dưới mái hiên. Và biết rằng từ sáng tôi đã chỉ tìm<br />
đủ mọi cách để quên đi cái bút rứt trong người.<br />
Tôi muốn buổi sáng qua đi. Rất nhanh. Mặt trời<br />
lặn sớm. Sương lên, chiều xuống. Tôi muốn đêm<br />
về. Tôi không dám nghĩ sâu vào cái tâm trạng bất<br />
thường đó mà thực tình tôi đã thừa biết nguyên<br />
nhân. Tôi không dám tự thú với tôi răng mặc dù<br />
dờn dợn, tôi vẫn không kìm nổi trong tôi man<br />
mác một nỗi nhớ thương kỳ dị. Nhớ thương — tại<br />
sao lại thương ? — hầu như không đối tượng rõ<br />
ràng mà bao trùm những âm vang ngân lại những<br />
bóng chưa mờ của một thời đã cáo chung. Một<br />
chút cổ kính lối xưa ngõ cũ nơi thành nôi, một<br />
tứ thơ Đường — tiếng quân cờ dập nhẹ trên bàn<br />
cờ — một thoáng Liêu-trai-chí-dị, giàn dưa lất<br />
phất mưa như tơ. Một mùi hương úa. Một giọng<br />
hò xưa. Một bàn tay nhỏ.<br />
Chiều xuống. Sương mù. Tàn bữa rượu. Đêm<br />
về.<br />
“Mệ” vẫn không lại.<br />
Cho đến cuối tuần, vẫn vậy. vẫn một tâm<br />
trạng bồn chồn bứt rứt, tuy tôi đã trỏ lại cuộc<br />
sống bình thường. Ngày ngày đến sở, một người<br />
một ngựa trên con đường cụt. Tôi cố gắng vùi đâu<br />
vào công việc, ghi ghi chép chép tính toán sổ<br />
lương, cộng cộng trừ trừ, chạy đi chạy lại. Nhung<br />
107
tôi thấy mọi người có ý tránh né, sự vồn vã trở<br />
nên gượng gạo, cặp mắt anh Tư nhìn tôi thỉnh<br />
thoảng như có thoáng một chút ái ngại. Tôi lầm lì<br />
lủi thủi một mình và đôi lúc giật mình bát gặp<br />
chính mình thẩn thờ trước cửa quán phở, nhìn<br />
sang bức tường lở căn ga xép. Tôi năng xem đồng<br />
hồ hơn trước và rời sở sớm hơn thường lệ, vó<br />
ngựa trên đường về hình như có gấp hơn lúc sáng<br />
lên đường. Mặt trời khuất sau dãy cây rừng,<br />
sương lên ngập lối cỏ, chai rượu bữa chiều đối<br />
diện cụ Lãnh như có vơi nhanh mà bữa rượu sớm<br />
tàn. Tôi vào phòng, mở rộng cánh liếp. Gió đầu<br />
thu nổi lên từng đợt, trăng thon giáng hạ tuần<br />
chênh vênh cổng trại mờ sương khói, tôi nằm dài<br />
trên giường. Và trong tôi, cuộc sống thực sự bắt<br />
đầu. Tâm thần căng thẳng. Khứu giác chờ một<br />
mùi hương. Thính giác đón một tiếng hát. Xúc<br />
giác sẵn sàng đón nhận một bàn tay nhỏ. Tất cả<br />
giác quan mở rộng, vươn ra ngoài, vượt khỏi cả<br />
cái hoang vắng căn nhà ba gian hai chái, vượt<br />
khỏi bãi cỏ gianh, con đường cụt, căn ga xép, mấp<br />
mé một cõi nào đó không tên. Nhưng bốn bề im<br />
lặng, giọng hát đó bặt tăm, mùi hương đó không<br />
còn. Và bàn tay đó như đã vẫy chào vĩnh biệt. Từ<br />
ngav đêm đó.<br />
*<br />
— Trông thầy xanh mà gầy đi. Thầy nên cẩn<br />
thận. Đừng nên tham công tham việc quá.<br />
108
Tôi cũng nhận thấy như vậy. Nhưng tôi cho là<br />
vì thiếu ngủ. Đêm nào sớm lắm cũng phải quá<br />
tiếng gà gáy nửa khuya tôi mới chợp mắt đi được<br />
một giấc. Có đêm trong mát đến mãi lúc đàn vạc<br />
đi kiếm ăn bay trở về rừng. Tôi quyết định phải<br />
làm một cái gì. Kể rõ đầu đuôi câu chuyện với<br />
cụ Lãnh, với bà Ba, với anh Tư ? Nhưng ...<br />
chuyện gì ? Hay đến gặp ông xếp ga Xóm Cục ?<br />
Không được. Tôi không quen ông. Tôi gặp ông<br />
mới chỉ một lần. Còn một người. Tôi nghĩ cần<br />
phải gặp, một người tôi tuy chưa biết mặt nhưng<br />
tôi linh cảm rằng cần phải gặp, mặc dầu không<br />
biết gặp để làm gì. Một ông già. Lão Năm. Tôi<br />
còn nhớ ngày khi nghe cụ Lãnh nói đến lão già<br />
bán rượu, không hiểu sao tôi lại có cảm tưởng<br />
chính lão là người biết rõ ngọn ngành câu chuyện,<br />
tôi đã có ý định đi tìm gặp lão.<br />
— Lão cũng ngang ngửa tuổi tôi. Hồi Ngài<br />
ngự ra đây, lão đã ở đấy rồi.<br />
Cảm tưởng trên càng ngày càng thêm vững<br />
chắc, nhưng ý định tìm gặp lão Năm do vậy, lại<br />
càng lúc càng trở nên dụt dè. Tôi nghĩ đến tâm<br />
trạng một con bệnh nặng nửa muốn đi tìm bác sĩ,<br />
nửa lại chần chừ ngần ngại, như muốn che dấu<br />
căn bệnh của mình với mình. Tôi chợt nhận thấy<br />
trong tôi đang thành hình một thay đổi lạ lùng.<br />
Tôi không còn là người ngoại cuộc như những<br />
ngày đầu thắc mắc về một con đường cụt. Tôi<br />
đang trở thành một nhân vật của một câu chuyện,<br />
109
quay cuồng quanh một bóng hình còn rớt lại của<br />
một thiếu phụ đã từ lâu ... thôi sống. Sự hiện diện<br />
của tôi trong câu chuyện có giá trị một chất xúc<br />
tác. Câu chuyện đang ngưng trệ giữa vài ba nhân<br />
vật sẩn sàng bỏ cuộc, đột nhiên có vẻ muốn<br />
hướng tới hồi kết thúc. Tôi nghĩ rằng bước đầu<br />
kết thúc phải là một cuộc gặp tay đôi. Giữa một<br />
nhân vật mới nhập cuộc và một chứng nhân. Giữa<br />
tôi và ông già bán rượu. Lão Nãm. Và ngay cuối<br />
tuần đó, nhằm ngày chủ nhật, khoảng 2 giờ chiều,<br />
tôi khoác chiếc áo đi mưa — hôm đó lác đác<br />
có mưa ngâu trong gió — đi bộ sang phía nhà ga<br />
La Khê.<br />
Lúc qua cầu, tôi dừng lại trước tấm biển ghi rõ<br />
chữ Nguy Hiểm. Chỗ đó gỗ lát cầu đã mục, và<br />
qua vài lỗ hổng tôi nhìn thấy thăm thẳm mặt sông<br />
rêu phía dưới, dòng sông chảy xiết xoáy chân cầu.<br />
Tôi bám chặt thành cầu, men qua chỗ cầu hư. Đi<br />
một lát, tới ngã ba, chỗ con đường cụt bắt đầu và<br />
con đường cái vô Nam men sông mất hút vào<br />
rừng, tôi đi thẳng tới trước cửa ga. Ga La Khê là<br />
một ga lớn những chuyến xe tốc hành đêu dừng<br />
lại nên trông có vẻ sầm uất. Trước cửa ga có vài<br />
ba tiệm buôn bán lặt vặt. Nổi bật là tiệm tạp hóa<br />
Quảng ích, ngoài cửa treo một tấm bìa cứng để<br />
mấy hàng chữ quốc ngữ : buôn sỉ bán lẻ, đại lý<br />
Tham Thiên Đường. Tôi bước vào cửa tiệm mua<br />
hai gói trà Thiết Quan Âm. Chủ nhân, người Tàu<br />
lai, niềm n ở :<br />
110
— Nghe thầy mệt, phải không ?<br />
— Sao chú biết ?<br />
— Ồ, biết chứ. Ớ đây ai cũng biết thầy mà.<br />
— Cảm ơn chú, tôi khỏe rồi.<br />
Chú ích — tất cả mọi người trong vùng đều<br />
gọi chủ nhân là chú ích — hạ thấp giọng :<br />
— Ớ đây không có tốt. Ớ đây nước độc lắm.<br />
Thế thầy dùng thuốc gì ? Thuốc Tây không có tốt.<br />
Uống nó háo lắm. Dùng thuốc Bắc nó mát. Mát<br />
thận, mát phổi, mát tì, mát vị. Tôi có thuốc<br />
chuyên trị sốt rét rừng hiệu Tham Thiên Đường<br />
chính cống. Dùng thuốc đó đi. Mua không ?<br />
Tôi vội:<br />
— Cảm ơn, tôi khỏe rồi mà.<br />
— Ồ, khỏe rồi, tốt 1ăm. Thế thì uống thuốc<br />
b ổ ...<br />
Tôi cắt ngang :<br />
— Tôi muốn hỏi thăm chú. Chú có biết nhà<br />
ông già bán rượu là lão Năm không ?<br />
— Biết chứ. Lão Năm, biết chứ. Thầy hỏi lão<br />
làm gì ? Muốn mua rượu hả ? Tôi có rượu. Tốt<br />
lắm. Rượu thuốc...<br />
— Cụ Lãnh nhờ tôi nhắn lão chút việc ...<br />
— Cụ Lãnh hả ? Ồ, cụ Lãnh.<br />
Và im bặt. Hình như chú ích có ngán cụ Lãnh<br />
nên vừa nói đến tên cụ là chú im bặt.<br />
— Thế nhà lão Năm ở đâu chú ?<br />
Chú ích đang đếm tiền. Chú giơ tay xin lỗi. Và<br />
sau khi thối lại tiền cho tôi xong xuôi, chú mới<br />
111
nhìn tôi, mở miệng :<br />
— Nhà lão Năm hả ? Lão ở trong xóm Rú đó.<br />
— Xóm Rú ở đâu ?<br />
— Xóm Rú hả ? Ớ đây ra, thầy ngoẹo tay<br />
mặt, đi vài bước rồi ngoẹo nữa. Cũng tay mặt.<br />
Rồi cứ theo con đường đó mà đi tới. Đi mãi thì<br />
tới xóm Rú. Nhà lão dễ nhận ra lắm. Ớ ngay đầu<br />
xóm đó.<br />
— Có xa không chú ?<br />
— Đâu có xa. Hút xong điếu thuốc là tới à ...,<br />
thầy có mua thuốc lá không ? Ớ đây ...<br />
Tôi vội chào chú ích, cầm gói trà bước ra cửa<br />
tiệm. Con đường rẽ vô xóm Rú hoàn toàn vắng<br />
vẻ, chỗ rộng chỗ hẹp. Rộng vừa đủ cho hai chiếc<br />
xe kéo tránh nhau. Hẹp vừa vặn một người đi.<br />
Hai bên cỏ gianh san sát. Đi một quãng, nhìn ra<br />
chung quanh vẫn không thấy gì. Tôi ngần ngại<br />
muốn quay trở về. Nhưng một lát sau, con đường<br />
lượn sang bên mặt và xa xa khoảng vài trăm<br />
thước, tôi thấy mấy làn khói xanh bốc thảng lên<br />
trời. Và tôi biết đã tới xóm Rú.<br />
Nhà lão Năm là một túp lều, cánh liếp đóng<br />
kín. Bước qua sân, nghe tiếng chó sủa, tôi lên<br />
tiếng gọi. Một lát sau có tiếng vọng lên từ trong<br />
Têu :<br />
— Ai đó?<br />
— Tôi. Dạ đây có phải là nhà ... cụ Năm<br />
không ạ ?<br />
— Lão đây. Lão Năm đây.<br />
112
— Cánh liếp dựng lên. Một ông già thò đầu ra<br />
ngoài:<br />
— Thầy Vũ đó phải không ? Vào đây. Vào<br />
đây. Mời thầy.<br />
Tôi cúi đầu bước qua ngưỡng cửa. Lều nhỏ,<br />
sàn đất, có hai gian. Gian ngoài kê một chiếc<br />
chõng tre. Gian trong chắc là bếp. Ánh sáng<br />
chiều vào thu hắt vào mấy bức tường đất, căn lều<br />
càng thêm trống trải.<br />
Lão Năm trạc tuổi cụ Lãnh, người gầy gò nhỏ<br />
bé nhưng dáng dấp vẫn còn nhanh nhẹn. Đôi lông<br />
mày lão bạc phơ rủ xuống gần mắt, đầu cạo trọc,<br />
da đầu đỏ như quả bồ quân. Lão ngồi xuống<br />
chõng:<br />
— Thầy ngồi tạm xuống đây. Lão có một<br />
mình, nhà cửa luộm thuộm, thầy tha lỗi cho nhá.<br />
Tôi ngồi ghé xuống chõng :<br />
— Cụ biết tên tôi hả ?<br />
Lão Năm cười ha hả :<br />
— Thầy thì cả vùng này biết rồi. Thầy ở trọ<br />
bên trại cụ Lãnh phải không ? Thầy cần gì nào ?<br />
— Muốn mua cụ ít rượu. Có thế thôi.<br />
— Thầy uống hả ?<br />
— Tôi ít uống lắm. Tôi mua để biếu cụ Lãnh.<br />
— Ờ ... Cụ Lãnh chắc cũng gần hết rồi đó.<br />
Thế nào mai mốt bà Ba cũng sang lấy.<br />
— Vâng, chắc thế.<br />
Lão Năm đứng dậy đi vào trong bếp, vừa đi<br />
vừa h ỏ i:<br />
113
— Thầy lấy bao nhiêu ?<br />
— Cụ cho hai lít đi. Nhiều sợ cầm không nổi.<br />
— Thầy không có chai hả ? Lão cho thầy<br />
mượn chai vậy. Lân sau nhớ mang sang trả lão<br />
nhá. Hay ... thầy gửi bà Ba cho lão. Lão ở một<br />
mình, năm thì mười họa mới ra khỏi nhà.<br />
Tôi bắt ngay vào chuyện :<br />
— Cụ ở đây chắc lâu rồi ?<br />
— Lau.<br />
— Bao lâu ?<br />
— Lão cũng quên khuấy đi mất. Nhưng nhất<br />
định là lâu rồi. Dễ trước cả cụ Lãnh cũng nên.<br />
Trước ngày Tây làm đường xe lửa mà.<br />
Lão Năm đã rót đầy hai lít rượu. Lão lấy dây<br />
buộc hai cổ chai làm một. Lão thử nâng lên đặt<br />
xuống rồi nhìn tôi.<br />
— Chắc lắm, thầy ôi.<br />
Tôi nhìn quanh :<br />
— Cụ ở đây một mình cũng buồn nhỉ.<br />
— Ớ lâu ngày cũng quen. Bà lão nhà tôi mất<br />
đã lâu. Con cháu thì mỗi đứa một phương. Còn<br />
một mình lão.<br />
Tôi không biết gợi chuyện ra sao, đành nhắc<br />
lạ i:<br />
— Thế ra cụ ở đây trước cả ngày Tây làm<br />
đường xe lửa. Lâu quá nhỉ.<br />
Lão Năm, gọn thon lỏn :<br />
— Đó.<br />
Tôi chợt nhớ lại câu chuyện cụ Lãnh. V ội:<br />
114
— Thế hồi Ngài ngự ra đây.<br />
Mắt ông già sáng lên :<br />
— Có chứ. Có chứ. Chính mắt lão nhìn thấy<br />
Ngài mà. Nhìn trộm, thầy ôi. Bàn dân thiên hạ là<br />
quỳ hết hai bên đường. Lão nhìn thấy cả Mệ nữa.<br />
Tiếng “Mệ” làm tôi muốn ngưng thở. Tôi<br />
không cần biết Ngài là ai, Thành Thái hay Khải<br />
Định — nhưng Mệ ... Tôi cố lấy giọng tự nhiên,<br />
rất tự nhiên :<br />
—- Cụ thấy Mệ hả ?<br />
— Thì tôi nói dối thầy làm gì ? Mệ đội khăn<br />
vành dây m àu...<br />
Tôi buột miệng :<br />
— Màu vàng.<br />
Ông già nhìn tôi, ngạc nhiên :<br />
— Thầy cũng thấy hả ?<br />
Tôi vội chống ch ế:<br />
— Không ... tôi đoán vậy. Mệ mà. Mệ thì phải<br />
màu vàng chứ.<br />
Ông già lại tiếp tục như không để ý đến lời giải<br />
thích :<br />
— Mệ mặc áo màu xanh n h ạ t... gọi là màu gì<br />
nhỉ?<br />
— Màu hồ thủy.<br />
— Đúng rồi. Màu hồ thủy. Thế thì đúng là<br />
thầy cũng nhìn thấy rồi.<br />
C hợt:<br />
— Mà thầy nhìn thấy làm sao được ? Hỏi vô<br />
phép thầy. Thế thầy bao nhiêu tuổi.<br />
115
— Hai mươi lăm.<br />
Ông già phá lên cười:<br />
— Thế thì ngày đó thầy chưa ra đời. Tôi nửa<br />
đùa nửa th ậ t:<br />
— Ấy thế mà tôi biết đấy. Có phải mắt Mệ<br />
đen lay láy. Mệ đi một chiếc xe ô tô kiểu cổ, có<br />
người tài xế ...<br />
Ông già reo lên :<br />
— Đúng rồi. Đúng rồi. Nhưng sao thầy biết rõ<br />
vậy ?<br />
Ông già ngưng lại như suy nghĩ. C hợt:<br />
— Đúng rồi. Đúng là cụ Lãnh nói rồi.<br />
Thế này ... thì ... rắc rối thật.<br />
— Sao lại rắc rối ?<br />
— À ... Chuyện đó ... nói ra, rắc rối lắm.<br />
Tôi v ộ i:<br />
— Cụ cứ kể cho tôi nghe đi. Thật tình thì cụ<br />
Lãnh cũng có nói nhưng nói sơ sơ ...<br />
Ông £ià cắt ngang :<br />
— Ớ bên đó nói rõ làm sao được ? Ớ bên này<br />
thì không sao.<br />
Tôi ngạc nhiên :<br />
— Sao vậy cụ ?<br />
— Thì bên đó là đường cụt mà. Thày xem, có<br />
ai dám ở đâu ? Trừ ông cụ Lãnh.<br />
Tôi tiếp ngay :<br />
— Còn ông xếp ga ?<br />
— Thì đó.<br />
Tôi nghĩ ngay đến ông xếp ga Xóm Cục đang<br />
116
un lẩy bẩy trong chiếc áo bành tô sờn cổ, một<br />
mình trong căn ga xép, đợi ngày về hưu. Tôi liên<br />
tưởng đến một ánh đèn signal mờ dần trong<br />
sương đêm. Tôi nhìn lão Năm :<br />
— Thế thì đầu đuôi ra sao, cụ cứ kể cho tôi<br />
nghe. Cụ ở bên này, sợ gì !<br />
— Thì có đầu đuôi gì đâu ? Tôi đang quỳ ở vệ<br />
đường. Ông cụ Lãnh thì quỳ ngay ở đầu cầu. Thế<br />
rồi nghe cái rầm. Như trời long đất lở. Người ta<br />
chạy như ong vỡ tổ. Người ta la đổ cầu. Tôi chồm<br />
ngay dậy. Khố xanh, khố đỏ, lính Tây, lính ta chạy<br />
loạn cào cào. Tôi thừa dịp theo chân người ta<br />
chạy ra ven sông, chỉ kịp thấy chiếc ô tô cuốn<br />
theo dòng, chìm lỉm. Ngài đứng lặng ở ngay sân<br />
ga- ~ _<br />
— Thế không có ai nhảy xuống cứu à ?<br />
— Nhảy làm sao được ? Nước sông quãng này<br />
chảy xiết lắm, thầy ôi. Thiệt là may, lúc Ngài đi<br />
với lão Khâm sứ thì không sao.<br />
Tôi đứng lặng người, .không biết phản ứng ra<br />
sao. Một lát sau, ấp úng :<br />
— Thế ra đổ cầu. Tôi nhớ cụ Lãnh cũng đã có<br />
lần nhắc tới.<br />
— Thì đổ cầu mà. Câu vừa làm xong là Ngài<br />
ra khánh thành ngay mà. Ngài cắt băng rồi lên ô<br />
tô đi sang bên kia rồi quay trở lại. Sau đó Mệ<br />
cũng đòi đi. Ngài cũng cho đi. Lão tài xế đưa Mệ<br />
đi một mình. Lão tài ăn mặc đàng hoàng lắm ...<br />
Tôi nói như người mất hồn :<br />
117
— Áo trắng ngù vai đỏ.<br />
Lão Năm gật gù :<br />
— Cụ Lãnh nhớ dai thật.<br />
Tôi không cải chính. Lão Năm lại tiếp :<br />
— Ngài có ra bờ sổng, đứng lặng đến một<br />
