01.09.2019 Views

TU NHUNG NGAM NGUI

You also want an ePaper? Increase the reach of your titles

YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.

tạp bút<br />

CAO VỊ KHANH<br />

2018


phân trần<br />

Khởi thủy từ một cơn hồng thủy.<br />

.........................<br />

Những dòng chữ, rồi ra như những con sóng lẻ, vật vờ xô, mỗi lúc<br />

một xa bờ.<br />

Vâng, những nỗi niềm lạc mất một quê xa ...<br />

... Những tức tưởi từ một thời gấm hoa đã mất , sau gần bốn mươi<br />

năm lưu lạc xứ người kể từ thảm họa tháng 4 năm 75.<br />

Biệt xứ, không có gì buồn hơn ...<br />

Vốn liếng chữ nghĩa ... rồi ra chẳng qua ... một mảng mây trôi ...<br />

Tập sách gồm những bài viết từ những năm 2000-2010, sau khi<br />

miếng ăn đã thôi là một ám ảnh thiết thân và nhục nhằn, đã được<br />

viết bên lề phố, trong góc quán, cuối xó nhà, lúc trưa nắng hay giữa<br />

đêm khuya, rồi được sao chép, cóp nhặt ... - hữu ý hay vô tình - đâu<br />

đó trên những tờ báo chợ, báo quảng cáo ... trên những tập kỷ yếu<br />

của những người học trò đã quá tuổi học trò ... trên những tập san<br />

yểu mệnh của những người mê văn chương chữ nghĩa khi chữ<br />

nghĩa văn chương chỉ còn là những ký hiệu vô nghĩa trong một thế<br />

giới đã vô tình.<br />

Góp lại, giống như người phu quét đường gom lá vàng mỗi độ thu<br />

sang dẫu biết rằng, rồi ra lá sẽ mục rả, một ngày nào đó ...<br />

Góp lại, giống như người nhạc sĩ năm xưa đã làm một việc vô ích<br />

nhất ... gởi gió cho mây ngàn bay ...<br />

chẳng qua, dẫu vậy, rồi ra<br />

để ... vui chút vậy ... mà !


từ những ngậm ngùi được phân làm ba bản, đánh dấu XANH,<br />

NÂU và XÁM sẽ lần lượt được gởi tới thân hữu, như những lọn sóng vỗ vào bờ,<br />

một ngày đứng gió.<br />

XANH : chuyện chữ nghĩa<br />

NÂU : chuyện thời<br />

XÁM : chuyện đời


Ở<br />

một chỗ<br />

rất gần<br />

sao...<br />

Có lần người bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New<br />

Jersey hứa mời tôi đi uống cà-phê ở một nơi rất gần với<br />

mấy vì sao. Những vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất<br />

đỗi ngây thơ của những " Hoàng tử bé ". Thử cho anh<br />

coi lại điệu vũ của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như<br />

vậy. Mấy lần điện thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn<br />

chưa uống được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần<br />

nào.<br />

5


Chỗ tôi đang ở cũng là một thành phố lớn, nằm chênh<br />

chếch về phía đông bắc lục địa. Những con đường<br />

ngang dọc từ trên cao nhìn xuống cũng y như mấy<br />

miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi lần ra phố<br />

chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến, có bận<br />

nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và lần nào<br />

cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ trốn đâu mất<br />

biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con mắt đèn như bầy<br />

đom đóm đeo dính mấy tấm vách thẳng băng ngước<br />

nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm nhìn đã chóa mắt<br />

giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh đỏ đỏ. Riết rồi<br />

thua buồn cũng quên lửng luôn những vì sao đã chắt<br />

chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng của quê<br />

hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam. Chắc<br />

quê hương tôi ở hướng đó.<br />

Thuở mười một mười hai tuổi, mỗi lần được cho về quê<br />

nội, cứ đợi chiều xuống là tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm<br />

cao ngất ngoài bìa ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời<br />

tối. Ngó lên là trời vòi vọi cao, không một bợn mây mà<br />

lại xanh mướt, xanh ngọt cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả<br />

ra sao cái màu ngan ngát của buổi chiều đương chuyển<br />

sang đêm. Chỉ thấy nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng<br />

muốn bay bổng. Rồi chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón<br />

chân tới, rất nhẹ. Rồi con sao thứ nhất bắt đầu ló ra.<br />

Cũng êm ru như đã ở đó tự bao giờ. Chớp lia chớp lịa<br />

như để nháy gọi nhau, một chút nhẻo thôi là không biết<br />

ở đâu mà sao đã rải ra đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng<br />

lộng lẫy như tấm nhung đen đính hàng triệu kim cương<br />

6


hột mẳn đều như tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần<br />

tính thử đếm chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn<br />

tay nên chán bỏ. Nhưng mà lần nào cũng không quên<br />

ao ước hể thấy có một vệt sao băng. Mà rồi y như lần<br />

nào cũng trễ, thành ra không kịp có một lời nguyện nào<br />

cho tròn. Cho đến một lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi<br />

cũng đủ. Mỗi vì sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó<br />

vào một thế giới khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại<br />

càng nở ra, trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả<br />

lớn đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi bao<br />

la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ trụ thì<br />

quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt mà<br />

không biết vì sao.<br />

Từ đó, bầy sao cứ lấp lánh theo tôi như những cặp mắt<br />

dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở thành phố,<br />

đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng. Nhưng rồi cái ngày<br />

đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi thật xa, xa đến mất luôn<br />

một lúc cả trời sao trăng nước ở một xóm nhỏ bên bờ<br />

kinh Bình Phụng<br />

Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê đi ngó sao ở một<br />

chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy mà rồi không kịp. Cái<br />

chỗ rất gần sao đó không còn nữa. Buổi sáng ngày 11<br />

tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con người đã làm<br />

nó nổ tung. Hai tòa nhà cao cả trăm tầng cùng với mấy<br />

ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu tấn sắt<br />

thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người dựng<br />

đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một<br />

7


thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó<br />

đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển.<br />

Vậy mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành<br />

của ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng<br />

hư vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của<br />

tôi cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không.<br />

Có. Không. Không. Có. Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu<br />

vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới<br />

ngàn dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được<br />

cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước<br />

mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất động. Cả<br />

ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền hình, nhìn cảnh<br />

máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép lừng lững đó,<br />

rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái nấm bụi khổng lồ<br />

bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng hoàng đến ngớ<br />

ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một lời. Không có<br />

một lời nào nói ra được sự kinh khiếp đó. Sự hung dữ đó.<br />

Sự mù quáng đó. Rồi cảnh người sống chạy chết. Cảnh<br />

gạch đá sắt thép văng bay tứ tung. Còi xe cứu thương<br />

kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng mù mịt. Tôi ngồi chết<br />

trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá điên dại từ bàn tay con<br />

người. Con người. Tuyệt phẩm của thượng đế. Con<br />

người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người. Quả tình<br />

tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại cứ để mở.<br />

Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền hình thu không<br />

sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy không thu<br />

được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới làm tôi hốt<br />

hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt, mấy ngàn<br />

người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn người mới<br />

8


đó bỗng hư không. Một người cha, một người mẹ, một<br />

người con, một người tình... mới sáng đó còn hăm hở<br />

thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro, xe bus tới<br />

sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở bước<br />

vào thang máy, cười với người quen này, nói đùa với<br />

người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở<br />

ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở máy com-pu-tơ vừa<br />

bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn gởi mấy cánh<br />

hồng cho người bạn gái. Năm phút trước đó còn vừa mở<br />

xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm chiều với vợ và bầy con<br />

nhỏ. Một phút trước đó còn vừa lau sàn nhà vừa nghĩ<br />

đến số tiền sẽ gởi cho bà mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng<br />

cái cảnh thiếu sót trong mấy bản tin quá đầy đủ đó nó<br />

chỉ có trong đầu tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp<br />

xuống. Rồi tòa nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương<br />

thịt. Tro than. Cái cảnh không ai thấy được mặc dù đã<br />

xảy ra sờ sờ, cùng lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với<br />

khung sắt thép, cùng lúc với tiếng nổ của hàng trăm tấn<br />

dầu, cùng lúc với lòng thù hận biến con người thành thú<br />

dữ. Cái cảnh không có trong phim ảnh bởi vì không có<br />

máy nào chụp được nhưng nó thật sự có đó, có đó rõ<br />

ràng giữa hiện trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc<br />

càng lớn ra, lớn đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang<br />

bỏ lại của mấy ngàn nhân mạng mất đi cùng một lúc.<br />

Cùng một lúc thất tung. Cùng một lúc biệt tích. Cùng<br />

một lúc tan tành. Thịt xương. Niềm tin. Hy vọng. Cái<br />

khoảng trống im ỉm của pháp trường sau khi bọn đao<br />

phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn của mặt đất<br />

9


không còn người ở. Cái trống hoác ghê rợn nổi lên ngay<br />

sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn gì nữa.<br />

Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.<br />

Có còn lại chăng, những ngày sau, là cái không vô cùng<br />

vô tận trong lòng tôi, trong lòng mọi người.<br />

Mấy ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên<br />

đường phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên<br />

những nến, hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ<br />

giấy viết tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một<br />

khuôn mặt, những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp<br />

mắt lặng lẽ của một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn<br />

lạc lõng của một đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng<br />

đầu bất lực của người lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên<br />

đường mếu máo, trong tiếng kèn đồng sầu thảm của<br />

người da đen vừa thổi vừa khóc khi chiều xuống ở một<br />

góc công viên... Cái khoảng trống lớn ra hoài không<br />

chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra nữa. Một tháng sau. Một<br />

năm sau. Nhiều năm sau nữa...<br />

Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ<br />

còn lại niềm tuyệt vọng.<br />

Tôi bỏ xứ ra đi hai mươi năm, sống lây lất ở xứ người như<br />

một thân chùm gởi. Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ<br />

điên khùng chưa bao giờ biết trời sao là ân huệ của<br />

thượng đế. Tôi xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện<br />

thương tâm hai mươi mấy năm trước. Những chuyện<br />

10


thương tâm chưa bao giờ kể đủ về những đọa đày gây<br />

ra bởi sự cuồng bạo của mê muội. Tôi đi mà cầu trời<br />

khẩn phật cho có ngày đất nước tôi sáng lán, người ở<br />

quê tôi tìm lại được tình thương và niềm tin cậy giữa<br />

người và người. Tôi chờ mà cứ sợ không còn dịp.<br />

Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa đăng đón<br />

kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca hát, ôm<br />

nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường như có<br />

một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở, tin cậy, nhiệt<br />

thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của lề thói hẹp<br />

hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán và ghét bỏ,<br />

của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia và chấp nhất,<br />

của lừa đảo và phản trắc... Có lúc sao tôi thấy dường như<br />

ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ lượng, khoan dung...<br />

Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười. Mọi tiếng nói<br />

đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu da đều mừng<br />

nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi tiếng<br />

khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng<br />

đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng sản,<br />

mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn độ giáo<br />

... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một tiếng khóc cho<br />

nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia, cái nọ chỉ có<br />

trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này, kẻ kia, kẻ nọ chỉ có<br />

trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ thật ra tất cả chỉ là<br />

MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn. Cái một hồng hào<br />

hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯỜI làm đấng cứu thế.<br />

Lấy con người làm đối tượng cho cuộc cứu rỗi. Cho con<br />

người và vì con người. Không còn chủ nghĩa tôn giáo chỉ<br />

11


còn con người. Không còn biên giới chủng tộc chỉ còn<br />

con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda. Sẽ không<br />

còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không còn chôn sống ở Huế...<br />

Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút,<br />

vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng<br />

nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi. Và tin<br />

tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của tiến<br />

bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng ra<br />

đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của địa<br />

cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại.<br />

Tôi mừng như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam<br />

đã mơ ước một đời. Biết đâu đất nước tôi cũng có cơ<br />

theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng đến nỗi làm được<br />

cả thơ vui ...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt bồ câu<br />

thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị.<br />

Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.<br />

Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm buổi sáng tháng chín<br />

này. Cái vòng tay khít liền đó gãy vụn ra, tan nát. Người<br />

của thế kỷ hai mươi mốt giống y như người của thế kỷ<br />

hai mươi, giống y như người của thế kỷ thứ nhứt, thứ<br />

mười, thứ mười lăm, giống y như thời của pháp đình tôn<br />

giáo với giàn hỏa, giống y như thời "thánh chiến " đẩm<br />

đầy máu Jésus và Allah. Lịch sử chỉ quay vòng vòng như<br />

trò chơi rồng rắn. Và con người thì vẫn đắm chìm trong<br />

ngu tối, dốt nát và thù hận. Ðã từ bao lâu, con người thôi<br />

ăn lông ở lỗ nhưng đâu thôi suy nghĩ và hành động như<br />

12


cái thời còn ở trong hang động. Chúa, Phật, Allah chắc<br />

cũng chỉ biết ngậm ngùi.<br />

Hành động sát nhân một cách tỉnh táo của cái đám gọi<br />

là " tử vì đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy<br />

ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái<br />

chết để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng<br />

nào để biện minh cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng<br />

một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người<br />

vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy.<br />

Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm<br />

tin của người này để cướp lấy quyền sống của người<br />

khác có phải là phương thế để xây dựng một thế giới<br />

hoà bình, công bằng và bền vững? Có thượng đế nào<br />

chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện minh<br />

được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và<br />

nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại<br />

thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh<br />

danh đó.<br />

Nhiều ngàn năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú<br />

tánh vẫn còn đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông,<br />

vị tha, hòa đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ<br />

câu trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh<br />

đạm trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn<br />

còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm<br />

giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu. Con<br />

người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại. Có<br />

dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê hương?<br />

13


Những đêm như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc<br />

đầy trời. Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói<br />

bắt ước mơ tôi.<br />

14


Ải<br />

Nam Quan<br />

Thuở mới cặp sách đến trường, học bài địa dư đầu đời<br />

bằng tiếng thầy sang sảng. Nước Việt Nam ta hình cong như<br />

chữ S, chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà mau. Câu địa lý vỡ<br />

lòng nghe thì nhẹ nhàng giản dị mà suy ra mới thấy trầm<br />

trọng từng chữ từng lời. Mỗi chữ mỗi lời là mỗi gánh<br />

nặng máu xương. Từ thời lập quốc, bung đi từ lưu vực<br />

15


sông Hồng bị rào chắn bởi núi non cạnh Bắc đến chừng<br />

dừng lại ở chỗ đất giáp biển cực Nam, đã có bao nhiêu<br />

máu xương người Việt đổ ra cho bài địa lý được hoàn<br />

chỉnh như vậy …<br />

Ải Nam quan ! Mũi Cà Mau !<br />

Lớn lên chút nữa, mười một mười hai tuổi, ngày bãi<br />

trường đến rạp hát lãnh thưởng, ngồi xem các anh lớn<br />

diễn kịch Nguyễn Trải tiễn cha ngoài cửa ải Nam Quan.<br />

Tiếng con đòi đoạn, lời cha khẳng khái làm rung động<br />

tới con tim còn rất trẻ. Sân khấu dựng cảnh rừng âm u,<br />

đèn xanh đỏ chiếu mờ, đoàn tù xa đi chầm chậm rồi<br />

ngừng lại trước ải để mấy anh kép học trò nói lối. Ải xa<br />

cắt dán bằng mấy tấm giấy cạc-tông mà xem như thật.<br />

Cũng vách đá lầm lì, cũng lầu gác dọa dẫm làm cho đứa<br />

bé hay mơ mộng đã thấy ngay một trời biên tái.<br />

Hình ảnh đó giữ mãi suốt một thời mới lớn để đến nỗi hễ<br />

nghe nhắc tới ải Nam Quan là lại nghĩ tới đoạn lìa. Nghĩ<br />

tới đoạn lìa là có bên này bên kia. Có ta và người. Có thù<br />

và bạn.<br />

Rừng cô tịch suối trầm nao tiếng thở. Lá hoa tàn nức nở hận ly tan.<br />

Kéo về đâu mây Tần chênh bóng vỡ. Ðây Nam Quan ly biệt máu<br />

sôi tràn. (*)<br />

Rồi suốt một thời trai trẻ, học thêm những hồi lịch sữ khi<br />

nguy biến lúc quang vinh của dân tộc bao giờ cũng thấy<br />

gắn liền với cái cửa ải xa mù xa mịt đó. Xa mù mịt nhưng<br />

vẫn có đó, vững chải như được dựng lên bằng cả khối<br />

16


máu xương vô định của không biết bao nhiêu lớp tiền<br />

nhân trong cuộc chiến không ngừng chống người<br />

phương Bắc. Cả đến trong hai kỳ Bắc thuộc cả ngàn<br />

năm, cửa ải tuy bị xóa trên bản đồ thực tế mà chưa bao<br />

giờ chịu mờ phai trong lòng người dân Việt. Nó ở đó<br />

sừng sửng trong đầu trong tim để nhắc nhở, để hãnh<br />

diện, để gọi dậy lòng căm phẩn, chí phục thù và nghĩa<br />

hy sinh. Nó ở đó như để phân định rõ ràng bên này là<br />

dân tộc, là nghĩa cả, bên kia là giặc thù, là phản bội. Nó<br />

ở đó, nám đen lời xâm sát-đát của người lính Bạch Ðằng,<br />

rền rền tiếng thét xung phong của cảm tử Ðống Ða, biến<br />

trái đắng của rừng núi Chí linh thành trái phá nổ rung<br />

bốn cửa Ðông Ðô ... Nó ở đó, thất thanh trong đêm Huế<br />

bỏ ngõ, ung dung trong chén thuốc độc khi thất thủ sáu<br />

tỉnh Nam kỳ, bi tráng trong tiếng tung hô đất nước dưới<br />

máy chém Yên Báy... Và trong hằng hằng hy sinh vô<br />

danh khác nữa ... để cho một đất nước rất nhỏ hẹp, một<br />

dân tộc rất ít oi còn được đánh tiếng với đời về sự riêng<br />

biệt của mình ở bên này lằn ranh một cửa ải.<br />

Cho mãi đến khi đất nước đã bị chia hai vì tham vọng<br />

cuồng tín, trong sử sách, ải Nam Quan vẫn được kể là<br />

phần đất cực bắc của quê hương, và được trịnh trọng<br />

mở đầu cho bài sử địa khai tâm. Ðứa nhỏ Việt Nam nào<br />

mà không được học đến nằm lòng hình thể nước ta hình<br />

cong như chữ S chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà mau...<br />

Học như vậy rồi mỗi lúc một lớn lên, dẫu có làm gì bê<br />

bết cách mấy đi nữa hoặc lỡ có trôi sông lạc chợ tới đâu<br />

đi nữa thì cứ vẫn mủi lòng mỗi bận nghe mấy câu vọng<br />

cổ mùi tận mạng. Ôi-tay-cắt-tay-bao-nỡ-mà-ruột-cắt-ruột-<br />

17


ao-đành... Phải rồi sông nước núi non có khác gì lóng tay<br />

núm ruột ...<br />

Biết như vậy rồi làm sao mà không khỏi giựt mình khi<br />

nhớ lại lời khẳng quyết ngọt như mía lùi và chắc như<br />

đinh đóng cột của người “lãnh tụ” (!?) đã tự nhận là yêu<br />

quê hương dân tộc bậc nhất :“ nước Việt nam là một,<br />

sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không<br />

bao giờ thay đổi “ (sic). Những lời tâm huyết đại loại như<br />

vậy làm ai nấy nức lòng, ngay cho tới cái đám cùng dân<br />

mạt kiếp cũng phải nhận rằng núi non sông nước là máu<br />

huyết xương tủy của dân tộc, không thể để cho thù<br />

ngoài chặt đầu bẻ tay. Bèn hè nhau mà theo lời đi đánh<br />

Tây đánh Mỹ.<br />

Nhưng mà sau cơn dầu sôi lửa bỏng rồi mới thấy sự thật<br />

không phải như vậy!<br />

Bởi vì nghĩ cho tới thiệt cùng, non nước mà có bỏ công<br />

giành giựt cách mấy đi nữa trong khi con người sống<br />

trên đó rồi ra bị đối xử như loài cầm thú thì cái chuyện<br />

non nước đã hô hào có ra cái… nước non gì đâu. Non<br />

nước cũng chỉ là xẻo đất thó, khúc mương lạch đã có ở<br />

đó tự khi nào và sẽ còn ở đó cho tới bao giờ cũng là<br />

điều nằm ngoài vòng hiểu biết hữu hạn của con người.<br />

Nó ở đó, vô tình hay hữu tình chính là do sự có liên hệ<br />

hay không với con người sống ở đó. Một khoảnh đất đai<br />

vô tình mà trở nên giang sơn thắm thiết là tại đã thấm<br />

không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt và máu xương<br />

của lớp lớp người tới trước, khai phá… và hằng hằng<br />

18


người tới sau, vun bồi. Từ đó sông nước đưa đón, núi<br />

non đỡ đần và con người rủ nhau dắt díu về nương náu.<br />

Ðất và người dính liền nhau không khác gì da với thịt.<br />

Thịt có nở nang thì da dẻ mới hồng hào. Lóc thịt bỏ đi<br />

bất kể thì da chẳng khác gì lớp vỏ bầy nhầy có đem cân<br />

cũng không đáng nửa xu. Làm cái công việc bất nhân<br />

đày đọa con dân năm này qua năm khác thì núi có liền<br />

núi sông có liền sông cũng chỉ là ngụy tín. Bôn ba trời tây<br />

rồi trời đông, học đòi đủ thứ triết thuyết ngông cuồng<br />

của mấy tay biện sĩ láo khoét, rồi đem về xử quyết cho<br />

bằng được cái đám con dân đã bị xuất huyết đến mõn<br />

hơi sau ngàn năm Bắc thuộc và trăm năm Pháp thuộc thì<br />

phải kể là độc còn hơn Tần Bá. Hô hào cho được cả<br />

nước đuổi ngoại xâm, lấy một nửa đất nước rồi là phóng<br />

tay đánh ngay đám con dân khố rách áo ôm không một<br />

chút run tay. Nhân văn giai phẩm là đánh ngay bọn văn<br />

nhân trí thức cốt để đập đầu. Cải cách ruộng đất là đánh<br />

hết tứ tung trên dưới trong ngoài bất kể trời đất cốt để<br />

dập đuôi. Ðánh để nhà nhà run sợ. Ðánh để người người<br />

run sợ. Rồi vừa khi trong nhà ngoài ngỏ đã không còn<br />

tiếng hó hé là gom hết của cải lương thực mượn thêm<br />

sức thù ngoài gây thêm giặc trong cho tận tuyệt mới<br />

vừa. Dẫu có chết tới người cuối cùng cũng mặc. Làm như<br />

vậy để gọi là giành nước giữ nước? Cái thứ đất nước mà<br />

sỏi đá nát ngướu cỏ cây trơ trụi con người xơ vơ xửng<br />

vửng thì hỏi thử có thương yêu gì mà đòi với hỏi. Cho<br />

nên dẫu có cả tiếng kêu nòi gọi nước thì nghe ra cũng<br />

trơn trớt như giọng điệu chài mồi của đám giám sinh họ<br />

Mã vậy thôi. Lịch sử vài chục năm gần đây rốt lại chỉ là<br />

19


hệ lụy của mấy lời "tâm huyết" độc địa đó. Bằng chứng<br />

có đâu xa. Nó ở ngay trên cặp mắt lơ láo của lũ trẻ<br />

không trường, ở trên đôi vai xương xẩu của bà mẹ chạy<br />

gạo móm con, ở trong hốc mắt thất thần của đám dân<br />

không vây cánh sau hơn một phần tư thế kỷ độc quyền<br />

lãnh đạo ... Hai mươi lăm năm sau ngày giành lại hết<br />

miếng đất cong cong hình chữ S nếu thiệt tâm sao<br />

không đem lòng yêu thương mà gìn giữ. Ít nữa cũng đỡ<br />

tủi hờn cho cái đám trót nghe lời sinh-bắc-tử-nam. Ðằng<br />

này, chưa kịp đánh đã thua, chưa kịp thua đã tự dưng<br />

nạp mạng. Tâm địa cầu an hẳn còn hơn Trần Ích Tắc và<br />

Lê Chiêu Thống tới mấy bậc. Rõ ràng thẻo đất rộng có<br />

mấy dặm vuông hay mấy ngàn dặm vuông đi nữa, hay<br />

cả một dãy đất nước đã giành giựt bằng gian lận máu<br />

xương đâu có đáng hơn mấy chỗ ngồi trong bộ chính trị<br />

giữa Hà nội bây giờ. Lịch sử trôi rỉ rả mà giống y như<br />

đứng khựng. Ðô hộ phủ phá đi rồi muốn dựng lại mấy<br />

hồi. Cả linh hồn một dân tộc còn bán đứng được thì có<br />

sá gì cái cửa ải đã rêu xanh đòi đoạn đó. Cho nên có lạ<br />

không khi những ngày cuối năm qua đám cầm quyền ở<br />

đó đã lẳng lặng cắt đất cắt biển dâng cho kẻ thù truyền<br />

kiếp. Chẳng qua cũng chỉ là hệ quả tất nhiên của một<br />

chủ nghĩa bất cận nhân tình và một tâm địa gian hùng<br />

phản trắc đến bệnh hoạn. Trong nước thì thẳng tay đè<br />

đầu bóp cổ dân đen đến xác xơ mà miệng thì cứ thơn<br />

thớt yêu dân yêu nước. Bên ngoài thì o bế bợ đỡ đám<br />

đàn anh phương bắc " vĩ đại " để đụt nhờ chổ yên thân<br />

mà mồm thì lại ra rả tổ quốc với dân tộc. Tội nghiệp<br />

hồn tiên tổ còn lưu luyến phưởng phất trên đầu cây<br />

20


ngọn cỏ không biết phải dằn làm sao cho qua cơn uất<br />

ức. Mà con cháu, đọa lạc ở quê nhà hay lang thang<br />

ngoài xứ lạ cũng chịu thấu làm sao nỗi tủi nhục tày trời.<br />

1300 cây số đường biên giới là rừng cây đồi cỏ, là núi<br />

non suối nguồn. Mà cũng còn là chim muông quen<br />

thuộc. Và nhất là nơi chốn đi về của hàng vạn người<br />

thiểu số mộc mạc chỉ quen với đồi nương liếp rẩy, cả đời<br />

chưa một lần hay chưa muốn một lần xa rời bản buôn<br />

của họ. Cắt đất như vậy là cắt lìa một lúc cả vạn cuống<br />

rún ra khỏi núm nhau. Là bứt mạch máu ra khỏi con tim,<br />

là xua đuổi con người ra khỏi vùng môi sinh thân thuộc.<br />

Làm như vậy có khác nào kêu án tử cùng một lúc cho cả<br />

vạn người vô tội.<br />

Thật ra cửa ải rồi ra cũng chỉ là một biểu tượng. Mớ đất<br />

đá xây thành hẳn đã bị bào mòn theo thời gian và có<br />

ngày sẽ sụp đổ dẫu không ai chạm tới. Chính cửa-ải<br />

chắn giữ giữa lòng người mới chính là hào lũy thiên thu.<br />

Từ cuộc khởi nghĩa Mê Linh đến trận thủy chiến Bạch<br />

Ðằng, từ câu tứ tuyệt của Lý Thường Kiệt đến lời hịch<br />

sấm dậy của Trần Hưng Ðạo, từ lời nguyền sông Hoá<br />

đến câu thề sát đát, rồi đoản đao Ngọc Hồi, gươm bạc<br />

Nhật Tảo, ... ngay đến lúc thất thế mà lời khẳng quyết<br />

còn làm rung động được nước non chính là đã phát xuất<br />

tự bên trong cái cửa ải cao ngùn ngụt chắn ngay giữa<br />

tấm lòng người dân Việt. Những cửa ải đã dựng lên<br />

bằng xương vô định, bằng máu trường giang, bằng trí<br />

ngưu đẩu, bằng dũng bạt sơn, bằng nhẫn trấn thủy...<br />

nghĩa là bằng cả cái dòng lịch sử chảy cuồn cuộn trong<br />

máu huyết ngàn năm lập quốc. Chính những cửa ải vô<br />

21


hình đó đã giữ cho nước Việt tồn tại qua hai lần Bắc<br />

thuộc mà sức đồng hóa đã thành huyền thoại. Chính<br />

những cửa ải vô hình đó đã giữ lại nguyên trạng người<br />

Việt trải qua chính sách diệt chủng thâm độc của người<br />

phương bắc từ luật cống nhân tài đến lệnh cạo tóc tết<br />

đuôi sam, từ cột đồng Mã Viện đến bùa yểm Cao Biền,<br />

rồi vó ngựa Nguyên Mông, rồi súng thần công Thanh<br />

triều...<br />

Còn gì nữa, nói được hết không từ tội ác bắt người lênrừng-tìm-ngà-voi-xuống-biển-mò-ngọc-trai<br />

của An nam<br />

đô hộ phủ, đến dã tâm phế bỏ linh hồn dân Việt bằng<br />

cách gom thâu sách vở chở về đốt hết ở Kim Lăng ... Còn<br />

nhiều nữa, nhiều lắm để viết đầy những trang sử diệt<br />

chủng bất tận.<br />

Vậy mà cho đến cuối thế kỷ 20 người dân Việt vẫn còn<br />

có mặt trên dãy đất oan khiên trong khi đã có không ít<br />

những tộc chủng đã biến mất hoặc hầu như biến mất<br />

trên mặt đất này. Vâng, người Việt vẫn còn có mặt. Và sự<br />

có mặt này hẳn không ít thì nhiều là cái gai nhọn trong<br />

mắt người phương bắc. Mà độc đáo hơn nữa, cuộc tồn<br />

sinh của dân tộc không phải là một tình cờ của lịch sử.<br />

Cuộc tồn sinh đó là một cuộc kháng chiến trường kỳ, dai<br />

dẳng, âm ỉ không những chỉ bằng gươm giáo mà còn<br />

bằng niềm kiêu hãnh, lòng quyết tâm, chí can cường và ý<br />

thức độc lập. Lịch sử cuộc tồn sinh đó là lịch sử những<br />

trận chiến giằng dai và đẩm máu của một bên, nhỏ và<br />

yếu như con châu chấu và một bên, lớn và mạnh như<br />

22


chiến xa. Lịch sử cuộc tồn sinh đó là lịch sử của một sức<br />

đề kháng dẻo dai và bền bỉ được nuôi dưỡng bằng tình<br />

yêu đất đai, làng mạc, xóm giềng, gia đình và những<br />

truyền thống đã thành nề nếp. Sức đề kháng đó bung ra<br />

thành những hy sinh đến mức khó tin và nhiều không<br />

sao kể xiết, người bỏ thây ngoài trận địa để giành lại một<br />

tấc đất, kẻ nhẫn nhục ở xóm thôn để nuôi dưỡng một<br />

niềm tin. Sự kết hợp của hằng hằng hy sinh đó, oanh liệt<br />

hay thầm lặng, chính là cái cửa ải trong lòng người,<br />

chống lại mọi sức đột phá từ bên ngoài để giữ cho được<br />

hồn Việt còn mãi mãi là hồn Việt. Vâng, cái cửa ải đó đã<br />

có thật, lưu liên trong lòng của bao nhiêu thế hệ. Và<br />

cũng rất thật, cái cửa ải đó đã sụp mất trong lòng của<br />

những người đang cầm quyền ở đó, hiện nay. Nghĩ lại<br />

coi, có một chế độ tự trọng nào mà lại bo bo đầu phục<br />

kẻ thù truyền kiếp ở phương Bắc tới vậy, ngoại trừ cái lần<br />

họ Mạc mưu toan dùng kế khổ nhục để hoãn binh hầu<br />

cứu vãn nghiệp cả. Việc không thành. Họ Mạc mất còn<br />

bị nguyền rủa đời đời và chưa bao giờ được coi là một<br />

họ chính thống. Còn lại, trong suốt dòng lịch sử dù có<br />

phong ba vẫn chưa bao giờ người xưa cam lòng khuất<br />

nhục nếu đã chưa thử thách đến kỳ cùng. Kể từ năm 939<br />

là năm có chính sử, sau lần tuyên ngôn tự chủ của Ngô<br />

Quyền, đến danh xưng Ðại Cồ Việt được coi là lời khẳng<br />

quyết đầu tiên của một dân tộc về quyền sống của mình<br />

dưới ánh mặt trời, xứng đáng như mọi dân tộc khác.<br />

Nghĩa là một quốc gia với biên cương là những lằn ranh<br />

vạch bằng xương máu. Nghĩa là một quốc gia với đầy đủ<br />

quyền lực và trách nhiệm để bảo vệ lãnh thổ và con dân.<br />

23


Những đời vua lần lượt thay nhau nắm lấy cái quyền<br />

thiêng liêng đó. Có triều đại rực rỡ, có triều đại lu mờ<br />

nhưng có triều đại nào nhượng đất đợ con như triều đại<br />

họ Hồ này đâu.<br />

Ải Nam quan ở đó đã bao đời bỗng chốc thụt sâu vô nội<br />

địa cả chục ngàn thước mà kẻ thù không mất một mảy<br />

lông thì quả thực ngàn năm có một. Bởi vì cũng chỉ ngàn<br />

năm mới có một hạng cầm quyền bạc nhược đến như<br />

vậy. Họ bạc nhược như vậy vì lòng họ không còn cái cửa<br />

ải sừng sửng như trong lòng tiền nhân để chận đứng cái<br />

xấu và bảo vệ cái tốt. Vì chủ nghĩa bất nhân thất đức đã<br />

bứt lìa họ khỏi cái nôi của dân tộc. Vì sự dối trá lâu ngày<br />

đã biến họ thành những kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Vì<br />

những lợi lộc đang thụ hưởng sau khi đã quá khát thèm<br />

làm họ mất hết lương tri. Và sau chót vì họ không còn là<br />

người Việt như những người Việt từ ngàn đời vẫn dính<br />

liền với quê mẹ như một cuống rún chưa lìa. Nói như vậy<br />

không phải vì ngạc nhiên mà nói. Thật ra có gì lạ đâu cái<br />

việc nhà cầm quyền ở miền Bắc trước năm 75 và nguyên<br />

nước Việt Nam sau năm 75 đã mặc nhiên biến VN thành<br />

một quận huyện của Trung Hoa từ rất lâu rồi. Ðâu từ sau<br />

cái thời kháng chiến 9 năm lận. Nghĩ lại coi cái nước Việtnam-dân-chủ-cộng-hòa<br />

đó có khác gì nước Trung-hoacộng-sản<br />

của "Mao-chủ-tịch" đâu. Từ tổ chức hành<br />

chánh quân đội đến xả hội đều rập khuôn với đàn anh,<br />

làm như người Việt vốn sanh ra không có một chút kiến<br />

thức và sáng tạo gì khác ngoài việc bắt chước, kể cả bắt<br />

chước cái xấu xí quê mùa. Từ việc lớn như phát động<br />

phong trào đấu tố đẫm máu đến cái việc nhỏ nhặt như<br />

24


ộ quần áo đại cán ngây ngô, từ cái tiểu tổ tam tam chế<br />

để kiểm soát nhau tới chết đến cái chiến thuật biển<br />

người đem nướng thanh niên vào lửa đỏ, từ cái tổ chức<br />

trại-viết-văn coi nghệ thuật như một thứ sản phẩm kêtoa-đặt-hàng<br />

đến những bài ca líu lo rặt giọng nhạc tàu<br />

nghe muốn thủng tai... còn cái gì là cái-việt-nam ngoài<br />

cái ngu dốt và nghèo đói. Thành ra nói như trên không<br />

phải vì ngạc nhiên mà nói. Nói chỉ để nhắc lại một<br />

chuyện ai nấy đều biết nhưng nín lặng hoặc vì che mắt<br />

để an thân hoặc bịt tai để khỏi xấu hổ. Cái cửa<br />

ải Nam quan vốn mất đã từ lâu rồi. Mất từ lúc cái cổng<br />

thành đá vẫn còn đó, giữa núi sông, mà thật ra giữa lòng<br />

người lãnh đạo thì không còn nữa. Mất đâu từ năm 54<br />

khi người cộng sản kéo nhau vào diễn hành qua 36 phố<br />

phường của Thăng Long cũ. Mất đâu từ trước nữa, từ khi<br />

ông Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa cộng sản làm vũ khí<br />

đấu tranh. Và chọn làm bạn đường ông Mao Trạch Ðông<br />

"vĩ đại" mà quên rằng từ nhiều ngàn năm nay, người Việt<br />

ưu thời mẩn thế luôn luôn dè dặt với người láng giềng<br />

khổng lồ đó. Lịch sử lịch triều là bằng chứng không thể<br />

làm lơ. Lời đường mật "môi hở răng lạnh" nghe thì ỏn ẻn<br />

như giọng Ðiêu Thuyền mà thật ra ngậm đầy gươm đao<br />

tẫm độc. Thành ra chỉ có hoặc vô tâm đến độ ngây ngô<br />

hoặc cố tình làm ngơ vì dụng ý hẹp hòi mới có thể đinh<br />

ninh tin cậy vào lòng tốt của một dân tộc vốn cũng trồng<br />

lúa nước và ăn gạo như chúng ta. Chỉ có mù quáng đến<br />

tối mắt giống như Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống mới<br />

có thể thấy cái lợi che thân mình trước mắt mà quên cái<br />

hại lâu dài cho dân tộc. Chỉ có thể huênh hoang như<br />

25


phường tuồng mới có thể hô hào không ngượng miệng<br />

cái tình "hữu nghị" đã nát như tấm giẻ rách sau cuộc "<br />

trừng phạt" năm 79. Chỉ có thể a tòng với tội ác mới<br />

không thấy cái việc tương nhượng lần này là mở cửa<br />

trước cho bọn cướp ngày được-đằng-đầu-lấn-đằngchân<br />

thập thò dòm ngó cửa sau. Chỉ có thể mặt dạn mày<br />

dày mới không bị lấn cấn trong việc rước-voi-giày-mảtổ.<br />

Mà nhất là có lâu lắc gì cho cam, mới đây thôi, chính<br />

họ đã la hoáng lên như kẻ cháy nhà về cái chủ nghĩa bá<br />

quyền của người-anh-em-phương-Bắc. Rồi một sớm<br />

một chiều cũng chính họ đã nhủn như con chi chi rước<br />

rước đưa đưa người qua lại cắt đất cắt trời cắt biển của<br />

tổ quốc một cách ngang nhiên như chia của riêng của<br />

ông cha họ để lại. Thành ra nói không phải vì ngạc<br />

nhiên. Nói chỉ để ngậm ngùi mà xác nhận lại một điều lo<br />

sợ đã thành sự thật. Cái hệ luận tất yếu của một chủ<br />

nghĩa quái đản, mạo nhận đại đồng để che đậy vọng<br />

ngoại, tiếm xưng dân tộc để giấu giếm vong bản, cường<br />

điệu ngôn ngữ để lấp liếm sự rỗng không và hoa hòe<br />

hoa sói là để lòe mắt gạt gẫm đám con dân khốn khổ.<br />

Tất cả đã nằm ngay trong lối kết bè tụ đảng, học đòi bạo<br />

lực bất chấp nhân nghĩa, chuyên trị khủng bố với<br />

phương châm cứu cánh biện minh cho phương tiện. Việc<br />

phải tới đã tới. Bắt đầu bằng cái việc đòi nợ trả nợ mặc<br />

dầu miệng lúc nào cũng ra rả là nghĩa vụ quốc tế. Nợ<br />

súng đạn mìn bẩy dao găm trả lại bằng tấm lưng còng<br />

của mấy chục triệu con dân. Rồi là nợ đất đai chắc là đòi<br />

đâu giao đó. Bởi vì có dám chống lại đâu khi nhìn suốt cả<br />

nước có tìm đâu ra được một tấm lòng dân như thuở<br />

26


Diên Hồng. Thành ra việc phải tới đã tới. Tới bây giờ hay<br />

mai mốt thì cũng vậy bởi vì quan ải đâu còn nữa trong<br />

lòng những kẻ đã bán linh hồn cho quỹ dữ. Mấy chục<br />

năm qua bao nhiêu xác người thúc ké thả trôi sông, bao<br />

nhiêu lựu đạn nổ giữa chợ, bao nhiêu trường học đổ sập,<br />

bao nhiêu người đã chết không nhắm mắt trong những<br />

trại lán heo hút, bao nhiêu xương-máu-khởi-nghĩa-giảiphóng-hiệp-thương-thống-nhất...<br />

gì gì nữa để đánh đổi<br />

cái việc nay dưng đất này, mai nhường biển nọ cho kẻ<br />

thù nguy hiểm nhất vì vốn liền núi liền sông thì dẫu là<br />

ngu cách mấy chắc cũng không thể không tủi hổ và tức<br />

giận đến bầm gan tím mật. Vậy mà những kẻ đó, với<br />

quyền lực sinh sát trong tay vẫn tự trói thân phủ phục.<br />

Vậy mà những kẻ đó, đang phè phởn trên đầu muôn<br />

dân vẫn tổ chức lễ reo mừng. Không lẽ chỉ có chúng ta,<br />

cái đám con dân đang ngất ngư vì bị bóp hầu siết cổ hay<br />

đang lang thang lơ láo trên xứ người là còn thấy xấu hổ<br />

hay sao. Thật ra câu trả lời đã nằm ngay trong việc làm<br />

trời không dung đất không tha đó.<br />

Ôi Nam Quan ly biệt máu sôi tràn ! (*)<br />

(*) thơ của một tác giả không nhớ tên. Muôn vàn tạ lỗi<br />

27


viết thêm<br />

Bài viết đã lâu, từ lúc xảy ra ba cái vụ gọi là “ dời cột mốc” ở biên<br />

giới phía bắc. Đến nay tình trạng càng lúc càng tồi tệ hơn. Gần<br />

đây nhất và có vẻ rầm rộ nhất, mang tai mang tiếng nhất do sự<br />

việc xảy ra ở ngay cửa ngõ mở ra thế giới (chỗ người ta hay dòm<br />

ngó) là ba cái vụ biển đông với Hoàng Sa và Trường Sa ... Thật ra<br />

mọi sự chỉ diễn ra theo một trình tự rất “họp lý” và ... “họp tình”.<br />

Một khi cửa ải Nam Quan không còn sừng sững trong đầu trong<br />

lòng con người ở đó nhất là trong đầu cái đám “ gọi-là-lãnh-tụ ”<br />

thì dù cho có một triệu cái cột mốc đi nữa cũng không phân định<br />

được đâu là ranh giới nói chi là ở chỗ trời biển mênh mông. Mà<br />

nói chi cho xa xôi (và lớn chuyện), ngay cả trong đời sống hằng<br />

ngày, từ cây đủa ăn cơm đến cái nhà máy điện, từ cái lồng đèn đỏ<br />

lòm treo đầy trong nhà ngoài ngõ tới cái mỏ bau-xít đỏ hoét cả<br />

một vùng trời đất tây nguyên v.v... và v.v... Có kể hết được không<br />

sự có mặt (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) của người đồng-chí-môihở-răng-lạnh<br />