tiếng đồng hồ. Lão Khâm sứ xum xoe bên cạnh.<br />
R ồ i... rồ i... Ngài lên tàu đi vô lập tức.<br />
Yên lặng kéo dài trong túp lều. Bên ngoài<br />
chiều xuống đã từ lâu. Lão Năm ngồi bó gối trên<br />
chõng, tròng mắt xa thẳm. Một lát sau, giọng lão<br />
cất lên như nói một mình :<br />
— Mệ người đẹp như tố nữ trong tranh. Ngài<br />
thương Mệ. Mệ muốn gì Ngài cũng chiều, đi đâu<br />
cũng cho đi theo.<br />
Ông lão lại ngồi im. Một lát sau, lão đứng dậy,<br />
vào bếp rồi mang ra một chai rượu và hai cái bát<br />
sành. Lão rót rượu đầy hai bát rồi đưa cho tôi<br />
một b á t:<br />
— Không có gì mời thầy. Thầy “thời” tạm ít<br />
rượu. Rượu này lão cất riêng cho lão. Nào, mời<br />
thầy.<br />
Bát rượu được hai bàn tay gân guốc nâng lên<br />
và cạn một nửa. Tôi ngồi xuống chõng, bưng bát,<br />
nhấp nhấp một chút. Rượu vào miệng, tôi có cảm<br />
tưởng ngậm một mồi lửa. Lửa cháy tê lưỡi, trôi<br />
qua cổ họng, lan xuống dạ dày. Nhưng chỉ một lát<br />
sau, bỗng thấy dịu dần và một luồng hơi ấm áp<br />
bốc lên từ đan điền ra khắp cơ thể. Tôi không giữ<br />
được một tiếng khà khi đặt bát rượu xuống<br />
118
chõng. Lão Năm nhìn tôi, tủm tỉm :<br />
— Thế nào, thầy ?<br />
— Rượu nặng quá. Nhưng ngon lắm.<br />
Lão Năm không trả lời, nâng bát lên miệng.<br />
Và cạn. Một lát sau :<br />
— Rượu này cất xong, lão phải hạ thổ đúng<br />
một trăm ngày, uống nó thì đừng có nhắm nhót<br />
gì cả. Nó phí đi.<br />
Tôi sợ câu chuyện chuyển hướng. V ội:<br />
— Thế hồi Ngài ngự ra đây, cụ đã cất rượu<br />
chưa ?<br />
— Rồi. Cái nghề này cha truyền con nối mà.<br />
Nhưng hồi đó ít khách. Người ta còn thưa thớt.<br />
Nhất là sau cái vụ đổ cầu. Thầy thấy đó. Bên này<br />
còn khá, chứ bên kia ...<br />
— Thì bên kia đường cụt.<br />
— Nếu không xảy ra cái vụ đổ cầu thì đâu có<br />
cụt ?<br />
— À ... thì ra thế.<br />
— Ngài ra lệnh phải bỏ quãng đường đó. Làm<br />
đường khác. Thầy có thấy cái ngã ba không ?<br />
— Có. Có thấy.<br />
— Đó. Bởi thế mới thành ra đường cụt. Chả<br />
ai dám ở cả. Thầy xem, cả một con đường 10 cây<br />
số mà chỉ có ông cụ Lãnh với lão xếp ga. Ngay<br />
thằng cha bán phở trước cửa ga Xóm Cục cũng<br />
đâu dám ngủ ở đó. Tôi nói cái này thầy để bụng<br />
mà nghiệm nhá. Mệ thiêng lắm. Không ai ở bên<br />
đó được đâu. Gặp Mệ là sạt nghiệp. Mà vô phúc<br />
119
Mệ thương, đêm Mệ hiện v'ê, Mệ sờ trán cho vài<br />
lần là chỉ có đường chầu tổ thôi. Thầy cẩn thận<br />
đó.<br />
Tôi lạnh người, ngồi lặng trên chõng. Rồi cầm<br />
bát rượu, nhấp một ngụm. Rượu thấm, tinh thần<br />
như thêm vững chãi, tôi đặt bát rượu xuống<br />
chõng :<br />
— Thế đã ai bị chưa, cụ ? Tôi thấy cụ Lãnh<br />
vẫn như thường...<br />
Lão Năm nghển người lại phía tôi. Giọng thì<br />
thầm :<br />
— Cụ Lãnh ở đó đã lâu rồi. Trước cả ngày đổ<br />
cầu. Mà thật tình tôi cũng không rõ. Ông cụ kín<br />
tiếng lắm ... Còn th ì... tất cả ... Những ai đến làm<br />
xếp ga cái ga Xóm Cục đều bị cả. Ga La Khê thì<br />
không sao.<br />
Tôi lại nghĩ đến ông xếp ga Xóm Cục đang lên<br />
cơn sốt rét. Tôi n ó i:<br />
— Ông xếp ga Xóm Cục đang bị sốt rét. Mà<br />
cũng sắp về hưu.<br />
Lão Năm lắc đầu :<br />
— Rồi thầy xem.<br />
Lão lại với chai rượu. Tôi giơ tay từ chối. Lão<br />
rót đầy bát rượu rồi nâng b á t:<br />
— Thật ông lão cố nội có bảo lão cũng xin vái.<br />
Không dám bén mảng sang bên đó.<br />
Lão cạn khoảng nửa bát rượu. Rồi lại thì<br />
thầm :<br />
— Mà cả cụ Lãnh nữa. Biết đâu đấy. Có ai bị<br />
120
mà dám nói đâu ?<br />
Lão Năm có vẻ thấm rượu. Lão vênh mặt,<br />
nhìn tô i:<br />
— Lão nói có sách, mách có chứng. Lão đâu<br />
phải người hàm hồ.<br />
Lão ngần ngừ một lát, rồi :<br />
— Thôi, lão cũng liều nói rõ cho thầy nghe.<br />
Với lại, lão ở bên này có sang bên đó bao giờ đâu<br />
mà sợ ? Đầu đuôi như thế này ...<br />
Ông lão ngừng lại, cúi đầu, ngẫm nghĩ. Tôi<br />
nhìn chăm chăm vào ông lão. Một lát sau, ông lão<br />
ngửng đầu :<br />
— Đầu đuôi như thế này. Cách đây mười năm,<br />
có thằng ... Thằng ... chi... thằng ...<br />
Tôi biết có nói ông lão cũng nghe, cũng cứ<br />
phải nghĩ cho ra cái tên “thằng chi” đó. Lão bưng<br />
bát rượu lên. Bỗng đặt mạnh bát rượu xuống<br />
chõng :<br />
— Đúng rồi, Thằng Khởi. Thằng Khởi. Tên<br />
với tu ổ i! Khởi, đúng rồ i...<br />
Rồi lão lại nâng bát lên. Và cạn. Như tự<br />
thưởng cho cái trí nhớ của mình. Khà.<br />
— Nó hay đến đây giúp lão. Mà lão cũng<br />
thương nó lắm. Thật tình, lão chỉ có một mình mà<br />
nó thì không vợ không con, tứ cố vô thân, nên<br />
một già một trẻ, sớm hôm bầu bạn. Thế rồi, một<br />
hôm nó nhất định sang bên đó làm rừng, đốt củi<br />
làm than. Lão khuyên nó thế nào cũng không<br />
nghe. Cái lò của nó ở ngay quãng giữa trại cụ<br />
121
cụ Lãnh và ga Xóm Cục. Thằng cha tợn lắm, thầy<br />
ôi. Nó ngủ ngay bên đó. Ngay cạnh lò than. Bẵng<br />
đi mầy tuần, một sáng nó bò về đây, mặt mày hốc<br />
hác. Nó nói là cứ đêm xuống là Mệ về, Mệ đứng<br />
bên cạnh, Mệ đặt tay lên trán nó. Nó bảo bàn tay<br />
Mệ mềm nhũn mà lạnh dữ, lạnh hơn nước đá.<br />
Ông già rót đầy bát rượu. Lần nầy lão không<br />
mời tôi. Lão nâng ngang bát rượu lên, làm một<br />
tợp. Rồi tiếp :<br />
— Nó lại ở đây với lão, bỏ mặc lò than bên đó.<br />
Nó nói là yên rồi, đêm đêm Mệ không về nữa.<br />
Nhưng ... khổ một nỗi là cứ ra ngẩn vào ngơ, như<br />
bị bùa bị ngải. Rồi một hôm quá chén, nó cứ lẩm<br />
bẩm hát nhảm hát n h í...<br />
Tôi cắt ngang :<br />
— Hát gì hả cụ ?<br />
Lão Năm nhìn tô i:<br />
— Lão nhớ mà ... Bài chi ... tề ... Lại quên<br />
rồ i...<br />
T ô i:<br />
— Chim xa cành ...<br />
Lão Năm đập tay xuống mặt chõng :<br />
— Đúng rồi ... Chim xa cành, đương còn<br />
thương cây ... Đúng rồi. Thế ra cụ Lãnh biết cả<br />
cái chuyện này. Đúng rồi. Chim xa cành ...<br />
Thế rồi lão cất giọng hát tiếp. Bài hát lại vang<br />
lên trong túp íêu cỏ. Tôi lặng nhìn lão. Bài hát<br />
chấm dứt. Trong yên lặng mênh mang, ánh chiêu<br />
lay lắt, có tiếng chim hót lẻ ngoài vườn, có tiếng<br />
122
chó sủa bâng quơ xa tít. Rồi lão Năm kể tiếp,<br />
giọng đều đều :<br />
— Nửa đêm, nó bỏ đi. Lúc đó gà vừa gáy nửa<br />
khuya, lão nghe thấy cả tiếng nó mở cửa lều ...<br />
Lão Năm bó gối ngồi lặng yên bên chai rượu<br />
đã vơi một nửa. Tôi để yên lặng kéo dài. Câu<br />
chuyện đã đến hồi chung cuộc. Chỉ còn một câu<br />
hỏi cuối cùng và một câu trả lời dứt khoát. Câu<br />
hỏi và câu trả lời liên quan tới số phận thằng<br />
Khởi • Câu hỏi là một câu hỏi thông thường mà<br />
những người mê chuyện ly kỳ thường dừng lại<br />
trước những trang cuối để tự đặt cho mình, cố<br />
kéo dài cái hồi hộp dồn lại từ trang đầu cuốn<br />
truyện. Câu trả lời sẽ thanh toán những thắc mắc<br />
của tôi về số phận những người sống trên con<br />
đường cụt, những viên xếp ga vô danh từ trước và<br />
viên xếp ga bây giờ trong căn ga xép Xóm Cục, số<br />
phận của cụ Lãnh. Và ... của tôi.<br />
Tôi hỏi rụt rè :<br />
— Sau ... ra sao, cụ ?<br />
Đáp gọn :<br />
— Chết.<br />
Lão Năm giơ chai rượu lên ngang mặt, ngắm<br />
nghía. Lão tặc lưỡi, rót thêm một bát. Bát rượu<br />
lại được nâng lên. Lần này ngụm rượu như nhỏ<br />
hơn những lần trước, bát rượu đặt xuống chõng<br />
vơi khoảng một phần tư. Tôi cũng nhắp một<br />
ngụm nhỏ. Ánh chiều ngập ngừng nơi tấm liếp.<br />
Tôi nghe thấp thoáng như có lẫn giọng của ai<br />
123
khi lão Năm kể tiếp :<br />
— Chết cong queo. Ớ ngay cạnh lò than. Khổ<br />
lắm thầy ơi. Lão cho nó cái chiếu. Chôn ngay đó.<br />
Bây giờ cũng chẳng biết còn mồ mả gì không. Mà<br />
mồ mả làm gì ? Tứ cố vô thân. Nó tợn nhưng mà<br />
ngoan. Thường thì lão nói gì cũng nghe. Mà<br />
không hiểu sao lần đó, lão khuyên mãi nó cứ nhất<br />
định đòi sang tận bên đó để làm rừng.<br />
Bát rượu lại được nâng lên miệng. Hình như<br />
lão cố ý uống thêm một chút hướng về người bạn<br />
trẻ quá cố nên bát rượu chỉ còn khoảng một phần<br />
tư khi đặt xuống chõng. Bỗng nhiên tôi thấy trong<br />
tôi dâng lên dào dạt một niềm thương là lạ. Tôi<br />
nhìn ông lão, nhìn quanh túp lều cỏ, nhìn xuống<br />
chiếc chõng tre, chai rượu đã vơi và hai cái bát<br />
sành đặt cạnh. Tôi nghĩ đến cái duyên nợ đã ràng<br />
buộc hai người, một già một trẻ, cả hai đều tứ cố<br />
vô thân. Bỗng :<br />
— Mà lão cũng lạ. Mệ chỉ bắt đàn ông con<br />
trai. Còn đàn bà thì lại không sao. Lạ thiệt.<br />
Tôi không lạ, nhưng không muốn nói rõ ý nghĩ<br />
của tôi. Tôi nhìn ra ngoài. Trời nhá nhem, tranh<br />
tối tranh sáng, mây trời xám xịt. Mưa lác đác rơi<br />
xuống mấy luống rau thưa thớt. Tôi nghĩ câu<br />
chuyện như vầy là đã “kết liễu”. Là hết. Chấm<br />
dứt. Nhưng ... tôi vẫn thấy lẩn quẩn một cái gì<br />
vướng mắc trong tâm thần. Tôi đứng dậy, trả tiền<br />
rượu. Lão Năm vẫn ngồi bó gối trên chõng, tròng<br />
mắt như vượt khỏi bức tường đất, như vươn ra xa,<br />
124
mất hút trong mù khơi. Tôi nhìn lão, rồi :<br />
— Tôi trả tiền rượu cụ.<br />
vẫn im lặng. Tôi tiếp :<br />
— Cảm ơn cụ cho uống rượu. Rượu ngon<br />
quá.<br />
Tôi nhìn hai bát rượu. Bát của tôi còn già nửa.<br />
Bát của lão Năm gần cạn. Lão ngửng đầu lên rồi<br />
chợt:<br />
— Thầy ... còn trẻ. Thầy nên giữ gìn ...<br />
Tôi vừa định đi ra phía cửa thì ông già lại tiếp :<br />
— Thầy không nên ở đây. Về ngoài đó mà<br />
làm ăn thì hơn.<br />
Tôi không biết nói gì. Và cũng không biết làm<br />
gì để tỏ một chút cảm tình với ông ẸĨà. Bỗng nhìn<br />
thấy bọc trà tôi mua ở tiệm Quảng ích. Tôi mở ra<br />
lấy một gói rồi đặt cạnh chai rượu :<br />
— Biếu cụ ít trà.<br />
Ông lão nhìn gói trà rồi nhìn tôi, có vẻ cảm<br />
động. Lão đứng dậy đưa tôi ra cửa. Bỗng lão nắm<br />
lấy cánh tay tôi :<br />
— Thằng Khởi cũng trạc tuổi thầy.<br />
Rồi hạ thấp giọng :<br />
— Thầy có đi qua cầu nên cẩn thận. Nghe nói<br />
có chỗ hư đó.<br />
— Cảm ơn cụ, tôi biết.<br />
— Sau vụ đổ cầu, sở Lục lộ có làm lại.<br />
Nhưng ... không hiểu sao lại cứ hư đúng chỗ đó.<br />
— Chỗ nào, cụ ?<br />
— Chỗ đó đó. Ván dầy đến mấy cũng vẫn<br />
125
mục. Chỗ khác có sao đâu ? Thôi thầy về.<br />
Tôi nhìn đồng hồ. Chưa đến 6 giờ mà bóng<br />
chiều choạng vạng, con đường nhỏ đã lẩn vào<br />
màu xám ngoét cỏ gianh. Gió ngược chiều tạt<br />
mưa vào mặt, tôi kéo sụp mũ, nâng cổ áo tơi, dảo<br />
bước về phía ga. Phố ga nhà nhà đóng cửa im lìm.<br />
Nhà ga le lói ngọn đèn dầu. Tiệm Quảng ích<br />
cũng đã lên đèn, ánh đèn măng-xông kéo dài vệt<br />
sáng qua khe cửa. Tôi tiến nhanh về phía ngã ba.<br />
Mấy nhịp cầu sắt đen xì lừng lững trước mặt, mặt<br />
sông chỉ còn là một vệt sáng nhờ nhờ chạy dài<br />
mất hút trong sương. Tôi bước lên cầu. Gió từ<br />
phía rừng lùa lại từng đợt, mưa hắt ngang vào<br />
mặt, một tay xách hai chai rượu, một tay giữ chặt<br />
mũ, gói trà đút kín trong áo, tôi dò từng bước<br />
trên mặt ván cầu bóng loáng nước mưa. Thốt<br />
nhiên, tôi dừng lại thoáng nhớ đến lời dặn của<br />
lão Năm :<br />
— Chỗ đó đó. Ván dầy đến mấy cũng vẫn<br />
mục.<br />
“Chỗ đó” đây rồi. Ngay trước mặt tôi. vẫn<br />
mấy tấm ván mục. vẫn mấy lỗ hổng, vẫn tấm<br />
biển ghi hai chữ Nguy Hiểm. Nhưng từ xế trưa<br />
đến giờ ... hình như có cái gì thay đổi. “Chỗ đó”<br />
như mờ như ảo. Tấm biển xiêu vẹo lung lay. Rêu<br />
xanh lẩn trên ván mục. Khói trắng bốc qua lỗ<br />
hổng. Sương mù từng lớp lãng đãng bay qua. Tôi<br />
bước vội qua lỗ hổng. Một luồng gió thổi thốc lên<br />
từ mặt sông. Tôi nắm chặt thành cầu. Gió thổi<br />
126
lộng bốn hướng, cuộn tròn thành cơn lốc. Gió rít<br />
bên tai, tôi nghe như có tiếng thác đổ, cây rung,<br />
tiếng rú, tiếng kêu, tiếng than, tiếng hét. Đột<br />
nhiên, gió ngưng thổi. Và tôi bước hẫng vào một<br />
vùng yên lặng mênh mang. Tôi biết tôi vẫn đứng<br />
nguyên “chỗ đó”, nhưng tôi lại thấy tôi như mất<br />
hẵn trọng tâm, toàn thân bị hụt xuống một vực<br />
sâu không đáy. Tôi nhìn xuống tay. Tay trái vẫn<br />
xách rượu, tay phải nắm chặt thành cầu. Vừa lúc<br />
đó hơi lạnh thành cầu thấm vào lòng bàn tay, lan<br />
ra đến cánh tay. Và khi hơi lạnh lên đến bả vai<br />
thì kinh hoàng bắt đầu xâm nhập vào tôi, qua<br />
từng kẽ hở tế bào, bao trùm toàn thể tâm thần.<br />
Tôi thấy cánh tay tê liệt, hút chặt vào thành cầu.<br />
Hình như tôi cố cưỡng lại. Hình như vậy. Nhưng<br />
đồng thời tôi thấy rằng có cưỡng lại cũng là vô<br />
ích. Rằng gì cũng vô ích ; vô ích tất cả. Tôi nhìn<br />
lên trời. Sương mù bạc phếch. Tôi nhìn xuống<br />
dưới. Qua lớp khói trắng, nước sông xanh đậm<br />
màu lá rừng chảy xiết chân cầu. Đột nhiên nỗi<br />
kinh hoàng biến thái trở thành một tâm trạng<br />
buông xuôi và tiếp theo đó là một niềm thanh<br />
thản khác thường. Tôi nghĩ rằng dòng nước dưới<br />
kia êm như bông, sóng vỗ nhẹ như ru lòng sông<br />
an tĩnh. Về đó chắc là thôi băn khoăn khắc khoải,<br />
chắc là hết phiền muộn nhớ thương. Vật vờ đầu<br />
ngọn cỏ gianh, nhớ thương giải rộng mênh mang.<br />
Vươn lên cao, nhớ thương ngất trời như khói như<br />
sương. Dưới kia sâu kín, “chỗ đó đó”, nhớ thương<br />
127
lắng xuống lòng sông an tĩnh, chim xa cành chắc<br />
phải nguôi niềm thương nhớ cây rừng. Người đã<br />
về đó sao còn quyến luyến cuộc đời ?<br />
Một đợt gió tạt mưa vào mặt. Tôi bàng hoàng<br />
tỉnh cơn mơ hoảng, thấy mình tay vẫn nắm chặt<br />
thành cầu, đầu cúi xuống nhìn dòng nước. Tôi<br />
chớp mắt nhìn quanh. Chiếc cầu hun hút chạy<br />
dài, không một người qua lại. Tôi dảo bước vê<br />
trại.<br />
*<br />
Đêm hôm đó, tôi ngủ yên giấc, từ đêm đến<br />
sáng. Khi mở mắt, nắng hắt ngang song, gió heo<br />
may thổi lộng ngoài vườn xào xạc lá cây. Tôi vươn<br />
vai ngồi dậy, tâm thần thanh thản. Giọt cà phê rơi<br />
nhẹ xuống ly, mùi cà phê thom lừng gian phòng,<br />
hút xong tẩu thuốc tôi mặc quần áo, dắt ngựa ra<br />
cổng trại. Bà Ba đang hái rau, ngẩng lên nói với :<br />
— Hôm nay thầy về sớm uống rượu. Tôi làm<br />
món giả ba ba đó.<br />
Tôi đã ngồi trên ngựa. Bèn quay đầu lạ i:<br />