ở phía bắc vốn bị coi là kẻ thù truyền kiếp của dân<br />

tộc ngay từ thời lập quốc.<br />

Cái chuyện lộn xộn rùm beng nay ở chỗ này mai ở chỗ kia chẳng<br />

qua chỉ nói để mà nói, chớ thật ra, đã từ lâu lắm, đâu hồi “ bác ”<br />

nổi hứng đi làm cách-mạng-made-in-china thì thật ra cả đất nước<br />

ông bà tổ tiên còn có ra gì nói chi đến năm ba tấc đất. Chuyện<br />

phải tới thì sẽ tới. Vậy thôi !<br />

28


" Bonjour<br />

Vietnam "<br />

Mấy ngày giáp năm, lòng bỗng nhong nhóng chờ<br />

một cái gì dù biết mình đã thật không có gì để đợi. Ở<br />

cheo leo ngay trên vĩ độ 45 bắc, núi rừng ao hồ<br />

29


thành phố vẫn bằn bặt trong cơn đồng thiếp trắng.<br />

Và gió và tuyết cứ tha hồ đục đẽo mặt người. Và<br />

người xa xứ cứ vật vã với mớ kinh nghiệm càng lúc<br />

càng còm cõi về một nhiệt đới vàng.<br />

Rồi tết đến. Rồi tết đến, rồi lòng anh nhớ quá. Thơ<br />

Nguyễn Đình Toàn đẹp như một kỷ niệm. Và tết, rồi<br />

cũng chỉ là một kỷ niệm trong mớ kỷ niệm tội nghiệp<br />

đang lún dần vào phía bên kia của trí nhớ.<br />

Ở giữa cái thờ ơ của đất trời xứ lạ và lòng người lạ<br />

xứ, âm vang tết nghe mơ hồ như chính cái quê<br />

hương chẳng những đã xa mút ngoài dặm trường<br />

mà còn xa mù trong lý tưởng. Người về người qua kể<br />

chuyện này chuyện nọ đã có lúc làm nhớ đến Túy<br />

Hồng có lần mô tả Huế như một thành phố « đi xa<br />

để mà nhớ chớ không phải ở để mà thương ». Câu<br />

viết trong một tâm cảnh đặc biệt nào đó chẳng lẻ trở<br />

thành một lời tiên tri thấu thị, cho từng lượt người<br />

qua lại đi về,<br />

Hàng năm tết đến lại thấy lũ lượt người về... Rồi lũ<br />

lượt kéo qua, và những lời phiền trách!<br />

Thì đã đành là lá rụng về cội, chỉ có điều cái cội này<br />

sao có quá nhiều gai góc nhất là cho những chiếc lá<br />

còn quá xanh non.<br />

Vâng những chiếc lá còn quá xanh non, những tuổitrẻ-việt-nam<br />

không quá khứ, chẳng hận thù đang<br />

phơi phới lớn lên khắp cùng mặt đất này, ngoại trừ<br />

30


cái phần đất có hình cong cong chữ S... và đang náo<br />

nức muốn tìm lại về nguồn. Cái ước muốn đúng đắn<br />

và cảm động biết bao. Cha chú đã bồng ẳm họ trên<br />

tay, giấu diếm họ trong nách, những bà mẹ đã mang<br />

họ trong bụng, những dì cô đã cỏng họ trên lưng lội<br />

bùn lầy, chui rừng rậm trốn tránh đồn bót và băng<br />

qua những cơn bão dữ của thiên nhiên và lòng<br />

người, cốt tìm cho họ một-chỗ-đứng-dưới-ánhsáng-mặt-trời,<br />

những người đó chắc cũng vừa lòng<br />

lắm. Hổng vừa lòng sao trong mấy ngày tết vừa qua,<br />

lòng ai nấy bỗng thấy rưng rưng khi tình cờ nghe<br />

được một giọng vành khuyên non xèo, hát lên lời<br />

hoài vọng quê hương nghe thương đến đứt ruột.<br />

Giọng hát đó là của cô gái Việt Nam mười tám tuổi<br />

tên Phạm Quỳnh Anh, sinh ra và lớn lên ở Bỉ. Và bài<br />

hát có tên gọi Bonjour Vietnam, lời và nhạc của một<br />

ca nhạc sĩ đang được ưa chuộng ở Pháp, Marc<br />

Lavoine. Nhạc êm dịu, trữ tình. Và lời thì tuyệt tác.<br />

Raconte-moi ce mot étrange et difficile à prononcer<br />

que je porte depuis que je suis né<br />

Raconte-moi le viel empire et le trait de mes yeux bridés<br />

qui disent mieux que moi ce que tu n'oses dire<br />

Je ne sais de toi que des images de la guerre<br />

Un film de Coppola, (et) des hélicoptères en colère<br />

Un jour, j'irai là bas, un jour, dire bonjour à ton âme<br />

Un jour, j'irai là bas (pour) te dire bonjour Vietnam.<br />

Raconte-moi ma couleur, mes cheveux et mes petits pieds qui me<br />

porte depuis que je suis né...<br />

31


..... Hãy kể cho ta biết cái tên khó gọi mà ta đã mang từ thuở sơ<br />

sinh<br />

Hãy kể cho ta về đất nước xa xưa và về đôi mắt xếch của ta<br />

đôi mắt biểu lộ lòng ta hơn những lời không dám thốt lên<br />

Ta chỉ biết quê nhà qua hình ảnh chiến tranh<br />

Qua phim của Coppola với những chiếc trực thăng hung dữ ...<br />

Một ngày nào đó, ta sẽ về chào hồn thiêng dân tộc<br />

Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam<br />

Hãy kể ta nghe về màu da, mái tóc và bàn chân nhỏ bé của ta<br />

đã theo ta từ lúc mới chào đời... (1)<br />

Phải nói là người nhạc sĩ Pháp trẻ tuổi và thời danh<br />

đó đã có một tấm lòng liên mẫn tuyệt diệu lắm mới<br />

viết thay được cho lớp trẻ Việt Nam đang sống như<br />

một loài cây không rễ - dù không phải là đã không<br />

hòa nhập được với nếp sống xứ người. Nỗi ưu tư đó<br />

có thật, trong tròng mắt đen nhánh như hai hột<br />

nhãn, trên mái tóc cứng sợi đen tuyền, trên làn da<br />

sẫm vàng nhiệt đới, dù cặp môi xinh xắn đó có xổ<br />

tiếng Tây tiếng Anh như gió cuốn mây bay. Chắc<br />

chắn, ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó, trong<br />

cái đầu nhỏ xíu và thông minh của họ, đã có lúc bật<br />

ra câu hỏi... tôi-là-ai giữa cái đám đông nhung nhúc<br />

mắt xanh tóc vàng đang vây quanh họ. Và từ đó, câu<br />

hỏi về một quê nhà nghe ra cứ mù mịt trong những<br />

câu chuyện giữa mẹ cha cô dì chú bác... Cái thế hệ<br />

thứ hai lớn lên giữa một-chỗ-không-phải-quêhương,<br />

làm gì không có lúc muốn nhìn cho biết tận<br />

mặt quê hương, cái ước muốn không kém phần luận<br />

32


lý như chính cái luận lý bỏ đi của cha mẹ họ hơn ba<br />

mươi năm trước.<br />

Người nhạc sĩ, trong khuôn khổ giới hạn của bài hát,<br />

đã chọn lọc thật khéo những hình ảnh đơn giản<br />

nhưng đủ gây ấn tượng về lịch sử trầm luân của một<br />

dân tộc. (Thì thôi nhìn bằng cách nào, ngay cả khi chỉ<br />

thấy có một phía... những hélicoptères en colère,<br />

những chiếc trực thăng hung dữ, cuộc chiến rồi ra<br />

cũng đã là một tai họa chung cho cả dân tộc đó !<br />

Cũng có thể đó là tâm trạng chung của cái thế hệ tới<br />

sau chỉ biết chiến tranh qua những lời kể lại. Từ đó<br />

cái nhìn trở thành bao dung, khoan hòa, rộng<br />

lượng... như chính cái hồn tuổi trẻ vẫn thường không<br />

biện biệt...)<br />

Hãy quên đi cái anh nhạc sĩ người Pháp và nghe lời<br />

ca từ trên đôi môi xinh xắn của một cô-bé-việt-nam,<br />

cái giấc mơ về quê nghe hiền lành, vô tội và dễ<br />

thương như tiếng kêu chiêm chiếp của một con chim<br />

con đang tập hót.<br />

Hãy kể ta nghe về căn nhà, con đường và vùng đất ta chưa biết<br />

có chợ nhóm trên sông và thuyền tam bản<br />

Và nỗi náo nức tìm về cũng thiệt thà, hồn hậu như<br />

chính những hình ảnh nó gói ghém trong đó.<br />

33


Một ngày nào đó, ta sẽ về chào hồn thiêng dân tộc<br />

Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam<br />

Sẽ đi thăm những ngôi chùa, tượng Phật, thay cho cha<br />

Chào hỏi những người phụ nữ cấy lúa trên ruộng đồng, thay cho<br />

mẹ<br />

Và nhất là vòng tay mở ra, tấm lòng mở ra để ôm<br />

cho hết ... Việt Nam.<br />

Dans la prière, dans la lumière, revoir mes frères<br />

Toucher mon âme, mes racines, ma terre...<br />

Un jour, j'irais là bas. Un jour, dire bonjour à mon âme<br />

Un jour, j'irais là-bas (pour) te dire bonjour, Vietnam.<br />

Trong lời nguyện cầu, trong ánh sáng chan hòa, ta sẽ gặp lại các<br />

anh em<br />

Trở về sống với tiếng lòng, cội nguồn, với đất mẹ quê cha<br />

Một ngày nào đó, ta sẽ về gặp lại linh hồn của ta<br />

Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam (1)<br />

Tình tự đó được hát lên bằng một giọng hát rất non,<br />

non như màu xanh của lúa mạ. Nghe hát, liên tưởng<br />

đến người hát thấy ra cái mâu thuẩn ngộ nghĩnh vừa<br />

gây thích thú vừa bỗng thấy một chút nghẹn ngào.<br />

Chính cái dáng dấp xinh xắn của một cô gái rặt-việtnam<br />

hát lời vọng tưởng Việt Nam bằng thứ tiếng<br />

Pháp phát âm hết sức đúng điệu, đúng cách, đúng<br />

giọng không thua bất cứ một cô đầm chính hiệu nào<br />

đã làm người nghe thấy bàng hoàng.<br />

34


Và... vấn đề đặt ra ở đây.<br />

Giọng non, thanh mà ấm, hát hồn nhiên và say sưa<br />

cái nỗi thiết tha của mình về một quê hương chưa<br />

từng biết bỗng làm người nghe giựt mình. Nhất là<br />

mỗi lần cô xuống giọng để kết một phiên khúc bằng<br />

mấy tiếng bonjour Việtnam,-trong tiếng Pháp không<br />

có "dấu nặng", cô phải láy giọng để phát ra cho<br />

đúng cái âm "dấu nặng" đó- nghe mà thương hết<br />

sức. Cô nhỏ hát thành khẩn như một người đã sinh ra<br />

ở đó và sẽ chết ở đó, đã chơi đùa một tuổi thanh<br />

xuân ở đó và ngậm ngùi một tuổi vàng ở đó. Cô nhỏ<br />

hát như một người đã biết đau cái đau của viên đạn<br />

xé thịt, đã khóc tiếng khóc của một người đào huyệt<br />

chôn bạn, đã rạng rỡ những vinh quang tự chủ và tối<br />

ám những nhục nhằn nô lệ. Cô hát như một người<br />

đã lồng lộng gió chiều Cữu Long, đã rám mặt núi<br />

đèo Trường Sơn, đã lún mỏi sình lầy Đồng Tháp, đã<br />

biết oan khiên Thúy Kiều, não nùng Cung Oán... Rõ<br />

ràng cô hát bằng cả một hồn hoài hương dù giữa cô<br />

và cái quê hương đó chưa biết nhau được một lần.<br />

Có phải chính cái mà Carl Jung đã gọi là vô thức tập<br />

thể đã tàng ẩn trong những sợi nhiễm thể của cô<br />

khiến tiếng hát cô mang đầy vẻ trìu mến về một đối<br />

tượng mà cô chỉ mơ hồ nghe kể lại. Như vậy có phải<br />

đã có một giấc-mơ-việt-nam đâu sẵn trong tim<br />

trong óc của những người tuổi trẻ dù chưa một lần<br />

35


thực sự biết mặt quê hương tròn méo dài ngắn ra<br />

sao. Có điều... hình như giữa giấc mơ êm đềm đó và<br />

cái thực-tại-việt-nam bây giờ dường như vẫn còn<br />

một khoảng cách không lấy gì hẹp lắm.<br />

Em nhỏ, em thấy gì trong giấc mơ em?<br />

Phải cái hình ảnh biểu tượng từ bao lâu nay, từ một<br />

thuở yên bình...phải Hà Nội mơ màng với tháp Rùa<br />

hồ Gươm, phải Huế trầm lặng với thành mộ lăng<br />

tẩm, phải Sài Gòn sinh động với đèn đuốc lấp lánh<br />

như viên ngọc của Viễn đông .... Phải là những ruộng<br />

đồng bát ngát lúa vàng, những sông rạch chằng chịt<br />

thừa mứa tôm cá, những hội hè đình đám rộn rịp,<br />

những con người cần cù chất phát... Hay một thời<br />

cuồng nộ với hình ảnh kinh hoàng của đứa bé trần<br />

truồng chạy ra từ một vòm lửa đỏ, những vành khăn<br />

tang quấn trắng cả phố Huế-mậu-thân... Hay sự hồi<br />

sinh của một vùng đất chết. Hay sức sống thầm lặng<br />

của một dân tộc oan ương... Có điều biểu tượng nào<br />

cũng đúng và cũng không đúng. Dù biểu tượng nào<br />

cũng có thể làm em ngây ngất một ý hướng tìm về.<br />

Em sẽ về. Tôi biết em sẽ về. Một lúc nào đó.<br />

Thử nghĩ đến một ngày em và tâm hồn trong vắt của<br />

em sẽ về lại đó. Em sẽ về, tôi biết.<br />

36


Thử đọc lại một đoạn trong bài "Quê hương ngày<br />

gặp lại" của Kim Thanh đăng trên báo Khởi Hành số<br />

108, tháng 10 năm 2005<br />

"... chiếc Boing 777 của Asiana Airlines lượn vòng Sài Gòn để<br />

chuẩn bị đáp. Lúc ấy gần hai giờ sáng. Thủ đô một thời, Hòn Ngọc<br />

Viễn Đông đã mất tên, hiện qua ô cửa máy bay, tối om.... Từ trên<br />

cao, chưa thấy một thành phố, phi trường về đêm nào ảm đạm<br />

như Sài Gòn... Huệ Trân, con gái tôi, hỏi, cắt đứt dòng suy tư:<br />

-Thành phố gì mà tối thui vậy ba? Sao họ không thắp đèn<br />

lên, nhiều thiệt nhiều như ở Mỹ ?<br />

-Việt Nam bây giờ đó con<br />

.......................................<br />

Từng lượt hành khách từ các chuyến bay lục tục tiến vào một tòa<br />

nhà khá khang trang. Các nhân viên tiếp đón mặt lạnh như tiền...<br />

Tôi trình giấy tờ cho một nữ công an, sồn sồn, da tai tái, mặt lấm<br />

tấm mụn. Ả mở hé hộ chiếu, rồi nhìn xéo tôi, ra lệnh bằng giọng<br />

Bắc nhà quê, the thé:<br />

- Ông kẹp các giấy này vào hộ chiếu, của ai phải đúng tên<br />

người đó, rồi đứng đấy chờ tôi !<br />

Và lạnh lùng vẫy gọi những người kế tiếp. Nửa tiếng sau ả mới<br />

quay sang tôi:<br />

- Ngoài tên thật, ông có biệt hiệu, bí danh nao không ?<br />

Sinh quán ở đâu, làm gì ở Mỹ, ở Mỹ lâu chưa, đến Mỹ diện gì, về<br />

Việt Nam mấy lần rồi ?<br />

Muốn kiếm chuyện gì nữa đây. Tôi nhìn thẳng mặt ả, cao giọng:<br />

- Tôi đã trả lời rồi trong đơn xin visa<br />

Ả nổi nóng, rít lên:<br />

- Bây giờ tôi hỏi lại có được không ?<br />

Đến nước này, tôi phải đốp chát, bất cần hậu quả<br />

- Không được. Bà không có cái quyền đó. Giấy tờ của tôi<br />

rất hợp lệ, được ký bởi hai chính phủ.<br />

................................<br />

37


Sau này, kể lại cho gia đình nghe, tôi vẫn hậm hực nói với Loan:<br />

- Mà tại sao nó chỉ chiếu tướng một mình anh ?<br />

Nàng cười bảo:<br />

-Tại vì nó thấy mặt anh hãm tài quá ! Hoặc biết đâu chừng<br />

nó mê anh, muốn cho anh nếm một chút thú đau thương... Em đã<br />

dặn kẹp tiền vào passport thí cô hồn mà anh không chịu... (2)<br />

Rồi thử nghĩ tiếp, giả sử em qua trót lọt cửa quan<br />

Tân Sơn Nhất, em vào tới phố phường Sài Gòn, mắt<br />

em mở lớn để làm quen với những lạ lẫm... Giả sử<br />

em về tới nhà một người thân nào đó, lệ trùng<br />

phùng mừng mừng tủi tủi...<br />

Như vầy ...<br />

... Buổi sáng, Quốc, chồng Huyền Trân, đi trình giấy tờ, hộ chiếu<br />

cho đồn công an, nhưng quên không đem theo tiền "bồi dưỡng".<br />

Lập tức, hai tên còn trẻ, lạ hoắc, một nam một nữ, xuống nhà để "<br />

trước thăm bà cụ, sau chào anh hai mới về". Tôi không hiểu<br />

chuyện gì, phải ngồi tiếp nửa tiếng cho đến khi Huyền Trân đi đâu<br />

về rút tiền ấn vào tay, họ mới rút êm. (2)<br />

Rồi em có thể cũng sẽ được đưa đi thăm những<br />

thắng cảnh đền đài di tích lịch sử như bất cứ người<br />

Việt nào trở về chỉ cốt để thăm-gia-đình nhưng đều<br />

cũng sẵn-dịp-đi-cho-biết.<br />

Hãy đọc thêm một đoạn của học giả Nguyễn Huệ<br />

Chi, người rất có thẩm quyền về những thắng tích<br />

Việt Nam, đã được đăng trên diễn đàn Talawas ngày<br />

21/ 9/ 2005<br />

38


... trèo lên Ngọa Vân Am ở phía tây hòn Yên Tử, ở độ cao khoảng<br />

1000 mét, nơi người anh hùng hai lần lãnh đạo cả nước chống giặc<br />

Nguyên và cũng là vị tổ của nền<br />

Phật giáo thống nhất đời Trần : dòng thiền Trúc Lâm-Trần Nhân<br />

Tông, an tịch, người ta thấy choáng váng đến sững sờ : ngôi tháp<br />

Phật hoàng tức tháp Trần Nhân Tông cao sừng sững, bị đào rỗng<br />

ruột đứng vật vờ trước gió, bài vị bằng đá đen và một tấm đá bán<br />

nguyệt rất lớn khắc mấy chữ "Phật hoàng tháp" thật đẹp trong<br />

niên hiệu Minh Mạng (1839) bị đập thành nhiều mảnh... (2)<br />

Em nhỏ, em có biết tại sao vậy không, những chùa<br />

chiềng, đền đài, tượng đồng, những con hạc gổ,<br />

những đồ sứ đồ sành... những cổ vật vốn vô tri<br />

nhưng hữu tình vì thường chứa đựng trong nó cả lịch<br />

sử của một dân tộc mà bất cứ một người văn minh<br />

nào cũng trân trọng gìn giữ lại bị đập thành nhiều<br />

mảnh.... Vì ở quê hương của em, từ hơn hai thập kỷ<br />

qua, những kỷ vật đó đã trở thành một món hàng<br />

thời thượng.<br />

Khi nghe em hứa sẽ đi thăm những chùa chiềng,<br />

tượng Phật thay cha, tôi muốn rưng rưng.<br />

Thử đọc tiếp một bài viết khác từ năm 2000 của giáo<br />

sư Phạm Cao Dương, cũng là một người rất có thẩm<br />

quyền về lịch sử. Ông trích lại một bản tin từ trong<br />

nước<br />

... trong khi đó các đền chùa cổ tại Việt Nam, đặc biệt là tại miền<br />

bắc, đang bị trộm phá tan hoang. Chỉ tại địa bàn tỉnh Hà Tây gần<br />

đây đã liên tục xảy ra hơn 70 vụ trộm cắp cổ vật . Tại bốn huyện<br />

39


Chuơng Mỹ, Hoài Đức, Quốc Oai và Thạch Thất, trong lúc công an<br />

đang tiến hành điều tra truy tìm thì vào một đêm tháng 9/ 1999,<br />

tại chùa Tây Phương ở huyện Thạch Thất, kẻ gian lại đột nhập lấy<br />

đi một tượng Phật Bà nghìn mắt và một số đỉnh đồng... Ta cần để<br />

ý là những pho tượng ở các chùa không phải nhỏ và nhẹ... (3)<br />

Em có hiểu cái lưu ý của tác giả không... Ta cần để ý<br />

là những pho tượng ở các chùa không phải nhỏ và<br />

nhẹ... Điều đó có nghĩa là không phải ai cũng có khả<br />

năng cạy, gỡ, khuân vác và chuyên chở những pho<br />

tượng không phải nhỏ và nhẹ và mua bán và "xuất<br />

khẩu" sang tận Trung Hoa !<br />

Tôi áy náy khi nghe em dự trù đi viếng thăm những<br />

dấu xưa tích cũ của một nền văn hiến khi dường như<br />

qua bài viết của ông Phạm Cao Dương, thì đó không<br />

chỉ là những vụ trôm vặt. Dường như còn có gì trong<br />

đó nữa...<br />

... có điều ở cả hai việc, chính quyền Hà Nội đã tỏ ra hoàn toàn bất<br />

lực hay không để ý tới, đôi khi có vẻ như đồng lõa trong cảnh hỗn<br />

loạn của chợ chiều... Cái đau và cũng là điều mỉa mai đối với người<br />

Việt là rất nhiều những cổ vật này là thuộc nhiều trăm năm trước.<br />

Trải bao thời loạn lạc, tất cả vẫn còn đó và được chính người dân<br />

đời này sang đời khác nối tiếp nhau gìn giữ. Các chính quyền bị<br />

gọi là phong kiến tồi tệ xấu xa không hề đụng tới. Người phương<br />

bắc và người phương tây cũng không đụng tới được. Bây giờ dưới<br />

một chính quyền gọi là của nhân dân, chúng đã bị cướp mất... (3)<br />

40


Tôi sợ khi em về, em sẽ thấy ngỡ ngàng trước những<br />

bệ bỏ không, những tháp nghiêng ngã vì gỗ đá<br />

gạch ngói bị cạy gỡ nhiều phen... hay là những tu<br />

sữa chắp vá ngờ nghệch, cẩu thả, sơn phết lòe loẹt<br />

lòa mắt chỉ cốt để thu tiền du khách mà chẳng có<br />

một chút ý tứ văn hóa nào. Em muốn tìm lại hồnthu-thảo,<br />

tôi sợ em về rồi chỉ còn thấy nuớc caumặt-với-tang-thương.<br />

Tấm lòng em, tôi biết phẳng phiu chưa từng gấp<br />

nếp. Em mơ nhân ái, em mơ hòa bình, em mơ tự do,<br />

em mơ công bằng (là những điều em đã học hỏi<br />

thấm nhuần trong những nhà trường phương tây và<br />

cũng chính là mục đích tối hậu mà mẹ cha em đã bỏ<br />

mẹ cha của họ, bỏ làng xóm của họ, bất chấp hiểm<br />

nguy chết chóc tù đày để bế bồng dắt díu em bỏ<br />

trốn đi tìm) Hồn em phơi phới như gió sớm, em<br />

muốn thương yêu hết nhân loại... tôi còn biết em<br />

muốn đem sự lành lặn của mình đắp vá che phủ cho<br />

những mảng rách rưới của hết thảy nhân loại, nói gì<br />

tới lòng em với những người anh em đồng chủng.<br />

Tôi tin lắm đoạn kết của bài hát em sáng rở một<br />

niềm tin<br />

Trong lời nguyện cầu, trong ánh sáng chan hòa, ta sẽ gặp lại các<br />

anh em<br />

Trở về sống với tiếng lòng, cội nguồn, với đất mẹ quê cha<br />

41


Một ngày nào đó, ta sẽ về gặp lại linh hồn của ta<br />

Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam<br />

Em ở xa, và lòng em mở ra, tưởng chừng mở lớn ra<br />

hết cỡ, em xa quê, muốn nối dài cánh tay để vòng<br />

tay em ngày về ôm trọn hết anh em, những người<br />

anh em từ mấy chục năm nay ở lại cội nguồn, chớ<br />

không như em, đã lạc lỏng ngoài cõi lạ. Có điều tôi<br />

sợ dù tay em có nối dài qua sông qua biển cũng<br />

không níu hết được những anh chị em mà em tha<br />

thiết muốn gặp lại như ... gặp lại linh hồn của ta, vì<br />

hiện có khoảng hơn 90 ngàn người (theo con số<br />

thống kê đăng trong bản tin của đài BBC ngày<br />

30/6/2005) đang vẫn được quen gọi là "cô dâu Việt<br />

Nam" ở Đài Loan. Cũng xa xứ như em vậy, nhưng<br />

tình cảnh hoàn toàn khác em. Họ là những người con<br />

gái nhà nghèo, theo kiểu quen gọi là nghèo rớt<br />

mồng tơi, đã rời xứ sở đi lấy chồng người-nướcngoài<br />

sau khi trải qua một thứ "chợ" kiểu như chợ<br />

buôn nô lệ thời thế kỷ 19. Cái kiểu nhà nghèo đợ vợ<br />

đợ con lúc nào chắc cũng có. Tuy nhiên tấm thân<br />

con gái biến thành một sản phẩm mua bán cò kè bớt<br />

một thêm hai, trong một thứ chợ có tổ chức hẳn hoi<br />

và rầm rộ như một phong trào thì chắc chỉ có dưới<br />

thời hậu-giải-phóng. Đó là chưa kể đến còn ngàn<br />

ngàn thanh niên thiếu nữ Việt Nam khác cũng đã<br />

được "xuất cảng lao động" qua Đông Âu từ thời còn<br />

các nước-anh-em để trừ nợ súng đạn, hay gần đây<br />

42


qua các nước kỷ nghệ để vừa giải quyết vấn đề thất<br />

nghiệp vừa có ngoại tệ thu về. Cho đến nay, vấn đề<br />

xuất cảng lao động vẫn là một phương cách kinh tế<br />

của các nước nghèo hầu giảm bớt miệng ăn trong<br />

nước và giải quyết tạm thời nạn thất nghiệp. Tuy<br />

nhiên, cái lối đem con bỏ chợ chắc chỉ có độcquyền-việt-nam<br />

mà thôi. Trong kỳ Đại Hội Thanh<br />

Niên Sinh Viên lần thứ tư ở Sydney (Úc đại lợi), linh<br />

mục Nguyễn Văn Hùng đã lên tiếng báo động về số<br />

phận thảm thương của gần 100 ngàn công nhân Việt<br />

đã đến Đài Loan trong cái chương trình được gọi hoa<br />

mỹ là Hợp Tác Lao Động, và gần trăm ngàn cô gái<br />

Việt Nam khác được bán đi Đài Loan, Hàn Quốc ...<br />

làm vợ cho những người đàn ông có khi chưa từng<br />

biết mặt, có khi thành vợ chán chê rồi lại được sang<br />

nhượng lại cho một người đàn ông khác. Chuyện<br />

nghe ra như từ một thời nào xa xăm lắm, phải không<br />

em.<br />

Một người nghèo có khi là trách nhiệm của chính họ.<br />

Một gia đình nghèo cũng có thể tại chính họ. Nhưng<br />

mà hàng trăm ngàn gia đình nghèo khó và dốt nát<br />

tới đỗi tuyệt vọng phải bỏ xứ, bỏ thân, bỏ nhân<br />

phẩm và "tự nguyện" biến thành nô lệ tình dục, tôi<br />

tớ, bị hành hạ đánh đập không một phương tiện tự<br />

vệ thì chắc không phải là chỉ tại chính họ. Người ta<br />

có thể ẩn nhẩn chịu nghèo khi còn một niềm tin. Chỉ<br />

43


khi không còn một niềm tin nào nữa, người ta mới thí<br />

mạng... mình. Thông thường thì niềm tin của người<br />

dân phát sinh từ những việc làm của chính quyền<br />

một nước. Đã có hay không những việc làm phát sinh<br />

những niềm tin ở đó.<br />

Nghe em hát, xa xôi tôi vẫn biết lòng em tha thiết<br />

ngần nào với quê cha đất tổ. Tiếng hát em là tiếng<br />

lòng chung của cả một thế hệ em út tôi, con cháu<br />

tôi. Những đứa trẻ chưa từng thấy lá tre lả lả làm sao,<br />

nhịp cầu tre lắt lẻo thế nào, chưa được nghe tiếng<br />

mẹ ru ví-dầu-cầu-ván, chưa bao giờ nghe tiếng con<br />

dế gáy te te sau hè, chưa từng tắm truồng dưới cơn<br />

mưa nhiệt đới, chưa lần nào chạy chân trần thả<br />

phăng con diều giấy trên cánh đồng đầy rạ... Nhưng<br />

em vẫn mang một giấc-mơ-việt-nam<br />

Tội nghiệp em, giấc mơ thì tuyệt vời !<br />

Tội nghiệp em, nếu giấc mơ đó tan tác khi va chạm<br />

với thực tế. Em sẽ ngỡ ngàng biết bao nhiêu. Không<br />

chừng em còn tủi thân nữa. Nơi em đang ở, những<br />

người di dân Ý vẫn hảnh diện về một nước Ý của họ.<br />

Những người gốc Đức, gốc Hy Lạp... ngay cả gốc Ba<br />

Lan, gốc Tiệp Khắc vẫn còn rất nhiều khó khăn nơi cố<br />

quốc, họ vẫn tìm được một niềm tin vào ngày mai<br />

của đất nước họ. Còn em, em sẽ trở lại nơi đất nước<br />

đã cưu mang em, có gì không trong túi xách hành<br />

trang nhẹ hửng. Em sẽ tiếp tục vỗ về mình bằng<br />

44


huyền thoại một mẹ trăm con? Hay em phải an ủi<br />

mình bằng những ảo tưởng được thống kê như<br />

người ta vẫn quen làm ở đó. Em sẽ kể lại gì với bạn<br />

bè em về một chuyến về quê ? Không lẻ bằng cách<br />

giải thích một cách giáo điều đến ngô nghê rằng đó<br />

chỉ là hiện tượng ? Và không lẻ bằng cách kể lại một<br />

câu chuyện khôi hài (xám) mà em đã nghe được rằng<br />

... thì... là Việt Nam chỉ mới đi được một phần ba<br />

đường, mà là cái phần ba thứ nhất trong cái câu<br />

tuyên ngôn xanh dờn có ba vế "Không có gì... quý<br />

hơn... độc lập tự do". Ôi cái phần ba đường khôngcó-gì<br />

thăm thẳm !<br />

Tôi không muốn gieo vào đầu óc trong trắng của em<br />

sự hoài nghi hay thiên kiến. Hàng ngày trên báo trên<br />

web còn nhan nhản ngàn điều tệ hại khác nữa. Ở<br />

đây tôi chỉ muốn trình bày một vài sự thực mà những<br />

chuyến đi đi về về của những người lớn quanh em có<br />

thể tạo ra cho em những huyển hoặc như mưa sớm<br />

ở Lô Sơn cứ làm người ta tưởng đỉnh núi là thiên thai,<br />

mà chừng mưa tạnh rồi thì núi đá vẫn là núi đá.<br />

Mà cũng tại tôi nghe tiếng Bonjour Việtnam của em<br />

làm tôi quá đỗi xúc động. Tôi cũng như em vậy, tôi<br />

cũng muốn được một lần về chào lại Việt Nam. Tôi<br />

đã sống gần nửa đời tôi ở đó. Và thịt da tôi còn nám<br />

nắng Việt Nam. Và miệng lưỡi tôi còn thèm thuồng<br />

miếng cá mài-vinh nấu tô canh mẳn. Và hồn tôi còn<br />

45


đầy ứ những câu hát đưa em ngọt ngào, những bài<br />

vọng cổ mùi tận mạng. Tôi sẽ buồn như em vậy thôi<br />

nếu khi về mà những hoài vọng của mình trái hẵn với<br />

thực tế. Mà không chừng tôi còn buồn hơn em nữa.<br />

Em chỉ mới ở đoạn đầu một đời lưu lạc. Tôi đã ở<br />

đoạn cuối cái kiếp lưu vong của tôi. Tôi không có áo<br />

gấm để về làng. Tôi chỉ muốn hết người làng tôi mặc<br />

lại được áo ấm. Sao chưa được em hả? Khi chiến<br />

tranh đã chấm dứt từ hơn ba mươi năm nay?<br />

Ở cuối cái slide show được trình chiếu trên internet<br />

mấy tháng nay, ai đó đã thêm vào một câu viết bằng<br />

tiếng Pháp.<br />

Oui! J'irai là bas pour chercher pourquoi je t'ai quitté.<br />

Vâng, ta sẽ về để tìm biết tại sao ta đã bỏ đi.<br />

Câu viết là một lối chơi chữ đau lòng. Nhưng sự thực<br />

cũng đau lòng không kém. Nhất là cái viễn tượng<br />

chối bỏ khi người ta không tìm được niềm tin và<br />

hảnh diện về gốc gác của họ.<br />

Sao không vun bón lại quê hương để đám trẻ xa<br />

xôi... còn có chỗ mà bám rễ vào lòng đất mẹ !<br />

Bonjour Vietnam !<br />

hay<br />

Adieu Vietnam !<br />

(1) bản tiếng Pháp và bản dịch trích từ Phần Việt ngữ của đài BBC<br />

(2) bài trích từ số Khởi Hành đã dẫn (3) Thế Kỷ 21 số Xuân Canh thìn, tháng 2 &3 2000<br />