— Dạ.<br />
Và tôi và ngựa băng qua đường rầy, đi vào<br />
nắng sớm, giọt sương long lanh đầu ngọn cỏ<br />
gianh. Tôi vỗ nhẹ bờm ngựa, vế khép chặt. Con<br />
ngựa chồm hai chân trước, hai chân sau đạp<br />
mạnh xuống mặt đường. Gió lạnh lùa vào cổ áo.<br />
Tôi nghĩ đến hồ Hoàn Kiếm, phố Hàng Khay và<br />
những vạt áo vân Hà Đông tung trước gió. Tôi xa<br />
128
Hà-nội cũng khá lâu. Chắc phải có người nhắc<br />
nhở, có người nhớ và buồn. Có lẽ cũng phải nghĩ<br />
đến chuyện nghỉ ít ngày, trở về nơi có những con<br />
đường xe điện, những con đường rợp bóng cây cỗ<br />
thụ, năm cửa ô và ba mươi sáu phố phường. Nhịp<br />
ngựa phi dẫn ý nghĩ lên xuống theo vó ngựa, đầu<br />
tôi như quán gió, không gọn một băn khoăn,<br />
không vướng một thắc mắc. Tôi nhìn lên trời, yêu<br />
màu xanh thảm. Tôi nhìn sang tả, yêu bãi cỏ<br />
gianh và rừng Lào bạt ngàn. Tôi nhìn sang hữu và<br />
mơ theo thảng tấp đường rầy. Tôi giật mạnh giây<br />
cương, ngựa phi nước đại, người tôi nhấp nhô<br />
cùng ngựa, mặt đường chạy lui về phía sau lưng.<br />
Qua đi, nơi con đường cụt ngoẹo cong. Qua đi,<br />
gốc bàng cỗ thụ. Qua đi, rất nhanh năm cây số<br />
ngàn còn lại trên con đường cụt dẫn đến quán<br />
phở trâu, xế ngang căn ga Xóm Cục.<br />
Tôi xuống ngựa và biết ngay là có chuyện bất<br />
thường. Đám thợ tụm năm túm ba, đống vỏ cây<br />
đóng ụ một chỗ. Một người chạy ra đỡ giây<br />
cương, lặng lẽ dắt ngựa vào chuồng. Tôi nói với<br />
theo :<br />
— Anh để cho nó ráo mồ hôi rồi hãy cho<br />
uống nước.<br />
— Dạ.<br />
Tôi quay lại. Anh Tư đã đứng bên cạnh mặt<br />
nghiêm trọng, giọng thì thầm :<br />
— Thầy ô i... Ông xếp ...<br />
— Sao, ông Xếp ra sao ?<br />
129
— Mất rồi. Tảng sáng hôm nay.<br />
Tôi lạnh người, cố trầm tĩnh. Tôi nghĩ nhanh,<br />
rất nhanh rằng ... ông xếp ga đã có tuổi, lại ốm<br />
nặng, sốt rét đã ăn vào gan ... Bên tai tôi, anh Tư<br />
như lạc giọng :<br />
— Ông lên cơn, hát nhảm hát nhí suốt đêm ...<br />
Hát. Lại hát. Thằng Khởi cũng vậy. Và bây giờ<br />
thì ông Xếp ga Xóm Cục. Không cần hỏi tôi cũng<br />
đoán được ông hát bài gì. Ngừng một lát, anh Tư<br />
vẫn tiếp tục :<br />
— Đám thợ đến sớm còn nghe thấy. Cửa đóng<br />
kín không ai vào được. Sau thấy ông hét quá,<br />
chúng nó mới tông cửa ùa vào. Thì ông cũng vừa<br />
thở hắt ra. Tôi cũng có vào xem. Trông ông tội<br />
quá thầy ôi. Mắt mở trừng trừng.<br />
Tôi đi lại phía nhà ga, đứng lặng giây lâu nhìn<br />
bức tường quét vôi vàng loang lổ, rêu xanh lan<br />
khắp chân tường. Tôi không quen ông xếp ga<br />
Xóm Cục. Tôi gặp ông mới có một lần. Cuộc đời<br />
của ông, tôi biết một vài chi tiết qua một vài câu<br />
chuyện nhát gừng với một vài người ngoại cuộc.<br />
Anh Tư. Lão Năm. Và bây giờ thì cuộc đời của<br />
ông chấm dút. Cũng như cuộc đời người bạn vong<br />
niên của lão Năm. Nhịp thở hắt ra của cả hai<br />
người thế là đã đi vào tần số nhịp đôi của một bài<br />
hò đò dọc mà âm điệu chắc chưa chấm dứt. Tôi<br />
nhớ lại lời lão Năm :<br />
— Không ai ở bên đó được đâu.<br />
Trước Khỏi là những xếp ga vô danh.<br />
130
— Những ai đến làm xếp ga cái ga Xóm Cục<br />
đêu bị cả.<br />
Sau đó ?<br />
— Mà cả cụ Lãnh nữa, biết đâu đấy ?<br />
Và sau đó ?<br />
— Thầy nên cẩn thận.<br />
Đúng.<br />
— Có ai bị mà dám nói ra đâu ?<br />
Đúng. Cụ Lãnh không nói gì. Mà chính tôi, tôi<br />
cũng có nói gì đâu ? Đúng, câu chuyện đi vào hồi<br />
chung cuộc nhưng chưa kết liễu. Cái nhớ thương<br />
lê thê của bài hò vẫn man mác kéo dài, từ giốc<br />
nhịp cầu La Khê đến căn ga xép, đây đó dọc theo<br />
mười cây số ngàn đường cụt.<br />
Tôi thấy bồn chồn khác thường. Tôi nhìn đồng<br />
hồ. Mới 1 giờ trưa. Tôi tìm anh Tư :<br />
— Tôi vê, anh Tư.<br />
— Thầy chưa ăn uống gì cả. Thầy ăn tạm bát<br />
phở.<br />
— Thôi cảm ơn anh. Tôi không đói.<br />
Nắng gắt. Nước mưa bữa qua bốc hơi trong<br />
rừng gianh. Cả người lẫn ngựa trở nên uể oải.<br />
Tuy nóng ruột muốn trở về trại, tôi đành để mặc<br />
con ngựa lững thững đi bước một. Khoảng hơn ba<br />
giờ chiều tôi mới về tới cổng trại.<br />
Vừa đặt chân xuống đất, nhìn thấy bếp núc<br />
lạnh tanh, tôi cảm thấy ngay có chuyện bất<br />
thường. Tôi dắt ngựa vào chuồng, cởi yên tháo<br />
cương, cố giữ bình tĩnh. Lúc quay lên nhà, tôi thấy<br />
131
thấp thoáng bóng bà Ba ngoài cổng trại. Tôi dừng<br />
lại, đợi rồi theo chân bà xuống bếp. Thấy tôi, bà<br />
tỏ vẻ ngạc nhiên :<br />
— Sao hôm nay thầy về sớm thế ?<br />
Và hỏi ngay :<br />
— Chắc thầy biết tin ông xếp ga Xóm Cục ...<br />
— Dạ, ngay sáng hôm nay.<br />
Bà Ba đặt cái giỏ xuống một bên, lấy ra một<br />
cái gói bọc giấy :<br />
— Quan Lãnh tôi nghe thấy tin mà bần thần<br />
cả người...<br />
— Cụ ông đâu, cụ ?<br />
— Đang nằm nghỉ trên nhà. Quan Lãnh tôi<br />
kêu khó chịu trong người. Tôi vừa chạy ra tiệm<br />
chú ích bốc một thang thuốc cảm đó.<br />
Bà ngước nhìn tôi và tôi nhận thấy một thoáng<br />
bận tâm qua ánh mắt của bà. Tôi cố thản nhiên :<br />
— Lúc này đang chuyển mùa. Nhỏ tuổi như<br />
tôi mà sáng dậy còn thấy lạnh.<br />
Bà Ba dóm bếp. Bà đổ nước vào một cái siêu<br />
đất nhỏ, cho thuốc vào siêu rồi đặt lên bếp. Tôi<br />
nhìn bà lúi húi canh siêu thuốc, lắng nghe vài con<br />
ruồi bay vo ve trong gian bếp lạnh. Một lát sau,<br />
bà ngập ngừng :<br />
— Thầy... có nghe thấy ngưo'i ta nói gì<br />
không ? Trước khi chết, ông phát điên phát<br />
cuồng, hát nhảm hát nhí. Lúc chết mắt còn mở<br />
trừng trừng...<br />
— Vâng, tôi cũng nghe kể như vậy đó.<br />
132
— Khiếp quá.<br />
Một lát sau :<br />
— Ông Xếp trước cũng vậy đó, thầy. Tôi<br />
không hỏi “ông xếp trước” là ai. Tôi biết trước<br />
“ông Xếp trước” đó, còn những “ông xếp trước”<br />
nữa. Và thằng Khởi. Tôi thấy lành lạnh trong<br />
người. Tôi nghĩ đến cụ Lãnh vừa nhuốm bệnh.<br />
Tôi nghĩ đến tôi. Tôi quay phắt lại, nhìn bà Ba :<br />
— Tại sao vậy cụ ?<br />
Bà Ba lắc đầu không nói. Bà gấp tờ giấy gói<br />
thuốc lại làm tư, vuốt phảng phiu rồi gài lên mái<br />
bếp. Một lát, giọng bà trở nên thẩn thờ :<br />
— Đất này dữ lắm, thầy ơi. Không hợp với<br />
đàn ông con trai.<br />
Tôi đi ra phía cửa bếp. Nắng đã dịu, gió lại bắt<br />
đầu nổi lên từng đợt nhẹ. Tiếng gà kiếm ăn đây<br />
đó lẫn với tiếng chim trên cành và tiếng lá rung<br />
động. Tôi quay đầu lại, ngập ngừng :<br />
— Ông hát suốt đêm. Không biết hát gì vậy ?<br />
Bà Ba đang xắt mấy bìa đậu. Bà ngừng tay<br />
nhưng không nhìn tô i:<br />
— Còn gì nữa. Cái bài thầy nói bữa trước đó.<br />
Tôi bước ra vườn, lên nhà, vào phòng.<br />
*<br />
Tồi nhồi một tẩu thuốc. Từ sáng chưa ăn uống<br />
gì, hơi thuốc đầu nuốt vào như nạo ruột. Tôi rít<br />
thêm một hơi nữa rồi lấy giấy bút viết một bức<br />
thư gởi về Hànội. Cho một người con gái tôi yêu.<br />
133
Tôi mô tả nơi tôi sinh hoạt, mấy nhịp cầu sắt La<br />
Khê, con đường rầy thẳng tắp, bãi cỏ gianh, rừng<br />
Lào ngút ngàn, những chiều đối ẩm với cụ Lãnh,<br />
những đêm nhìn trăng chênh chếch mà nhớ<br />
Hà-nội, những giờ dong ruổi một người một ngựa<br />
trên con đường cụt, căn ga xép Xóm Cục, quán<br />
phở trâu, đám thợ hiên lành, anh Tư, chú ích, bà<br />
Ba. Tôi nói đến tầm vóc và tương lai của công<br />
việc. Tôi nói đến tương lai của “chúng mình”. Tôi<br />
nói đến nỗi nhớ thắm thiết của tôi, hứa sẽ trở về,<br />
sẽ gặp lại nhau ncày một ngày hai một ngày rất<br />
gân, ngay trone tuần này, biết đâu ? Tuyệt nhiên<br />
tôi không hề đá động đến lão Năm, thằng Khởi,<br />
ông xếp ga, những ông xếp ga và ... Mệ. Nói làm<br />
gì để gây thêm nỗi bận tâm cho người con gái ?<br />
Bức thư dài tới 6 trang. Tôi cười thầm mà nghĩ<br />
rằng cứ cái đà này mình thành nhà văn lúc<br />
nào không biết ! Lê văn Trương, Khái Hưng hay<br />
Nhất Linh ?<br />
Tôi vừa đặt bút xuống bàn thì tiếng bà Ba đã<br />
vọng vào :<br />
— Mời thầy ra uống rượu.<br />
Tôi nhìn đồng hồ. sắp 6 giờ. Nắng yếu, sương<br />
lại dâng lên bạc phếch ngoài vườn, cổng trại. Tôi<br />
xua vội một ý nghĩ thoáng qua hướng về miệt<br />
Xóm Cục. Tôi đứng lên :<br />
— Dạ, tôi ra đây.<br />
*<br />
134
Khói thơm bốc lên từ giữa mâm. Đĩa giả ba ba<br />
vừa chín tới. Tôi cầm bình rượu rót đầy hai chén<br />
và tay nâng chén rượu mời cụ Lãnh. Cụ có vẻ<br />
mệt, sắc da tai tái, nhưng vẻ quắc thước vẫn lồ lộ<br />
trên đôi gò má cao, hàm râu bạc, mái tóc bạc phơ<br />
búi gọn. Cụ tiếp chén rượu rồi gượng cười:<br />
— Hôm nay chắc là thua thầy Vũ. Tôi thấy<br />
khó ở trong người.<br />
Bà Ba đứng cạnh :<br />
— Hôm nay có món giả ba ba. Quan Lãnh<br />
gắng ăn bát cơm cho khỏe.<br />
Cụ Lãnh nhìn xuống mâm :<br />
— ơ ... Cái món này được lắm đó. Mụ Ba<br />
mua được ốc nhồi hả ?<br />
— Dạ, mùa mưa ăn ốc không độc.<br />
Cụ Lãnh tợp một tợp rượu :<br />
— Uống vẫn còn thấy ngon. Chưa sao.<br />
Bà Ba vội:<br />
— Quan Lãnh chỉ nói quàng. Quan Lãnh có<br />
sao đâu ? Cảm thì rồi uống thang thuốc là khỏi<br />
mà.<br />
Cụ Lãnh gắp một miếng đậu đưa lên miệne :<br />
— Được lắm. Kìa mời thầy.<br />
Tôi nâng chén. Ngụm rượu trôi qua cổ họng<br />
một cách dễ dàng. Tôi gấp một miếng ốc, loại ốc<br />
nhồi to con xắt làm tư. Tôi gắp thêm một miếng<br />
dâu, một lát chuối xanh và một miếng thịt lợn<br />
ba chỉ.<br />
135
Ôc nhồi béo ngấy, chuối chan chát rít răng, thịt<br />
lợn dòn, miếng dâu vàng mầu nghệ dẫm nước<br />
béo thơm hăng mùi lá tía tô. Tôi tợp thêm một<br />
tợp rượu rồi vất đũa xuống mâm. Tôi nhìn cụ<br />
Lãnh. Cụ cũng nhìn tôi, trong mắt ánh lên một<br />
thoáng vui vui. Ánh vui mong manh như nắne<br />
hoàng hôn. Nắng chiêu tắt ngấm ngoài vườn.<br />
Sương giăng khắp nẻo. Tròng mắt xa dần. Ông<br />
già ngồi trước tôi bỗng dưng như xa ra, lùi vào cái<br />
thế phai nhòa của một thời đã chấm dứt. Cụ đã<br />
làm tròn nhiệm vụ của cụ. Không thành công thì<br />
âu cũng thành nhân. Chào kính cụ Lãnh. Thầy<br />
còn trẻ. Tương lai của thầy đâu có phải là tương<br />
lai một con đường cụt ? Chỗ tới của thầy đâu<br />
phải là căn ga xép ? Lão nằm đây đợi giờ lên<br />
đường. Ông xếp ga Xóm Cục đi rồi. Còn lão.<br />
Lão bình tĩnh lắm, thầy ôi. Ai chả một lần ? Lão<br />
đã lo liệu đủ rồi. Một cho lão. Một cho mụ Ba.<br />
— Thầy Vũ nghĩ gì vậy ? Đâu có đó thầy ơi.<br />
Uống đi.<br />
Cụ Lãnh với bình rượu, rót. Một cho cụ. Một<br />
cho tôi.<br />
— Tôi muốn nói chuyện này với thầy. Tôi đã<br />
kể thầy nghe hồi tôi vào hầu quan Đình Nguyên<br />
trong Ngàn Trươi chưa nhỉ ?<br />
Rồi. Quan Đình Nguyên Phan Đình Phùng và<br />
chiến khu Ngàn Trươi. Lò đúc súng của Cao<br />
Thắng. Rồi. Nhiều lần rồi. Nhưng lần này có vẻ<br />
nghiêm trang.<br />
136
— Khi quan Đình Nguyên nằm bệnh, tôi<br />
thường đứng hầu bên cạnh. Trước khi nhắm mất,<br />
Ngài có cho tôi một vật tùy thân tôi còn giữ đến<br />
bây giờ. Bữa nay tôi đưa thầy xem.<br />
Cụ Lãnh đứng dậy vào buồng ngủ. Nhìn cụ đi,<br />
tôi giật mình. Cụ gầy đi trông thấy, vạt áo lụa nâu<br />
phơ phất, xương bả vai nhô lên, bước chân chậm<br />
chạp. Tôi biết tuổi cụ đã ngoài 80, nhưng một cơn<br />
cảm đâu có dễ dàng vật ngã được một thân hình<br />
ngay chiêu hôm qua hãy còn vạm vỡ ? Hay là ...<br />
Cụ Lãnh từ trong buồng tối phòng ngủ bước ra<br />
ngoài, hai tay bưng một vật dài màu đỏ sẫm. Nhìn<br />
gần màu đỏ là màu của mảnh vải bọc ngoài. Vải<br />
đã cũ, có chỗ bạc phếch, có chỗ màu đỏ trở thành<br />
nâu sậm. Cụ Lãnh gỡ mảnh vải đặt bên Cạnh.<br />
Dưới ánh đèn mờ mờ tỏ tỏ, tôi nhận thấy vật gói<br />
ở trong là một thanh kiếm dài non một thước<br />
nằm trong một cái võ bằng tre đã lên nước óng<br />
ánh. Cụ Lãnh từ từ rút thanh kiếm ra khỏi võ.<br />
Đốc kiếm trổ đầu con hổ, lưỡi kiếm mỏng dính,<br />
Cụ Lãnh cầm thanh kiếm khẽ đọng cổ tay, lưỡi<br />
kiếm rung lên, ánh thép loang loáng, ánh đèn<br />
chập chờn. Tôi nghe như có tiếng gió rít qua gian<br />
phòng. Tôi lạc vào một quá khứ khói sương lãng<br />
đãng dựng lên từ những địa danh lịch sử và nhân<br />
danh vĩ đại, cảnh và người đã từ tấm bé đi vào<br />
tiềm thức thế hệ chúng tôi, đã từ lâu đi vào huyền<br />
sử Việt Nam. Tôi nâng chén rượu. Cụ Lãnh nhìn<br />
tôi, ánh mắt đầy ắp cảm tình :<br />
137
— Quan Đình Nguyên khen tôi trung hậu và<br />
ra lệnh cho tôi rời khỏi Ngàn Trươi. Lúc đó Ngài<br />
đã yếu lắm, tinh thần chỉ còn tụ nơi hai con mắt.<br />
Tôi ôm lấy chân Ngài mà khóc. Nhưng Ngài nhất<br />
định không đổi ý. Ngài đưa thanh kiếm cho tôi.<br />
Ngài bảo : ơ lại thì mười phần chết. Đi thì thập<br />
tử nhất sinh. Ta biết không qua được tháng này.<br />
Mi là người trung hậu. Mi gắng mà tiếp tục công<br />
việc. Kiếm này đã vấy máu nhiều lần. Máu quân<br />
thù. Kiếm quý đó. Nhìn thấy kiếm cũng như nhìn<br />
thấy ta. Đi đi, đừng quên nước Nam là được rồi.<br />
Cụ Lãnh tợp một tợp rượu rồi đặt chén xuống<br />
mâm. Cụ hững hờ gắp một lát chuối xanh đưa lên<br />
miệng. Rồi bỏ đũa nhìn ra xa. Chai rượu chưa vơi<br />
một nửa. Đĩa giả ba ba đầy ắp giữa mâm. Tôi<br />
bâng khuâng nhìn quanh, chưa biết nói gì, cụ<br />
Lãnh lại lên tiếng :<br />
— Từ lúc bỏ Ngàn Trươi, thanh kiếm lại vấy<br />
thêm máu giặc. Giặc trong, giặc ngoài. Vê đây tôi<br />
bọc kiếm để sống già. Nhưng chưa bao giờ rời<br />
thanh kiếm. Đất này tiếng thế mà dữ, có thanh<br />
kiếm treo đầu giường nó vững bụng.<br />
Cụ vỗ nhẹ lên đốc kiếm, ngửng đầu nhìn thẳng<br />
vào tô i:<br />
— Chuyện này tôi giữ kín không nói với ai.<br />
Thầy là người đầu tiên. Chắc thầy cũng hiểu tại<br />
sao.<br />
Tại sao ? Tôi biết người đối diện cũng như tôi,<br />
cũng đang xốn xang một thắc mắc. Rằng sau ông<br />
138
xếp ga Xóm Cục, thì ra còn lại chỉ có hai người.<br />
Tôi muốn đặt thảng vấn đề. Rằng bây giờ đến<br />
lượt cụ và tôi. Làm gì bây giờ, cụ ? Nhưng tôi biết<br />
là vô ích. Không ai muốn đề cập đến vấn đề.<br />
Không ai nói gì cả. Trừ những người ngoại cuộc,<br />
bên kia nhịp cầu sắt. ơ bên này, câm lặng. Đã<br />
câm lặng, ông xếp ga. Và bây giờ là một ông già<br />
tay nâng chén rượu, tay đặt lên thanh kiếm, bây<br />
giờ là một bức tranh thủy mạc đóng khung trong<br />
một không khí hoang vu và câm lặng.<br />
Câm lặng kéo dài. Rồi giọng cụ Lãnh lại cất<br />
lên :<br />
— Thầy cứ yên trí. Uống nữa đi.<br />
Bình rượu lại được nâng lên. Hai chén lại đầy.<br />
Chén cụ cạn nhanh. Chén tôi cạn kịp chén cụ. Cụ<br />
Lãnh cười khà :<br />
— Được lắm, nay mai về ngoài đó, thầy nhớ<br />
bữa rượu hôm nay nhé.<br />
— Dạ nhớ. Bữa rượu hôm nay, hôm qua.<br />
— Nhưng đặc biệt là hôm nay.<br />
— Vâng, đặc biệt là hôm nay.<br />
Đặc biệt là hôm nay, tôi mềm môi uống mãi.<br />
Lúc đứng dậy vào phòng, đầu óc chếnh choáng.<br />
Tôi để nguyên quần áo nằm vật xuống giường.<br />
Tôi ngủ vùi một giấc bất tỉnh nhân sự.<br />
Lúc tôi tỉnh giấc, trăng hạ tuần chênh chếch<br />
ngang song, đồng hồ chỉ đúng 3 giờ. Thấy khát<br />
khô cổ họng, tôi vừa định ngồi dậy tìm nước<br />
uống, chợt sững người : có tiếng rì rầm nói<br />
139
chuyện phòng ngoài. Ánh đèn dầu vẫn còn le lói<br />
qua khe cửa. Tôi từ từ chống tay ngồi dậy. Tiếng<br />
nói chuyện là tiếng đàn ông. Tiếng cụ Lãnh.<br />
Nhung sao cụ lại dậy sớm vậy ? Hay là chưa đi<br />
ngủ ? Giờ này mà chưa đi ngủ ? Cụ lại mệt. Vô<br />
lý. Ngoài kia tiếng nói dằn xuống :<br />
— Nói đến thế là hết điều rồi. Người ta còn<br />
trẻ. Người trung hậu. Lại có chí. Mệ buông tha<br />
cho người ta.<br />
Mệ. Tôi rởn tóc gáy. Tôi gión gién tiến ra phía<br />
cửa. Cửa đóng kín. Tôi đứng sát bên cạnh lắng tai<br />
nghe. Yên lặng như tờ. Từng chiếc lá rơi ngoài<br />
vườn. Bỗng :<br />
— Mệ không nên dọa lão. Mệ cũng thừa biết<br />
rằng Mệ cũng không làm gì nổi lão. Lão đến tuổi<br />
thì lão sẽ về chầu Ngài. Lão không mong gì hơn.<br />
Nhưng vuốt mắt thì nể mũi. Người ta là khách<br />
của lão.<br />
Lại yên lặng. Rồi vẫn giọng cụ Lãnh :<br />
— Mai. Nội nhật ngày mai.<br />
Lại yên lặng. Rồi lại giọng cụ Lãnh :<br />
— Mệ nói thế không được.<br />
Nói ? Mệ nói ? Tôi có nghe thấy gì đâu ?<br />
Nhưng đúng là cụ Lãnh đang nói chuyện. Với<br />
một người lạ. Với Mệ ? Đúng. Tôi chưa hết ngạc<br />
nhiên thì có tiếng đập mạnh xuống mặt tấm phản.<br />
Rồi giọng cụ Lãnh cất lên sang sảng :<br />
— Không được lộng hành. Đứng yên.<br />
Tôi xô mạnh cánh cửa. Cụ Lãnh hét lớn :<br />
140
— Trông này.<br />
Tôi nhảy đại ra ngoài, kịp nhìn thấy bàn tay cụ<br />
Lãnh vung lên. Thanh kiếm loang loáng từ bàn<br />
tay bay lại. Một luồng gió thoáng qua. Đồng thời<br />
một tiếng rú thất thanh vang lên trong đêm<br />
khuya. Thanh kiếm ghim ngập vào khung cửa,<br />
đốc kiếm, rung rinh, cạnh tôi khoảng một tấc.<br />
Tiếng rú kéo dài, xa ra, vọng lại từ ngoài vườn,<br />
tắt nghẹn. Tôi quay đầu lại. Bà Ba tóc rũ rượi<br />
đang ôm lấy đầu gối cụ Lãnh. Giọng bà thảng<br />
th ố t:<br />
— Quan Lãnh ... Quan Lãnh ...<br />
Tiếng rú không phải tiếng bà. Nhất định. Tiếng<br />
ai ? Ai rú ? Câu hỏi vừa phác họa trong đầu.<br />
Giọng cụ Lãnh đã cất lên, bình thản như không<br />
có gì xẩy ra. Rất bình thản :<br />
— Thầy Vũ. Thầy ngồi xuống đây. Yên rồi.<br />
Cụ Lãnh ngồi xếp bằng tròn trên phản, mâm<br />
rượu buổi chiều vẫn còn nguyên vị, vỏ kiếm và<br />
tấm vải đỏ vẫn đặt bên cạnh. Ngọn đèn dầu le lói.<br />
Duy chai rượu đà cạn. Cụ Lãnh nhìn người thiếp<br />
đang phủ phục bên cạnh. Cụ lắc đầu, ái ngại :<br />
— Mụ Ba đừng sợ. Yên rồi.<br />
Tôi ngồi xuống bên cụ. Cụ với bình rượu, quay<br />
lại bà Ba lúc đó đang quấn lại mái tóc :<br />
— Mụ Ba lấy rượu hè.<br />
Bà Ba nhìn cụ Lãnh. Giọng bà trìu mến :<br />
— Quan Lãnh uống nhiều rồi. uống từ chiều.<br />
Nhưng bà vẫn đỡ lấy bình rượu, đi xuống bếp.<br />
141
Cụ Lãnh vừa bóp cổ tay vừa thủng thẳng :<br />
— Lâu ngày không động kiếm, gân cốt hỏng<br />
cả.<br />
Tôi nhìn cụ :<br />
— Cụ mạnh quá trời !<br />
Cụ Lãnh lắc đầu :<br />
— Đâu có phải là mạnh hay yếu ? Đó là chính<br />
hay tà. Có thế thôi, thầy ơi.<br />
Rất nhiều câu hỏi dồn dập đặt ra trong đầu,<br />
nhưng tôi không biết nói ra sao, hỏi những gì ?<br />
Tôi lặng yên ngồi nhìn cụ Lãnh đỡ bình rượu bà<br />
Ba vừa mang lên. Cụ nhìn người thiếp ánh mắt<br />
thấp thoáng có đuôi :<br />
— Mụ Ba mệt rồi. Đi nghỉ đi. Mai dọn.<br />
Bà Ba vào phòng, vừa đi vừa n ó i:<br />
— Trời sắp rạng rồi.<br />
Cụ Lãnh rót đầy hai chén rượu, tôi giơ tay từ<br />
chối cũng không kịp. Cụ đặt một chén trước mặt<br />
tô i:<br />
— Thầy Vũ, bữa qua thầy uống nhiều rồi.<br />
Nhưng đặc biệt bữa nay, lão mời thầy chén này.<br />
Lại đặc biệt. Tôi vừa định lên tiếng từ chối thì<br />
giọng cụ Lãnh lại cất lên, nghiêm trọng :<br />
— Thầy phải uống vì đây là ... chén rượu cuối<br />
cùng lão mời thầy.<br />
Tôi giật mình :<br />
— Sao lại cuối cùng ? Tôi còn uống nhiều với<br />
cụ mà ?<br />
Cụ Lãnh vẫn bình tĩnh :<br />
142
— Ngày mai thầy Vũ về ngoài đó, chắc cũng<br />
khó có dịp gặp lại lão.<br />
Tôi sững sốt. Sao lại về ngoài đó, sao lại ngày<br />
mai ? Tôi ấp úng :<br />
— Thưa cụ ...<br />
Cụ Lãnh giơ tay ngăn lời tôi :<br />
— Lão đã hứa với người ta như vậy rồi. Mai.<br />
Ngày mai. Quân tử nhất ngôn.<br />
Tôi bắt đầu thấy bực mình. It nhất thì cụ Lãnh<br />
cũng phải hỏi ý kiến tôi. Tại sao lại hứa ? Mà hứa<br />
với ai ?<br />
— Người ta là ai vậy ?<br />
Cụ Lãnh nhìn tôi, không trả lời. Tôi tiếp :<br />
— Mà mai tôi về làm sao được ? Còn công<br />
việc ...<br />
Cụ Lãnh từ tốn.<br />
— Tương lai của thầy còn dài. Thầy yên trí.<br />
Cụ nâng chén rượu, nhìn tôi. Tôi nghĩ rất<br />
nhanh rằng tôi đang ở cái thế bị động, cụ Lãnh là<br />
chủ trại, cụ có quyền mời tôi ra khỏi nơi đây, bất<br />
kỳ lúc nào, rằng dầu sao cụ cũng đã vì tô i... Hơn<br />
nữa, công việc nơi đây đã thành nếp, anh Tư có<br />
thể thay tôi, rằng ... Nhưng thế này là thế nào ?<br />
Lúc nãy cụ Lãnh nói chuyện với ai, phóng kiếm<br />
để thị uy với ai ? Và ai rú ? Tôi nhìn cụ Lãnh,<br />
muốn hét lớn lên tất cả những thắc mắc của tôi.<br />
Nhưng bỗng dưng tôi thấy tôi bất lực. Tôi thấy tôi<br />
nâng chén :<br />
— Xin mời cụ.<br />
143
Và nhăn mặt nhắp một chút:<br />
— Thưa cụ, tôi sẽ thu xếp mai về.<br />
Cụ Lãnh cạn chén rồi đặt chén xuống mâm :<br />
— Như vậy là phải. Chỉ xin thầy hiểu cho lão.<br />
Lão cũng muốn gần thầy. Nhưng sự thể đã xảy ra<br />
như vậy thì ... cũng là cái số. Thầy nên bảo trọng<br />
sức khỏe, trì chí mà nghĩ đến tương lai. Còn lão ...<br />
Cụ ngùng lại cúi đầu nhìn chén rượu. Tôi thừa<br />
dịp :<br />
— Còn điều này, xin cụ cho biết. Lúc nãy cụ ...<br />
hứa với ai vậy ? Có phải là ...<br />
Cụ Lãnh nhìn tôi gật đầu. Rồi cụ đứng lên, đi<br />
ra phía cửa, chỗ còn ghim sâu thanh kiếm. Cụ giơ<br />
tay rút nhẹ thanh kiếm, đút kiếm vào vỏ rồi<br />
ngẩng lên nhìn tô i:<br />
— Thầy cũng không nên biết nhiều. Đó là<br />
chuyện riêng giữa tôi và người ta. Chiều mai, có<br />
chuyên tốc hành ra Bắc. Tôi không tiễn thầy<br />
được. Thôi xin chào thầy.<br />
Ông già xách kiếm đi khuất vào bóng tối gian<br />
phòng ngủ. Tôi tần ngần đứng nhìn mâm rượu,<br />
bát đũa xô lệch, đĩa giả ba ba vẫn còn đầy ắp, tấm<br />
vải đỏ bạc màu bọc thanh kiếm còn để lại bên<br />
cạnh bình rượu. Có tiếng gà gáy từ xa vọng lại.<br />
Tôi nhìn ra ngoài. Trời đã rạng đông.<br />
*<br />
Tôi nhờ người nhắn anh Tư. Anh đến ngay lúc<br />
xế trưa. Nghe tôi nói, anh không tỏ vẻ ngạc nhiên.<br />
144
Duy dáng điệu có như bịn rịn. Anh n ó i:<br />
— Thầy về ngoài đó nghỉ ngơi ít bữa rồi lại vô.<br />
Công việc đã thành nếp một mình tôi cáng đáng<br />
cũng đủ rồi.<br />
Tôi kiểm điểm công việc, trao sổ sách cho anh.<br />
Lúc xong việc, đồng hồ chỉ đúng 3 giờ. Anh Tư<br />
nhất định đòi đưa tôi ra ga :<br />
— Để tôi xách ba lô cho thầy. Trời mưa bữa<br />
trước, đường còn trơn lắm thầy.<br />
— Anh ăn cơm chưa ?<br />
— Dạ rồi. Mà mấy giờ tàu đến thầy ?<br />
— Khoảng 6 giờ chiều.<br />
—o thừa sức. Cứ 4 giờ mình thủng thẳng lên<br />
đường là vừa.<br />
Tôi xuống bếp. Bà Ba đang lúi húi nhóm lửa.<br />
Bà ngửng lên nhìn tôi, vẻ buồn lộ ra trong ánh<br />
mắt. Bà ngập ngừng :<br />
— Thầy vê ngoài đó ... chắc là vui hơn đây.<br />
Đây rồi lại vắng teo.<br />
Nhìn bà, tôi nghĩ đến mẹ tôi. Cũng một ánh<br />
mắt như vậy mỗi khi dặn dò những lúc khởi hành.<br />
Tôi đứng lặng giây lâu, rồ i:<br />
— Cụ ông chưa dậy ?<br />
— Có, lúc nẫy có dậy, uống được chén thuốc.<br />
Tôi tần ngần một lá t:<br />
Tôi muốn chào cụ Ông trước khi ra ga, không<br />
b iế t...<br />
Bà cụ cúi xuống vo gạo :<br />
— Quan Lãnh tôi xin lỗi thầy, không dậy tiễn<br />
145
được thầy.<br />
— Cụ nói hộ với cụ Ông rằng tôi rất cảm kích.<br />
Đêm qua vì tôi mà cụ Ông nhọc sức. Tôi không<br />
biết nói gì.<br />
— Quan Lãnh tôi quý thầy lắm. Thầy đừng<br />
nghĩ ngợi gì cả.<br />
Bà ngừng tay nhìn tôi, cố giữ bình tĩnh, cố gắng<br />
mỉm cười. Nhưng mắt bà đỏ hoe. Bà cúi xuống,<br />
day m ặ t:<br />
— Khổ, khói quá.<br />
Tự nhiên tôi thật dào dạt một niêm nhớ<br />
thương thắm thiết, đối với bà, đối với anh Tư, đối<br />
với tất cả cái cảnh hoang du tôi sắp rời bỏ, đối với<br />
cụ Lãnh. Tôi nhìn đồng hồ :<br />
— Chết, 3 giờ rưỡi rồi. Tôi xuống dưới chuồng<br />
ngựa một chút.<br />
Tôi thủng thảng đi xuống chuồng ngựa. Tôi giơ<br />
tay vuốt nhẹ bờm ngựa. Con ngựa dụi đầu vào vai<br />
tôi, thở mạnh. Tôi đổ một ít thóc vào máng; phía<br />
trước mặt. Nắng nhạt đầu thu hắt vào hai cỗ hậu<br />
sự. Gỗ vàng tâm thiên niên vạn đại. Giã từ. Mụ<br />
một. Tôi một. Giã từ. Tôi nhìn con ngựa đang rúc<br />
đầu vào. máng thóc, rồi bước ra ngoài vườn đi lên<br />
nhà.<br />
Anh Tư đã đứng sẵn ngoài hiên, cạnh chiếc ba<br />
lô. Tôi bước lên thềm đi lại phía buồng cụ Lãnh,<br />
đứng lặng giây lâu nghe tiếng thở dài đều đều của<br />
ông già rồi quay đi.<br />
Bà Ba đưa cho tôi một cái gói nhỏ :<br />
146
— Tôi thổi ít sôi thầy ăn đường.<br />
Tôi đỡ lấy gói sôi bọc lá chuối:<br />
— Cảm ơn cụ.<br />
Anh Tư đi trước. Bà Ba theo tôi đi sau. Ra đến<br />
cổng bà dừng lại. Ngập ngừng :<br />
— Thôi thầy về.<br />
Tôi băng qua đường rầy. Nhìn lại thấy bà Ba<br />
đang nâng vạt áo lau mắt, tôi vội cúi đầu rảo<br />
bước. Đến giốc cầu ngoảnh lại trại cụ Lãnh đã<br />
lẩn vào đám cây rừng. Tôi vượt qua tấm biển<br />
Nguy Hiểm lúc nào không hay, tâm trạng bâng<br />
khuâng như sắp tỉnh một cơn mơ, như đang trở<br />
về thực tại. Xuống cầu, qua ngã ba, tôi đi vào phố<br />
ga-<br />
Trước khi lên tàu, tôi bắt tay anh Tư :<br />
— Thỉnh thoảng anh cho tôi biết tin tức vợ<br />
chồng cụ Lãnh.<br />
Anh Tư hai tay nắm chặt tay tô i:<br />
— Thầy yên trí.<br />
*<br />
Đoàn tàu rời La Khê. Nhịp bánh sắt lăn trên<br />
đường rầy bắt đúng nhịp dôi. Tôi nghĩ đến Ngàn<br />
Trươi ngày trước. Tôi nghĩ đến cụ Lãnh và tôi.<br />
Đến tâm trạng của cụ khi bỏ Ngàn Trươi và của<br />
tôi khi rời Xóm Cục. Hoàn cảnh có khác mà nỗi<br />
khắc khoải lại có nét tương đồng, cùng dứt ra đi,<br />
cùng nhận một lời ủy thác.<br />
— Mi gắng mà tiếp tục công việc.<br />
147
— Tương lai của thầy còn dài. Thầy nên trì chí.<br />
Nhịp dôi khi mau khi chậm, xa dần những căn<br />
ga xép đường rừng mờ mịt sương khuya, trăng hạ<br />
tuần ''ắt vẻo, qua Di Vinh, Bến Thủy rồi Thanh<br />
Hóa, Nghĩa Lộ, Đồng Đao, Ninh Bình, Nam<br />
Định, Phủ Lý, rồi Văn Điển. Nhịp dôi theo đoàn<br />
tàu đi vào ngoại ô Hà-nội, thấp thoáng cột phi<br />
trường Bạch Mai, dọc theo đường xe điện Kim<br />
Biên, qua Khâm Thiên, rầm rộ tiến vào sân ga<br />
Hà-nội. Tôi bàng hoàng mở to mắt. Bánh xe rít<br />
lên, tắt nghẽn. Tiếng rú của ai tắt nghẽn nửa<br />
khuya xóm Cục ? Đoàn tàu thở hắt ra, đứng sững,<br />
chấm dứt nhịp dôi.<br />
*<br />
Từ đó đến nay việc đời dồn dập : xưởng dệt bị<br />
rút giấy phép hoạt động, hiệp thợ Xóm Cục giải<br />
tán, anh Tư biệt vô âm tín, quân đội Nhật Bản<br />
đảo chính, Việt Minh nắm chánh quyền, chiến<br />
tranh Việt Pháp bùng nổ, những ngày lang thang<br />
đây đó chiến khu 3, những năm di cư lập nghiệp<br />
trong Nam, những giờ phập phồng tin giặc tấn<br />
công, rồi bỏ nước, lưu đày — và chuyện cũ nhòa<br />
dần vào dĩ vâng. Đôi lúc nửa khuya thao thức,<br />
thoáng nhớ lại thì tất cả — căn trại hoang vu,<br />
nhịp cầu La Khê, con đường cụt, bãi cỏ gianh,<br />
căn ga xép, một đôi mắt đen lành lạnh, một bàn<br />
tay gân guốc, một lưỡi kiếm lao đi, một tiếng rú<br />
tắt nghẽn, nhịp dôi một bài hò đò dọc — tất cả,<br />
148
từ lòng ký ức hiện lên chỉ còn là những vang bóng<br />
mờ mờ, thấp thoáng giữa hư và thực.<br />
*<br />
Hoa tuyết bay trắng ngập vườn qua khung cửa<br />
kính. Tôi giật mình thấy tất cả có giống như một<br />
giấc chiêm bao. Đẩy thêm củi vào lò, rót đầy một<br />
ly rượu mạnh và tự hỏi là mình hiện đang trong<br />
giấc chiêm bao nơi đất lạnh, và rồi ra sẽ tỉnh dậy<br />
để lại thấy mình vẫn sống trong cái thế giới hoang<br />
vu Xóm Cục ?<br />
Bất giác nhớ lại cái cử chỉ đối ẩm với cụ Lãnh,<br />
tôi nâng ly, nói khẽ với mình :<br />
- Mời.<br />
Tháng 10-81<br />
Minnesota<br />
149
Không nơi nào<br />
Cuối thu, Paris.<br />
— Ông phải xuống với tôi. Chơi với nhau một<br />
vài ngày, uống với nhau một vài chai rượu. Nói<br />
với nhau một vài câu chuyện. Xuống nghe.<br />
Giọng nói Phạm Công Thiện qua đường dây<br />
điện thoại từ Toulouse tới Paris — khoảng tám<br />
tiếng tàu hỏa — nghe sao mà “kêu gọi” vậy. Lúc<br />
bấy giờ khoảng nửa khuya Paris. Nửa khuya Paris<br />
rực ánh sáng. Chắc Phạm Công Thiện gọi tôi từ<br />
một quán rượu. Giọng nghe có chất men rượu<br />
chát. Quán rượu chắc âm u những ngọn đèn nhỏ<br />
đặt đây đó góc phòng.<br />
— Sao, xuống đi.<br />
— Thế sao ông không lên đây ?<br />
Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng ... hay là cứ xuống<br />
Toulouse, uống một vài chai rượu, nói một vài<br />
câu chuyện. Gia dĩ, ở Toulouse, lỏng buông<br />
guidon xe đạp, lọc cọc lại còn ông đồ họ Nguyễn<br />
tự là Thế Anh. Xuống một vài ngày, sống lại một<br />
vài đêm Vạn Hạnh với Thiện, một vài chiều Văn<br />
Khoa với họ Nguyễn ?<br />
— Thiện dạo này day dứt lạ. Chỉ có uống. Cứ<br />
cái đà này...