46


tranh CAO HÀNH KIỆN


Rồi<br />

như ...<br />

đá ngây ngô !<br />

Trịnh Công Sơn là người viết nhạc có tài đưa người ta<br />

vào mộng mị ngay khi cuộc chiến dữ dằn cứ như kéo trì<br />

người ta lại với đời thực. Súng mìn nổ tứ tung. Người ta<br />

chết khơi khơi dễ còn hơn đi chợ. Ðời sống buồn lắm, có<br />

lúc cùng quẩn không thua gì mấy cái ngõ cụt. Giữa lúc<br />

đó nhạc TCS được hát và nghe giữa đám đông mà lại<br />

như mấy lời to nhỏ, rất đỗi riêng tư. Ông ta thường viết<br />

nhạc bằng cung thứ (mineur) kể lể, giai điệu ít thay đổi,<br />

48


giọng lầm thầm như tiếng ru mê. Lời là thơ không vần,<br />

chữ đẩy nghĩa tới tận cùng ranh giới của mộng và thực,<br />

của hạnh phúc và khổ đau, của hy vọng và tuyệt vọng,<br />

của cái sống và cái chết. Chữ thay đạn nổ trong lòng<br />

người. Sức bung ép mềm phế phủ. Người ta chết điếng<br />

trong lòng, lẫn lộn một cơn mê và một hồi tỉnh. Rồi sống<br />

lại vào cơn mộng khác, ở đầu một đỉnh non cao hay đáy<br />

một vực đen thẳm, không có chỗ nào ở giữa lưng chừng<br />

một cõi tạm. Người ta sống và chết với nhạc họ Trịnh,<br />

yêu mê và bội bạc, náo nức và chán chường giống y như<br />

cái tuổi trẻ vốn dĩ đã bất thường lại còn bất thường hơn<br />

nữa trong một thời kỳ hiếm hoi tiếng cười mà lại ê hề<br />

nước mắt. Thử nghĩ lại cái tuổi trẻ của tôi, của anh, của<br />

chị, của chúng ta, những người hai mươi tuổi vào những<br />

năm 64, 65. Chúng ta đã có gì, đã mất gì, cái tuổi trẻ bạc<br />

phần của quê hương bạc mệnh. Còn nhớ gì không tiếng<br />

hí bơ vơ của bầy ngựa hoang mà Trần Hoài Thư đã kể<br />

trong quyển sách đầu tay những năm 60. Vâng cả tuổi<br />

trẻ thời đó là một bầy ngựa hoang thiếu trời thiếu đất. Lẽ<br />

ra phải được chạy nhảy thênh thang trên thảo nguyên<br />

xanh mướt thì ngược lại bị cuồng chân trong chuồng trại<br />

hẹp té, cũ kỷ, rào cản bằng những thành kiến tị hiềm, lại<br />

còn bị lừa lọc tới thui chột hết niềm tin và sau hết đem<br />

bán rẻ cho bọn lái buôn súng đạn. Còn nhớ không cái<br />

tuổi trẻ chưa cỗi đã bị bỏ xó như đồ vật phế thải, cầu bơ<br />

cầu bất trong mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền. Sao tuổi<br />

trẻ quá buồn. Như bàn ghế không bày. Cái tuổi trẻ chưa có đã<br />

mất ngay khi mới vừa làm bài Nhả Ca thứ nhất. Tôi làm<br />

con gái. Buồn như lá cây. Chút hồn thơ dại. Xanh xao tháng<br />

49


ngày.Vâng cả một tuổi trẻ của tôi, của anh, của chị, của<br />

những người sinh ra và lớn lên không nhằm lúc. Cha chú<br />

chúng ta còn có thời giờ vớt vát chút đỉnh dư hương một<br />

thời lãng mạn. Còn anh, còn tôi, chúng ta đôi khi đã chạy<br />

giặc ngay từ trong bụng mẹ, phải không? Lớn lên một<br />

chút, thanh bình đâu được vài năm là giặc giã lại nổi lên<br />

tứ tung. Chiến tranh từ bên ngoài xúi biểu. Tai ương từ<br />

lòng người dấy lên. Người ta hè nhau chết như rạ, kẻ<br />

sống sót thì bầm dập không thua gì cỏ dại. Ðứa trẻ chín<br />

mười tuổi vừa chập chửng ngó thấy đời thì đời đã thôi<br />

vui. Cái nước Việt Nam hình " cong như chữ S", mường<br />

tượng như người gánh lúa học đâu từ lúc vỡ lòng bỗng<br />

nhiên bị cắt ra làm hai phần cụt ngủn cụt ngẳn, hình thù<br />

kỳ dị, không đầu không đuôi rồi bị hò hét bắt ép phải<br />

yêu nó đi, đất nước của mày đó. Ðứa nhỏ sanh ở Ninh<br />

Bình Thanh Hóa bỗng nhiên có một thủ đô tên Hà Nội,<br />

đứa đẻ ở Vĩnh Long Rạch Giá bỗng dưng có thủ đô riêng<br />

gọi là Sài Gòn mặc dù cả hai đứa nhìn không khác gì<br />

nhau, cũng cái màu da vàng nắng, sợi tóc đen mun. Cái<br />

tiếng nói đơn âm, cứ ríu ra ríu rít đã có lúc người ta thích<br />

lắm đến nỗi đem làm ca dao để nói với nhau tiếng ân<br />

tình bỗng chốc trở thành cộc cằn thô lỗ và nhất là tối<br />

nghĩa đến độ không còn đủ sức làm ai hiểu ai nữa. Thật<br />

ra người ta chỉ cố tình không chịu hiểu tại vì người ta đã<br />

chủ ý muốn đem súng đạn thay cho lời nói. Vì vậy những<br />

đứa trẻ tội nghiệp đó lớn lên không còn nhìn anh em<br />

nữa mà lại nhìn nhau như kẻ thù truyền kiếp. Rồi súng<br />

đạn được giao tận tay, mã tấu lưỡi lê được giao tận tay<br />

và thúc giục và ép uổng và xua đẩy đi giết nhau tận tình<br />

50


làm như trên đời này không còn một chuyện gì khác<br />

ngoài chuyện giết người. Khổ nỗi một khi nhìn tận mặt<br />

kẻ thù, nhìn cho tận mặt cái xác chết đã lạnh ngắt hay<br />

còn nóng hổi, lột bỏ hết chiếc áo ngụy trang, lột bỏ hết<br />

danh hiệu phe phái, chừng đó mới thấy tường tận cái<br />

khó ăn khó nói của cuộc chiến tranh mà người ta đã bày<br />

vẽ ra cho mình.<br />

Ðấy cái tình cảnh mà chúng ta đã sống và lớn lên suốt<br />

một thời tuổi trẻ là như vậy. Tôi không biết những người<br />

tuổi trẻ ở phía bên kia đã nghĩ gì ( mà có nghĩ được gì<br />

không dưới sức ép nghiệt ngã của bộ máy chuyên chính<br />

bất nhân mà đến nay chắc ai cũng biết ) chớ còn bạn bè<br />

tôi, anh em tôi ở phía bên này không người nào là không<br />

vướng vít những thắc mắc cứ làm run họng súng khi tay<br />

đến lúc phải siết cò. Cái đau đớn của chúng ta là chỗ đó.<br />

Tay run không vì hèn nhát mà tay run chính vì sự sáng<br />

suốt của tâm thức nhân linh và dân tộc. Phải chi người ta<br />

cứ huấn huyện chúng ta từ sơ sinh như đám con dân<br />

thành Spartan thì gọn biết mấy. Hay là cái lối giáo dục<br />

hận thù ngay từ bài toán sơ học cộng trừ nhân chia xác<br />

lính ngụy thì càng đỡ khổ hơn nữa. Ðằng này lại cứ đi<br />

dạy dỗ cho thấm nhuần đủ thứ nhân nghĩa với yêu<br />

thương. Rồi còn thêm cả sự mềm mỏng tế vi để ngưỡng<br />

mộ đến cả hơi run của lá cỏ, chớ đừng nói gì đến hơi thở<br />

nồng nàn của con người. Bởi vậy mà khi phải trực diện<br />

với kẻ thù dù dưới bất cứ một danh nghĩa nào, người<br />

lính, người thanh niên miền Nam làm sao có thể vô tâm<br />

cho được. Cái đau đớn thao thức của chúng ta là chỗ đó.<br />

51


Nhưng mà cũng chính chỗ đó làm ta khác với loài cầm<br />

thú. Cho nên sẽ không lấy gì làm lạ khi cả một thế hệ<br />

tuổi trẻ miền Nam say mê nhạc Trịnh Công Sơn dù rằng<br />

có lắm khi rất là mâu thuẩn. Trong khi người từ phương<br />

bắc bôi mặt xua quân hết lượt này đến lượt khác đánh<br />

nhầu bất kể, thì anh em ta lại vừa dang tay chống cự vừa<br />

cứ lầm thầm hát hỏng mấy bài Nối vòng tay lớn với lại<br />

Người về bỗng nhớ... Biết rằng thì là như vậy, nhưng mà<br />

ông ta nói đúng quá. Làm sao cải chối cho được. Thấy<br />

không, tôi có người yêu chết trận Ba Gia. Tôi có người yêu chết<br />

trận đêm qua. Xác ngoài hàng rào... Nằm chết như mơ. Người ta<br />

chết một lần đã là quá đủ. Ở đây những người Việt tha<br />

hồ chết đi chết lại, chết tới chết lui, chết bất kể tới hai lần<br />

thịt da nát tan... Vâng. Người yêu nào đã chết, chết bờ<br />

chết bụi, tôi nào còn đây, mất hồn mất trí. Chỉ là hết thảy<br />

chúng ta đó, cái đám người Việt vô tình vô tội vô lý vô cớ<br />

bị xua vào lò sát sinh như một bầy súc vật hèn mọn. Rồi<br />

một buổi sáng mùa xuân. Một đứa bé ra đồng. Ðạp trái mìn nổ<br />

chậm. Xác không còn đôi chân... Có em bé nào xa lạ đâu.<br />

Thằng ba thằng tư con sáu con tám ở bên hàng xóm, ở<br />

cuối làng trên hôm qua hôm kia còn chạy nhảy ôm cặp<br />

sách đến trường, bữa nay đã nằm im lìm bờ môi dường<br />

thầm hỏi có thiên đường hay không... những đứa bé hôm qua<br />

vô tư như hoa đồng cỏ nội sáng nay đã im nằm bàn tay<br />

cầm cỏ dại có hoa vàng mong manh. Trời ơi có họa chăng là<br />

tim đồng tim sắt mới không bị xúc động bởi những hình<br />

ảnh hết mức thảm thiết mà lại cực kỳ thơ mộng đó. Có ai<br />

đã viết nhạc như ông ta đâu. Cái chết là biểu hiện tột<br />

cùng của chiến tranh. Xác chết là thảm họa được nhân<br />

52


lên gấp hai lần. Xác chết của một đứa bé là cái vô lý<br />

được nhân lên không biết tới bao nhiêu lần. Gắn vào đó<br />

một cánh hoa vàng, mà là một cánh hoa thiệt mỏng,<br />

ông ta xô sự tưởng tượng của người nghe ra tới bờ tuyệt<br />

vọng. Rồi thêm câu hỏi chót có thiên đường hay không thì<br />

quả tình là nhát chém ân huệ cuối cùng chặt đứt luôn sợi<br />

giây mục còn níu ta lại với cuộc đời. Cộng vào đó cái<br />

giọng khàn khàn nhừa nhựa của Khánh Ly đặc quánh<br />

như mấy giọt cà-phê phin pha đậm đến nỗi vừa uống vô<br />

đã thấy muốn đứng tim. Ai không biết sao chớ còn tôi,<br />

trái tim mười chín hai mươi tuổi của tôi thời đó mỗi lần<br />

nghe là thấy rã rời như bị xé ra từng miếng vụn. Tất cả<br />

cái vô lý của chiến tranh, nhất là cuộc chiến không ranh<br />

giới, không biện biệt, không chừa ai, không sót ai làm<br />

cho câu hỏi thầm nghe vừa tức tưởi vừa mỉa mai và như<br />

vừa thú nhận sự bất lực của con người trước tai ương.<br />

Nhất là cái tai ương do chính con người tạo ra cho con<br />

người. Hơn nữa do chính những người cùng màu da<br />

màu tóc. Ðấy tất cả manh mối nằm ngay chỗ đó, chỗ bất<br />

lực của một lũ người rất mực sáng suốt, rất mực khôn<br />

ngoan mà cứ hằng ngày hằng đêm cứ phải chứng kiến<br />

cứ phải tham gia vào cái trò chơi đốn mạt đó.<br />

Tôi mười chín tuổi bỏ quê lên thành phố. Bỏ quê là bỏ<br />

luôn cái dòng nhạc lãng mạn tha thướt của thời tiền<br />

chiến. Cũng là bỏ luôn cái văn chương hiền lành của Tự<br />

Lực Văn đoàn. Từ vài năm trước sinh hoạt văn nghệ<br />

trong Nam đã dọn đường cho một cảm thức mới, cảm<br />

thức của một thời chiến tranh. Nhóm ông Mai Thảo từ<br />

53


ngoài Bắc vô đòi cắt đứt quá khứ và hô hào làm mới trên<br />

tờ Sáng Tạo. Nhóm ông Nguyên Sa từ Pháp về đem luôn<br />

cái không khí của những hầm cà-phê mịt mù khói thuốc<br />

ở St. Germain des Près vào tờ Hiện Ðại. Văn chương trở<br />

nên nồng nặc mùi hiện sinh, mùi nôn mửa, mùi phản<br />

kháng, mùi nổi loạn. Văn chương bỏ con đường quen<br />

thuộc êm ái để len vào những hóc hẻm rối bung như tơ<br />

vò của lòng người hậu chiến và hiện chiến. Rồi quyển Ý<br />

Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học của Phạm Công<br />

Thiện nổ bùng như Ngày Sinh Của Rắn. Ðám trẻ bị mê<br />

hoặc với tư tưởng cũ-người-mới-ta mặc tình làm dáng.<br />

Sài-Gòn những năm 60 hừng hực cái tinh thần đột phá.<br />

Có khi cũng quá đà nhưng nhìn chung đã mở ra cho sinh<br />

hoạt văn học nghệ thuật một niềm hưng phấn mới. Văn<br />

chương không còn bóng bẩy lả lướt kiểu gió mát trăng<br />

thanh thời 30, 40 nữa. Văn chương trở nên gần gũi với sự<br />

thật diện tiền đến độ trần trụi. Mà sự thật ở đây chính là<br />

cuộc chiến tranh cùng với nỗi chết rập rình như một cặp<br />

bài trùng sinh tử. Vì vậy văn chương phải tìm ra ngôn<br />

ngữ mới để diễn đạt, thật hơn, mạnh hơn, bức phá hơn,<br />

tha thiết hơn gấp bội và cũng thê thảm hơn gấp bội, y<br />

như cái tình người sống vội chết vội thành ra yêu thương<br />

hờn giận cũng gấp rút, cứ như sợ trễ, sợ lỡ, sợ không kịp<br />

phút sống thì sẽ tới phút chết. Trong cái hơi thở hối hả<br />

của thành phố giới nghiêm, dưới vòm trời vần vũ đạn<br />

pháo, người sống như đợi chết. Lời ăn tiếng nói vì vậy<br />

nghe ra cắn đắng, chua chát, bứt rứt và đay nghiến, làm<br />

như người ta uất ức một điều gì đó mà không nói được.<br />

Làm như người ta sống mà nghi ngờ cả sự hiện hữu, cho<br />

54


nên thơ văn nhạc họa thành ra cũng chỉ là những níu kéo<br />

tuyệt vọng cho một niềm tin đã điêu tàn. Văn thời này là<br />

Dương Nghiễm Mậu, là Nguyễn Ðình Toàn..., tranh thời<br />

này là Nhóm Họa Sĩ Trẻ... Nghệ thuật thời trước không<br />

còn đáp ứng được những lo âu khắc khoải của thời này<br />

nữa. Nhạc tình kiểu Cô Láng Giềng hay Gởi Gió Cho Mây<br />

Ngàn Bay dịu dàng quá đằm thắm quá làm sao xoa dịu<br />

được cơn đau tình dữ dội của đám trẻ sống nay chết<br />

mai. Phải có cái gì khác hơn, đúng hơn, ray rứt hơn, bức<br />

thiết hơn như tấm lòng đã quá đỗi nhiêu khê của lứa tuổi<br />

bị bỏ quên, bị đọa đày giữa cơn đọa đày chung của dân<br />

tộc. Giữa lúc đó nhạc Trịnh Công Sơn xuất hiện với âm<br />

điệu buồn rầu, với lời lẽ phiền muộn, với hình tượng tan<br />

nát đúng như cái tấm lòng héo hon của lớp trẻ già trước<br />

tuổi. Cái lớp trẻ bị kẹt cứng dưới tầng tầng oan ức, cái<br />

lớp trẻ thiếu niềm hứng khởi mà dư giả chán chường,<br />

thường ngồi quạnh quẽ trước những ly cà-phê đen<br />

quánh, khói thuốc mù, và những ngõ cụt. Cũng như cái<br />

lớp trẻ đã bị ép uổng bỏ trường bỏ lớp quá sớm đem<br />

tuổi thanh xuân đi thách đố cùng mạng số, ngoài bãi<br />

trận. Tình yêu thời này không thể là con mắt có đuôi chỉ<br />

mới liếc nhìn là đã thấy hân hoan. Tình thời này phải là<br />

cái trong tay, giây này phút này, được thua gì trong chớp<br />

mắt bởi vì trong chớp mắt đã có thể không còn đó nữa.<br />

Tình thời này sỗ sàng vì không đủ thời giờ để nhẩn nha<br />

chờ đợi. Chiến tranh cướp mất của những tình nhân sự<br />

thơ mộng thay vào đó cơn háo hức cháy da cháy thịt bởi<br />

vì nó mong manh quá, mong manh còn hơn sương khói<br />

nữa. Tình thời này phải có nhạc thời này. Nhạc đó là<br />

55


nhạc của Trịnh Công Sơn. Nghe thử lại một bài tình sầu<br />

coi có phải không? Tình yêu như trái phá con tim mù loà...Tình<br />

yêu như nỗi chết cơn đau thật dài. Tình khâu môi cười. Hình hài<br />

xưa đã thay. Mặn nồng xưa cũng phai. Tình chia nhau gian dối.<br />

Tình đày tình đôi nơi... Có gì vui không cuộc tình rách nát<br />

như đường chỉ khâu vá từng phiến đời vụn. Tình yêu như<br />

cơn bão đi qua địa cầu. Tình thắp cơn sầu. Tình dìu qua hố sâu.<br />

Tình vời lên núi cao. Rồi trong cơn yêu dấu. Tình đày tình xa<br />

nhau. Tình yêu không kịp thăng hoa bởi vì đau khổ đã<br />

nằm chật trong hạnh phúc. Cuộc tình lên cao vút như chim<br />

mỏi cánh rồi như chim xa lìa bầy như chim xa lìa trời như chim bỏ<br />

đường bay...Và yêu chỉ là mỏi, là bỏ, là lìa, là tan, là vỡ.<br />

Làm như trong bản thể của tình yêu chỉ là bất toàn và<br />

bất trắc. Con tim mù lòa và tình yêu thương phế. Tình<br />

yêu không phải là ánh sáng, tình yêu chỉ còn bóng tối.<br />

Cái bóng tối đen ngòm như cái bóng chiến tranh che<br />

rợp trời thuở đó.<br />

Ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn là thứ ngôn ngữ<br />

thời thượng của văn chương hiện sinh, văn chương phản<br />

kháng đã một thời rất được ưa chuộng. Ðôi khi giữa lời<br />

văn trau chuốt như thơ có thêm một chút làm dáng triết<br />

học. Nó mới lạ, đặc biệt, chứa đầy mâu thuẩn làm nổi<br />

bật những hình tượng nghịch thường, những so sánh kỳ<br />

quặc. Nó chứa chấp những khám phá tuyệt vời của ngôn<br />

ngữ mới. Những hình ảnh lần đầu được đem vào nhạc<br />

vừa kiêu kỳ vừa đẹp lạ lùng. Những vòng xe thổ mộ lăn<br />

qua cuộc đời trống hoang như quán đợi, những giọng<br />

buồn cỏ khô, những ngựa hồng mỏi gối trên đồi quê<br />

hương... chưa bao giờ có trong âm nhạc Việt Nam. Nó<br />

56


khác xa lắm với Hòn Vọng Phu hay Tà áo xanh. Và lại<br />

càng khác xa hơn nữa với Căn nhà ngoại ô hay Duyên<br />

Kiếp. Nó rêu rao mà không huênh hoang, nó rên rỉ<br />

nhưng không nhàm chán. Nó đẩy đưa người ta vào<br />

mộng mị xa tắp nhưng vẫn bám liền vào mộng dữ của<br />

thực tại. Nghe như khượi lại một vết thương chưa lành<br />

miệng, đau râm ran mà lại thích thú. Ðó là thứ ngôn ngữ<br />

của một thế giới bị vùi dập, của phận người bị kết án,<br />

của trần thế đang phai tàn, của cõi đời đã tận thế. Bởi<br />

vậy mới lớn lên tôi say mê nhạc đó giống như đám bạn<br />

tôi, giống như lớp thanh niên trang lứa đã bị kêu án tử từ<br />

khi chưa phạm tội. Chúng tôi đi đến đâu cũng mang<br />

theo như để thay mình nói lời tình tự. Rồi ở đâu gần như<br />

cũng được đáp trả lại bằng chính giọng điệu giống y như<br />

mình. Thành ra gần gũi nhau thương xót nhau dễ dàng<br />

qua trung gian của ngôn ngữ âm nhạc đó. Ở đâu cũng<br />

hát cũng nghe những bài ca đó. Trường học, quán xá,<br />

chợ búa, công viên, ngã tư, đồn bót, mặt trận, bệnh<br />

viện... Những cuốn băng cát-sết nho nhỏ thân thuộc như<br />

người bạn tâm tình thứ nhất và sau cùng. Ai nấy lắng<br />

nghe, ngậm ngùi, lòng héo hon mà vẫn cứ nghe, cứ hát.<br />

Nghĩa là say mê như say mê người tình đầu đời, say mê<br />

bất kể, tóc dài tóc ngắn, miệng rộng miệng hẹp, mũi cao<br />

mũi gãy gì cũng bất cần thành ra như mù quáng vậy,<br />

thành ra như chín bỏ làm mười vậy. Chớ thật ra dường<br />

như lắm lúc có thấy một cái gì đó không ổn trong những<br />

bài hát mình vẫn nghêu ngao. Nếu những bài tình ca<br />

tuyệt diệu là những liều thuốc ngủ mê man thì những bài<br />

hát thời thế mà người ta vẫn gọi là nhạc phản chiến có<br />

57


cái gì đó lấn cấn không yên. Những hình ảnh thoáng<br />

qua, thoáng qua rất nhẹ đôi khi có làm mình nghĩ ngợi,<br />

có làm mình so đo. Nhưng rồi tại lười biếng chăng? Tại vì<br />

thờ ơ? Tại mệt mỏi đến buông xuôi? Hay là tại tiếng bom<br />

đạn lớn quá làm át luôn tiếng chắc lưỡi ngại ngần? Ðã có<br />

không ít thắc mắc, tra vấn về ý nghĩa thật sự của một số<br />

bài hát được hát đi hát lại nhiều lần giữa đám đông. Tôi<br />

cũng vậy. Trong cái đầu rất non nớt về chính trị của tôi<br />

thuở đó, đã hơn một lần tôi thấy lạ. Cuộc chiến rất khó<br />

khăn, không có lằn ranh nhất định. Biên giới trong lòng<br />

người lại càng mập mờ hơn nữa. Tuy nhiên như vậy<br />

không có nghĩa là không có những cấm kỵ. Bạn bè mình<br />

chết hằng phút hằng giờ để giữ yên một thành phố, một<br />

xóm thôn. Nếu sáng miền Nam thức dậy còn nhìn thấy<br />

mặt nhau là tại vì đêm qua có những người đã chong<br />

con mắt mỏi mòn canh giấc. Và thông thường đã có<br />

không ít người ở lại luôn trong cõi mịt mùng đó, không<br />

về nữa. Như vậy một cách công bình người ta không có<br />

quyền nói năng hồ đồ trên xác những người đã gánh<br />

nạn thay mình. Ngoại trừ đã có một chủ ý. Từ Nối vòng<br />

tay lớn đến Người về bỗng nhớ, cái hình ảnh người về là<br />

một ẩn dụ có chủ đích. Không phải vô tình mà giữa ngày<br />

tháng hoang vu, trên mặt đất âm u chợt thấy em qua<br />

rợp bóng cờ. Cái hình ảnh rợp bóng cờ rất ít được dùng<br />

trong văn chương miền Nam mà trái lại dường như rất<br />

thông dụng đối với người miền Bắc theo kiểu khoe<br />

khoang hù dọa của những rừng cờ đỏ, rừng biểu ngữ<br />

trong mỗi dịp lễ lạc của phe cộng sản. Y hệt như cảnh<br />

Trần Dần đã thấy Hà Nội sau năm 54. Tôi đi không thấy phố<br />

58


thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Chỉ có người cộng<br />

sản mới ham dùng cờ như vậy. Cho nên cái cảnh em qua<br />

rợp bóng cờ chỉ có thể có trong giấc mơ của một người<br />

cộng sản hay ít nữa cũng là một cảm tình viên.<br />

Thật ra ở đây không cốt tìm hiểu TCS có là cộng sản hay<br />

không, điều đó không cần thiết nữa. Việc ông ta đã chọn<br />

lựa ở lại và nhận hưởng những đặc quyền đặc lợi của<br />

nhà cầm quyền mới bên đó đã là một trả lời rất dứt<br />

khoát. Cái việc cần ngạc nhiên là tại sao biết như vậy rồi<br />

chúng ta vẫn tiếp tục say mê ca hát nhạc TCS như đã<br />

không có gì xảy ra, từ trước năm 75 và sau năm 75. Thật<br />

tình số hình ảnh bội bạc đó không có nhiều lắm. Vã lại<br />

nó được che giấu rất nghệ thuật. Bên cạnh đó có vô số<br />

những hình ảnh mập mờ khác chẳng những đã không<br />

làm ta khó chịu mà còn làm ta xúc động nữa. Có gì mâu<br />

thuẩn không? Ngay trong một bài hát rất nổi tiếng giữa<br />

lúc chiến cuộc dữ dội nhất, bài Tình ca của người mất trí<br />

cũng đã làm bàng hoàng không ít người. Giữa những xác<br />

người nằm chết như mơ, có cả những xác người nằm<br />

chết ngoài hàng rào mình không manh áo nữa. Người<br />

chết trong trận Ba Gia, trận Ðồng Xoài, trận Plei-me... là<br />

ai? Câu trả lời tùy theo chỗ đứng của mỗi người. Ai cũng<br />

có thể dành phần của mình cả. Còn ai đi trận mà thân<br />

trần trụi? Mà nằm chết bên ngoài hàng rào phòng thủ?<br />

Chỉ có đám du kích miền Nam, đám bộ đội miền Bắc,<br />

đám đặc công ôm bộc phá. Như vậy có phải những<br />

người hát tình ca là những người theo phía bên kia?<br />

Không! Câu trả lời phức tạp hơn nhiều lắm. Tôi vẫn thích<br />

59


ài hát đó. Anh em tôi, bạn bè tôi, những người quần<br />

thảo sống chết với cộng sản hằng giờ hằng phút vẫn<br />

thích bài hát đó. Có mâu thuẩn không? Cũng không nữa.<br />

Bởi vì chúng tôi đâu phải là những bộ máy được đào tạo<br />

để đi giết người. Bởi vì người miền Nam nổ súng nhưng<br />

vẫn thương xót người bị trúng đạn. Bởi vì người miền<br />

Nam đã được nuôi dưỡng và dạy dỗ như những con<br />

người thật sự là người. Chúng ta biết yêu thương, đau<br />

khổ, thù hận và còn biết đau lòng trước vết thương nhân<br />

loại. Cho nên trước xác chết dù là kẻ thù chỉ cách đó vài<br />

phút còn nổ súng như điên vào hàng ngũ mình, ai nấy<br />

cũng thấy nao lòng chớ chưa từng hả dạ. Hãy nghe một<br />

nhân vật lính của nhà văn Trần Hoài Thư nói trong một<br />

truyện ngắn được viết trước năm 75."Dạ, ngoại nói đúng. Khi<br />

chết rồi ai cũng như ai, không còn là ngụy cũng không còn là VC,<br />

không còn Bắc không còn Nam. Thưa ngoại, xin ngoại cho cháu<br />

một cây nhang, để cháu thắp cầu cho anh ấy ". Tôi nói mà lòng<br />

tôi ràn rụa... Câu văn đó có thể là một giải đáp thỏa<br />

đáng chưa? Hay là nên thêm một vài câu thơ của<br />

Nguyễn Bắc Sơn cũng đã làm trước năm 75. Kẻ thù ta ơi ta<br />

là lính cậu. Ði hành quân rượu đế vẫn mang theo...Ta bắn ngươi,<br />

chỉ vì người bạc phước. Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi. Với<br />

lòng người như vậy thì việc yêu thích nhạc TCS cũng là<br />

điều dễ hiểu. Bởi vì tình nhân loại, nghĩa đồng bào, lòng<br />

khát khao hòa bình... không phải là độc quyền của TCS<br />

hay của phía CS như họ đã luôn miệng rêu rao ( và cũng<br />

đã trâng tráo bôi bác ). Người miền Nam, lính miền Nam,<br />

chế độ miền Nam ( với tất cả sự khiếm khuyết ) vẫn ngàn<br />

lần nhân bản hơn. Ðiển hình là ông TCS vẫn làm được<br />

60


loại nhạc chống chiến tranh đó ( chống từ vị trí nào thì<br />

còn cần phải xét lại) trong lòng một xã hội miền Nam<br />

đang bị chính cuộc chiến đó khuynh đảo tơi bời và vẫn<br />

được hâm mộ bởi những người đang bị ông đâm sau<br />

lưng bằng những nhát dao chí tử. ( Giả thiết ông ta sinh<br />

ra và lớn lên ở miền Bắc, thử hỏi sẽ có một loại nhạc<br />

được gọi là nhạc TCS hay không? ) Như vậy, ở miền Nam<br />

người ta hâm mộ ông không phải tại ngây thơ đến độ bị<br />

ông lừa đảo. Người ta hâm mộ vì thấy ông nói ra được<br />

điều mà họ đã thấy, đã đau lòng trong suốt cuộc đoạn<br />

trường đó. Nói một cách khác, họ hâm mộ ông như một<br />

nghệ sĩ, loại người sống nổi trôi thiệt lòng theo vận nước.<br />

Tôi cũng vậy, tôi ở trong cái số rất đông đã yêu thích<br />

nhạc TCS mặc kệ những thắc mắc này nọ, cho đến ngày<br />

tàn của trận chiến.<br />

Tháng 4 năm 75, tất cả thay đổi hết. Hậu quả đến nay ai<br />

cũng biết. Có một điều hết sức oái ăm, là trong số nạn<br />

nhân đếm không xuể của cuộc thanh trừng vô tiền<br />

khoáng hậu đó, những người yêu thích nhạc TCS là<br />

thành phần đông đảo nhất và cũng là thành phần gánh<br />

chịu oan khiên nhất. Ðiều đó thật ra cũng dễ hiểu. Trong<br />

suốt cuộc chiến tranh 30 năm, cái số người đứng phơi<br />

mình trước đầu sóng ngọn gió chính là cái số tuổi trẻ vừa<br />

cầm súng chiến đấu vừa thao thức không nguôi cho<br />

phận mình và vận nước. Họ là người thứ nhất nhận chịu<br />

nợ nần của dân tộc và cũng là người sau cùng ở lại trả<br />

cho hết món nợ tiền khiên đó. Họ cũng là người đã<br />

thưởng thức âm nhạc của TCS sâu sắc nhất, thưởng thức<br />

61


ằng hết nước mắt, máu xương và hết cả thanh xuân của<br />

đời mình. Tôi, bạn bè tôi, anh em tôi, lứa tuổi bầm dập<br />

nhất của cơn giông lịch sử bị xua vào các trại tập trung<br />

mọc lên như nấm dại. Trong tù tôi có nghe phong phanh<br />

về chuyện ông TCS lên đài phát thanh Sài-gòn hát bài<br />

Nối vòng tay lớn trong ngày ba mươi. Ðầu óc còn đang<br />

rối ben về ba cái chuyện chết chóc, tù đày, đói khát... tôi<br />

nhớ hình như đã mỉm cười một cách rất triết lý vụn ối ba<br />

cái chuyện đời sớm nắng chiều mưa. Vã lại dường như<br />

cũng đâu phải chỉ có mình ông ta lẹ miệng như vậy.<br />

Không ít người miền Nam cũng đã tìm cách che thân<br />

bằng cách này hay cách khác, hoặc vì ngây thơ ngỡ đời<br />

đã thôi hết chiến chinh, ở với ai cũng được miễn là<br />

không còn giặc giã. Hoặc cũng muốn góp công chút<br />

đỉnh biết đâu lòng "cách mạng" bao dung thí cho chút<br />

danh thừa thiếu sót lúc còn ở với chế độ trước. Nhưng<br />

mà rồi bằng lý do nào thì sau vài tháng, vài năm, số<br />

người đi làm "cách mạng" ngày ba mươi tháng tư cũng<br />

vỡ lẽ và tìm cách sống chết bỏ trốn. Nhưng mà ông TCS<br />

thì ở lại. Ở lại rất thiệt tình với những người chủ mới. Và<br />

dường như đã nhận được rất nhiều ưu đãi của đám chủ<br />

vốn rất khắc khe với bầy con ghẻ nhưng lại rất sẵn sàng<br />

vun tay quá trán mỗi khi cần làm cái việc đánh bóng cho<br />

chế độ. Khác với những văn nghệ sĩ miền Nam cùng thời<br />

lũ lượt bị đưa đi tẩy não, ông TCS chẳng những không bị<br />

đảng và nhà nước ưu ái đem đi “dạy dỗ”, mà lại còn<br />

được đảng chiếu cố phong cho làm ủy viên văn nghệ<br />

của thành phố vừa bị ép uổng đổi tên. Tôi ở xa quá, lại<br />

thân phận tù đày không biết gì hơn ngoài cái lần được<br />

62


nhìn thấy hình ông mang túi dết ( y như một cán bộ<br />

chính cống đã có trăm tuổi đảng ) in trên tờ Sài-gòn giải<br />

phóng. Thật tình lúc đó, khoảng những năm 77,78 mới<br />

được thả tù ra tôi còn bận lo cho mình chưa xong thì lấy<br />

đâu ra mà lo chuyện thiên hạ. Từ sáng tới chiều cứ tối<br />

tăm mày mặt chạy vạy kiếm chút đỉnh gạo muối nhét<br />

cho yên cái bao tử, tối đến là lo tìm chỗ ngủ đỗ nay chỗ<br />

này mai chỗ khác. Rồi còn thắc thỏm nghe ngóng cái<br />

chuyện thả ra bắt lại, thắc thỏm trông tin người anh này<br />

mới bị đày ra Sơn La, người bạn kia vừa chết vì kiết lỵ ở<br />

Suối máu. Vậy đó, tôi sống như một người mà trái tim đã<br />

lãnh đạm với hết thảy mọi trò nhí nhố của thời sự. Vậy<br />

mà chứng nào tật nấy, có lắm khi giữa kẽ trống của hai<br />

hồi vật vã, nhất là những lúc không tiền hết việc lang<br />

thang qua phố xá ủ dột, tôi vẫn còn nghe từ trong tiềm<br />

thức những câu hát ru lầm thầm đã một thời ưa thích<br />

lắm. Xin đứng im trong chiều. Trên môi thả khói quạnh hiu. Xin<br />

đứng im trong chiều. Treo tình trên chiếc đinh không. Gập ghềnh<br />

ngày tháng lưu vong. Ta lăn đời đã quá. Ðôi tay vẫn còn ôm mịt<br />

mùng. Chịu nỗi không? Ðến chừng ấy rồi tôi vẫn chưa<br />

quên những lời nhạc đã thay tôi kêu khổ giùm tuổi trẻ<br />

của tôi. Mà khổ quá, nó nói đúng phóc những điều tôi<br />

đang có trong đầu. Cuộc khổ nạn này có bao nhiêu<br />

chiếc đinh không đang đóng chằng ta trên thập giá. Còn<br />

thân ta có khác gì mấy viên đá cuội đang lăn theo triền<br />

dốc ngặt nghèo. Ðúng ra cho tới giờ phút đó, với tất cả<br />

một trời oan ức đang đổ ụp xuống đời, tôi vẫn không<br />

phiền muộn gì ông TCS. Mỗi người đều có quyền chọn<br />

lựa đường mình đi theo sở thích và lương tâm của mình.<br />

63


Nếu tôi đã đau khổ vì sự bại trận của miền Nam thì tôi<br />

đâu cấm được ông ta sung sướng, hãnh diện về chiến<br />

thắng của miền Bắc nếu ông ta đã vui thật lòng. Có cay<br />

đắng là cay đắng cho tôi, cho bạn bè tôi, cái đám trời<br />

không dung đất không tha đang thất thểu trong những<br />

trại giam biệt mù về những hành động đã không do<br />

mình lựa chọn. Và như vậy tôi tiếp tục kéo lê phận tôi<br />

qua những "eo chết" ngặt nghèo giống y như hàng triệu<br />

người Việt khác vốn vẫn được ông TCS thương lắm trong<br />

những ca khúc da vàng của ông ta.<br />

Cho đến một đêm tôi không còn nhớ rõ ngày tháng, chỉ<br />

nhớ là vào lúc người ta đang tìm cách bỏ đi vượt biên rất<br />

đông, còn tôi thì vì không tiền nên vẫn còn đang ngắc<br />

ngoải như con cá mắc lưới, trong một gian nhà lá giữa<br />

miếng rẫy của người bạn thương tình cho tá túc, tôi<br />

nghe được một bài nhạc mới của ông TCS. Người chủ<br />

nhà tốt bụng đêm đêm vẫn lén mở đài BBC hay VOA gì<br />

đó từ chiếc máy thu thanh ấp chiếc lược còn sót lại. Ðêm<br />

đó từ những làn sóng xa xôi lắm vọng về tiếng hát của<br />

một người nữ hát bài Em còn nhớ hay em đã quên. Nằm<br />

chèo queo trên chiếc chiếu rách trải sơ sài trên mặt đất<br />

ẩm, mới nghe mấy câu đầu là tôi đã muốn chảy máu con<br />

mắt khô khốc. Giọng người ca nữ thê thiết sắc mắc chi<br />

lạ. Em còn nhớ hay em đã quên. Nhớ Sài-gòn mưa rồi chợt nắng.<br />

Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân. Nhớ đèn đường từng đêm<br />

thao thức sáng che em vòm lá me xanh. Trời ơi Sài-gòn của<br />

tôi. Sài-gòn những năm 65, 66 qua lại quen thuộc đến<br />

mòn vẹt gót giày. Sài-gòn ngã sáu ngã bảy đón đưa ai<br />

64


mà mưa nắng không hay. Sài-gòn của con đường Lê<br />

Thánh Tôn có hàng me lá rụng như sợi chỉ đan tay, có<br />

quán Văn che sơ sài mấy miếng ván thông sần sùi trên<br />

nền Khám Lớn cũ, những năm mười chín tuổi lần đầu<br />

tiên nghe Khánh Ly từ Ðà Lạt về hát nhạc tình TCS. Nhạc<br />

bay lên quyện theo khói thuốc mang tiếng hát đi xa tới<br />

một cõi nào chưa từng quen biết, kéo theo tuổi trẻ của<br />

tôi của bạn bè tôi như một bầy thiêu thân thất lạc.<br />

Nhưng rồi chưa dứt cơn mơ, tới phần điệp khúc, tôi bị<br />

đánh thức ngang xương bằng mấy câu nhắn gởi nghe<br />

bộ rất thiệt tình. Em ra đi nơi này vẫn thế. Lá vẫn xanh trên con<br />

đường nhỏ.Vườn xưa vẫn có tiếng me ru. Có tiếng em thơ. Có<br />

chút nắng trong tiếng gà trưa. Trời ơi tôi có nghe lầm không?<br />

Em ra đi nơi này vẫn thế? Thiệt vậy sao? Quê hương tôi<br />

vẫn xanh mượt vậy sao? Những bà mẹ vẫn ru con ngọt<br />

ngào giữa tiếng gà trưa xao xác với chút nắng nhẹ trong<br />

veo như một cõi thanh bình từ trăm năm trước? Vậy chớ<br />

còn vườn tược nào bỏ phế đến vàng vọt vì nông dân<br />

phản đối chủ trương hợp tác xả? Ruộng rẫy nào dậy<br />

phèn chết rụi vì mấy con-kinh- -nghĩa-vụ đào xới vô lối?<br />

Còn bà mẹ nào địu con trên vùng kinh tế mới đi giữa<br />

nắng trưa đổ lửa, moi móc mấy củ mì teo tóp như cặp<br />

vú teo tóp nặn không ra giọt sữa cho con? Em ra đi nơi<br />

này vẫn thế. Làm sao vậy được. Làm sao mà nơi này vẫn<br />

thế. Làm như đã không có gì xảy ra trên mảnh đất này từ<br />

mấy năm nay. Em ra đi nơi này vẫn thế. Vẫn có em trong tim<br />

của mẹ. Thành phố vẫn có những giấc mơ. Vẫn sống thiết tha.<br />

Vẫn lấp lánh hoa trên đường đi. Nói vậy được sao? Nơi này<br />

vẫn thế. Nghĩa là vẫn y nguyên như một thuở nào đời<br />

65


chưa tận thế. Phải hiểu thế nào để đúng lòng tác giả. Em<br />

ra đi nơi này vẫn thế nghĩa là em có đi thì cứ đi, chẳng<br />

ăn nhằm gì đến ai, chẳng có lòng ai bận bịu? Em ra đi<br />

nơi này vẫn thế. Hay phải hiểu là em có dại dột thì cứ đi,<br />

bởi vì em đi rồi nơi đây vẫn là thiên đường của tôi, thành<br />

phố vẫn sống như mơ, đường xá vẫn lấp lánh như con<br />

đường kim nhủ. Trời ơi nói vậy mà nghe được sao. Vậy<br />

chớ con mắt đã nhìn suốt từ tiền kiếp để đâu, trái tim<br />

chân thật để đâu mà thấy địa ngục hoá ra thiên đường,<br />

để thấy cái đói xanh lét hoá ra hồng hào, để thấy những<br />

bầy người bỏ trốn vùng kinh tế mới kéo về lê lết thất<br />

thểu trên vĩa hè như một đám ma trơi đang có những<br />

giấc mơ. Ông ta, người nhạc sĩ đã một thời tuổi trẻ tôi<br />

mến mộ vì sự chân thực, vì tấm lòng nhân ái, vì tài hoa<br />

hiếm có đã bắt đúng được mạch nhảy của hơn một con<br />

tim, ông ta có thể ăn nói gian trá đến độ trâng tráo vậy<br />

sao? Sài-gòn của những năm 75, 76, 77... , miền Nam<br />

sau 75 mà có thể biểu là mơ mộng, là thiết tha, là lấp<br />

lánh... thì quả tình vừa bội bạc vừa bất nhân. Bội bạc vì<br />

đã ngoảnh mặt làm ngơ trước cơn đau của người thân<br />

kẻ lạ đã một thời cặm cụi lo toan, miệt mài đánh giặc<br />

cho ông thong thả đi lại ôm đàn ca hát giữa đời. Bất<br />

nhân vì chẳng những lãnh đạm lại còn đi giễu cợt nỗi<br />

khổ của kẻ khác bằng cách phủ nhận và ngụy tráo nó đi<br />

bằng hình ảnh thơ mộng không ngoài mục đích che giấu<br />

một sự thật. Cái sự thật ràng ràng ra đó họa chăng cố ý<br />

nói trăng nói cuội để gạt gẫm người xa, hay để gạt gẫm<br />

chính mình. Chết chóc, tù đày, đoạn lìa, đói khát, tuyệt<br />

vọng... ngày đó rất thật. Thật như tiếng vổ tay rào rào<br />

66


của đám thanh niên đứng ngồi la liệt trên mấy tầng cỏ<br />

hoang giữa đêm Sài-gòn giới nghiêm khi có người thay<br />

họ nói lên một sự thật mà ai nấy đều đau lòng. Thật như<br />

những băng cát-sết sang sớt chuyền tay nhau không<br />

ngớt. Vậy tại sao bây giờ nỗi-đau-cũng-có-thật đó bỗng<br />

nhiên trở thành không có dưới mắt ông ta. Con tim chân<br />

chính của người nghệ sĩ đã có lúc nhìn thấy được tới một<br />

vết thương non giữa sóng lá gãy, con mắt tế vi đến đỗi<br />

ngó ra được một bóng tối nhỏ nhoi giữa cặp mắt muộn<br />

phiền, đôi tai tinh tường đến nghe được cả khúc ca cuối<br />

cùng của loài sâu hèn mọn, và nhất là tấm lòng độ lượng<br />

đến độ thương người không đếm xỉa đến chuyện phải<br />

trái đúng sai. Ðã có lúc không ai bảo ai, người ta cứ tự<br />

nhiên coi đó như tiếng nói chót cùng của lương tâm bị<br />

xúc phạm. Con tim đó bây giờ ở đâu, con mắt đó, đôi tai<br />

đó và tấm lòng đó bây giờ ở đâu mà không thấy rằng từ<br />

sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ở VN nhà tù mọc lên<br />

nhiều hơn trường học, hằng trăm ngàn người tù không<br />

bản án bị bỏ đói bỏ khát trong các trại giam được che<br />

giấu đằng sau những số hòm thư vô nghĩa..., hàng đoàn<br />

người chờ chực từ sáng đến tối trước cửa hàng thương<br />

nghiệp để giành giựt nhau từng mỗi kí gạo, từng thước<br />

vải thô, từng cuồn giấy vệ sinh..., đám bệnh nhân hoi<br />

hóp vì thiếu thuốc men lê lết không chiếu không giường<br />

trên những hành lang bệnh viện trong khi đám cán bộ<br />

thì mặc tình bồi dưỡng..., bầy trẻ nhỏ lem luốt lang thang<br />

moi móc đống rác cao nghều nghệu, chực chờ ngoài<br />

cửa tiệm ăn để húp đỡ miếng cơm cặn canh thừa... Con<br />

tim đó ở đâu mà không nghe được tiếng biển gào man<br />

67


ợ, tiếng thét khiếp đãm của trinh tiết hãi hùng, tiếng<br />

khóc đòi đoạn của đứa bé mồ côi từ trên đầu con sóng<br />

dữ... Em ra đi nơi này vẫn thế! Nói như vậy có phải là xỉa<br />

xói những thây người đang vật vờ trôi trên mặt biển<br />

đông. Thành phố vẫn có những giấc mơ. Vẫn sống thiết tha. Vẫn<br />

lấp lánh hoa trên đường đi. Nói như vậy có phải là mỉa mai<br />

những xác người còm cõi đang còng lưng thay trâu thay<br />

bò kéo cày bè cây trên những thửa đất sỏi đá, trong<br />

những cánh rừng già nước độc đến rụng lông chân để<br />

trả món nợ còn sống sót sau cơn lửa đạn. Bản nhạc hết.<br />

Ðêm tối mờ mờ. Người bạn chủ nhà, viên thiếu úy phế<br />

binh chỉ sống bằng một lá phổi từ sau khi bị phục kích<br />

trên quốc lộ 13, ngồi thù lu trong một góc nhà, tay xe xe<br />

vấn vấn điếu thuốc rê, miệng phun phèo phèo. Không<br />

biết anh ta phun mấy sợi thuốc đắng hay muốn phản đối<br />

mấy điều vừa nghe được. Người bạn vốn ít nói nhưng ra<br />

bộ vụt chạc như chừng có gì không vừa ý. Hửng sáng khi<br />

xách cuốc lên rẫy, anh chỉ nói gọn lỏn có ba chữ nóchết-rồi.<br />

Còn tôi thì sửa soạn lội ra chợ kiếm mối khuân<br />

vác mà lòng thì buồn như mới vừa đánh mất một cái gì<br />

không nên mất.<br />

Dĩ nhiên đã đến lúc mỗi người phải chọn lựa cho mình<br />

một chỗ đứng, theo ý thức và lương tâm của mình. Tôi<br />

sẽ không đá động gì đến chuyện ấy. Nếu ông ta đã chọn<br />

phía bên kia từ trước năm 75, thì ông ta đã hoạt động<br />

như một người nằm vùng công tác phá hoại, và chúng ta<br />

đã thất bại với cuộc chiến đấu chống lại trận giặc trong<br />

bóng tối đó. Nếu ông ta ở lại cộng tác với CS như một ý<br />

68


thức mới vừa khám phá, tôi sẽ chống đối ông ta trên<br />

bình diện ý thức nhưng sẽ tôn trọng tính cách tự do chọn<br />

lựa của mỗi người. Còn nếu ông ta chỉ là một kẻ a dua<br />

theo đóm ăn tàn sau năm 75, ông ta chỉ là một kẻ hết<br />

sức tầm thường mê đắm chút lợi danh phế thải. Ðiều đó<br />

thì không còn gì đáng nói nữa. Có điều nếu như vậy tôi<br />

sẽ thương hại ông ta vì sự mềm yếu của tánh người mà<br />

không ghét bỏ và có thể sẽ nghe lại đôi ba ca khúc cũ<br />

như kiểu ta "ru ta ngậm ngùi" cho đỡ phần tiếc rẻ. Dĩ<br />

nhiên với điều kiện ông ta còn chút "liêm sĩ" để giữ thái<br />

độ "ngậm miệng ăn tiền". Ðàng này thì ngược lại dường<br />

như ông ta đã quên một điều hệ trọng của đạo lý làm<br />

người cũng như lý tưởng của một nghệ sĩ chân chính, đó<br />

là cái cố gắng đạt tới "chân thiện mỹ" mà bất cứ một<br />

nghệ sĩ nào cũng xưng tụng kể cả ông ta. Một trong<br />

những giá trị đó là sự liêm khiết của ngòi bút. Ðã có<br />

không ít trong lịch sử những tấm gương bất khuất của kẻ<br />

sĩ còn làm ta rúng động. Trường hợp của A.<br />

Soljenitsyne... đã không phải là một thí dụ đáng suy gẫm<br />

hay sao? Gần với chúng ta hơn, những Phùng Quán với<br />

Trần Dần đã giành quyền "dùng dao khắc thơ lên đá"<br />

sau khi bị tước đoạt hết giấy bút là một hình ảnh đẹp<br />

đến muôn đời. Dĩ nhiên ở đây chắc cũng không ai chờ<br />

đợi ở ông TCS một hành động ngoạn mục nào sau khi<br />

đã chứng kiến đến não nề sự trở cờ rất nhanh nhẩu của<br />

ông ta, nhưng ít nữa sau cơn khủng hoảng của những<br />

ngày cuối tháng tư, người ta vẫn có quyền chờ đợi ở ông<br />

ta một thái độ liêm sĩ tối thiểu. Vậy thì nếu vì lý do nào<br />

đó, ông TCS, người đã mang hồn nghệ sĩ đi qua suốt<br />

69


cuộc chiến để kêu đòi quyền làm người cho những nạn<br />

nhân vô tội, đến giờ này không thể lên tiếng trước triệu<br />

triệu đọa đày mà ông đang chứng kiến, thì ông cũng<br />

không có quyền bóp méo hoặc che đậy một sự thật<br />

nhãn tiền. Nếu đã không nói được thì cũng nên giữ im<br />

lặng trước những đau khổ của đồng loại, dù rằng sự im<br />

lặng đó chỉ là một phản ứng rất đỗi tiêu cực. Nhưng ít<br />

nữa cũng là thái độ biết điều của một người còn lại chút<br />

lòng. Ðã không im lặng ông ta còn cố tình biến đổi<br />

những đau khổ có thật đó thành những hình ảnh thơ<br />

mộng không tưởng. Như vậy tính liêm khiết của người trí<br />

thức ở đâu? Sự trung thực của người nghệ sĩ ở đâu? Tại<br />

sao năm ba năm trước thì có, mà năm ba năm sau thì<br />

không? Hay là trước đây chỉ giả tạo để lương lẹo thế<br />

gian nhằm che đậy một tâm địa đầu Ngô mình Sở. Như<br />

vậy, toàn bộ tác phẩm trước đây của ông ta, kể cả những<br />

tình khúc, nếu đã không xuất phát từ một tấm lòng<br />

thành, có còn giá trị gì khác hơn là lớp phấn son trơ trẻn<br />

trây trét trên mặt gái giang hồ?<br />

Bảy tám năm sau, ở xứ người, tôi có dịp đọc được mấy<br />

lời phản tỉnh của ông ta chối bỏ hết những đứa con tinh<br />

thần một thời đã từng làm ông ta hãnh diện. Cái trò tự<br />

thú, phản tỉnh dưới chế độ CS không có gì là lạ, có lạ hay<br />

không là giọng điệu hối cải, thái độ cúc cung đến bạc<br />

nhược của một kẻ đã có lúc ý thức rất sáng suốt vị trí của<br />

mình trong xã hội. Tôi tiếc cho ông mà tôi cũng tiếc luôn<br />

cho cả tuổi trẻ của một thời khổ nạn, đã như tôi, đặt<br />

niềm tin và hy vọng không đúng chỗ.<br />

70


Cũng như tôi cứ thắc mắc tại sao một kẻ tài hoa như vậy<br />

mà bỗng chốc hoá ra vô tình đến sanh lòng bội bạc<br />

ngay cả với chính đất nước và con người đã có lần bỏ dạ<br />

cưu mang mình. Hay có lẽ tại vì cái chủ nghĩa mà ông ta<br />

đeo đuổi quá ư hiểm độc nên một khi đã lọt vô tròng là<br />

hết đuờng cạy gỡ, có múa may gì nữa thì cũng chỉ rồi<br />

như đá ngây ngô !*<br />

tháng tư-1995<br />

* Tựa một bài nhạc của Trịnh Công Sơn<br />

71


gởi hết cho em lòng nguyên đán<br />

giữ lại hồn tôi nỗi cuối năm<br />

Mỗi năm<br />

hoa đào<br />

nở...<br />

... câu thơ gỏ từng chữ vào lòng như ngón tay gỏ vào<br />

từng phím nhớ của một bản hoài cảm đã được dạo đi<br />

dạo lại nhiều lần, hằng năm một, và sẽ còn được dạo lại<br />

thêm những lần nào nữa? Câu thơ như nhản hiệu một<br />

sản phẩm đã-được-cầu-chứng-tại-tòa, không thể đánh<br />

tráo, không thể lầm lẫn, không thể gian lận vào đâu<br />

được.<br />

72


Mỗi năm hoa đào nở...<br />

...ờ ở đâu mà bỗng bay về những tấm giấy hồng điều lấp<br />

láy lớp kim nhủ mới tinh trên sợi giây giăng ngang hai<br />

đầu một tường vôi lở... ờ có cơn gió sớm làm gây gây<br />

lạnh trên chút da để hở thổi lại từ hướng nào... dường<br />

như từ hướng bờ sông cái theo con đường lớn có hai<br />

hàng me già mới thay lá non xèo... ờ chiếc áo dài đen cũ<br />

rích tới sờn bâu có in hình mấy chữ thọ, chiếc khăn đóng<br />

chít hình chữ nhân ngay giữa trán, mấy ngón tay thuông<br />

xương xẩu, chòm râu bạc lốm đốm và đôi mắt, đôi mắt<br />

đục lờ có một vẻ gì vừa kiêu hảnh vừa nhẩn nhịn .... ngoài<br />

trời mưa bụi bay ...<br />

Vậy đó. Hễ cứ mỗi năm hoa đào nở là ... là lại thấy ông<br />

đồ già ... là ... là cứ y như ... tết đến.<br />

Hiển nhiên như một phản ứng hóa học, không sai chạy<br />

một ly tử, và gọn gàng như một cái búng tay, câu thơ gọi<br />

về những hồn xưa đã tản lạc, dựng dậy những cảnh cũ<br />

còn trầm tích dưới mấy lớp nhớ hư hao, làm nở lại một<br />

bông hoa vàng đã héo, lay dậy một hơi gió đã mỏi,<br />

dựng dậy một góc phố một lề đường một ngã tư một<br />

hẻm chợ, ...rồi là những mặt người những dáng dấp, ...<br />

rồi tiếng nói tiếng cười tiếng kêu tiếng la tiếng o bế tiếng<br />

cự nự tiếng gà vịt đập cánh phành phạch tiếng heo con<br />

ăng ẳng tiếng heo nái ủng ỉnh tiếng chuông xe đạp leng<br />

keng tiếng bố thắng xích-lô ken két tiếng quần lãnh lột<br />

xột tiếng áo bà ba lùng xùng tiếng pháo chuột nổ lẹt đẹt<br />

73


tiếng guốc lốc cốc tiếng dép lẹp xẹp tiếng trẻ nít rượt<br />

đuổi tiếng con trai chọc gái tiếng cô hai cô ba xì xò<br />

nguýt háy tiếng cô tư cô năm đỏng đảnh làm duyên<br />

tiếng chệt-hàng-xén ngọng nghệu tiếng chú-bảy lơ lớ<br />

tiếng trả giá cò kè tiếng nài nỉ thêm bớt... rồi là cái mùi<br />

hăng hắc của rau cải úng nước, mốc meo của vải vóc ủ<br />

kho, tanh tưởi của thịt cá ế thiu, nồng nặc của cống rảnh<br />

ứ đọng, của mồ hôi đúng ngọ, của bả trầu xế trưa, của<br />

dầu thơm rẻ tiền, của bi-giăng-tin bóng lẩy của ... của<br />

một-ngàn-lẻ-một thứ vật thực trần gian đã ứ đọng ở đó<br />

từ bao nhiêu đời cộng thêm một-ngàn-lẻ-một thứ vật<br />

thực y như vậy nhưng còn mới nguyên cộng thêm cái<br />

mùi thơm phức ngọt bùi béo ngậy của mứt dừa-mứt bíthèo<br />

lèo-cứt chuột-nội địa của chà là-hồng khô-nhập<br />

cảng một-năm-mới-có-một-lần họp lại thành một thứ<br />

mùi... rất-chợ-tết... Cái hoạt cảnh cứ diển ra hàng năm<br />

mà mỗi năm cứ mỗi mới mỗi vui... người qua lại vội vã<br />

mua sắm, những sạp hàng bày vội chen lấn tràn ra mặt<br />

đường đã cấm xe từ sau ngày đưa ông táo, chưng dọn<br />

mớ trái cây bánh mứt, rượu tây, trà tàu... như cả năm<br />

chưa bao giờ được chưng dọn như vậy... những hình ảnh<br />

vụn vặt những âm thanh tứ tán đó bỗng chấp chới tụ về,<br />

chắp chắp nối nối... để ráp lại nguyên hình một mùa<br />

xuân trong quá khứ, một cái tết nhất định ở một nơi nhất<br />

định - một cái tết sẽ không đầy đủ nếu đâu đó trên cái<br />

bối cảnh hỗn tạp đó không có chấm phá mấy nét thiệt<br />

tiêu sơ ...<br />

74


... ở một góc rất khuất, khiêm nhường như chính cái mặt<br />

hàng được móc treo trên mấy sợi giây nhỏ xíu, những<br />

nét chấm phá ngang dọc dù có bay lượn rồng rắn cũng<br />

không làm vui hơn cái dáng điệu buồn rầu của ông hàng<br />

chữ cuối mùa... Người thuê viết nay đâu. Giấy đỏ buồn không<br />

thắm. Mực đọng trong nghiên sầu.<br />

Mãi về sau nữa, lâu lắm, dù đã ở một nơi rất trái<br />

mùa. Mỗi năm hoa đào nở. Sắt son như một lời hẹn. Câu<br />

thơ làm con én đưa tin. Người ta thấy lại bằng con mắt<br />

tâm linh ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ... Người ta ngửi lại<br />