Có người gặp Thiện nói với tôi như vậy. Tôi<br />
không ngại những chai rượu vơi dần qua bàn tay<br />
Phạm Công Thiện. Tôi chỉ nghĩ đến cái nó đẩy<br />
bàn tay đó mở những chai rượu đó, đủ màu, đủ<br />
kiểu, đủ cở, vơi dần. Tôi nghĩ đến cái niềm “day<br />
dứt” đó. Và cứ cái đà này ...<br />
Thiện bỏ nước ra đi trước 1975. Anh không kịp<br />
chứng kiến cái cảnh suy tàn sụp đổ của Vạn<br />
Hạnh. Anh không có duyên nhìn thấy trước mắt<br />
cái ngang tàn của Bùi Giáng, cái cao ngạo của Vũ<br />
Hoàng Chương. Tôi cũng vậy. Gặp nhau, bây giờ,<br />
nói gì với nhau ?<br />
— Ông Phạm Công Thiện ơi, tôi không thể<br />
xuống ông được. Tôi bận quá. Phải ở Paris không<br />
thể đi đâu được.<br />
Trong cái dối trá đầu lưỡi, có cái thật tình một<br />
người đối với một người đồng cảnh ngộ. Thôi<br />
thì ... cùng một lứa ... uống đi, ông Thiện , uống<br />
nữa đi.<br />
*<br />
Trung tuân tháng 11<br />
Tôi bước xuống phi trường Boston, xếp hàng đi<br />
qua hàng rào nhà Đoan.<br />
— Ông có cái gì khai không ?<br />
Tôi nhìn xuống chiếc va li méo mó, nhớ lại cái<br />
cảnh ngày hôm qua, ném vội áo quần vào va li,<br />
152
sửa soạn từ giã Paris. Một đống quần áo bẩn, vài<br />
ba cuốn sách. Có gì mà khai với báo ? Vụt nhớ lại<br />
một câu trả lời của một nhà văn trong trường hợp<br />
tương tự : Oscar Wilde, khoảng đầu thế kỷ 20, khi<br />
từ Anh qua Mỹ.<br />
— Ông có gì khai không ?<br />
Oscar Wilde nhìn ông nhà Đoan. Rồi rất hồn<br />
nhiên :<br />
— My talent.<br />
Dĩ nhiên Khoan tôi không thể bắt chước Oscar<br />
Wilde.<br />
Vượt hàng rào nhà Đoan, bắt một cái cab rồi<br />
đi thảng về nhà thằng con trai. Ớ đó, chờ tôi, có<br />
một chai Black and White, một chút tình gia đình,<br />
ngát hương thơm cơm gạo dự chín tới. Và khá<br />
nhiều hình ảnh trong ký ức. Những góc quán café,<br />
một phiên chợ lề đường, những bức tường thành<br />
lâu đài cổ, một cánh đồng xanh mướt, những đuôi<br />
mắt, những nụ cười, những tiếng chửi thề, những<br />
ông già chống gậy sưởi nắng công viên, những gốc<br />
cây, lá rụng bên bờ sông Seine, những dáng đi<br />
thoăn thoắt, một vài câu nhạc, những hình ảnh<br />
mờ mờ tỏ tỏ, những hình ảnh của một viễn<br />
phương tôi hằng mơ ước từ thuở mái tóc xanh, tôi<br />
đã đến, tôi vừa mới giã từ Paris.<br />
Lại bước xuống phi trường Minneapolis.<br />
(Thanh Tâm Tuyền như một ám ảnh. Chỉêu trên<br />
phi trường anh bống nhớ em, nhớ chuyến đi xa<br />
153
ước hẹn.) Tôi lên xe về nhà trong một tiết trời<br />
đảo lộn, giữa tháng 11, gió lạnh căm căm mà đất<br />
Vạn Hồ vẫn chưa phủ tuyết, cỏ bên đường khô<br />
cằn, người đi lại lác đác, cúi đầu đếm bước. Tôi<br />
bước vào phòng, vuốt nhẹ tấm mền ấm, nhìn qua<br />
khung cửa sổ. Vườn ông hàng xóm, cây evergreen<br />
vẫn xanh dờn bên cạnh mấy khóm hoa tulipe đã<br />
rũ khô. Đây đó cây phong cây du trụi lá.<br />
Thắp một nén hương, thầm trình Phật chuyến<br />
Pháp du vạn dặm vừa hoàn tất, đầu óc thấy lâng<br />
lâng như gội sạch bụi đường. Tôi kéo tấm chăn<br />
bông ngang ngực, vểnh tai nghe tiếng chim quen<br />
đang hót ngoài thềm. Chim líu lo hàn huyên một<br />
lát rồi yên lặng trở lại ngoài trời, trong phòng và<br />
trong tôi. Tôi cố nhớ lại một câu văn trong<br />
Quốc-văn-giáo-khoa-thư ngày nhỏ, cái hình in bên<br />
cạnh chưa phai nét trong trí nhớ. Người khách<br />
sông hồ nay đây mai đó, xa làng xóm cũ từ lâu,<br />
vai đeo khăn gói, tay cắp cái ô, bỗng một ngày trở<br />
về, bụi tre quê cũ phơ phất sau lưng. Có ông cụ<br />
già chống gậy đứng bên h ỏ i:<br />
— Đi đã nhiều nơi như ông, ông thấy nơi nào<br />
đẹp nhất ?<br />
Trả lời, đúng rồi, bèn trả lời khổng nơi nào<br />
đẹp bằng nơi chôn nhau cắt rún. Khổng nơi nào<br />
đẹp bằng. Không nơi nào đẹp. Không nơi nào.<br />
Không.<br />
*<br />
154
Không một tiếng động. Thị cố không trung ...<br />
vô nhĩ. Tất cả gian phòng, tất cả tôi thu lại chỉ<br />
còn là một sợi khói trắng vươn cao. Thị cố không<br />
trung ... vô nhãn. Tất cả gian phòng, tất cả tôi chỉ<br />
còn là một mùi hương thơm ngát.<br />
155
Cuối năm đi vê<br />
hướng mặt trời mọc<br />
Giữa tháng 10.<br />
Tiếng nói vi âm như từ trên trời tỏa xuống đêu<br />
đêu, dõi theo bước chân tôi dọc hành lang phi<br />
trường từ Minneapolis-St. Paul đến Detroit. Rồi<br />
Boston. Chiếc phi cơ 747 hãng T.W.A. cất cánh, 2<br />
ly Whisky cạn, sau 6 giờ bay và khoảng 6 giờ<br />
chênh lệch giữa hai bờ Đại Tây Dương, Khoan tôi<br />
đặt chân lên phi trường Roissy và bước những<br />
bước đầu chập chững đi vào sinh hoạt buổi sáng<br />
thành phố Paris.<br />
Parìs có gì lạ không em ?<br />
Nhưng lại quen quen. Chén cà phê Expresso<br />
nhỏ uống tại phi trường tuy khác hẳn với những ly<br />
cà phê nhạt nhẽo ở Mỹ nhưng hương vị lại nhắc<br />
đến những ly cà phê ngày nào, khu domino Đà<br />
Lạt. Miếng croissant thơm ngây chất bơ Bretagne<br />
không còn là miếng hamburger nhưng lại trở<br />
thành những miếng Madeleine gợi lại cái không<br />
khí thuở nào, Hà-nội, ngồi cạnh đàn bà, quán<br />
Brodart xế quán rượu Taverne Royale.
Tôi lên xe đi về nhà người bạn khu<br />
Montparnasse mà tưởng như lạc vào giữa đô<br />
thành Saigon, một buổi trưa tan sở kẹt xe. Cũng<br />
nhích từng bước, cũng chèn, cũng ép, cũng còi inh<br />
ỏi qua lại giữa hai xe.<br />
Trời mưa, kính xe mờ bụi nước. Không khí nhẹ<br />
bỗng tưởng như có ủ men Mai Quế Lộ. Xe đi<br />
vòng vo, ông bạn muốn đóng vai trò hướng dẫn :<br />
— Nhìn này. Tour Eiffel.<br />
Tôi trố mắt nhìn đống sắt ngất trời dựng cao<br />
trước mặt. Và nghĩ rằng cái lão kỹ sư sinh trưởng<br />
ở Dijon chắc “gan mỹ thuật” phải đầy mình mới<br />
dám dựng lên một “quái phẩm” như vậy giữa một<br />
kinh đô còn ôm ấp trong lòng biết bao nhiêu là di<br />
tích nghệ thuật ngày xưa. Xe nhích lên một chút,<br />
đủ để thấy giòng sông Seine chảy nhẹ dưới cầu.<br />
Và chợt hiểu răng ngắm tháp Eiffel, phải nghĩ<br />
đến sông Seine. Cũng như Tháp Bút và Hồ<br />
Gươm Hà-nội. Thế dương vươn lên tự hoá giải<br />
trong thế âm gợn sóng dưới cầu.<br />
Xe lại chạy vòng vo.<br />
— Đưa toa đi một vòng. Để ngắm Paris. Nhìn<br />
thấy Les Invalides chưa ?<br />
ừ thì Les Invalides. Rồi sao ?<br />
— Quartier Latin. BourMich’.<br />
Một lá t:<br />
— Arc de Triomphe. Champs Elysées.<br />
Xe đi vào một khu sinh hoạt tấp nập. Dừng lại.<br />
Bạn nhìn tô i:<br />
158
— 12 giờ trưa. Kiếm một quán rượu. Toa nghĩ<br />
sao ?<br />
“Moa” chịu liền.<br />
— Uống gì ?<br />
Bạn tôi sành rượu. Tôi để mặc anh ta tùy tiện.<br />
Anh nhìn qua tấm các rượu rồi quay lại tô i:<br />
— Uống một chút Bordeaux. Năm nay rượu<br />
Bordeaux được mùa.<br />
Ly đầu cạn, không thấy gì là đặc biệt. Bạn tôi<br />
lên tiếng :<br />
— Cái lưỡi của toa bị hư rồi. ơ bên đó uống<br />
gì ?<br />
— Thì cũng nhì nhằng... Whisky hay Bourbon.<br />
Black and White ... Jack Daniel.<br />
Bạn tôi gật gù :<br />
— Jack Daniel thì được. Nhưng nhiều quá nó<br />
dại lưỡi đi, rượu chát phải đến ly thứ hai mới<br />
thấy vị.<br />
Không biết có phải vì ảnh hưởng lời nói của<br />
bạn tôi hay không mà đến ly thứ hai, rượu từ<br />
miệng qua lưỡi, trôi nhẹ vào cổ họng cứ như là<br />
dòng suối ngọt giữa trưa chảy vào cát sa mạc. Và<br />
đến ly thứ ba thì tôi bỗng thấy tôi biến dạng, tôi<br />
trở thành một thứ parisien chính thống. Cũng gật<br />
gù, giơ tay, đập chân, nhún vai. Và gọi một ly<br />
nữa.<br />
Đêm đầu tiên ở Paris, cũng lại uống. Và từ lầu<br />
thứ 9 của một building khu Montparnasse, tôi<br />
159
nhìn xuống Paris ban đêm. Và chếnh choáng<br />
thiếp đi trong ánh đèn mọc lên từ ngoại ô đến<br />
trung tâm thành phô'.<br />
Toà ngang dãy dọc lầu đài Versailles. Hồ nhân<br />
tạo. Cây trồng thẳng tấp. Đường lót đá. Đi theo<br />
một đám đông đủ màu da xem dãy Grands<br />
Appartements trả thêm tiền — 6 quan — để tò<br />
mò ngắm dãy Petits Appartements. Cửa lớn, cửa<br />
bé, cửa kín, cửa hở, hành lang dằng dặc dẫn từ<br />
phòng ngủ của vua nọ đến phòng ngủ của vị<br />
hoàng hậu kia. Tôi không để ý đến lời giảng dạy<br />
của người hướng dẫn. Tôi nghĩ đến những dạ hội<br />
từng bừng yến tiệc kéo dài cho tới hừng đông, nơi<br />
đây ngày cũ, những bước chân dón dén từ hàng<br />
lang sâu thảm đi vào những thiên bí sử thâm<br />
cung. Và tôi hiểu tại sao bỗng một ngày nhân dân<br />
Paris đã nổi dậy.<br />
Lần từng bước trong Bảo tàng viện Le Louvre,<br />
ngắm đến no mắt những nét thảng đường cong,<br />
những mảng nhịp nhàng màu sắc của biết bao tận<br />
dụng khổ công lao từ những thế kỷ nào để lại đến<br />
bây giờ, đi mãi, đi lên, đi xuống, dừng lại trước<br />
một nụ cười kỳ lạ. Nụ cười hàm tiếu La Joconde.<br />
Mỗi dân tộc có một cách cười đặc biệt. Nụ<br />
cười Anh Cát Lợi kín đáo như mờ mờ ảo ảo<br />
trong sương mù Luân Đôn. Người Pháp cười như<br />
đùa cợt. Người Đức nở chậm nụ cười. Người<br />
Nhật cười vang. Người Mỹ vừa cười vừa nói<br />
160
thầm : phó mát (cheese). Việt Nam mình thì ...<br />
đúng như lời tiền bối Nguyễn văn Vĩnh đã nói, gì<br />
cũng cười.<br />
Nhưng Mona Lisa vốn gốc ở Florence, mà<br />
không cười như Ý Đại Lợi, ngụ ở Paris mà không<br />
cười như Pháp. Nàng cười như ... nàng. Đặc biệt.<br />
Chỉ có nàng cười như vậy. Biết bao con mắt đã<br />
nhìn nàng, mỗi cái nhìn là một tâm sự, mỗi tâm<br />
sự là một tra vấn, mỗi tra vấn, nụ cười của nàng<br />
là một niềm thông cảm. Nhung đồng thời, rốt ráo<br />
lại là một tra vấn riêng tư. Yêu ? Thì yêu đi.<br />
Nhưng tình yêu đích thực là gì ? Sống ? Trời xanh<br />
thẳm, hãy hít đầy lồng ngực tất cả gió của biển<br />
vùng Địa trung hải. Nhưng anh ơi, sống ... để làm<br />
gì ? Chết ? Cũng cứ được, nếu là một sự tận cùng.<br />
Nhưng nếu chết lại chỉ là một trở lại bắt đầu ?<br />
Tôi đứng lặng trước nụ cười đó. Nghe nàng kể<br />
lể nỗi niềm. Thế nào là đau khổ. Thế nào là làm<br />
người. Thế nào là sáng tác.<br />
Tôi kéo tay anh bạn :<br />
— Muốn xem hết Paris, ngắm hết Le Louvre,<br />
phải một năm, nhiều năm.<br />
Tôi nghĩ: phải một đời người.<br />
Lại bước vào một quán rượu. Lúc bấy giờ vào<br />
khoảng xế chiều. Nắng quái nghiêng ngả trên<br />
chòm cây xa xa vườn Luxembourg. Bỗng nhớ lại<br />
câu văn xưa của Anatole France, câu văn học<br />
thuộc lòng từ lớp nhất trường Sinh Từ, câu văn<br />
161
thuộc lòng từ lớp nhất trường Sinh Từ, câu văn<br />
viết khoảng đầu thế kỷ cũng vào tháng này, Paris,<br />
câu văn thương cho đôi vai trần của một bức<br />
tượng đá vườn Luxembourg lá vàng rơi trong thu<br />
muộn. Ngậm ngùi một cách rất lẩm cẩm, rằng<br />
tượng này còn đó, đôi vai vẫn trần trong gió thu<br />
đã lạnh, mà người thương vai ngày trước không<br />
còn. Ngậm ngùi trở thành một cái cớ. Để gọi<br />
thêm một ly.<br />
162
k '<br />
cháo ám với Vĩnh An ở Paris<br />
Tôm, cua, cá, nghêu, sò, hến, thịt bò, thịt vịt,<br />
thịt gà, rau xanh, cà tô mát đỏ ửng, hành, tỏi,<br />
khoai, hoa và quả, tất cả bầy lộ thiên hai bên lề<br />
một con đường nhỏ, người đi, kẻ lại, người mua,<br />
kẻ bán, mặc cả, to tiếng, giơ tay, dậm chân, cười<br />
cười, nói nói. Tôi thấy lòng phơi phới như thuở<br />
nào đi giữa một phiên chợ cửa Ô Hà-nội. Ô Đóng<br />
Mác hay Ô Câu Dền ? Đây Paris 1980, 40 năm<br />
sau thuở đó. Đây chợ Mouffetarđ, hàng vạn dặm<br />
xa vời con đường thoăn thoắt gót chân cô hàng<br />
bán cốm làng Vòng. Có tiếng phong cầm từ xa<br />
vảng lại. Anh xẩm Pháp-lang-tây mắt đeo kính<br />
sậm màu, giọng ca rất mùi, tôi từ quán rượu bên<br />
đường chỉ nghe lõm bõm một câu : C’est à Capri<br />
que je l’ai rencontrée. Gặp nàng ở Capri. Đã gặp<br />
chắc là yêu. Trời xanh thẳm vùng bể Địa trung<br />
hải. Rồi lại xa nhau. Capri, Hậ-nội thuở đó, Paris.<br />
Ngồi bên tôi có thư sinh họ Bùi, văn võ song<br />
toàn, vừa là võ sư môn quyền Thái cực nước Yên<br />
xưa, lại kiêm cả môn toán học. Họ Bùi thủ th ỉ:<br />
— Khu Mouffetard đã bị thương mại hóa. Tụi
touristes làm hỏng cả. Nhưng ở đây còn có một<br />
cái đặc biệt. Croissant ngon nhất Paris.<br />
Dứt lời, vận khinh công đi tìm croissant. Tôi<br />
nhắp một ngụm cà phê, châm một điếu thuốc.<br />
Một bà già bước tới quầy rượu. Bà già cổ quấn<br />
khăn đỏ, hai tay nâng chiếc giỏ, khoe với cô bán<br />
hàng :<br />
— Xem này. Tươi không ?<br />
Và tiếp :<br />
— Một đỏ.<br />
Nghĩa là một ly rượu chát đỏ. Cô bán hàng<br />
thọc tay vào giỏ bà già, kéo lên một con cá. Cá<br />
quẫy. Cô gật gù, chùi tay vào chiếc tablier quàng<br />
trước ngực. Rồi rót rượu. Bà già kéo ly rượu về<br />
phía mình tía lia một hồi. Trời rét. Năm nay lạ<br />
nhỉ ? Vùng Bretagne tuyết rơi suốt ngày hôm qua.<br />
Không biết Giscard có đắc cử hay không ? o. Ai<br />
đắc cử thì đắc cử. Kệ. Già này vẫn cứ thế. Đúng<br />
không. Cô bán hàng trả lời bàng vai, bằng mắt,<br />
bằng tay và cả hai chân. Nhún vai nheo mắt,<br />
giơ hai tay lên trời, dậm chân. Bỗng cô quay lại,<br />
hai tay chống nạnh, mắng anh bồi bàn như tát<br />
nước. Rồi lại cười như nắc nẻ. Bà già thấy câu<br />
chuyện của mình bỗng trở thành một cuộc độc<br />
thoại, bèn ngoảnh lại Khoan tôi, nhún khẽ đôi<br />
vai, đưa vội ly rượu lên miệng. Một động tác rất<br />
Pháp. Một tợp, sạch ly. Rồi đặt ly xuống quầy<br />
hàng, xách giỏ, lẩm bẩm với con cá trong giỏ, đi<br />
ra cửa, lắc lư cái đầu. Tôi nhìn theo. Tấm khăn<br />
164
quàng đỏ lẩn vào đám đông.<br />
Vừa lúc đó, một người khoảng trung niên bước<br />
nhẹ vào trong quán. Người này mình gầy vóc hạc,<br />
bận áo bông ngắn màu sậm, đội chiếc mũ cát-két,<br />
mồm ngậm tẩu dài. Thoạt nhìn, tưởng như một<br />
thư sinh. Nhưng cánh tay giơ lên mà tay áo căng<br />
phồng, ngón tay vừa chỉ, một ly cà phê đen đã<br />
được đặt ngay trước mặt, thấy vậy, Khoan tôi biết<br />
ngay rằng người đối diện có một công lực thâm<br />
hậu. Định thần nhìn kỹ, bỗng phá lên cười. Thì ra<br />
người vừa vào là họa sĩ Vĩnh Ân.<br />
*<br />
Vĩnh An vốn dòng dõi Nguyễn Phước đất<br />
Thuận Hóa. Thuở nhỏ có duyên gặp nhà văn lớn<br />
Nhất Linh khuyên nên đi xa tìm đạo. Bèn đi vê<br />
phương Tây, sống lang bạt nơi sông hồ. Nhưng<br />
đêm đêm thường đốt hương ngồi quán với cái<br />
mềm mại của ngọn bút lông con thỏ trắng, một<br />
tấm lụa La Khê và một ánh trăng xanh. Hai mươi<br />
năm sau, đắc đạo, thông suốt hành trình của sự<br />
sống và vấn đề rốt ráo của con người. Bèn căng<br />