mùi xuân bằng cái mũi hồi ức... Và rồi người ta đón tết,<br />

vơi vơi kỷ niệm...<br />

Ở một tỉnh nhỏ nằm chen giữa hai nhánh sông lớn của<br />

miền nam, trời mưa nắng hai mùa, mỗi năm không có<br />

hoa đào nở mà chỉ có hoa mận, hoa bưởi, hoa cam... chỉ<br />

có hoa mai mà lại còn phải lặt lá từ rằm tháng chạp...<br />

Trời đất đâu có gởi tới một dấu hiệu riêng nào ngoài<br />

một chút gió bấc làm lạnh se da những buổi sáng thức<br />

sớm theo cha ra tỉa kiểng. Thành ra lớn lên đi học rồi cứ<br />

theo ông đồ của Vũ Ðình Liên mà đón tết. Bài học đâu từ<br />

cái thời tiểu học vậy mà làm nhớ dai nhớ dẳng. Lớn lên<br />

rồi trèo lên trung học đại học vẫn còn nhớ hoài nhớ hũy<br />

cái hình ảnh gợi tết rất ngậm ngùi đó. Mỗi năm, dù đang<br />

ở đâu, cứ vừa nghe trời đất rậm rật trở mình là câu thơ<br />

bật nhớ... mặc kệ những tất tả của tháng cuối năm. Mỗi<br />

năm hoa đào nở. Cứ vậy đó, mỗi năm, hằng năm, năm<br />

năm... theo cái nhịp quay rất đều tay của thời gian lại<br />

75


thấy ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ trên phố đông người qua...<br />

để cho tết đến. Rồi năm nào như năm nấy cũng thấy lại...<br />

y nguyên cái dãy phố tàu chưng dọn se sua một cách lộn<br />

xộn như... phố tàu, nhà lồng chợ cũ kỷ được che thêm<br />

trại dựng thêm rạp làm đã vốn luộm thuộm càng thêm<br />

lộn xộn, bạn hàng đi đi lại lại chộn rộn ra vẻ còn chộn<br />

rộn hơn trong năm, cái bến nước nằm kề khu chợ cá<br />

bỗng dưng tấp nập ghe xuồng, chúc mũi đổ lên bờ<br />

những người khách xa đâu từ những thôn ấp hẻo lánh rủ<br />

nhau đi chợ tết. Chợ tưng bừng sinh khí mới. Và vẫn<br />

vậy...<br />

... vẫn vậy... ở một góc phố khiêm nhường nhất, cũng lại<br />

cái hình ảnh lặng lẽ nhất mà lại mang lòng nguyên đán<br />

nhất lại nhẫn nại xuất hiện, chậm rãi trải chiếu trải khăn,<br />

khoan thai mài mực tàu trịnh trọng phơi giấy đỏ... rồi vén<br />

áo gò lưng ngạo nghễ phóng tay phác những nét<br />

phượng múa rồng bay mặc kệ cái dửng dưng vô tình<br />

nhất của người thiên hạ... ngoài trời mưa bụi bay...Rồi là<br />

những chữ thảo chữ triện chữ chân phương thi nhau xổ<br />

móc tung hoành, những lời chúc lời cầu lời xin thi nhau<br />

bay lượn. Ba cái chữ phước- lộc-thọ thì tròn trịa như<br />

chính sự sung mãn, những câu thơ chữ quen thuộc nămnào-như-năm-nấy-từ-đã-mấy-ngàn-năm.<br />

Thiên tăng tuế<br />

nguyệt, nhân tăng thọ. Xuân mãn càn khôn, phúc mãn<br />

gia... đọc lên nghe rổn rảng cứ y như là phường tuồng.<br />

Vậy mà vui lắm. Mà chí tình lắm. Ðủ để người ta nghe<br />

hớn hở nghe náo nức nghe rộn ràng nghe hy vọng dù<br />

có đang chạy chết để lo ba bữa tết... Vậy chớ mùa xuân<br />

76


không phải là mùa hy vọng sao, tết không phải là hy<br />

vọng sao. Cho nên bỏ ra vài đồng bạc để mua về tấm<br />

giấy đỏ treo nhà cũng được, mà không mua cũng không<br />

sao, lời chúc lành đã bay đầy trời đó.... ai cũng được<br />

hưởng phước lây...<br />

Rõ ràng là ăn-tết ăn gì cũng được, nem bì bánh tét bánh<br />

ít thịt kho dưa giá xà-bần bánh phồng tôm bánh phồngmì-va-ni-nước-cốt-dừa-đường-cát-<br />

trắng... gì gì cũng<br />

được. Nhưng cái không thiếu được là mấy tấm giấy đỏ<br />

chữ đen mang một lời chúc lành không biết có ứng kịp<br />

hay không trong năm. Mà điều ứng hay không lại là<br />

chuyện khác. Chuyện ở đây là cái vẻ tết mà ông đồ và<br />

mớ giấy đỏ của ông đã tạo nên trong sinh hoạt dân<br />

gian. Làm như cả hai, ông đồ và ngày tết, đã được gắn<br />

liền vào nhau bất khả phân ly. Nói như vậy không có<br />

nghĩa là phụ bạc cái công đóng góp rất khoái khẩu của<br />

dưa hấu của hột dưa (ôi cái miệng cắn hột dưa kêu lách<br />

tách còn trây trét lại trên môi dấu đỏ xinh xắn như một<br />

vết răng cắn phạm! ) của hột sen của chuối ngào gừng<br />

của bánh mứt của la- de-tôm-khô-củ-kiệu... Nói như vậy<br />

chẳng qua là ngầm hảnh diện cái tánh trọng văn của<br />

người Việt. Bởi vì làm như ba cái thứ đồ ăn thức uống đó<br />

mới chỉ là da là thịt của tết. Còn chính mấy tấm liễn đỏ<br />

của ông đồ già mới là cái phần hồn làm nên phong vị. Dĩ<br />

nhiên cái nào có phần nấy, không có kỳ thị gì hết. Tuy<br />

nhiên mấy chục năm rồi, ở đâu đó trên mặt đất này,<br />

ngoại trừ cái chỗ chúng ta đã sinh ra và “ăn tết” trước khi<br />

bỏ trốn, những cái tết qua đi nếu không lãng nhách thì<br />

77


cũng lãng òm mặc dầu thì cũng thịt kho dưa giá khổ qua<br />

dồn thịt rượu tây rượu tàu ... chính là vì có còn cái phong<br />

vị đó đâu. Chẳng phải chỉ riêng cái đó làm nên tết đâu,<br />

mà là một tổng thể còn nhiều thứ khác nữa, nhưng thiếu<br />

gì thì thiếu mà thiếu cái hình ảnh lãng đãng của ông đồ<br />

già với mớ giấy điều phơ phất đó nên mọi cái khác có đó<br />

... mà như mất hồn !<br />

Người ở xa, xa tăm tắp quê hương, không những chỉ<br />

quan san ngoài sông núi, mà quan san ngay chính giữa<br />

lòng mình. Biển xanh thì cứ y nguyên dâu bể mà lòng<br />

người thì tang thương đã quá độ. Trí nhớ thì cứ như một<br />

người tình khó tánh, nay vầy mai khác, cái muốn nhớ thì<br />

quên, cái muốn quên thì lại nhớ. Ai đời đã xa ơi là xa trời<br />

đất đó, khí hậu đã lộn lạo, mùa màng đã sang đàng mà<br />

mỗi năm cứ gở tới tờ lịch Tam tông miếu cuối (ấn bản<br />

hải ngoại) là lòng cứ thấy băn khoăn rồi năm nay sẽ ăn<br />

tết ra sao. Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời thì đã sẵn đâu từ<br />

hồi mới bỏ xứ mà đi. Ở đây có tết đâu mà ăn. Mà có ăn<br />

thì cũng trệu trạo ba cái món cam-giang-nam-đemtrồng-qua-giang-bắc<br />

cũng chỉ thấy nhạt phèo. Chỉa đủa<br />

gắp miếng thịt đọng mở đục ngầu là cái bụng lại ớn<br />

ngược nhớ miếng thịt phay trụng nước sôi trong vắt.<br />

Nhai miếng dưa-cải-bọc-ny-lon-made-in-Thailand là cái<br />

răng tê tái nhớ miếng dưa-cải-má-muối-trong-khạpđậy-bằng-lá-chuối-sau-vườn...<br />