lụa, giầm bút vào màu và sắc của trời và đất mà<br />
đem thời gian vào tác phẩm.<br />
Với Khoan tôi, Vĩnh Ân vốn có duyên văn tự.<br />
Biết nhau qua một vài tác phẩm. Gặp nhau Tân<br />
này là thứ nhì mà ngậm ngùi tiếc không gặp nhau<br />
từ lâu. Khoảng 1978, nhân một cuộc triển lãm<br />
tranh Vĩnh Ấn ở Paris, tôi đang ngồi buồn ở đất<br />
165
Vạn Hồ, được ngắm một vài bức tranh của anh<br />
chụp lại trong một cuốn sách nhỏ mà cảm khái vô<br />
cùng. Lúc đó, trời lại trở sang thu, gió thu hiu hắt,<br />
cây phong rừng xa đỏ rực, cành du xơ xác lá du<br />
rơi, tôi bèn viết một đoạn văn nhỏ phẩm đề. Xin<br />
trích lại một vài giòng.<br />
"... Tranh Vĩnh Ân đượm cái không khí ngùi<br />
ngùi một người tiễn một người, nửa khuya ga xép<br />
lộng gió rừng, ngọn đèn signal Tông kính lắc lư<br />
trong tay người xếp ga ngái ngủ, tấm biển sắt rung<br />
rinh treo tníớc sân ga. Mường Mán hay Phô' Lu ?<br />
Ngược cao nguyên hay men theo thung lũng Hông<br />
Hà tiến lên biên giới ? Mỗi bức tranh Vĩnh Ân là<br />
một lên đường. Một mình. Lâm lũi. Khởi đi là một<br />
nét tưởng-như-bốc-đồng. Để, trùng trùng duyên<br />
khởi, từng mảng màu tiếp nối, một tác phẩm thành<br />
hình. Nhưng khi nét cuối cùng dừng lại, nơi đến lại<br />
chỉ là một quán trọ tạm thời, một sửa soạn khởi<br />
hành tiếp tục. Tôi biết, bằng nét và màu, Vĩnh Ân<br />
không chỉ đuổi theo một trọn vẹn nghệ thuật. Anh<br />
còn muốn thỏa mãn hơn một nhu câu rung động<br />
giữa nét và màu.<br />
... Từ một thể kiết già, Vĩnh Ân đã vươn vai<br />
đứng dậy, bước vào một cuộc sông có danh và sắc,<br />
chấp nhận làm người để làm nghệ thuật. Trong<br />
một thế giới vô thường mà anh thừa biết là vô<br />
thường. Cái vô thường thể hiện bàng nhiêu hình<br />
nhiêu dáng, những nét trăng : những vâng trăng<br />
166
khuyết, những nét trăng ràm, những vệt trăng non<br />
thon dáng lưỡi liêm. Trăng như một ám ảnh khôn<br />
nguôi. Trăng mọc khắp ngả lộ trình Vĩnh Ân.<br />
... Và khi con tàu dừng lại chặn cuối lộ trình,<br />
nơi ga xép mang tên là Death, tôi mới hiểu tại sao<br />
muôn hình vạn trạng của trăng đã thôi hiện hữu :<br />
trăng đã di vào lòng của nước, để tất cả nước và<br />
tất cả trăng trở thành một nên xanh lơ tái ngắt,<br />
“màu thời gian xanh xanh, màu của thời gian im<br />
sững”.<br />
Thư sinh họ Bùi vận bảy thành công lực, cắp<br />
con cá còn đang quẫy mạnh, đề khí phóng lên ba<br />
tầng lầu. Lò sưởi đốt lên. Lá thơm một nắm đút<br />
vào bụng cá. Cá được đặt giữa lò. Khói đượm<br />
hương thơm xanh ngát gian phòng. Mặt cây<br />
dương cầm trở thành quầy rượu. Những bản nhạc<br />
Mozart hòa âm với tô mắm nêm. Đĩa nem chua<br />
đặt trên một cuốn sách của Hermann Hesse. Gió<br />
lạnh ngoài trời. Gian phòng ấm cúng. Mùi cá<br />
thơm lừng. Một ly rồi hai ly. Đã hai tất phải ba.<br />
Bởi không thể chỉ hai mà không có ba. Cứ thế.<br />
Cho đến khi chai thứ nhứt không còn một giọt,<br />
chai thứ nhì vơi chừng một nửa, gió chiều nổi lên<br />
từ phía sông Seine. Cho đến khi nắng quái hắt<br />
ngang ánh lóe nóc thánh đường nhon hoắt cây<br />
thánh giá rung rinh trên bức tranh Vĩnh An góc<br />
tường. Cho đến khi tôi đồng ý với thư sinh họ Bùi,<br />
ông thầy dạy toán, rằng 2 lần 2 là 5.<br />
167
Cứ thế, cho đến lúc đó. Và chúng tôi rời gian<br />
phòng nhỏ, dắt díu nhau đi vào sinh hoạt ban<br />
đêm Paris.<br />
Khoảng tháng 11-80<br />
168
Đọc kỉnh<br />
NHƯ LAI VÔ SỞ THUYẾT<br />
I<br />
1984.<br />
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc,<br />
tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một<br />
khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy<br />
vần thơ cũ đã quên mất cả nguyên văn :<br />
Chàng như mây mùa thu<br />
Thiếp như khói trong lò.<br />
Cao thấp tuy có khác<br />
Một thả cũng tuyệt mù<br />
Đọc lại bài thơ. Rất nhỏ, từng chữ, từng vần.<br />
Rất nhỏ, đủ để một mình mình nghe. Cho đến khi<br />
lời thơ tan rã, ý thơ nhạt nhòa, cho đến khi trong<br />
tôi, về bài thơ, rớt lại, chỉ còn một chút bâng<br />
khuâng không tên thì tôi lặng thinh đi vào cái<br />
bâng khuâng đó. Quanh một chữ. Tuyệt mù. Nghĩ<br />
đến một cánh chim thoáng trên mặt nước. Bóng<br />
chim, nước không lưu giữ. Chim đâu để lại đường<br />
bay ? Khói mây tan tác. Âm thanh, màu sắc cũng<br />
vậy. Cũng vậy, thiếp và chàng. Tất cả, một thả<br />
cũng tuyệt mù. Kể cả chữ và lời. Kinh và Kệ.
*<br />
* *<br />
Tôi hiểu tại sao những người lớn của nhân loại<br />
tự cổ thảy đều chỉ muốn nín thinh. Khổng Khưu,<br />
Lão Đam và Thích Ca Mâu Ni. Trời không nói, ta<br />
đâu muốn nói ? Ta đâu có thuyết lời nào ? Cái ta<br />
muốn nói, cái đó, đâu có thể nói được ? Cái đó,<br />
bất khả thuyết, bất khả từ nghĩ. Bất khả đạo.<br />
Nói ra là bị kẹt<br />
Nhưng rồi Khổng Khưu vẫn nói, cả đời. Lão<br />
Đam thì nói đến 5.000 chữ Đạo đức kinh và Thích<br />
Ca Mâu Ni trong suốt 49 năm hoằng pháp,<br />
nguyên lời Đại Bát Nhã, đã nói ròng rã tới 22<br />
năm.<br />
Không nói cũng không xong.<br />
*<br />
* *<br />
Nói ra là bị kẹt<br />
Không nói cũng không xong<br />
Hai câu đầu một bài kệ của một thiền sư Việt<br />
Nam sống giữa thế kỷ thứ 17, thiền sư Chân<br />
Nguyên. Hai câu kệ, một thế đứng chênh vênh<br />
giữa hai ngả hữu vô. Nói hay không nói ? Chung<br />
170
cuộc, bài kệ đành phải chấm dứt bằng một nét<br />
chấm phá lửng lơ :<br />
Vì anh đưa một nét<br />
Đâu núi ánh dương hòng<br />
Tôi duỗi thẳng chân, ngửa mặt nhìn nắng sớm<br />
xuyên qua miếng băng bám nơi khung cửa, ánh<br />
nắng lung linh màu sác cầu vồng. Tự hỏi nắng<br />
sớm đích thực màu gì ? <strong>Xa</strong>nh hay đỏ, tím hay<br />
vàng, hay là do tất cả màu sắc gặp gõ' mà thành ?<br />
Nhưng có cuộc gặp gỡ nào kéo dài mãi mãi ?<br />
Ánh dương đầu núi đâu giữ mãi màu hồng ? Cái<br />
thế chênh vênh giữa hữu và vô đâu có thể đời đời<br />
tồn tại ? Cái khó là nhập vào cái thế đó, không<br />
thỏa hiệp, mà vươn lên, và vượt qua. Từ cái phức<br />
tạp tìm về cái đơn thuần, tìm về cho tới cái khuôn<br />
mặt của chính mình khi mình chưa sinh, chưa<br />
thành. Ánh dương hồng khi chưa nhô lên khỏi<br />
đầu núi. Cái xôn xao nhú lên trong đêm sắp tàn.<br />
Cái đó.<br />
Ngoài vườn tuyết rơi trắng và lạnh trong im<br />
sựng của trời và đất. Trong lò củi nổ ròn tan,<br />
ngọn lửa thấp cao ấm màu hổ phách. Ngoài kia,<br />
vắng lặng. Trong tô i... vẫn chưa vắng lặng. Trong<br />
tôi, tôi vẫn thấy rằng ... chưa ổn. Đẩy thêm củi<br />
vào lò. Củi gỗ cây phong phơi nỏ từ vào thu, lửa<br />
như bốc ngọn từ lòng gỗ. Mộc trung sinh hỏa. Mộc<br />
tận hỏa hoàn diệt. Lửa sinh trong lòng gỗ. Gỗ hết<br />
lửa không còn. Lửa không còn, nghĩa là... sao ?<br />
171
Lửa sẽ biến thái tuy vẫn tồn tại hay cũng như<br />
khói và mây, lửa sẽ trở vê, sẽ đi vào lòng cái đó,<br />
tuyệt mù ?<br />
*<br />
* *<br />
Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị<br />
thiện-trí-thức, chưa một vị bồ-tát nào mô tả được<br />
hình tướng, xác định được thể chất, cái đó có<br />
thể giản dị như mưa và nắng, hiện hữu rất tự<br />
nhiên — mặt trời lại mọc lúc đêm tàn — nhưng<br />
cũng lại có thể vô cùng phức tạp, ẩn hiện vô<br />
lường, với vô lượng danh hiệu, mỗi danh hiệu là<br />
một khía cạnh đặc thù, Chân Tâm, Diệu Tâm,<br />
Minh Tâm, Bồ Đề Tâm, Giác Tánh, Chân Như,<br />
Phật Tánh, Pháp Giới Tánh, Không Tánh, Như<br />
Lai Tạng Tánh, Bát Nhã ... cái tột không, cái diệu<br />
sắc, cái bất-khả-tư-nghì, cái rốt ráo cuối cùng...<br />
riêng với tôi, từ bỏ nước ra đi, những nửa khuya<br />
tỉnh giấc, cái đó — chính nó — đôi khi vẫn thấp<br />
thoáng trong tôi, hóa trang thành những lời tra<br />
vấn trớ trêu, những tại sao ray rứt, lãng đãng<br />
quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại<br />
xa vời, nhòa dần, biến hẳn, tuyệt mù. Trong đêm<br />
đen mạt pháp, còn lại chỉ là những vết tích mờ<br />
mờ ghi lại trong kinh và kệ. Những vết tích như<br />
những dấu chỉ đường. Vô lượng nẻo đường, vô<br />
172
lượng phương tiện, tùy theo căn cơ của từng<br />
chúng sinh trong vô lượng chúng sinh, tùy theo<br />
từng cõi pháp trong hằng-hà-sa-số cõi pháp.<br />
Nhưng cứu cánh chỉ là một. Cái đó.<br />
Dõi theo cái đó, “có cõi lấy ánh sáng của Phật<br />
làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy Bò Tát làm<br />
phương tiện nói pháp,có cõi lấy bóng mát cây Bô<br />
Đê làm phương tiện nói pháp, có cõi lấy hư không<br />
để nói pháp, có cõi lấy lời và chữ để mà nói<br />
pháp... ”<br />
Tôi đặt cuốn Duy Ma Cật xuống bên lò sưởi,<br />
nhồi thuốc vào tẩu, hít hơi thuốc đầu trong ngày.<br />
Hơi thuốc thơm tỏa ấm gian phòng. Bất giác tôi<br />
nghĩ đến một mùi hương lạ. Một mùi hương như<br />
một phương tiện nói pháp. Mùi hương cõi nước<br />
Chúng Hương. Trở lại cuốn kinh •.“Qua khỏi 42 số<br />
cát sông Hằng cõi Phật, có nước tên là Chúng<br />
Hương, đức Phật thị hiện nơi đó là Phật Hương<br />
Tích. Mùi hương nước đó so với mùi hương cõi<br />
trời, cõi người và các cõi Phật ở 10 phương, nó<br />
thơm hơn hết. Đức Phật Hương Tích lấy mùi làm<br />
phương tiện để nói pháp. Chúng sinh cõi nước<br />
Chúng Hương nghe mùi hương mà ngộ đạo ”.<br />
Tôi hít dài một hơi thuốc. Đầy phổi. Hơi<br />
thuốc nghe như có pha trộn nhiều mùi hương<br />
cũ tôi tưởng đã phai, đã tuyệt mù. Mùi úa hoa<br />
ngọc lan, mùi ấm hoa hồng, mùi ngái hoa cau,<br />
mùi đạm hoa sói hoa ngâu, mùi đắng hoa sấu<br />
173
nắng hè tháng sáu, mùi nồng hương đêm dạ lý.<br />
Và mùi ngát của nhang.<br />
*<br />
* *<br />
Ráng chiều miền đồi Bắc Việt đổ rộng một<br />
nền gạch Bát Tràng. Gốc cau, gốc đại, ngọn cỏ kẽ<br />
tường, cánh hoa bèo tím ngát bờ ao, tất cả lóe lên<br />
trong nắng muộn, tan vào mùi ngát của khói<br />
nhang. Nắng nhạt rồi tắt ngấm. Đất lẫn với trời.<br />
Tự bàng bạc sương khói dâng lên, một cõi pháp<br />
thành hình, chúng sinh mộc mạc hiền lành chỉ có<br />
một phật hiệu để làm phật sự. Vọng ra tự đó —<br />
mái chùa cong vát chữ đao, cổng tam quan thềm<br />
đá nhẵn lì — không phải là những ngôn từ hiểm<br />
trở Lăng-Già, Bát-Nhã, Pháp-Hoa hay Viên-Giác,<br />
mà chỉ phật hiệu đó, mà chỉ A-Di-Đà-Phật,<br />
Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật. Có thế thôi, mỗi chiều<br />
ngày xưa Việt Nam. Có thế thôi, nhưng mỗi<br />
chiều, bình thản vẫn trở vê trên vầng trán hai<br />
sương một nắng những bà mẹ Việt Nam. Nén<br />
nhang đốt lên, khói nhang vẫn vươn cao và<br />
thẳng tấp. Như mây mùa thu, vẫn tuyệt mù. Như<br />
đã thuộc nằm lòng con đường trở về nơi đó,<br />
nơi mà kinh và kệ từ xưa vẫn hằng hướng<br />
tới. Nơi đó, tắt lời. Cõi đó rốt ráo vô ngôn,<br />
vẩng lặng, lấy hư không mà làm phật sự. Một<br />
174
đóa sen giơ cao, một nụ cười đáp lại. Trong yên<br />
lặng. Cõi đó, chân kinh ?<br />
*<br />
* *<br />
Cõi đó, chân kinh. Tới được đó, đã có người.<br />
Trong số, người ta thường nhắc đến tên vị tổ thứ<br />
28 dòng Thiền Tây Trúc là Bồ Đồ Đạt Ma.<br />
Nhưng tại sao khi dời triền núi Hi Mã Lạp Sơn<br />
khi cập bến Quảng Châu, trong hành trang Người<br />
vẫn còn một bộ Lăng Già ? Tôi nghĩ rằng vào lúc<br />
đó, có thể trong tận cùng tâm thức, đôi khi Người<br />
vẫn còn thấy gọn lên 108 lời tra vấn Đại Huệ và<br />
chỉ sau 9 năm diện bích nơi thâm sơn Thiếu Thất<br />
khi tuyên bố rằng kinh Lăng Già sau 500 năm, sẽ<br />
trở thành môn học danh tướng, chỉ tự đó, Người<br />
mới dứt khoát với kinh và kệ, Người mới thực sự<br />
bước vào cõi đó, chân kinh.<br />
*<br />
* *<br />
Lăng Già là tên một ngọn núi nằm giữa biển<br />
Nam, nơi vua Dạ Xoa thỉnh Đức Phật lên thuyết<br />
Pháp. Núi đó cao vòi vọi nhìn xuống biển sâu,<br />
đá dựng thẳng như tường, trơn như mỡ, không có<br />
lối đi lên. Phải có phép thần thông hoặc được<br />
175
Đức Phật sử dụng nội lực vô lượng giúp cho mới<br />
có thể tới được. Lời Phật nói pháp truyền xa,<br />
rộng và sâu, vọng ra tới vô lượng số cõi Phật,<br />
được ghi lại băng Phạn tự gọi là kinh Lăng Già.<br />
Kinh này sau được Thiền sư Câu Na Bát Đà La<br />
dịch ra chữ Hán và đến thế kỷ thứ 20 thì chuyển<br />
sang Việt ngữ. Tự lời tiên tri của Bồ Đề Đạt Ma<br />
khoảng tiền bán thế kỷ thứ 6 đến nay, nhiều<br />
lần 500 năm đã qua, tôi giật mình tự hỏi cái<br />
mà đức Thế Tôn muốn dạy tại đỉnh Lăng Già —<br />
cái đó — qua ba chặng đường chuyển ngữ từ<br />
Phạn qua Hán đến Việt, không biết có còn rớt lại<br />
chút nào trong những trang kinh tôi đọc đêm qua.<br />
Hay còn lại chỉ là ngôn từ, chỉ là danh tướng ?<br />
*<br />
* *<br />
Nghe tin Bồ Đề Đạt Ma cập bến Quảng Châu,<br />
Lương Võ Đế vội thỉnh Người đến kinh đô. Vua<br />
h ỏ i:<br />
— Trẫm chép kinh, xây chùa, độ tăng, đúc<br />
chuông, tạc tượng. Có công đức gì không ?<br />
Người vắn t ắ t :<br />
— Không.<br />
Vua lặng thinh một lát. Lại h ỏ i:<br />
— Đối diện trẫm là ai vậy ?<br />
Người rằng :<br />
176
— Không biết.<br />
Cuộc đoái thoại ngắn ngủi: hai lần khẳng định<br />
và hai lần phủ định. Có, không. Nhà vua cố chấp.<br />
Bồ Đề Đạt Ma động lòng đại bi, mở ra một<br />
đường phương tiện. Không. Không công đức.<br />
Không có Bồ Đề Đạt Ma. Không có Trẫm.<br />
Không có gì hết. Ngay cả cái không tôi vừa đề<br />
cập. Hãy hiểu rằng rốt ráo, không cũng lại là<br />
không.<br />
Nối nghiệp Lương Võ Đế. Thái tử Chiêu Minh<br />
tiến thêm một bước vào sâu vết cũ. Giữa kinh đô,<br />
Chiêu Minh dựng một tòa lầu bằng đá gọi là<br />
Phân Kinh Thạch Đài, để sưu tầm, tập trung,<br />
nghiên cứu, kiểm kê, giải thích, sắp xếp, tàng trữ<br />
kinh và kệ. Phật giáo nghiễm nhiên được coi như<br />
quốc giáo. Số người xuất gia trong nước tăng lên<br />
gấp bội. Kinh sách xếp trên kệ đá Phân kinh càng<br />
lúc càng nhiều. Mọi người đua nhau đi tìm kinh<br />
lạ. Những bậc trí thức hễ gặp nhau là lập tức thảo<br />
luận về thiền. Bán già, Kiết già, Kim cương tọa,<br />
Ma tọa, Kiết tường tọa, Tam muội ấn, là những<br />
danh từ cửa miệng mọi người. Không những Lăng<br />
Già mà hầu như tất cả kinh và kệ lần lần trở<br />
thành nhữnp môn học danh tướng. Nghĩa kinh<br />
phai nhạt. Y kinh tuyệt mù. Còn lại, chỉ là một<br />
mớ ngôn từ tạm gọi là kinh và kệ và giữa kinh đô,<br />
với ngày và tháng qua đi, một vài tảng đá xếp<br />
đống tạm gọi là Phân kinh thạch đài. Miệng Phật<br />
nín thinh. Đêm mạt pháp bắt đầu.<br />
177
*<br />
* *<br />
Bất giác mấy câu Duy Mạ trở lại trong tôi.<br />
Có cõi lấy mộng lấy huyễn ... Tôi mở cuốn kinh<br />
đọc tiếp, vừa đủ cho một mình nghe rõ. Từng<br />
chữ, từng câu. Có cõi lấy mộng, lấy huyễn, lấy<br />
vang, lấy bóng, lâỷ ảnh trong gương, lấy trăng dưới<br />
nước, lấy ánh nấng dợn ngoài trời để mà nói pháp.<br />
Tôi nhắc lại, như điệp khúc một bản tình ca, tôi<br />
nhắc lại ánh nắng dợn ngoài trời. Như một lời<br />
niệm Phật. Tôi tưởng đến nắng một chiều thuở<br />
đó, nắng dợn trên đá Phân kinh và nắng và đá —<br />
tại sao không — bỗng nhiên nói pháp. Với một<br />
người. Nguyễn Du.<br />
*<br />
* *<br />
Khoảng đầu thế kỷ thứ 19, nhân một chuyến<br />
đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du có dịp đến<br />
thăm Phân kinh thạch đài. Bấy giờ — trên 1.000<br />
năm đã qua — đá đài Phân kinh đã mòn. Rêu leo<br />
xanh mái, mưa cũ đọng chân tường, cỏ dại<br />
lấp lối đi, hoang vu hun hút hành lang vắng<br />
lặng. Trời ngả vào chiều. Nắng quái lung linh<br />
vách đá. Đâu rồi những vết kinh xưa. Lăng Già,<br />
Viên Giác, Bát Nhã, Kim Cương. Kim Cương ...<br />
178
Ngã độc Kim Cương thiên biến lỉnh.<br />
Tôi nghe như vay : Một hôm tại nước Xá Vệ,<br />
Phật và 1250 vị Đại tỳ kheo đều ở tịnh xá<br />
Kỳ Hoàn, trong vườn của Thái tử Kỳ Đà và ông<br />
trưởng giả cấp Cô Độc. sắp đến giờ ngọ trai, Phật<br />
và chúng tăng đểu đắp y, mang bình bát vào thành<br />
Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong,<br />
Phật và chúng tăng đông vè tịnh xá để thọ trai. Sau<br />
khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa<br />
chân, rồi trải tọa cụ, ngòi yên tịnh. Khi đó, ở trong<br />
đại chúng, ông trưởng lão Tu B'ô Đ'ê đứng dậy, vén<br />
tay áo bên hữu, gối bên hữu quỳ xuống, chắp tay<br />
cung kính và bạch Phật rằng: — Hy hữu thay, đức<br />
Thế Tôn ! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị<br />
B'ô Tát. Ngài rất hay khéo dạy bảo các vị B'ô Tát.<br />
Bạch Thế Tôn, nếu có người phát tâm B'ô Đê<br />
muốn câu quả Phật, thì :<br />
Làm sao hàng phục vọng tâm ?<br />
Làm sao an trụ chân tâm ?<br />
Hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm, hai<br />
niềm thắc mắc không riêng của ông Tu Bồ Đề,<br />
mà của toàn thể đại chúng thuở đó, của chúng ta<br />
hôm nay, của Nguyễn Du, riêng Nguyễn Du một<br />
mình.<br />
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh<br />
1.000 lần, hai niêm thắc mắc đó đặt ra. Và biết<br />
bao nhiêu lần nữa, khi cuốn kinh gấp lại ? Đôi<br />
179
khi, từ những ngôn từ tường-đồng-vách-sắt dựng<br />
lên trong kinh nghe cũng có vọng ra bên ngoài,<br />
lọt vào tâm thức Nguyễn Du một chút gì — như<br />
vậy, như vậy — tạm gọi là nghĩa của kinh. Nhưng<br />
nghĩa đó chắc đâu đã là ý của người nói kinh ? Y<br />
của đức Thế Tôn năm xưa đâu phải chỉ là như<br />
vậy, như vậy ?<br />
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh<br />
Lần thứ 1.000 lẻ một, không có kinh. Chỉ có<br />
nắng chiều và đá tảng. Nắng dợn trên đá phân<br />
kinh. Và đá và nắng bỗng nhiên hội duyên nói<br />
pháp.<br />
*<br />
* *<br />
Thuở đó nơi đây sầm uất lạ thường. Mái lầu<br />
cong cánh hoa sen, tiền đình hậu tạ, muôn hồng<br />
ngàn tía cỏ lạ hoa thơm, hồ nhân tạo đặt tên là<br />
biển Nam Hải, hòn dã sơn mệnh danh là núi Tu<br />
Di. Bên trong, phòng ốc nguy nga lộng lẫy ngăn<br />
nắp từng khu, mỗi khu một tên, khu Lăng Già,<br />
khu Viên Giác, khu Pháp Hoa, khu Bát Nhã, kinh<br />
sách không thiếu một bộ, sử liệu ghi từng chi tiết<br />
từ đản sinh đức Thế Tôn đến ngày Người nhập<br />
Niết Bàn, từ ngày Người truyền y bát cho ông Ma<br />
Ha Ca Diếp, từng hành vi, từng lời kệ của từng vị<br />
tổ, hành trạng kéo dài tới ngày Bồ Đề Đạt Ma<br />
180
cập bến Quảng Châu.<br />
Thuở đó, xa rồi. Chấm dứt. Giờ đây nắng tắt,<br />
đá mòn. Giờ đây chỉ còn một chút chập chờn.<br />
Trong đêm nghe như đã bắt đầu, lời kinh âm u<br />
như vọng như chân, nghĩa kinh ẩn ẩn hiện hiện,<br />
ánh lửa chài le lói bên sông lạ, ý kinh tuyệt mù<br />
trong mộng và huyễn, là bọt nước mặt hồ trong<br />
cơn mưa ngâu, sương chiều đọng lại, giọt sương<br />
mai tan đi. Vừa kịp thấy đó, chớp mắt không còn,<br />
mới nghe vang lên đã chìm vào sâu lặng, hay, rồi<br />
lại lãng đãng, nhạt nhòe, biết mà nói lên thì bất...<br />
khả thuyết. Thấy-nghe-hay-biết chỉ là chập chờn<br />
cánh con bướm trắng trên luống cải xanh. Hay chỉ<br />
là một niệm khởi lên chập chờn sương khói,<br />
Nguyễn Du đã lọt vào một khoảng mù khơi tịch<br />
mịch ?<br />
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh<br />
Bài Phân kinh thạch đài giữa lòng đá vắng lặng<br />
không là một thú nhận nỗi bất lực của riêng<br />
Nguyễn Du trước những trang Kim Cương.<br />
Bài ký Phân kinh là một thú nhận nỗi bất lực<br />
của ngôn từ và văn tự con người khi muốn nắm<br />
bắt cái chập chờn “áo chỉ” của cõi vô ngôn đó,<br />
bất khả tư nghi.<br />
* *<br />
181
Tôi gắng nhớ lại bài thơ, lõm bõm. Dừng lại ở<br />
hai câu:<br />
Ngã độc Kim Cương thiên biến lỉnh<br />
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh<br />
Khá lâu. Bâng khuâng nghĩ đến niềm khắc<br />
khoải của người xưa tầm đạo. Làm sao hàng phục<br />
vọng tâm ? Làm sao an trụ chân tâm ?<br />
Kim Cương đọc đến ngàn lần<br />
Mà trong mờ ảo như gàn như xa<br />
Như gần như xa nhưng vẫn ở đó, câu trả lời<br />
vẫn ở đó, tự thuở đó, nơi vườn Kỳ Thọ. Và bây<br />
giờ, vượt khỏi ngôn từ và văn tự, giữa Kim Lăng,<br />
vọng ra từ kẽ đá phân kinh, mờ mờ ảo ảo, như<br />
gần như xa, có mà không, không nhưng có, như<br />
mộng như ảo, như bọt nổi trên mặt nước, như<br />
chớp biển ngoài khơi, như bóng hình lãng đãng<br />
trong gương, như giọt sương đêm đọng lại, như<br />
giọt sương mai tan đi trên đầu ngọn cỏ, câu trả<br />
lời vẫn ở đó, câu trả lời đến thẳng với Nguyễn<br />
Du, trong hoang vu Phân Kinh Thạch Đài.<br />
Này Tu Bồ Đ'ê. Hãy nghe lời đá, lời đá nói<br />
rằng :<br />
Nhứt thiết hữu vi pháp<br />
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,<br />
Như lộ, diệc, như điển<br />
Ưng tác như thị quán<br />
182
Tất cả, cái gì gọi lên cũng chỉ là tạm<br />
gọi. Ngay cả hai chữ Kim Cương. Như Lai nói<br />
Kim Cương tức không phải Kim Cương, thế mới<br />
gọi là Kim Cương.<br />
*<br />
* *<br />
Phật nói kinh Kim Cương tại 4 nơi, 16 hội,<br />
trong khoảng 22 năm ròng. Lời Phật ghi lại dài<br />
tới khoảng 600 cuốn, chính danh là “Kim Cương<br />
Bát Nhã Ba La Mật Kinh”. Tóm tắt thành một<br />
cuốn gọi tắt là kinh Kim Cương. Cuốn này cô<br />
đọng lại còn 260 chữ mệnh danh là “Ma Ha Bát<br />
Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” thường gọi là<br />
Tâm Kinh. 260 chữ Tâm Kinh dẫn đến câu thần<br />
chú — Yết đế yết đế Ba la yết đế Ba la tăng yết<br />
đế Bồ Đề tát bà ha — và câu thần chú dẫn thẳng<br />
vào cõi vô ngôn. Cửa kinh Kim Cương khép kín.<br />
Không ai nói pháp Kim Cương. Không ai nghe<br />
pháp Kim Cương. Vọng tâm ? Chân tâm ? Đừng<br />
đặt vấn đề. Không có vọng, không có chân. Trong<br />
suốt ba đời, không có cả tâm. Đã tới cõi đó,<br />
Ba La Mật Đa. Cõi đó, chân kinh. Cõi đó, im<br />
sựng. Như đá, tạm gọi là đá. Phật đâu có thuyết<br />
lời nào ?<br />
183
II<br />
Tịnh Liên lão ông với Khoan tôi vốn là chỗ<br />
thâm giao, lại là móng vuốt trong chốn thiền<br />
môn, mê đọc kinh như lứa tuổi hai mươi mê đọc<br />
thơ tình, gần đây vì thương cho sự hoang rậm của<br />
lòng người xa nước, nên đã dốc lòng đem tất cả<br />
cái sở đắc của mình mà viết lời sơ giải mấy bộ<br />
Đại Thừa. Viết đến đâu hoàng bá đến đó và đều<br />
đều gửi đến Khoan tôi, với lời răn nhủ rằng : Này<br />
ông Vũ Khắc Khoan ơi, ông phải bớt đàn đúm<br />
với bọn lãng tử để dành thì giờ mà tu tỉnh đọc<br />
kinh. Rằng :<br />
— Này Vũ Khắc Khoan, ý ông thế nào ? Giả<br />
sử có người đem 7 món báu chứa đầy cả đại thiên<br />
thế giới mà bố thí thì người đó có nhiều công đức<br />
hay không ?<br />
Tôi rằng :<br />
— Thì nhiều.<br />
Ông chỉ đợi có thế, tiếp ngay :<br />
— Ay thế mà còn thua một người chỉ thọ trì<br />
4 câu kệ hay nhẩm thầm một đoạn kinh. Biết<br />
không ?<br />
Biết rồi ... nhưng khốn một nỗi, Khoan tôi căn<br />
cơ thô lậu, tâm thức lại hay lưu luyến tiếng tơ<br />
tiếng trúc, cho nên chân tuy đĩnh đạc bước thảng<br />
mà vẫn thấy tạt ngang vào nơi ca lâu tửu quán,<br />
giọng cất lên muốn bàn câu đạo lý vô tình vẫn<br />
184
họa cùng một điệu với tiếng cười hô hố của đám<br />
lãng tử sông hồ. Cũng do vậy mà bao nhiêu kinh<br />
sách bạn vàng gửi đến, thảy đều được trịnh trọng<br />
xếp lên giá sách, giữ gìn cẩn thận. Thế thôi.<br />
Nhưng ngại đọc. Thảng hoặc có miễn cưỡng mở<br />
ra thì cũng loáng thoáng mấy trang, cho đến khi<br />
khựng lại trước những danh từ dựng lên chất<br />
ngất.<br />
Trước mặt, sau lưng, bên tả bên hữu, trên đầu.<br />
Như một hàng rào nhọn hoắt. Như một tấm lưới<br />
trùng trùng. Tôi choáng váng tìm định nghĩa. Tôi<br />
đặt vấn đề. Rút cuộc, cuốn kinh từ giá sách được<br />
mở ra trên bàn đọc, lại trở về nguyên vị chỗ cũ,<br />
trên giá sách. Miệng Phật lại nín thinh. Khọan tôi<br />
lại lầm lũi trở về cái thế giới chữ nghĩa cũ kỹ<br />
ngày xưa.<br />
*<br />
* *<br />
Bỗng một hôm tôi bắt gặp chính tôi ngẩn ngơ<br />
trước giá sách, đang lần dở mấy trang Lăng<br />
Nghiêm. Những trang đầu, những trang kể<br />
chuyện ông A Nan ngộ nạn. Chuyện như vầy :<br />
Cánh đây khoảng hơn 2.500 năm, có người em<br />
họ đức Thế Tôn là ông A Nan, mang bình bát và<br />
tâm bình đảng đi vào từng thôn xóm, đến từng<br />
nhà để khất thực. Ông gặp một nữ tín đồ ngoại<br />
đạo tên là Ma Đăng Già. Người nữ này thấy ông<br />
185
èn dùng huyễn thuật là thần chú của Ta Tỳ Ca<br />
La Phạm Thiên, hãm ông trong phòng rồi lấy lời<br />
dịu ngọt để dụ dỗ ông. A Nan ngộ nạn chấp tay<br />
niệm Phật, hướng vê đức Thế Tôn cầu cứu. Lúc<br />
bấy giờ, Phật động tâm, không kịp thuyết pháp,<br />
lập tức trở vê Tịnh xá, ngồi vào thế kiết già. Từ<br />
nơi đảnh của Phật vụt phóng ra hào quang trăm<br />
báu. Trong hào quang xuất hiện sen báu ngàn<br />
cánh. Trên hoa sen có đức Hóa Phật ngồi. Trên<br />
đảnh đức Hóa Phật lại phóng ra 10 đạo hào<br />
quang trăm báu.<br />
Trong mỗi đạo hào quang đều có thị hiện vô<br />
số thần Kim Cương đứng khắp hư không. Lời<br />
thần chú Lăng Nghiêm lập tức vang lên. Đức Thế<br />
Tôn phái ông Văn Thù, đem thần chú đó đi cứu<br />
nạn A Nan.<br />
A Nan thoát nạn vê đến chỗ Phật, cúi đầu<br />
kính lạy.<br />
*<br />
* *<br />
Tôi giở tiếp. Lời ông A Nan buồn tủi, ăn năn :<br />
~ Bạch đức Thế Tôn, con từ hồi nào đến giờ<br />
có lòng ỷ lại. Con thường tự nhủ rằng con là em<br />
Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ<br />
ban cho thần thông trí huệ đạo quả Bồ Đ'ê nên<br />
chỉ lo học rộng nghe nhiều chẳng cần tu niệm.<br />
Không ngờ ai tu nấy chứng, mặc dầu con là em<br />
186
Phật, nếu không tu thì cũng bị đọa như ai, chẳng<br />
hàng phục được ngoại đạo mà còn bị cái nạn Ma<br />
Đăng Già ... Cúi xin đức Thế Tôn mở cho con<br />
đường phương tiện.<br />
Lời Phật ân cần giảng giải, trong khi quở trách<br />
vẫn thương hại vỗ về. Rằng hỡi A Nan, ông tuy<br />
được tiếng là người học rộng nghe nhiều nhưng<br />
thật tình ông không hiểu chi cả. Và rằng người<br />
đời khen ông là bực đa văn nhưng nếu ông chỉ<br />
chứa chất cái học suông và nghe suông đó mà<br />
không tu thì dầu ông có nhớ hết nghĩa lý nhiệm<br />
mầu của 12 bộ kinh, 10 phương chư Phật, nhiều<br />
như số cát sông Hằng, cái nhớ đó cũng chẳng lợi<br />
chi cho ông cả. Và rồi ra, ông sẽ lâm vào những<br />
tai nạn khác, tương tự như cái nạn Ma Đăng Già<br />
mà thôi.<br />
Lời ông Văn Thù là lời một vị trưởng tràng.<br />
Chính ông đã được đức Thế Tôn giao cho phép<br />
mầu thần chú đi cứu A Nan, lời ông răn dạy nghe<br />
có nghiêm nghị, hơn cả lời Phật. Ông rằng : A<br />
Nan, tôi đã vâng oai thần của Phật đem thần chú<br />
Lăng Nghiêm đến cứu nạn cho ông. Ông vẫn<br />
được tiếng là người thấy xa, nghe rộng, hay nhiều,<br />
biết lắm. Nhưng ông lười nhác. Ông không có tu.<br />
Ông chạy theo cái vọng phân biệt, nên ông dễ bị<br />
đọa lạc theo tà. Này ông A Nan, toàn thể cái<br />
thấy-nghe-hay-biết của ông đêu là hư huyễn. Nếu<br />
ông biết đem cái thấy-nghe-hay-biết đó xoay trở<br />
lại chính cái chân tánh của mình thì cái trí quang<br />
187
của ông lại hiện ra sáng láng, chân tâm của ông<br />
trở lại tịch tịnh, ông sẽ thấy ba cõi sum-la<br />
vạn-tượng đều như hoa đốm giữa hư không, tất<br />
cả các pháp hiện tiền như việc chiêm bao. Nàng<br />
Ma Đăng Già sẽ cũng chỉ là một chúng sinh trong<br />
cõi mộng, nàng làm gì nổi ông ?<br />
Cuốn Lăng Nghiêm gấp lại, hình ảnh A Nan<br />
dấy lên từ lời kinh vẫn còn thấp thoáng trong tôi.<br />
Tôi nghĩ đến câu chuyện Ma Đăng Già. Tôi<br />
thương ông A Nan bị quở. Tôi không nghĩ sâu<br />
vào căn cơ nghiệp dĩ A Nan, tôi chỉ bâng khuâng<br />
quanh tâm trạng người em con chú con bác đó<br />
của đức Thế Tôn phát tâm xuất gia chỉ vì một<br />
nguyên nhân rất giản dị, rất “người”. Đức Thế<br />
Tôn răng :<br />
— Trong giáo pháp của ta, ồng ngưỡng mộ cái<br />
gì mà phát tâm xuất gia ?<br />
Ông A Nan rất hồn nhiên :<br />
— Vì thấy Phật có 32 tướng tốt đẹp lạ thường<br />
nên con sanh lòng hâm mộ mà phát tâm xuất gia.<br />
Đêm hôm đó, quá nửa khuya tôi vẫn còn thức.<br />
Tôi nghe từng đợt gió ngoài trời vật cành du<br />
xuống mái hiên, cuốn Lăng Nghiêm tuy gấp kín<br />
nhưng đã từ giá sách theo tôi vào phòng ngủ, đặt<br />
cạnh đầu giường.<br />
Vài ngày sau, tôi gặp lại ông A Nan cầm bát đi<br />
xin sữa cho đức Thế Tôn đang mắc bệnh. Tôi dõi<br />
theo mấy lời đối thoại giữa ông A Nan và ông<br />
Duy Ma Cật.<br />
188
— Ê A Nan ! Làm gì mà mang bát đứng đây<br />
sớm thế ?<br />
— Đức Thế Tôn hơi có bệnh phải dùng sữa bò,<br />
nên tôi đến đây xin sữa.<br />
— Thôi, thôi A Nan. Đừng để cho hàng ngoại<br />
đạo nghe thấy những lời phỉ báng đó. Họ sẽ cười<br />
vào mặt chúng ta. Họ sẽ rêu rao khắp nơi khắp<br />
chốn rằng thế mà cũng đòi làm thầy, bệnh của<br />
mình không cứu nổi lại còn đòi chữa bệnh cho<br />
thiên hạ ! Ỏng A Nan ơi, ông nên biết rằng thân<br />
Như Lai là thân kim cương, mọi ác đã dứt, toàn<br />
thể là lành, còn có bệnh gì, còn phiền não gì ?<br />
Hãy im lặng mà đi khỏi nơi đây, A Nan !<br />
Ông Duy Ma Cật nói như vậy, ông A Nan còn<br />