Còn ba cái hội xuân chợ<br />

tết cũng phải kéo nhau vào trốn lạnh trong những hội<br />

trường cửa nẻo kín bưng tới nỗi áo dài người xưa tha<br />

thướt đến vậy mà bây giờ hai vạt cũng đành buông<br />

78


thỏng ngây đơ đến tội tình. Ôi ! Áo màu không gió cũng<br />

thôi vàng. Trong ta còn lại đìu hiu vắng ...<br />

Nói vậy rồi ngẫm nghĩ lại mà thấy băn khoăn. Hóa ra cái<br />

ăn cái mặc của người ta coi vậy mà quan trọng hết sức.<br />

Người lưu vong ở xứ người ăn uống đủ thứ thập vật.<br />

Nhất là ở những xứ gọi là họp chủng đa văn hóa này,<br />

thực phẩm là cái món được chủ trương cho sống chung<br />

hòa bình nhất. Từ cái món cầm tay " to go " đơn giản<br />

nhất tới cái món nấu nướng cầu kỳ nhất, từ cái kiểu ngồi<br />

bệt ăn bốc ăn hốt đến cái kiểu ngồi thẳng lưng ăn ly tách<br />

dao nỉa lỉnh kỉnh nhất... phải nói là không thiếu cái chi.<br />

Thử, nếm, chấm, mút, ôi thôi tha hồ. Thiếu điều riết rồi<br />

có khi phải tự đặt cho mình những kỷ luật kiêng cữ còn<br />

nghiêm nhặt hơn kỷ luật nhà binh nữa. Vậy mà xét ra<br />

chưa đủ. Bởi vì như đã nói ăn gì thì ăn lang bang được<br />

mà ăn tết lạ chỗ thì không được. Ăn tết ở xứ người trăm<br />

phần không thấy ngon. Muốn ngon miệng phải về ăn tết<br />

tận quê tận nơi tận chỗ. Phải ăn tết với tất cả cái phụ<br />

tùng cần thiết của nó. Một nhánh mai, một cành đào,<br />

một chậu thủy tiên, một đòn bánh tét nấu đêm giao thừa<br />

bằng nồi đất chụm lửa củi, một miếng bánh phồng<br />

nướng lửa than ... một bao thơ đỏ, một tấm liễn hồng<br />

điều ... và nếu được đôi ba chùm pháo chuột lại càng vui<br />

như ... tết.<br />

Chẳng vậy mà mới nghe phong phanh tết đến đã không<br />

ít người vội vã chầu chực chạy chọt xin xỏ cho được cái<br />

visa (dù mình về quê mình) ăn tết. Tin trong một tờ báo<br />

79


ở đây năm nay có đâu khoảng 300.000 việt kiều hồi<br />

hương ăn tết. Nghe mà thương nhưng buồn. Hóa ra<br />

hằng năm dù ở đậu nhưng cũng ăn nhờ không biết bao<br />

nhiêu lễ lạc lớn nhỏ của người ta, từ tạ ơn đến giáng<br />

sinh, từ halloween đến tết tây... vẫn là chưa đủ. Lòng việt<br />

kiều vẫn muốn khều cành nam. Ðồng đô la xanh vẫn<br />

mạnh hơn đồng đô la vàng. Và nhờ đó tết nhứt lại có<br />

chiều nhứt dạ đế vương (không giương cũng uổng)<br />

Trách ai bây giờ. Người ta về quê ăn tết cũng là hợp với<br />

cái luận lý nước chảy về nguồn, dù cái nguồn đó có đôi<br />

khi làm người ta tá hỏa tam tinh như Từ Thức về trần. Thì<br />

thôi ăn tết ở đâu cũng vậy, ăn tết ở quê nhà ... nhà-nước<br />

cám ơn.<br />

Chỉ đáng đời cho cái đám thân đã quy Tào mà hồn còn<br />

Từ Thứ, bắt chước Bá Di với lại Thúc Tề, cứ ráng gồng<br />

mình chịu rét làm cái thân thông suông đuột đứng giữa<br />

trời mà kêu réo, đến ngày tư ngày tết trùm khăn trùm áo,<br />

mang ủng lội tuyết đi đón xuân ở một nơi chưa tới kỳ<br />

xuân, làm bộ ăn tết ở một chỗ không có gì là tết. Chừng<br />

không thấy tết ở đâu thì buồn mà khi có người dổ ngọt<br />

về quê thì dẩy nẩy như đạp phải đinh chong tẩm độc...<br />

Mà điều nói thì nói vậy, chớ ngó trước ngó sau rồi càng<br />

lúc càng thưa thớt những tấm lòng lạc điệu đó. Mỗi một<br />

năm một vắng... chẳng khác gì cái ông đồ già trong thơ<br />

Vũ Ðình Liên ... nhưng mỗi năm mỗi vắng...<br />

80


Ông đồ vẫn ngồi đây<br />

Qua đường không ai hay......<br />

* tựa và chữ nhỏ trích thơ của Vũ Ðình Liên<br />

81


thư tết<br />

Rồi tết đến rồi lòng em nhớ quá<br />

Nguyễ̃ n đình Toàn<br />

Em xa xôi,<br />

Trưa nay, mùng một tết, cái tết thứ hai mươi mốt của tôi<br />

ở xứ người. Trời đổ tuyết từ ban sáng. Mùa xuân đâu<br />

không thấy, chỉ thấy lạnh và buồn. Tôi chắc em cũng như<br />

82


nhiều người Việt khác đang mài miệt trong những xưởng<br />

thợ hay văn phòng ở đâu đó trên khắp cùng mặt đất, có<br />

thấy gì là tết đâu dù rằng trong lòng mình không thiếu<br />

một nụ xuân. Sao tôi thấy thương em, thương Lý, Lê,<br />

Trần, Nguyễn ... thương hết thảy những người Việt đang<br />

ngậm ngùi đón tết ở một nơi không phải chỗ của mình.<br />

Sao tự dưng tôi như thấy em đang ngẩn ngơ, thấy chị<br />

đang thờ thẩn, thấy anh đang nôn nao như chờ đợi nghe<br />

thấy lại một cái gì đã có lần rạo rực dấy lên tự lòng đất,<br />

loáng thoáng trong khói hương, chập chờn giữa trời<br />

rộng khi chúng ta còn ở đó, quê nhà. Nhớ không em cái<br />

lao xao của cây cỏ, cái náo nức của phố phường, cái lung<br />

linh của khuya im đêm trừ tịch. Tôi chắc mọi người đang<br />

thấp thỏm sống lại cái tình tự của một tết năm nào.<br />

Nhưng mà nhớ thì có nhớ nhưng gặp lại thì chắc không<br />

bởi vì mình có ở quê mình đâu. Mình đang ở xa quá, xa<br />

tới gần nửa thế kỷ, cái quê hương mù mịt cứ nghĩ tới là<br />

mũi lòng. Cho nên dù có bắt chước anh con trai trong<br />

một bài hát cũ hỏi lầm thầm ... xuân đã về chưa ... thì<br />

cũng chỉ thấy đọng lại một chút vị cay trên khóe mắt. Bởi<br />

vì xuân có kịp về đâu ở một cõi trời cõi đời quá lạ.<br />

Buổi sáng hôm nay, em thức dậy chắc cũng giống như<br />

nhiều buổi sáng khác khi trời còn mờ tối, ngoại ô còn<br />

ngái ngủ trong lớp áo đọng sương. Em dậy sớm hơn<br />

chồng con vì còn phải sửa soạn thức ăn cho mọi người<br />

đến trường sở. Vội vội vàng vàng em đâu thấy kịp mấy<br />

đốm sao thưa còn lấp ló ngoài cửa sổ. Em còn phải<br />

nhanh tay sửa soạn để kịp chuyến xe điện ngầm thứ<br />

83


nhất. Khi em ra khỏi nhà thì đốm sao đã buồn bã bỏ đi.<br />

Một mình em vừa đi vừa chạy, tay quấn vội cái khăn len<br />

quanh cổ, tay kéo sát cái áo ấm chùng kín tấm thân bé<br />

bỏng co ro. Mùa đông còn lạnh và dài lắm. Bầu trời<br />

nhem nhuốc và phố xá còn lấm lem cơn bão tuyết cuối<br />

tuần. Chung quanh em bắt đầu có thêm nhiều người<br />

khác, cũng đang vội vã chạy theo sau cái tia sáng đầu<br />

ngày. Và như vậy, em đi đến hảng tự nhiên như những<br />

buổi sáng bình thường khác. Một buổi sáng bình thường<br />

như trăm ngàn buổi sáng khác của em, của chồng con<br />

em, của bạn bè em, của những người đang sống một<br />

mùa xuân giả bộ. Cho nên tôi biết, sáng hôm nay ở<br />

trong sở , đầu óc và tay chân thì bận bịu với công việc<br />

mà lòng em thì buồn quá đỗi. Bởi vì giữa lòng em<br />

nguyên đán đã rộn rịp ngay từ nửa đêm hôm qua khi trời<br />

đất ở đây còn đương tối mịt.<br />

Từ một hai tuần trước mỗi lần ra chợ em đã cố tình mua<br />

sắm nhiều hơn lệ thường. Thịt cá, dưa kiệu, dưa chua,<br />

bánh mứt, cái gì cũng nhiều hơn chút chút. Bề gì cũng<br />

ngày tư ngày tết phải cho chồng con nếm chút hơi hướm<br />

quê nhà. Em còn cẩn thận dặn tiệm hoa đầu phố để<br />

dành cho em một chậu cúc vàng mặc dầu vẫn chép<br />

miệng than đắt loại hoa trái mùa. Em ân cần và chu đáo<br />

lắm. Em muốn tạo một không khí tết cho gia đình và cho<br />

riêng em. Mới chạng vạng, em đã thu dọn lại nhà cửa,<br />

sửa soạn chiếc bàn thờ tổ tiên và cũng đã bày mâm cơm<br />

cùng chồng con chờ cúng rước ông bà. Vậy mà giữa<br />

hương khói sao có lúc em như thấy cô đơn hơn ngày<br />

thường. Giữa lòng em như có gì trống trải. Nhìn quanh<br />

84


em sao như thiêu thiếu một cái gì. À thì ra, ở đây đất trời<br />

lạ lẫm làm em không bắt gặp lại được cái lung linh của<br />

tối giao mùa thuở trước, khi còn bao bọc chung quanh<br />

những tấm thân tình, và nhất là cả nước non đều mang<br />

chung một nỗi rạo rực như ngay chính lòng em đang rạo<br />

rực. Ở đó, mỗi lượt giao thừa, cỏ cây lay lắt như muốn<br />

chuyển mình, sông núi cũng động đậy bừng tỉnh, đừng<br />

nói gì con người, hết thảy đều như say say, thấy như vừa<br />

nếm một chút rượu nồng cất bằng thứ men cay của trời<br />

đất. Người ta như thấy có một cái gì thôi thúc, chộn rộn<br />

khiến ngồi đứng không yên, có một cái gì đó bãng lãng<br />

lao xao ngay trong không gian lắng đọng làm cho mọi<br />

thứ trở nên tươi tỉnh hơn và hơn nữa như xúi bẩy mọi<br />

người gần gũi nhau hơn. Ở khắp mọi nơi, người ta như<br />

nghe thấy từng nụ mầm đang lật bật trổi dậy, mới tinh,<br />

khỏe mạnh và nhất là như truyền nhiễm cái niềm vui<br />

trong lành lên từng xó xỉnh của đời sống. Bỗng nhiên<br />

người ta quên phứt những phiền toái, những rắc rối,<br />

những mắc mớ của phận người. Bỗng nhiên người ta đổi<br />

mới trong phút chốc. Em cũng vậy. Có nhớ không ? Em<br />

thấy em tươi như một nụ hàm tiếu. Em thấy em vui như<br />

một tiếng cười dòn. Và áo mới xúng xính. Và đồng tiền<br />

mừng tuổi. Rồi hoa đào hoa mai. Rồi bánh chưng bánh<br />

tét. Những năm em lớn lên, chiến cuộc dữ dằn quá,<br />

pháo bị cấm đốt. Nhưng có cần đâu, trong lòng em là cả<br />

một tràng pháo vô thanh nổ dòn dã, xác pháo đỏ vô<br />

hình rưới đầy tấm lòng em mới nguyên. Em mừng thêm<br />

một tuổi lớn, hồn mở rộng thênh thang, háo hức chờ đợi<br />

những bất ngờ ...<br />

85


Vậy đó mà tối hôm qua, trong ngôi nhà nhỏ rất ấm cúng<br />

mà vợ chồng đã tậu được sau nhiều năm cày cục, bên<br />

cạnh chồng con, ngay lúc em sắp sửa cúng giao thừa,<br />

bỗng dưng em cảm thấy như có một vẻ gì tẻ lạnh quá,<br />

cứ quạnh quẽ quanh đây. Nước mắt chực hờ nhưng rồi<br />

em cố giữ lại. Làm như em linh tính được mọi ước<br />

nguyện chân thành của em trong buổi tối thiêng liêng<br />

này rồi sẽ chìm mất vào một cõi lặng vô tình. Chậu bông<br />

cúc, vàng mấy đốm lẻ loi, không thắp nỗi một niềm vui<br />

lẻ mọn giữa cái màn ẩm đục và mốc thếch của khí trời bị<br />

đọng kín lâu ngày. Còn mấy dĩa đồ cúng nữa, dù em đã<br />

lo lắng nấu nướng sẵn từ ngày nghĩ cuối tuần trước, dọn<br />

ra rồi sao càng làm lộ thêm cái vẻ lạc lõng như bày ra<br />

không phải chỗ. Tội nghiệp em, em đâu có rảnh rổi. Ở<br />

sở về, em vừa đi vừa chạy, ghé qua rước con ở nhà trẻ,<br />

về tới nhà là chỉ kịp cởi vội khăn áo xùng xình rồi là lúi cúi<br />

xào nấu cho kịp bữa tối. Bởi vậy, em đã bắt chước mẹ<br />

kho sẵn một nồi thịt với lon nước dừa Đài Loan dù lạt lẽo<br />

vẫn cho ra vẻ đúng điệu, nấu một tô canh khổ qua dồn<br />

thịt với dĩa đồ xào hải sản. Em nhớ mẹ cũng đã làm<br />

giống như vậy. Bới thêm ba chén cơm trắng, dọn đủ<br />

muổng đủa sắp dài hai bên cạnh bàn. Em còn làm giống<br />

như ba, khui chai rượu quý rót đầy ba cái chung nhỏ, rót<br />

thêm một tách nước lạnh để ông bà súc miệng trước khi<br />

dùng cơm, rồi em thắp cháy lung linh hai ngọn đèn cầy.<br />

Mâm cơm cúng dòm qua cũng tươm tất giống như của<br />

ba mẹ em đã làm. Vậy mà sau khi đã sửa lại quần áo bộ<br />

điệu ngay ngắn, thắp nắm nhang sắp sửa van vái nhưng<br />

chỉ mới vừa lẩm nhẩm trong đầu mấy chữ “ đất nước<br />

86


ông bà cữu huyền thất tổ ” như ba đã dạy là tiếng khóc<br />

em bật ra, tức tưởi. Đứa con lẩm đẩm bên chân thấy mẹ<br />

khóc cũng mếu máo khóc theo. Ngó lại thì mắt chồng<br />

cũng rươm rướm. Tết đâu không thấy chỉ thấy cả nhà ôm<br />

nhau khóc mùi mẩn. Em khóc mà biết mình không nên<br />

khóc. Dường như em tủi thân, dường như em tiếc nuối.<br />

Em thấy như không có ông bà nào chịu khó cất công<br />

vượt ngàn trùng qua đây với em. Đường xá xa xôi quá<br />

mà ông bà thì quê mùa làm sao biết ngõ đi lối về. Còn<br />

đất nước, đất nước em thì bị kềm kẹp bởi lũ người vong<br />

bản thì làm sao thoát được mà dong ruổi. Cha mẹ và bầy<br />

em nhỏ thì đang lây lất đón cái tết nghèo đói chắc cũng<br />

đang nhớ em mà phải bấm bụng cho quên. Đêm vây<br />

chung quanh thì tối mịt, đặc quánh hơi lạnh mà lại trống<br />

hoang không một bóng người qua. Tết đó sao ? Đâu<br />

phải mùa xuân của em như em đã chờ đợi và đã gặp gỡ<br />

khi còn ở bên nhà. Cả một tuổi thiếu nữ em sống ở đó,<br />

mùa xuân dậy thì như bông búp thẹn thùng, em theo mẹ<br />

đi chùa hái lộc đêm giao thừa, lòng thấy hoang mang<br />

sung sướng mà không rõ vì sao. Mà có cần biết lý do<br />

đâu, em thấy mọi người chung quanh hớn hở thì lòng<br />

em cũng nở rộ đóa hạnh phúc. Trong hương trầm nghi<br />

ngút, mọi tấm lòng như mở ra cho tiêu vong hết mọi uẩn<br />

khúc và thay vào đó nỗi cảm thông bắt nhịp với người và<br />

với trời đất. Trong một tích tắc người ta như bắt gặp lại<br />

hồn thiêng sông núi, người ta thấy mình hòa tan vào cái<br />

thăm thẳm của vũ trụ không cùng. Phút giao thừa như<br />

sát na hội ngộ. Gặp lại lòng mình, gặp lại lòng người và<br />

87


còn tìm gặp lại cái nguồn cội sâu xa của chính đời mình<br />

nữa.<br />

Vậy mà ở đây em không cảm thấy gì hết. Em chỉ thấy<br />

lòng mình trống trải như một cõi không mà lại nặng nề<br />

như mộ địa. Cái gì chớ cái này thì chồng con em không<br />

an ủi được gì cho em hết. Tội nghiệp V. Nó cũng thẫn<br />

thờ như em vậy thôi. V đưa tay vỗ nhẹ vai em rồi ôm em<br />

và con siết chặt. Cặp mắt V sụp xuống như có cả núi<br />

sông đè lên đó. Phải rồi, từ lúc nãy chính V cũng thấy<br />

như thiêu thiếu một cái gì. Nó đã cẩn thận kiểm soát lại<br />

gian phòng, bàn ghế, chậu hoa, tấm lịch Tam Tông Miếu<br />

mua ở chợ tàu đã gỡ tới tờ lịch cuối cùng, bức hình gia<br />

đình ở quê chụp chung lúc lên mười tuổi đã vàng ố ... tất<br />

cả vẫn y nguyên vậy. Kể cả mâm cơm cúng mà em đã<br />

sửa soạn với hết lòng thành khẩn. Có thiếu gì đâu. Ba<br />

chén cơm với ba đôi đủa, mấy cái muổ̀ ng, mấy cái dĩa đồ<br />

ăn bốc khói, nhang đèn ... tất cả đều ở đó. Có thiếu gì<br />

đâu. Vậy mà sao V vẫn thấy thiếu. Cho đến khi nó thấy<br />

em bật khóc nó mới nhận ra cái thiếu sót đó, nằm ngay<br />

chính trong lòng mình, vả bây giờ phả ra váng vất trong<br />

không gian tù tùng của căn nhà đóng kín cửa. Có một sự<br />

vắng mặt lớn lắm mà dường như V đã mường tượng đâu<br />

từ chiều hôm qua khi lái xe về ngang con dốc ở đầu bên<br />

kia thành phố. Từ vị trí đó, V thấy cái xóm nhỏ của họ<br />

đạo Tin Lành với mấy chục căn nhà nằm xúm xít như úp<br />

mặt vào nhau dưới cái bóng núi đe dọa. Xa hơn một<br />

chút, con sông nhỏ chạy loanh quanh giữa cánh rừng<br />

thông tua tủa rồi bỏ đi mất hút đằng sau khúc ngoặt<br />

cuối đảo. Lúc đó chiều chưa tắt hẵn, đêm còn vung vẩy<br />

88


vạt áo choàng đen dùng dằng với chút nắng cuối ngày<br />

vừa kịp cho V thấy mấy làn khói mỏng vất vưởng bốc lên<br />

từ những mái nhà trắng tuyết. V đã dửng dưng qua lại<br />

nhiều lần đoạn đường đó, lúc mới tới có lần cũng đã<br />

thấy giông giống một góc cảnh xưa. Rồi thôi, rồi quên<br />

khuấy dưới lớp lớp lo toan của đời sống tất bật. Vậy mà<br />

buổi chiều hôm qua, ngay đúng lúc đang nhớ lại câu<br />

nhắc của người bạn về chuyện bên nhà lúc cuối năm thì<br />

xe vừa trờ tới đỉnh đồi ngó xuống khu nhà quen thuộc,<br />

sao bỗng dưng V nhận diện được rõ ràng cái quen thuộc<br />

ở đây đã từng quen thuộc lâu lắm, lâu đâu từ lúc còn ở<br />

quê nhà. Có một cái gì tiềm tiệm góc phố xưa, nơi V đã<br />

sống một tuổi ấu thơ êm đềm, với cha mẹ anh chị bạn<br />

bầy ... Chiều u tịch, khói bay từ một góc tối xa xăm, cộng<br />

thêm cái âm vang buồn bã của mấy chữ “ cuối năm ”<br />

làm lòng V quặn nhớ. Sao tự dưng V thấy như ai đó cắc<br />

cớ vừa bứng nguyên phố nhỏ quê mình đem sang dựng<br />

lại y hệt ở đây, ngay phút này, lúc buổi chiều một ngày<br />

cuối năm sắp tắt. Sao tự dưng nó thấy giống đến thê<br />

thiết cái xóm nhỏ ở một tỉnh vùng cao nguyên nước Việt,<br />

nơi nó đã được sanh ra và lớn lên giữa bao nhiêu là thân<br />

thích ruột rà. Thành phố với những con dốc mù sương đi<br />

về lẫn khuất, với lọn nắng sương mai màu hổ phách mà<br />

có lần nó đã ví von với tia nhìn trong vắt của người yêu<br />

dấu đầu đời. Thành phố mà V đã bỏ lại để đi xa dù có<br />

bao giờ thôi thương nhớ. Lây lất gần hai mươi năm ở xứ<br />

người tưởng đã quên lâu. Vậy mà không. Vậy mà chiều<br />

hôm qua V bỗng nhớ lại. Nhớ như mới bỏ đi đâu chừng<br />

mấy bữa. Nhớ như mới hôm nào cắt ruột bỏ đi. Nhưng<br />

89


sợ em buồn lây, nó giữ kín trong lòng. Rồi lu bu chuyện<br />

sở, rồi hấp tấp dọn dẹp cho kịp buổi cúng giao thừa, nó<br />

cứ nghĩ thấy bần thần là tại trời trở gió. Mãi đến khi thấy<br />

mấy giọt nước mắt tù̉i hờn của em, V mới bàng hoàng<br />

cảm lại nỗi hụt hẩng trong lòng mình. Chút lao đao<br />

trong lòng dìm lại từ hôm qua, bỗng chốc vực dậy, dựng<br />

lên hình ảnh cái xóm nhỏ đìu hiu từ độ bỏ đi, thoáng<br />

chốc rõ ràng như trước mặt. À thì ra, có quên được đâu,<br />

cái phố cũ buồn vui một thuở. Góc quê hương bị vùi<br />

nông dưới mấy lớp tâm tư, giấu mặt đằng sau tầng tầng<br />

ngày tháng, nép mình giả bộ như xác bướm khô bỏ<br />

quên giữa mấy trang sách ố vàng. Người ta cứ vô tình<br />

sống, làm ăn, vô tình đi tới lui loanh quanh trong cõi tạm<br />

mà không ngờ vẫn mang theo bên mình cái xác bướm<br />

xác xơ mà vẫn chực chờ hồi sinh. Để rồi, một khuya im<br />

trở mình bất chợt, một tiếng chim kêu lạc cuối chiều, một<br />

vệt nắng vàng sót quên trên ngõ lá, một bước chân lạc<br />

lỏng giữa chợ đời ... từng ấy thứ, tưởng chẳng ăn nhằm<br />

gì với cố hương đã xa mù xa mịt mà oái oăm lắm em,<br />

thứ tình cố thổ nó giăng nhện không ngờ. Nó níu, nó<br />

kéo, nó ép người ta ngoảnh lại, nhìn lui, từ một nét, một<br />

chấm, một góc, một cảnh đời đã thấy, đã sống, đã hạnh<br />

phúc, đã trầm luân ... từ một thưở nào, khi còn ở đó, quê<br />

nhà. Từ đó, những hình ảnh đã quên sâu, những kỷ niệm<br />

đã lặn chìm, những phần đời đã ngủ yên, những khuôn<br />

mặt vóc dáng, những con đường góc phố, những bờ bãi<br />

hàng lau, những bến nước cầu ao, nhịp mùa thời tiết ...<br />

mọi thứ mọi điều tưởng đã quên lâu nhưng rồi ra vẫn<br />

nhớ, nhớ hoài. Nó có thể nằm đó, im hơi lặng tiếng, vài<br />

90


a năm, mười mươi năm, có khi suốt cả đời không<br />

chừng. Để rồi có khi chỉ là một hơi gió nhẹ làm lung lay<br />

một ánh trăng khuya, một tiếng chim trời kêu lẻ bạn, hay<br />

có khi đơn giản hơn nữa, chỉ cần mấy tiếng “cuối năm” ai<br />

đó thốt ra giữa khi chiều đang rưng rưng sắp tắt mà<br />

chân đang bước lỡ một độ đường, bao nhiêu đó thôi<br />

cũng đủ lảm động đậy đôi cánh mỏng đang thúc thủ,<br />

chấp chới bay lên và xô dạt chao đảo cả những tâm hồn<br />

đã từng phen gió bụi. Cái tình quê cay như gừng như<br />

quế, mặn như muối nồng như ướp tiêu thấm sâu trong<br />

tận cùng xương tủy, óc não, tim gan ... có khi nó loảng ra<br />

nhẹ nhàng như sương như khói, bãng lãng như có như<br />

không, có khi quánh đặc như mạch nha kẹo dẻo nhùng<br />

nhằng nhủn nhẳn không chừng không đỗi, tưởng như<br />

dính không chặt mà lại bứt không rời ... Khổ một nỗi,<br />

người ta càng lơ là thì nó càng đeo đuổi trêu ghẹo, y<br />

như bóng chơi đuổi bắt với hình. Ngày qua ngày, tháng<br />

theo tháng, năm tàn năm, cái bóng quê hương lấp la lấp<br />

lửng có đó mà như khuất mặt, chấp chới chực chờ bên<br />

cạnh một niềm vui, trong cuối một nỗi buồn và chắc<br />

chắn, trong một lúc không ngờ nhất, sẽ chường cái bộ<br />

mặt thảm sầu của nó ra trong một ngày cuối năm, một<br />

ngày đầu năm ... khi chân còn đang lỡ bước giữa một độ<br />

đường lữ thứ.<br />

Vậy đó em. Trong suốt con đường lưu lạc tìm đất sống<br />

hơn ngàn năm của nhân loại đã có bao nhiêu lần dòng<br />

đời đang bương chảy bỗng nhiên bị khựng lại, một giây,<br />

một phút, một thoáng ... chỉ vì bất chợt người ta nhận ra<br />

91


... dấu dạng một quê hương. Một thoáng thôi cũng đủ<br />

làm buồn một đỗi. Từng chút đó thôi nhưng sẽ làm<br />

người ta ray rứt hoài hoài. Tôi nhớ đã có lần kể em nghe<br />

chuyện của hai chàng du tử, mãi vui đường mà lạc cảnh<br />

tiên, tưởng sẽ sung sướng ở cõi đào nguyên, nhưng rồi<br />

ai đời lại cứ nhong nhóng đòi về trần. Cái trần gian của<br />

họ, thật ra cũng chẳng có ý nghĩa triết lý gì hết mà chỉ là<br />

quê nhà của họ đó thôi em. Cái cõi quê mùa luộm<br />

thuộm, người ngợm lôi thôi, nẻo đời trắc trở mới chính là<br />

quê hương đích thực của kiếp người. Người ta chỉ thấy<br />

an lòng ở giữa đồng loại. Cũng như chúng ta vậy thôi.<br />

Chúng ta cũng chỉ là mấy chàng Lưu Nguyễn lạc lối thiên<br />

thai nên lòng trần cứ bức rức, uống nước suối tiên trong<br />

vắt mà cứ thèm thuồng con nước đục phù sa, coi điệu<br />

múa nghê thường lại thấy lòng cứ vấn vương mấy câu<br />

hò thôn dã. Nhưng biết làm sao hơn khi túi nhau ta đã lỡ<br />

chôn dưới gốc một cội tre già thì cả đời ta sẽ mắc míu<br />

hoài với mấy nhịp cầu tre lắt lẻo. Chỉ chừng đó thôi cũng<br />

đủ làm lòng ta thắc thẻo rồi em. Mặc dầu ở xa, tôi cũng<br />

biết em buồn ra sao. Bởi vì nỗi buồn của em cũng chính<br />

là nỗi buồn của tôi, từ hơn mấy chục năm nay.<br />

Em biết đó có ai đếm được nỗi sầu đâu em. Vậy mà mấy<br />

ông thi sĩ vô danh hồi xưa cứ giả bộ như rành rọt lắm.<br />

Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu. Làm như mỗi<br />

một nhịp cầu là chừng ấy lần sầu. Làm như mình có thể<br />

hỏi thăm nhau một cách rạch ròi như vậy chớ bữa nay<br />

em sầu bao nhiêu nhịp. Vậy chớ mấy bữa nay em nhớ<br />

nhà dài bao nhiêu dặm. Khổ một nỗi là giữa chúng ta và<br />

92


quê hương có chiếc cầu nào đâu mà đo dài đo ngắn.<br />

Giữa chúng ta và quê nhà có khoảng cách nào đâu mà<br />

tính được thiên lý đây em. Bởi vì thật ra cái ngàn trùng<br />

đó nằm ngay chính trong lòng ta. Ôi tấm lòng xa cách<br />

lớn rộng hơn trời biển làm sao dang chân ra mà thâu<br />

ngắn lại đường dài.<br />

Mùng ba tết năm ngoái, ngồi trơ trọi một mình nhìn<br />

mâm cúng tất nấu dọn sơ sài sao tôi thấy buồn quá đỗi.<br />

Cho tới chừng nào chúng ta mới ăn được một cái tết vui<br />

vầy. Nhắp ngụm rượu thừa tôi viết mấy câu thơ, dẫu tết<br />

mà nghe cay đắng lắm em :<br />

Rồi tết qua đi, buồn ở lại<br />

Quê nhà xa huốt một đường bay<br />

Rượu xuân sao bốc mùi quan ải<br />

Để thấy xa thêm những dặm dài<br />

Vậy đó em. Mấy chuyến bay hình như vẫn bay qua bay<br />

lại nhưng đâu phải vậy mà nối được lòng ta với quê<br />

hương. Khoảng cách đâu còn là không gian nữa. Khoảng<br />

cách chính ở lòng ta đó. Đâu phải chúng ta ruồng bỏ<br />

một quê hương nghèo nàn, chúng ta chỉ không thể chấp<br />

nhận một chế độ bất nhân vô đạo. Làm gì mà mấy chục<br />

năm sau khi bức tử một quốc gia, cướp đoạt cả linh hồn<br />

một dân tộc, với tất cả oai quyền tột đỉnh sinh sát trong<br />

tay mà họ không dựng dậy được một quê hương đủ<br />

sánh vai cùng thiên hạ. Kẻ thù như họ đã rêu rao không<br />

còn một mống ở đó. Những kẻ-bị-chối-bỏ đã tống khứ<br />

ra biển dữ. Đất nước thâu về một mối nắm gọn trong<br />

93


tay. Bao nhiêu vốn liếng có sẵn trong nước cộng với bao<br />

nhiêu tiền bạc của đám con tha phương cầu thực bị bắt<br />

chẹt gởi về nuôi cha nuôi mẹ, rồi cả cái mớ đô-la muối<br />

mặt ngửa tay xin xỏ khắp cùng thế giới ... mà không cứu<br />

nỗi một đất mẹ tang thương. Đến lúc ngay cả những kẻ<br />

dễ dãi nhất hoặc khờ dại nhất ngoại trừ bọn đồng lỏa<br />

cấu kết cũng phải nghi ngờ sự lương thiện của mọi kẻ<br />

cầm quyền ở bên đó. Họ làm gì mà sau khi giết chóc tàn<br />

phá để cướp cho được trọn phần đất nước, mấy chục<br />

năm sau mà đất nước vẫn èo uột như con bệnh nan y<br />

bất trị, và con người, đại đa số con người ở đó vẫn gầy<br />

héo như từng niềm tuyệt vọng.<br />

Vậy đó em, chúng ta không trốn chạy một quê hương<br />

nghèo đói. Chúng ta chỉ không thể thỏa hiệp với một<br />

chế độ bất công, độc đoán, miệt thị giá trị con người và<br />

phỉ báng truyền thống nhân ái của dân tộc, và thêm nữa<br />

... bán nước đợ dân ...<br />

Vì vậy mà giờ này chúng ta không có một chỗ đề về,<br />

chúng ta phải đón thêm một cái tết trong dáng vẻ thờ ơ<br />

của người và trời đất quanh đây. Tôi biết em buồn lắm.<br />

Tôi biết em hờn em tủi. Tôi biết nhiều người Việt đã ứa<br />

nước mắt trong đêm qua, sáng hôm nay khi thấy mình<br />

thêm một lần lỡ hẹn với quê hương. Tuy nhiên chúng ta<br />

có làm khác được đâu em. Chúng ta đã chọn tự do làm<br />

lẽ sống thì chuyện sinh ly chỉ là một cách thế chẳng đặng<br />

đừng. Sự chọn lựa nào cũng có mất mát. Ăn miếng cơm<br />

nhờ chúng ta còn biết hổ thẹn thì làm sao chung đụng<br />

với những kẻ chỉ biết ăn chặn miếng cơm đói của người<br />

94


đồng chủng. Có khóc bữa hôm nay chúng ta vẫn còn<br />

may mắn hơn ngàn lần bạn bè chúng ta còn khóc hận<br />

từng ngày, ở đó. Bởi vậy hãy khóc cho nguôi đi em rồi<br />

lau khô nước mắt. Giọt lệ ly hương dẫu sao vẫn là giọt lệ<br />

chung tình. Chúng ta khóc nhớ vì chúng ta thương tiếc<br />

lắm. Chớ em thấy đó, còn rất nhiều kẻ sống ngay tại<br />

chính quê hương mình mà vẫn đành lòng ghét bỏ quê<br />