biết trả lời làm sao ? Ông vừa thẹn vừa tủi nhưng<br />
vẫn đứng chờ xin sữa. Tất nhiên ông thừa hiểu<br />
rằng thị hiện ở cõi ta bà đủ 5 món trược, đức Thế<br />
Tôn phải ứng ra việc bệnh để độ thoát chúng<br />
sinh. Nhưng ... n ó i... để làm gì ?<br />
Tôi dõi theo hút A Nan. Tôi thấy ông sững sờ<br />
giữa pháp hội Am La<br />
— Bạch đức Thế Tôn, sao nơi đây bỗng nhiên<br />
rộng rãi trang nghiêm, bỗng nhiên rực ánh vàng<br />
ròng, bỗng nhiên thơm ngát, con chưa từng thấy ?<br />
— Bạch đức Thế Tôn, thế ra có thể lấy mùi<br />
hương để nói pháp sao ?<br />
Pháp hội Am La chấm dứt, tôi vẫn nhìn theo<br />
vết chân A Nan đi vào vô lượng ảo hóa của vô<br />
lượng cõi pháp, từ pháp hội A Di Đà đến pháp<br />
189
hội Vô Lượng Nghĩa, pháp hội Dược Sư, pháp<br />
hội Pháp Hoa ... Tôi biết ông đã có mặt giữa phút<br />
lâm chung của ông trưởng giả Cấp Cô Độc để nói<br />
pháp. Ông trưởng giả này nghe pháp và đã an<br />
nhiên nhắm mắt đi vào cõi trời Đâu xuất. Dấu<br />
tích cuối cùng A Nan để lại là cuộc đối thoại ngắn<br />
ngủi giữa ông và ông Ma Ha Ca Diếp, vị tổ thứ<br />
nhứt dòng Thiền Thiên Trúc. Ông rằng :<br />
— Ngoài việc truyền y bát, đức Thế Tôn có<br />
truyền riêng cho ông pháp gì nữa không ?<br />
Tổ Ca Diếp nhìn A Nan trong giây lát, bỗng<br />
quát lên :<br />
— A Nan !<br />
— Dạ.<br />
— Cậy phướn trước cổng chùa đổ kìa !<br />
A Nan giật mình, tỏ ngộ thiên cơ, được tổ Ca<br />
Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị tổ thứ<br />
nhì. Hành trạng A Nan, với tôi, thế là chấm dứt.<br />
Nhưng tôi vẫn ngẩn ngơ. Cuốn Duy Ma Cật, Đại<br />
Thừa Vô Lượng Nghĩa, Pháp Hoa, Dược Sư...lần<br />
lượt dời giá sách đi vào đời sống giữa khuya của<br />
tôi. Và một đêm, gió tắt, tôi quyết định đi vào<br />
pháp hội Lăng Nghiêm một mình.<br />
*<br />
* *<br />
Phật dạy tánh của nguyên sơ vốn tịch tịnh,<br />
nhưng một niệm khởi lên, lời kinh đan kết như<br />
190
nhện giăng tơ, biển tâm dạt dào nổi gió, mây thức<br />
ùn ùn kéo đến như khói sóng cửa thần phù, nghĩa<br />
kinh lập tức bày ra chân vọng. Đi vào pháp hội<br />
Lăng Nghiêm, tôi nghe choáng váng như bất thần<br />
bị vây trong một thế trận mê hồn 10 phương lạ<br />
hoắc, 2 cửa tử sinh lạc hướng, lạc hướng cả 7 nẻo<br />
đuổi bắt cái Tâm. Trong thân, ngoài thân, ngay<br />
trong con mắt, hay ngay chính giữa ? Tâm do chỗ<br />
hoà hiệp mà thành, do suy nghĩ phân biệt mà ra,<br />
do tự nhiên mà có, do nhân duyên mà sinh ?<br />
Tâm là gì ? Tâm do đâu mà hiện hữu ? Tâm ở<br />
đâu ? Nhạn đã bay qua. Tả, hữu, ngược, xuôi :<br />
vắng lặng. Một ánh trăng suông, và bát ngát, một<br />
niềm mang mang tịch tịnh.<br />
— Lạy T ổ , con không tìm thấy Tâm.<br />
Tôi gấp lại cuốn Lăng Nghiêm. Nghĩ rằng vậy<br />
thì không có gì cả và nhớ đến một lời của lão ông<br />
Tịnh Liên :<br />
“Tôi tự biết mình phiên não chất ngất, vô minh<br />
dày đặc và đối với ngưỡng cửa những cơn tam<br />
muội nhỏ nhoi vẫn lảng vảng đứng xa hàng ngàn<br />
dặm. Chỉ được cái hạnh ngộ không biết do một<br />
chút căn lành nào lay lắt rớt lại từ kiếp nào, nên<br />
thích đọc kinh, đôi khi say mê đọc kinh, và thường<br />
hay mơ màng hàng giờ trên những trang kinh<br />
xứa... ”<br />
Bất giác thấy mình cũng bâng khuâng mơ<br />
màng, như lão ông Tịnh Liên.<br />
191
III<br />
Cuối thu 1985.<br />
Nhìn ra đầu ngõ bắt gặp ánh vàng rực lá cây<br />
phong, giật mình ngh! rằng thế là mùa thu đã<br />
qua, đang tàn, rằng tuyết lại sắp rơi. Mấy trang<br />
viết bỏ dở từ cuối mùa tuyết năm ngoái, bút khởi<br />
đi từ “mây mùa thu” và “khói trong lò” ngưng lại<br />
nửa vời nơi pháp hội Lăng Nghiêm. Từ đó nhẫn<br />
nay, trong tôi dấy lên đã nhiều vọng tưởng và<br />
cũng đã nhiều vọng tưởng bay đi, đã tuyệt mù. Đã<br />
tuyệt mù những cõi pháp năm xưa, nghi nghi hoặc<br />
hoặc. Nietzsche, Dostoievski, Sartre, Singer lần<br />
lượt rút về giá sách. Đầu giường chỉ còn lại kinh<br />
và kệ. Nhưng đêm đêm trước những pháp hội mở<br />
ra, Khoan tồi vẫn mang tâm trạng một người<br />
ngoại cuộc. Thường vẫn lặng thinh, để mặc cho<br />
dòng vọng tưởng theo lời kinh dấy lên lôi cuốn,<br />
ngây ngây dại dại rõi theo cái trùng trùng đan kết<br />
những hình tướng dâng lên muôn hình vạn dạng<br />
biến hóa. Đôi khi lời kinh dẫn tôi trở về ngày cũ.<br />
Bất giác tôi gặp lại ... cái tâm hồn ấu thơ thuở<br />
nhỏ, trốn học “phiêu lưu” dọc 36 phố phường Hà<br />
Nội, mỗi hẻm nhỏ là một thế giới riêng tư, mỗi<br />
lùm cây là một cõi trời đặc biệt. Những giây<br />
phút đó, lâng lâng lời kinh rời hẳn nghĩa kinh,<br />
lời kinh kể chuyện cổ tích, rủ tôi đi vào một<br />
192
cơn mộng du hoang vu thăm thẳm, tròng mắt ruổi<br />
bắt bạt ngàn thấp thoáng muôn hồng ngàn tía<br />
màu sắc cầu vồng loang loáng bong bóng giọt<br />
mưa Ngâu, từ những đám mây trời Bắc Việt rơi<br />
xuống, từ một nền gạch Bát Tràng dấy lên — ôi,<br />
cái ướt át lành lạnh gấu quần thấm nước và chiếc<br />
lá bàng đỏ kệch lắt lay đầu ngõ heo hút gió tây —<br />
màu sắc chân-kim mây trời Tha-Hóa-Tự-Tại, màu<br />
sắc xích-châu mây trời Hoa-Lạc, mây trời Đâu-<br />
Xuất màu sương tuyết, mây trời Da-Ma màu<br />
lưu ly, mây trời Đao-Lợi màu mã não, mây trời<br />
Tứ-Chỉ'êu-Vương trong suốt pha lê.<br />
Và tự đó, từ những hình và sắc mây trời vần<br />
vụ, bay lên, những mùi hương lạ, những mùi<br />
hương đi không chỗ tới, đến không chỗ bắt đầu.<br />
Và một mùi hương đặc biệt, mùi hương như một<br />
phương tiện nói pháp, mùi hương cõi đó, nước<br />
Chúng Hương. Và bất giác tôi như bị hút vào một<br />
khoảng không bát ngát 42 số cát sông Hằng cõi<br />
Phật. Và những con đường, những dòng sông,<br />
những cánh buồm, những cánh chim bay, vô<br />
lượng cõi pháp nơi thị hiện vi trần số chư Phật.<br />
Từ mênh mông cực đại đến thăm thẳm cực vi,<br />
cực đại tùy niệm biến thành cực vi, cực vi biến<br />
thành cực đại, a tăng kỳ kiếp tùy niệm thu lại<br />
thành một sát na, một sát na tùy niệm trở thành a<br />
tăng kỳ kiếp, lời kinh loang ra như một chất men,<br />
tôi choáng váng giữa một mê cung dạt dào vọng<br />
193
tưởng, lẫn lộn cả cực đại, cực vi, hiện tại, tương<br />
lai và quá khứ.<br />
Đâu là mê, nẻo nào là ngộ ?<br />
*<br />
* *<br />
Cứ như vậy, đêm đêm, Pháp hội mở ra —<br />
Lăng Nghiêm hay Pháp Hoa, Hoa Nghiêm hoặc<br />
Viên Giác, Lăng Già — lời pháp với tôi không<br />
nói vọng nói chân, không bàn mê hay ngộ, không<br />
nói Thiên đường và Địa ngục, không nói cả Niết<br />
bàn. Lời pháp chỉ rủ rỉ kể chuyện ngày xưa, hát<br />
nhỏ ca dao, lời pháp ấm như lời bà ngoại ru cháu<br />
nhỏ. Tôi thấy cuốn Lăng Già nặng chĩu trên tay,<br />
108 thắc mắc Đại Huệ quay cuồng trong tôi, để<br />
trở thành 18 vị La Hán Thiếu Lâm Tự và cho đến<br />
khi 18 vị La Hán biến dạng, phương trượng chùa<br />
Thiếu Thất bước ra, nội lực phòng tay áo cà sa,<br />
vết chân in hằn trên thềm đá tảng, cho đến khi 18<br />
vị La Hán lùi bước trước 108 tên lãng tử sông hồ<br />
Lương Sơn Bạc, thì lời pháp mờ dần, lời pháp<br />
mất hút, tuyệt mù.<br />
*<br />
* *<br />
194
Lời ru cháu lẫn vào tiếng gà gáy lẻ ngoài vườn.<br />
Bà lim dim cặp mắt, cháu ngủ đã từ lâu. Cả bà<br />
lẫn cháu và lời ru, cả 3 nhập một. Tôi lặng lẽ dìu<br />
tôi đi vào một cõi, mới dấy lên. Cõi đó, lạ lạ quen<br />
quen. Cõi đó hằng đêm. Cõi đó, riêng tôi. Một<br />
mình.<br />
IV<br />
1986.<br />
Lâng lâng trong mù sương nơi ngưỡng cửa<br />
pháp hội. Một mình.<br />
Minnesota tháng 7-86.<br />
195
ỉ
PH Ụ LỤ C
NGỠXUÂN<br />
I<br />
Nửa khuya nghe chim lạ<br />
Hót lẻ trong cành du<br />
Thoáng lời kinh vô ký<br />
Chập chờn ánh lửa giang dầu<br />
Lắng nghe con chim lạ<br />
Hót khẽ trong cành du<br />
Chợt nhìn qua khung cửa<br />
Bạt ngàn ngợp trắng trăng lu<br />
II<br />
Xuân đã về miên Hương Tích ?<br />
Sao có hoa mơ nở trắng rừng mơ ?<br />
Hỡi ơi không trắng hoa rừng mơ<br />
Mà trắng miên đất lạnh<br />
Hoa tuyết bay trắng rực Ngũ Đại Hồ<br />
Hoa tuyết rơi liệm trắng màu hoa miền nhiệt đới<br />
Nơi tuyết rơi chỉ ở trong thơ<br />
Hoa tuyết bay lất phất<br />
Nghe như rờn rợn lời tâm sự<br />
Mưa nhỏ thở dài trong giàn dưa<br />
Liễu-trai-chí-dị<br />
Nửa khuya đất Hồ<br />
Có con chồn già thùy lệ
III<br />
Lại nghe con chim lạ<br />
Hót lạnh trong cành du<br />
Lạnh ấm trà hoa cúc<br />
Lạnh lén vào trong tôi<br />
IV<br />
Tôi từ thuở xa miên nhiệt đới<br />
Đến đây kết nghĩa với cây du<br />
Lòng vẫn nhủ lòng rằng thôi đừng nhớ<br />
Ngày ngày ngồi gốc cây du<br />
Mơ cưỡi một con trâu<br />
Đi vê miên nắng quái<br />
Lá du như sao buổi sớm<br />
Nhưng biết đùa với nắng mưa thu<br />
Cũng vàng cũng nhuộm màu quan tái<br />
Và rụng khi cành gầy ôm tuyết trắng<br />
Đi vào thiên khoảng cuối mùa thu<br />
V<br />
Nhưng bỗng nhiên im lặng<br />
Im lặng trong cành du<br />
Láng tai tìm chim lạ<br />
Nghe nhẹ bỗng cành du
VI<br />
Cúi đâu tưởng đến duyên kỳ ngộ<br />
Mong manh chim lạ cành du<br />
Rồi những khuôn mặt cũ<br />
Cùng lận đận bên trời một lứa<br />
Giờ đây thưa thớt<br />
Như lá mùa thu<br />
ước cũ duyên thừa<br />
Có còn tiếp nốì ?<br />
Hay chông chênh sát na một thoáng<br />
Chim lạ t>ỏ cành du<br />
Cánh nhỏ vụt nhòe trong cánh tuyết ?<br />
VII<br />
Ngùi ngùi mái tóc mờ sương thu<br />
Tuổi già lệ như lác dác<br />
Rừng phong hạt móc sa<br />
Đâu còn thùy lệ<br />
Chỉ rưng rưng sầu
Hai bài thơ Bùi Giáng<br />
tăng Vũ Khấc Khoan<br />
SÁNG SÀI-GÒN<br />
Đi về chép nốt tờ điên<br />
Một qua mai một một tiền diện đi<br />
Đường vui gió giục hai bề<br />
Mộng buồn rớt hột hai bề cả hai<br />
Làng xa tỉnh lỵ nhớ ngày<br />
Nhìn sương nguyệt rộng thu dài dã man<br />
Ngã ba ngẫu nhĩ khôn hàn<br />
Dừng chân chợt ngó phố quàng vai xuân.<br />
CON MẮT MỞ RA<br />
Bàn chân bước nghe bình minh trở lại<br />
Rã tan đi vào đêm tối miên man<br />
Trời hoa cỏ mộng Thiên Đường thơ dại<br />
Một mùa băng mây rụng hết thơ vàng<br />
Màu cổ lục để năm canh phơ phất<br />
Thoảng hương thừa sáu khắc dạ chon von<br />
Vê tìm hỏi xuân xanh người đâu mất<br />
Vườn ong bay hoa bướm nhớ một lần.
MỤC LỤC<br />
Tựa<br />
Trang<br />
Bữa rượu cuối cùng với Lê Quang Luật . . . 9<br />
Nhận đường ................................................... 37<br />
Bên kia, bên n à y .............................................57<br />
“Mệ” La Khê ...............................................69<br />
Không nơi nào ............................................. 151<br />
Cuối năm đi về hướng mặt trời mọc ..........157<br />
Cháo ám với Vĩnh Ấn ở Paris .................... 163<br />
Đọc kinh ........................................................169<br />
Phu Luc ........................................................199
TÁC PHẨM VŨ KHẮC KHOAN<br />
Đã in :<br />
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, lộng ngồn<br />
Giao thừa, kịch<br />
Hậu trường, kịch<br />
Thần Tháp Rùa, truyện<br />
Thành Cát Tư Hãn, kịch<br />
Vở chèo Quan Âm Thị Kính, klưìo luận<br />
Ngộ nhận, lộng ngôn<br />
Mư Hương Cảng, tùy hút<br />
Những người không chịu chết, kịch<br />
Đọc kinh, tùy bút.<br />
Chưa in :<br />
Le petit oiseau, la petite branche,<br />
et le printemps<br />
Poènte en prose Vu Khac Khoan.
Nhà Xuất Bản An Tiêm<br />
• Thư từ & tác phẩm, liên lạc :<br />
34, rue Alphonse Melun<br />
94230 Cachan - France<br />
• Tổng phát hành tại Hoa Kỳ :<br />
Nhà xuất bản VĂN NGHỆ<br />
P.O.Box 2301<br />
Westminster. CA 92683<br />
T él: (714) 527-5761<br />
Đánh máy, trình bày trang sách : Ngọc Lệ<br />
thực hiện tại Thanh Cốc, Rừng Tía ngoại thành Paris
"... Vũ Khác Khoan lúc nào cũng lừng lững<br />
như một pho tượng. Trên sân khâu trường<br />
Quỗc Gia Âm nhạc và Kịch nghệ, chỉ cho<br />
Trân Quang một động tác trước khi Thành<br />
Cát Tư Hãn kéo màn. Trong Đêm Màu Hồng<br />
một giờ sáng, ngồi sau một bàn tròn, gõ bàn<br />
mà ngâm Hồ Trường. Đi trên hành lang Phù<br />
Quôc vụ khanh Vãn hóa, bước xuống quán<br />
nhậu Hài Biên, mái tóc chài ngược vê phía sau.<br />
hai vai chắc nịch, cặp mát mở lớn, dọi thang,<br />
bước đl vững chãi ; anh có cái điệu bộ đi thẳng<br />
vào dám đông như biết đám dõng sắp răn ra,<br />
dê sau dó nhìn theo sau lưng anh mà ngưỡng<br />
111Ộ một tâm thân nam tử..."<br />
Viên Linh<br />
Báo Vãn học, Hoa Kỳ, sô’dặc biệt<br />
vê Vũ Khắc Khoan. 1987
“Bằng kịch Vũ, chúng ta thây qua cái bê ngoài đánh lừa<br />
một con ngựa chiến đã già đã mỏi, thực ra tác giả vẫn là<br />
người lữ hành đi trên con đường tìm kiếm những sự thật,<br />
mãi mãi muôn kiếm tìm những sự thật, nói một cách khác,<br />
một con người khởi sự là của suy tưởng muốn trở thành<br />
một con người của hành động. Thảm kịch tự thân của Vũ<br />
mở màng ở đây, giữa cái chia sẻ cái mâu thuẫn của suy<br />
tưởng đơn thuần và hành động cụ thể.<br />
Tôi mơ ììô muôn nhận thức cho tôi viết văn là một vinh<br />
dự. Bởi viết văn không chỉ có nghĩa là viết văn, còn dẫn dưa<br />
ngtíời tới những hành động khác ! Lời nói của Albert Camus<br />
cũng được xem là ý niệm sáng tác, sống, và dự phóng nghệ<br />
thuật của Vũ. Những ai ở gần anh, tất phải nhận thây,<br />
ngoài cái khía cạnh của con người yêu mê những cái đẹp<br />
muôn hình nghìn vẻ của đời sống và tìm hưởng thụ nó thỏa<br />
thê đích đáng như đã thây ở tác phẩm và đời sống Nguyễn<br />
Tuân xưa, còn có một phía khác của con người trầm trọng<br />
nghicm trang muốn văn nghệ là một có mặt trong đời mình<br />
mãi mãi. Một có mặt có thái độ, có cứu cánh, một có mặt<br />
trên một trận tuyến, dưới một bóng cờ. Lưu Nguyễn Nhập<br />
Thiên Thai. Thần Tháp Rùa. Thành Cát Tư Han. Sáng tác<br />
Vũ lấy nguồn từ những thán thoại hoang đường, từ những<br />
tịch mịch và những lạc chìm quá khứ. Nhưng cửa mở nào ở<br />
những sáng tác đẫm màu cổ điển ấy cũng là những cửa mở<br />
râ't hiện tại, rất thời thế. Văn nghệ và ngôn ngữ ở đây trở<br />
thành những phương tiện chuyên chở. Đúng thật, tâ't cả chỉ<br />
là những cái cớ. Chúng chứa giấu một khát vọng hành động<br />
nửa vời không thành tựu. Vũ yêu lắm cái tác phong phiêu<br />
hô't thoát tục của một đạo sĩ sống trên đỉnh cao trong suốt<br />
của tĩnh mịch hằng cửu, cũng lại vêu lắm người đạo sĩ kia<br />
một ngày phâ't tay áo rộng xuống đời...”<br />
Mai Thảo<br />
“Vũ Khắc Khoan Trong Liên Hệ<br />
Văn Chương Và Liên Hệ Thời Thế”<br />
Báo Văn, Sàigòn 1973.<br />
Giá : 10 Mỹ kim.