hương.<br />

Xin cho tôi được khóc cùng em những giọt nước mắt<br />

nghịch thường này<br />

95


tranh CAO HÀNH KIỆN


Thương nhớ<br />

huyền-trân<br />

Khi Huyền Trân gá thân lấy đất đâu biết mình vừa làm<br />

một cuộc hoán đổi quá sức dị thường. Sử không chép lại<br />

những cuộc thương-thuyết-mật-đàm ngã giá nhùng<br />

97


nhằng nhủng nhẳng ra sao. Chỉ biết sau khi nàng bước<br />

xuống thuyền hoa vào Đồ Bàn thì lãnh thổ Đại Việt rộng<br />

thêm vài ngàn dặm vuông về phía nam.<br />

Hai châu Ô Lý vuông ngàn dặm...<br />

Sử lại càng không nói gì hết đến cái đêm động phòng<br />

vương giả. Không biết nàng có được các cô cung nữ<br />

Chàm đua nhau tắm gội bụi cát đường xa bằng nước<br />

giếng ướp hoa lài hoa sứ, xông tẩm trầm hương quế<br />

mộc, chải tóc bằng lược ngà cài trâm bằng sừng tê giác<br />

hay không ? Và cái ông vua họ Chế sửa soạn mình mẩy<br />

ra sao. Sử không nói gì hết đến cái đêm giường loan<br />

chiếu phụng. Chỉ biết sau đó, trong dân gian nẩy ra tiếng<br />

chắc lưỡi nghe mà xót ruột.<br />

Tiếc thay cây quế giữa rừng.<br />

Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.<br />

Đã sang đầu thiên niên kỷ thứ ba rồi, chúa đã rao giảng<br />

nhân ái đâu từ hơn hai ngàn năm nay, tuyên ngôn nhân<br />

quyền nhân bản đã được yết thị kêu rêu khắp hang cùng<br />

ngỏ hẻm thì cũng không dại gì mà đi nói đến cái chuyện<br />

có thể bị kết tội là kỳ thị chủng tộc. Mà điều không nói<br />

thì lại cứ thấy tưng tức làm sao.<br />

Thử nghỉ coi, tấm thân lá ngọc cành vàng, nếu không<br />

chim sa cá lặn thì chắc cũng nguyệt thẹn hoa nhường.<br />

Mà nếu chim hoa trăng cá không chịu thua thì những<br />

98


con tim son trẻ của các bậc vương tôn công tử, mấy tay<br />

phong lưu mã thượng, cái đám tài-tình-thiên-cỗ-lụy nơi<br />

đất thần kinh văn vật chắc cũng đã hơn một lần rụng rời<br />

thua thiệt. Ai đâu không biết chớ hỏi thử cái ông Thượng<br />

tướng Trần Khắc Chung thì chắc biết.<br />

Cái mối tình vừa tầm đúng cỡ đó không biết ráp lại từ lúc<br />

nào và trên những hành lang thăm thẳm của cấm cung<br />

đã có gì là kỷ niệm hay không nhưng chắc không ít thì<br />

nhiều cũng làm vừa lòng thế gian. Người quốc sắc phải<br />

gặp kẻ thiên tài. Vậy đó. Khỏi bàn cải lôi thôi. Khỏi hít hà<br />

tiếc rẻ.<br />

Vậy mà không. Chuyện đời lại tréo ngoe đến đỗi. Cái<br />

cuộc sinh tồn ăn nên làm ra của dân tộc Việt nó quan<br />

trọng đến nỗi phải đem so đo rừng quế Chiêm Thành<br />

trên gò đào gái Việt.<br />

Lấy thêm ngàn dặm đất mà không gãy một đầu thương<br />

mẻ một mũi kiếm chắc ai nấy đều bằng lòng. Tuy nhiên<br />

có ai nghe được tiếng kêu thương của da thịt kiêu sa<br />

trong cuộc chung chạ đó. Chiều chiều mây phủ Hải Vân. Chim<br />

kêu ghềnh đá gẩm thân em buồn. Đến bây giờ gẩm lại cũng<br />

còn buồn lây... Không phải buồn vì cái chuyện trai Hời<br />

gái Việt. Nếu đã yêu nhau thì nói chi đến màu da trắng<br />

đen vàng đỏ. Rồi còn ba cái thứ ngôn ngữ ông-nói-gàbà-nói-vịt<br />

thì có sá chi. Người ta còn thiếu gì cách để mò<br />

mẫm vào đời nhau sâu sát hơn nhiều. Buồn là buồn cái<br />

chuyện mưu mô đem tấm thân đàn bà con gái ra đánh<br />

đổi giang sơn. Cả nước từ vua quan đến sĩ thứ không<br />

biết nghĩ sao lại hè nhau dựa vào một tấm hường nhan<br />

99


mỏng dánh. Từ Chiêu Quân đến Huyền Trân cũng vẫn y<br />

tấn tuồng cũ. Có nghe ra không những giọt nước mắt tủi<br />

hờn.<br />

Hai tuần trước một người bạn về từ Đài Loan ghé thăm<br />

kể chuyện những nàng huyền-trân thời mới. Từ nhiều<br />

năm nay, những cuộc mua bán gái Việt sang làm vợ ( vợ<br />

bé, vợ lẻ, vợ nhỏ... ) cho những ông tàu góa bụa, những<br />

anh con-trời ế ẩm, tật nguyền... rất thịnh hành theo đúng<br />

truyền thống thê thiếp Trung Hoa. Nhất là những gái<br />

quê nghèo nàn dốt nát. Thịnh hành đến nỗi có cả những<br />

agence chuyên lo mai mối ăn công. Người bạn dường<br />

như xúc động lắm trước nỗi cay đắng ê chề khi thực tế<br />

đã xảy ra không đúng như lời rao bán và từ đó là mối<br />

sầu tha hương dằng dặc. Chiều chiều mây phủ Đài<br />

Loan... Cô gái quê thay cha thay mẹ gánh trả món nợ đời<br />

bằng cái vốn liếng xác thịt. Tệ hơn nữa đôi khi còn bị<br />

trao đổi như một món hàng thừa thãi. Từ lúc nào, ở Việt<br />

Nam, cái chuyện bán vợ đợ con trở thành thời thượng.<br />

Người đời sau nghe kể chuyện Huyền Trân với tấm lòng<br />

thương vay khóc mướn. Người đời nay nghe kể chuyện<br />

gái Việt sang Tàu có thêm một chút bứt rứt hổ thẹn.<br />

Nhưng thử hỏi có ai đau được cái đau của những tấm<br />

thân bị chiếm đoạt dẫu có thuận lòng với bất cứ lý do<br />

nào thì cũng không phải vì lý do tình yêu.<br />

Mấy tháng trước trên một số báo Văn có đăng một<br />

truyện ngắn của Phạm Thị Ngọc Liên, Đồi hoang, đọc<br />

100


xong mà muốn đổ mồ hôi hột. Truyện kể một người đàn<br />

ông tàu tàn tật, xấu xí và bị bất lực tình dục. Anh ta bỏ<br />

phế đời mình ở một xó núi hẻo lánh. Hay chính cuộc đời<br />

đã phế bỏ anh ta với tất cả sự khiếm khuyết bất hạnh đó.<br />

Cái khao khát duy nhất của người đàn ông cô độc là<br />

được biết một lần thế nào là hạnh-phúc-oà-vỡ trên mình<br />

một người đàn bà. Và cách thức duy nhất để thoả mản<br />

cơn ẩn ức tình dục đó (sau khi đã bị nước non làng xóm<br />

xung quanh chê cười tránh né) là mượn người em trai tốt<br />

mã giả dạng khách thương sang VN cưới (mua?) gái VN<br />

về làm vợ. Khung truyện là cái khoảng tối ẩm đục của<br />

sinh lý bị dồn nén và trên đó là số phận của cô gái cô thế<br />

bị đóng đinh trần truồng trên thập giá của một thời đại<br />

kỳ cục. Cô gái VN biến thành vật thí thân cho một kinh<br />

nghiệm dục tình nghe ra không phải là không tội nghiệp<br />

nhưng cũng không phải là không cay đắng.<br />

Dĩ nhiên không ai khờ dại đến nổi đi tin tiểu thuyết là<br />

hoàn toàn sự thật. Và cũng không ai ngây thơ đến độ<br />

nghĩ rằng tiểu thuyết là trăm phần hư cấu. Nhưng mà<br />

một phần trăm sự thật cũng đã là điều đáng suy nghĩ<br />

phải không ?<br />

Từ cái chuyện Huyền Trân đời Trần đến chuyện huyềntrân<br />

thời nầy có khác gì nhau đâu. Cũng vẫn là một cuộc<br />

đổi chác không fair play chút nào. Một đằng cầm chuôi<br />

một đằng nắm lưỡi. Trước sau gì người đàn bà vẫn chịu<br />

phần thua thiệt. Ai đời chỉ có một nhúm thanh xuân mà<br />

cũng phải đem ra hạ giá rao bán cho đành.<br />

101


Nói lòng vòng rồi bỗng nghĩ đến ta. Hơn hai mươi mấy<br />

năm bỏ nước đi ở đậu xứ người có thiếu gì những<br />

huyền-trân. Cả một đám lưu lạc có mấy ai chọn được<br />

cho mình nơi gá nghĩa chung thân phải đôi vừa lứa.<br />

Thiếu gì tay kiêu bạt đã bó mình lơ lơ láo láo giữa những<br />

xưởng thợ mênh mông. Thiếu gì người chữ nghĩa bề bề<br />

giả ngây giả dại đằng sau những kho hàng ám bụi. Còn<br />

biết bao nhiêu trang đài một thuở cũng đành bôi lấm<br />

tấm hồng nhan làm Mẹ mốc cho yên. Mớ tài hoa tài trí<br />

tài năng tài tình cầm bằng như hệ lụy bỏ-thì-thương-màvương-thì-tội<br />

thôi thì quên phức cho được việc cặp-rằng<br />

với lại phu thê... tiếc thay cây quế giữa rừng...<br />

Bạn xa<br />

Tháng rồi nghe bạn bị chủ Mỹ cho nghĩ việc sau gần hai<br />

mươi năm tận tụy phục vụ. Ở xa không rót được cho<br />

bạn ly rượu tống tiễn cái nghiệp ba-đấu-gạo của Đào<br />

Tiềm. Mà lại muốn ngửa mặt lên trời khóc ba tiếng rồi<br />

cười ba tiếng. Sao thấy bạn cũng lại là một thứ huyềntrân.<br />

Tài năng bạn, hào khí bạn... đem gá thân cho lũ chủ<br />

trọng tiền hơn nhân nghĩa, cho đám tư bản không biên<br />

giới thì có khác gì Huyền Trân vượt đèo Hải Vân rồi,<br />

chiều chiều nghe chim kêu ghềnh đá... lỡ mà ngó lại thân<br />

mình thế nào chẳng có lúc giựt mình mình lại thương<br />

mình xót xa.<br />

Tôi gọi em, huyền trân, đã mất uổng ngọc ngà trong<br />

cuộc sàng sẩy lừa lọc của định mạng.<br />

102


Huyền Trân ơi<br />

Huyền Trân ơi<br />

Mùa xuân rồi<br />

Giờ đây chín vạn bông trời nở<br />

Riêng có lòng ta<br />

khép lại thôi(*)<br />

(*) thơ Nguyễn Bính<br />

103


… trong số giấy tờ lụn vụn mà người thân hốt về bên nây<br />

trong chuyến về thăm nhà sau hơn hai mươi năm đi<br />

vắng, có sót mấy bài thơ ... đề năm 1968.<br />

… bữa đó, bất ngờ gặp lại tên bạn thân từ thời tiểu học,<br />

đang theo tiểu đoàn 35 BÐQ hành quân giải tỏa khu Phú<br />

Thọ Hòa, nhảy dù về chơi phố. Hai tên trạc tuổi, đứa<br />

thiếu úy, đứa hoản-dịch-vì-lý-do-học-vấn, kéo nhau vào<br />

một tiệm nước ở ngay Ngã Bảy Chợ Lớn, “bắt” chú-bachủ-tiệm<br />

chạy mua mấy lít rượu nếp than về nhậu với hai<br />

ba con khô mực và mấy trái cốc trái ổi ngâm nước cam<br />

thảo vàng lườm…<br />

… chiến tranh vào thành phố , làm màu tím bầm của<br />

rượu nếp than lảng lảng màu đỏ của rượu bồ đào rót<br />

trong chén dạ quang… khi tiếng tỳ bà đã dục người lên<br />

ngựa… làm hai đứa uống quên thôi…<br />

… say rồi làm thơ, rồi hứa sẽ chép gởi mày coi, rồi quên<br />

lửng chưa kịp gởi thì đã theo cô vợ mới cưới của nó đi<br />

nhận xác nó về…<br />

… sao hay lỡ một lời hẹn …<br />

104


ữa rượu<br />

thời chiến<br />

Gặp nhau chiều đã quá muộn màng<br />

Mời nhau bữa rượu thấy bâng khuâng<br />

Người ra tuyến trước chờ trận cuối<br />

Thân nhẹ hồ như nửa chéo khăn<br />

Ta rót vội vàng sợ nắng phai<br />

Người buồn chẳng hẹn được chiều mai<br />

Dằn ly nốc cạn cười vong mạng<br />

Rượu chảy như ngàn nổi đắng cay<br />

105


Trận đánh ngày mai chắc kéo dài<br />

Ðời vui rút ngắn nửa gang tay<br />

Áo xanh đi trận đành hanh cỏ<br />

Lòng có phân vân chuyện rủi may ?<br />

Ngày mai chết trận chửa biết chừng<br />

Uống đi chiêu niệm tuổi thanh xuân<br />

Gặp nhau rượu chợ rồi son phấn<br />

Có đáng gì đâu nhắn cố nhân<br />

Có lúc ngươi buồn đến ngẩn ngơ<br />

Nhắc chi nguời đan áo đợi chờ !<br />

Ngươi già mỗi bận nhìn xác lính<br />

Ta trẻ sao lòng chẳng mộng mơ<br />

106


Ta chẳng hẹn người đi chẳng hay<br />

Tình cờ gặp lại biết còn đây<br />

Quàng vai mà tưởng mình hạnh phúc<br />

Súng đạn cầm như mẫu chuyện dài.<br />

107


Thơ học trò<br />

thời chiến<br />

Lớp 11, 12 trường trung học Nguyễn Trung Trực ở Rạch<br />

Giá, những năm 72, 73, 74. Buổi sáng vào lớp nhiều lúc<br />

thấy những chỗ ngồi bỏ trống. Giở sổ điểm danh, lòng<br />

chợt buồn ngang khi đọc tới mấy cái tên vắng mặt. Học<br />

trò trai đứa tới tuổi bị gọi động viên, đứa về quê rồi ...<br />

mất tích ! Học trò gái ngồi lại đó, buồn xo.<br />

Em làm thơ ngại ngần đưa tôi đọc. Thơ buồn như khuê<br />

phụ oán. Đọc xong tôi cất lại, rồi quên.<br />

30 năm sau, thầy trò không gặp lại một lần. Hôm rồi tình<br />

cờ lục chồng sách cũ mà người nhà mang qua năm<br />

ngoái, bỗng thấy lọt ra một mảnh giấy ố vàng. Giấy vở<br />

học trò có những đường kẻ ô đã mờ và những giòng<br />

mực tím viết rất non tay. Chép lại mà không nhớ được<br />

tên cô học trò làm thơ năm đó.<br />

Năm nay em có còn làm thơ ? Nếu có làm chắc cũng<br />

không vui hơn năm trước !<br />

108


Tiếng đàn và người về bên bờ Cái Lớn<br />

Cũng như anh rồi một ngày bỏ phố<br />

Tôi sẽ về tìm uống giọt phù sa<br />

Hãy dành sẵn nghe anh, căn nhà nhỏ<br />

Nhìn ra dòng sông Cái lớn bao la<br />

Từ anh đi trường của mình vẫn đẹp<br />

Hoa ngày xưa thêm tím thẳ̉m ngậm ngùi<br />

Đời quanh quẩn triền miên như sóng vỗ<br />

Không gì buồ̀ n mà cũng chẳng gì vui<br />

Tôi lớn lên như anh ngày tháng cũ<br />

Bơ vơ trông ngày tháng vụt qua thềm<br />

Buồn tự hỏi rồi làm rong phiêu bạt<br />

Hay suốt đờ̀ i ngụ mãi bến bờ̀ êm<br />

109


Và anh ơi, sáng nay buồn thảm quá<br />

Tôi đứng nhìn ngơ ngác xác hoa phai<br />

Ôi sáng nay sao trùng dương lặng gió<br />

Không vọng về đây xóa tiếng bao người<br />

Tôi thèm ngủ dưới chân thềm rêu nhạt<br />

Ôm cuộc đời lạnh lẽo giữa buồng tim<br />

Không ai chắp cánh bằng lăng tan tác<br />

Hàn mất giùm tôi khe rỗng muộn phiền<br />

Hãy dành sẵn cho tôi bờ Cái lớn<br />

Với khóm lá xanh và tiếng đàn ngùi<br />

Ngày tôi về mong anh đừng han hỏi<br />

- Ngoài phố mình độ ấy có gì vui ?<br />

Em đâu đó đọc lại có thấy ngậm ngùi ?<br />

110


Trong khi chờ<br />

hoa xuyên tuyết …<br />

Mọi năm, từ giữa tháng ba trời đã dọ dẫm sang xuân.<br />

Ngày đã thôi co rút lại mà duổi dài ra theo độ dài của<br />

nắng, những tia nắng ấm láu lỉnh thụt ló như đứa bé<br />

thích chơi trò cút bắt. Tuyết trắng xóa, im ỉm trên nóc<br />

nhà, lặng lờ bên hè phố, hay lầm lì nơi bãi bờ từ tháng<br />

mười hai năm trước cũng rắp ranh chuyển động, mặt<br />

tuyết răn răn như xủi tăm rồi rỉ rả tan ra chảy lon ton<br />

xuống mái hiên, chảy rúc rích vào cống rảnh. Vài ba con<br />

én nhỏ, trốn chui trốn nhủi đâu đó mà mất biệt từ mấy<br />

111


tháng nay cũng háo hức bay ra, liệng qua liệng lại, chíp<br />

miệng kêu chíu chít đến sốt ruột. Mấy con sóc nâu to<br />

bằng nắm tay người lớn như giựt mình thức giấc, phát<br />

chạy lăng quăng trong mấy lùm cây, dòm ngó dáo dác,<br />

rồi chun chun cái mũi nhỏ xíu hít lấy hít để chút hương<br />

mùa mới, là lạ quen quen. Mọi thứ đều như có cái gì đó<br />

chộn rộn trong lòng, chỉ chực chờ cựa dậy.<br />

Vậy đó, rồi một buổi sáng, từ trong một kè đá, một hốc<br />

cây, giữa lớp tuyết trắng phau, mịn màng hay lạo xạo,<br />

bỗng thấy nhu nhú một đốm vàng, một đốm trắng hay<br />

một đốm gì tim tím, phơn phớt như giọt sương đêm hè<br />

và mỏng mảnh như một hơi thở gượng nhẹ. Ngày một<br />

ngày hai, giọt sương hay hơi thở mà lộ rõ hình ra đóa<br />

hoa sáu cánh, úp vào nhau như một quả chuông nhỏ, lắc<br />

lư theo ngọn gió vào xuân còn lành lạnh. Hoa nở ra,<br />

chấp chới như một nụ cười nào đó, mơ hồ …<br />

Hoa xuyên tuyết, ngủ yên trong cái búp bụ bẫm suốt<br />

mùa đông, thoắt chui ra khỏi mấy tầng đất đá đặc cứng,<br />

chòi lên mấy lớp tuyết lạnh tanh để báo tin xuân đã về,<br />

nắng đã ấm, ngày sẽ vui…<br />

Vậy mà mùa đông năm nay lại không phải vậy. Cuối<br />

tháng ba rồi đầu tháng tư mà bão tuyết vẫn liên miên,<br />

hết trận này đến trận khác. Tuyết rơi từ đầu mùa, rơi suốt<br />

giữa mùa, sang đến cuối tháng tư, trời vẫn lạnh và tuyết<br />

vẫn không ngừng rơi. Rơi hoài rơi hũy. Những lớp tuyết<br />

bám ghịt vào nhau, tràn bờ cửa sổ, bít cổng chặn ngõ,<br />

phủ chật sân trước vườn sau, nghẽn cứng cả lối vào ra<br />

quanh quẩn. Tháng tư rồi mà chỉ thấy tuyết chớ không<br />

112


thấy… đất. Và hoa xuyên tuyết, thứ hoa thường đúng<br />

hẹn, tháng tư năm nay cũng chẳng thấy nở nổi nụ đầu.<br />

Lật bật rồi hết tháng tư.<br />

Lại cái tháng tư !<br />

Lại nhớ Thanh Nam và Đất Khách.<br />

Một năm người có mười hai tháng<br />

Ta trọn năm dài một tháng tư<br />

Chấp nhận hai đời trong một kiếp<br />

Đành cho giông bão phũ phàng đưa (*)<br />

Thời gian như con chim gõ kiến, cứ lách cha lách chách<br />

vậy mà làm rơi rụng hết lớp này đến lớp khác, mớ ngày<br />

tháng trơ trơ. Ngày tháng thì lại cứ như cái lớp vỏ cây<br />

sần sùi, tróc lớp này thì mọc bồi lại lớp khác, lì lợm đến<br />

độ không làm ai để ý. Lâu lâu giựt mình ngó lại, thấy cây<br />

vẫn sừng sững … để ý hơn một chút, cây vẫn sừng sững<br />

nhưng ruột thì bắt đẫu rỗng hoang… Và chúng ta, trong<br />

cái phũ phàng sinh hóa đó !<br />

Bằng hữu qua đây dăm bảy đứa<br />

Đứa nuôi cừu hận đứa phong ba<br />

Đứa nằm yên phận trong êm ấm<br />

Đứa nhục nhằn nuôi kiếp sống thừa (*)<br />

Lâu rồi đọc lại thơ Thanh Nam thấy vậy mà dường như<br />

ông là một người hạnh phúc. Trong bước đầu của cuộc<br />

sống lưu vong, giữa cái mênh mông của đất trời Bắc Mỹ,<br />

113


dường như giữa hai tợp rượu ngất ngưởng, ông còn thấy<br />

quanh ông những « đứa », mà « đứa » nào « đứa » nấy<br />

nếu không giống ông hẵn thì cũng không khác ông mấy.<br />

Đứa-cừu-hận, đứa-yên-phận, đứa-sống-thừa. Nghĩ mà<br />

thương. Thương nhưng không buồn. Kiêu hảnh nữa là<br />

khác.. Trong những thái độ sống được kể ra đó, thái độ<br />

nào cũng biểu lộ một nhân cách, nhân cách của kẻ sĩ.<br />

Vậy rồi, ông Thanh Nam mất. Thanh Nam mất nhưng<br />

thơ của ông còn đây. Chỉ có điều những người mà<br />

Thanh Nam gọi một cách thân mật và ruột thịt, gần ba<br />

mươi năm sau, những “đứa” đó càng lúc càng hiếm dần<br />

chẳng khác những loài bị xếp vào thành phần sắp-bịdiệt-chủng<br />

(espèce menacé). Mà cái số không cừu hận<br />

hoặc không còn cừu hận, không yên phận mà đã thức<br />

thời, không nhục nhằn mà đổi đời hảnh tiến thì tăng lên<br />

quá độ. Cũng y như thuyết tiến hóa của Darwin, cái gì<br />

không dùng lâu ngày sẽ bị teo tóp lại rồi có khi biến mất<br />

luôn. Tay chân lông lá kể cả lương tri. Chẳng vậy mà 30<br />

năm sau ngày chạy thất điên bát đảo, chạy trối chết,<br />

chạy bất kể như mắc một lời thề độc, bỗng nhiên rồi hè<br />

nhau quày đầu chạy quay trở lại. Cũng bất kể như khi<br />

chạy đi, vội vã, hăm hở, hung hăng, hớt hãi như bỗng<br />

thấy bên kia biển lớn hừng lên một vùng Đất Hứa. Chạy<br />

như sợ không về kịp một dịp cứu rổi, hay vuột một lời<br />

chúc phúc vậy. Hồi trước xô đẩy nhau mà chạy xuống<br />

thuyền, bây giờ xô đẩy nhau mà leo lên cầu thang máy<br />

bay… bay về chính cái nơi… cái nơi mười mươi năm trước<br />

hẵn đã có lúc hậm hực… “phải chi có cánh cũng bay phứt<br />

đi cho rồi”<br />

114


Giai thoại kể rằng, sau năm 75, có một lần nào đó… ông<br />

Bùi Giáng vác một tảng đá thiệt to đi lang thang qua<br />

phố. Thấy lạ, có người theo hỏi, ông trả lời ( mà không<br />

cười!) rằng nếu bỏ tảng đá xuống, tôi sẽ bay đi khỏi đất<br />

nuớc này đấy (sic)<br />

Câu nói của một thi sĩ mà thi ca vốn đầy ẩn ngữ lại rõ<br />

ràng như không thể rõ ràng hơn nữa về tình trạng tuyệt<br />

vọng của một nơi chốn mà cách ăn ở không còn là cách<br />

ăn ở của … con người. Bởi vậy mà người ta bỏ đi. Trốn<br />

chui trốn nhủi mà bỏ đi. Bò lê bò lết bò càng mà bỏ đi.<br />

Dắt díu nhau mà bỏ đi. Lường gạt nhau mà bỏ đi. Mọi<br />

kiểu mọi cách. Cách nào cũng bỏ đi cho được. Kề cả tù<br />

đày, sóng to, biển dữ , cướp biển, mìn bẩy, hầm chông,<br />

đồn bót, quốc doanh, biên phòng, bê hai bê tư… gì gì<br />

cũng mặc, bỏ đi như chỉ còn cách bỏ đi là phương thế<br />

cứu rỗi độc nhất và sau cùng.<br />

Hơn nửa triệu người bỏ đi rồi bỏ mạng đâu đó trên sóng<br />

nước mênh mông của biển cả hay vùi xác đâu đó trên<br />

những lối mòn hiểm hóc của rừng già.<br />

Số còn lại, tới bờ tới bến, hú hồn hú vía như… chết đi<br />

sống lại!!!<br />

Ở đậu đâu đó trên xứ người, mười năm, hai mươi năm,<br />

ba mươi năm… Người làm thầy, người làm tớ, mà thầy<br />

hay tớ gì cũng chỉ là lớp vỏ mỏng phủ khoác bên ngoài<br />

để che đỡ cho cái hồn tính VN mang theo, tránh khỏi<br />

cảnh bị dày xéo như hồi ở cố quốc. Nếu không vậy thì<br />

sao lại bỏ đi. Nếu không vậy thì hóa ra cái chuyện tranh<br />

115


sống tranh chết bỏ đi đó chẳng qua chỉ vì ba miếng thịt<br />

thừa cơm cặn ở xứ người hay sao ?<br />

Mà nếu đã vậy thì sao bây giờ lại kéo về, về lại cái nơi đã<br />

bỏ đi vì bất cứ nguyên do nào thì đến nay những nguyên<br />

do đó vẫn còn đó, y nguyên, thậm chí còn trở thành một<br />

thứ lề thói, nếp sống, như một nết «văn hóa» đặc thù.<br />

Thử đọc lại đôi dòng trong một bài viết gần đây của ông<br />

Hà Sĩ Phu có tựa đề là “Tổ quốc trước cơn liệt-khùng<br />

nhân cách”:<br />

“ Sự liệt thường được hiểu là dịu đi, xỉu đi… nhưng sự liệt<br />

này lại kèm theo một hội chứng hung hăng đầy rẫy bạo<br />

lực : chưa bao giờ người Việt lại xài vũ lực với nhau hăng<br />

như bây giờ. Hành hạ, tra tấn, chém giết nhau như cơm<br />

bữa. Những cuộc “đấu tranh không khoan nhượng, một<br />

mất một còn” này, những cuộc “phê bình bằng vũ khí”<br />

này lại không phải là đấu tranh giai cấp như Mác-Lê mô<br />

tả, mà toàn là trận chiến trong gia đình, trong nhà mẫu<br />

giáo, giữa bạn bè, thầy trò, giữa công an với dân… trong<br />

hàng ngũ cách mạng với nhau cả. Cô giữ trẻ cấm trẻ<br />

khóc bằng cách bịt miệng cho đến… chết, công an bịt<br />

miệng bị cáo giữa tòa án nghiêm trang, trò nện thầy<br />

ngay trên bục giảng, cô giáo bắt học trò liếm ghế của<br />

mình, bà là mẹ liệt sĩ mà bị cháu đánh gãy xương nên<br />

cũng thành “liệt”… sĩ luôn, nhà trường giao học sinh cho<br />

công an dùng vũ lực dạy giúp, công an tống súng lục<br />

vào miệng học sinh để hỏi cung, công an tạt tai khách<br />

qua đường hoặc đánh cho lên bờ xuống ruộng chỉ vì<br />

quên không đội mũ hoặc đi ngược chiều …”<br />

116


Có lẽ sau hết mọi bất thường vẫn được mô tả về những<br />

dinh thự được sơn phết lại diêm dúa, những miếu đình<br />

được tu bổ lếu láo, những cầu cống được bắt qua sông<br />

chưa tới bờ đã sụp, những lễ hội rình rang ngớ ngẩn,<br />

những vụ án PMU 18… những nghị quyết chống tham<br />

nhũng bằng cách may bít miệng túi áo công an cán bộ<br />

(sic), những vụ cướp đất cướp nhà đưa đến dân-oankhiếu-kiện,<br />

những… và những … không chừng cái điều<br />

mà ông Hà Sĩ Phu vừa nói ở trên mới là những vấn nạn<br />

căn bản, tận cùng. Bởi vì hơn gì hết, sức mạnh của một<br />

dân tộc chẳng những cậy vào tiềm năng kinh tế, quốc<br />

phòng… mà còn cậy vào chính những giá trị tinh thần<br />

của dân tộc đó. Không còn thứ nhân-hòa đó thì làm gì<br />

còn thứ hội-nghị-Diên-Hồng vang vang lời thề sát đát!<br />

Qua sự miêu tả của ông Hà Sĩ Phu về những đối đãi giữa<br />

người và người, sau ba mươi năm tranh sống trong sự<br />

lừa dối, láo khoét, xảo quyệt và độc ác của một chế độ<br />

bất cận nhân tình, cái còn lại là gì trong sự liên đới giữa<br />

người và người, nếu không là những móng vuốt của bầy<br />

thú dữ!<br />

Con người mà hành xử đến cạn tàu ráo máng như vậy là<br />

do đâu nếu không phải là như ông Khổng Tử đã giải<br />

thích từ mấy ngàn năm trước. Thượng bất chánh, hạ tắc<br />

loạn !<br />

Bài viết của ông Hà Sĩ Phu nhằm một mục đích khác nên<br />

chỉ đề cập đến cái mặt nổi đình nổi đám nhất của giới ít<br />

nhiều thân cận với chính quyền. Nhưng chính điều đó lại<br />

117


làm người ta nhớ tới tình cảnh của đa-số-thầm-lặng<br />

khác, không đảng tịch cũng chẳng vây cánh, không chức<br />

vụ cũng chẳng bè phái, những người dân thường sống<br />

bên ngoài cái hệ thống bao-che-kín-mít đó, giữa cái thế<br />

giới hung bạo ráo cạn nhân tình như vậy, thử hỏi nếu<br />

còn chút thiện tâm rồi sống ra sao ? Hay là nên hỏi họ<br />

đang chết ra sao ! Rõ ràng, họ đang chết đó thôi.<br />

Chuyện kể về một người làm thơ từ thời trẻ, suốt mấy<br />

chục năm sau này thơ là những giọt máu riêng tây chảy<br />

ra từ một thương tích chung của lịch sử. Điều quan trọng<br />

nhất là thơ của anh rất… thơ. Hết mười người đọc đã có<br />

chín người rưỡi khen hay (còn lại nửa người có-vấn-đề là<br />

vì… mù chữ !). Cuối đời còn ít thơ, bạn bè thương thích<br />

muốn đem in lại làm kỷ niệm. Ờ thì theo thủ tục, bạn bè<br />

làm tày khôn ôm thơ đi xin giấy phép. Phép cho in với<br />

điều kiện sửa câu này vài chữ, trang kia vài câu… Ngặt<br />

hơn nữa bài thơ này phải viết lời trần tình, bài thơ kia<br />

phải viết lời minh định, bài thơ nọ phải viết lời chú thích…<br />

rằng-thì-là... Làm như máu cũng có máu đỏ máu xanh,<br />

ba mươi năm sau cũng không nên để máu xanh lộn máu<br />

đỏ. Làm như trong thơ cũng đầy ranh giới, thứ ranh giới<br />

dính be bét máu anh em.<br />

Thơ không đọc thì thôi, thơ có đâu đem ba cái chuyện<br />

tầm phào vào bắt bẻ !<br />

Tội nghiệp người làm thơ trong thời buổi sát nhân, thấy<br />

đứa con tinh thần của mình bị người ta đòi bẻ tay bẻ<br />

chân vặn đầu vặn cổ, thậm chí còn muốn gán thêm cho<br />

118


nó một chục ông cha nuôi vừa dốt vừa ngốc nên lặng lẽ<br />

gọi bạn… xin thôi. Thôi... để ít nữa còn giữ được liêm sĩ<br />

với chính mình.<br />

Họ không “đã chết” và “đang chết” đó chớ là gì !<br />

Nhắc lại chuyện thơ thẩn chẳng qua chỉ như thêm chút<br />

muối vào cái biển mặn đã quá mênh mông của oan ức.<br />

Chớ nợ văn chương thì có thấm vào đâu với triệu thứ nợ<br />

đời còn mãi trầm luân người ở cái chỗ Soljenitsyn đã gọi<br />

là tầng-đầu-địa-ngục.<br />

Từ đó cái việc người tị nạn ở nước ngoài kéo nhau về<br />

chơi, thơ thới như đi chợ phiên quả là một điều đáng hổ<br />

thẹn hơn bất cứ một điều vô ý thức nào khác. Lý giải<br />

bằng cách nào đi nữa, thì chuyện đi về qua lại trong lúc<br />

này vẫn phải coi là một thái độ mặc nhiên chấp nhận sự<br />

thắng thế của cái Ác trong lòng một xả hội vốn dĩ đã có<br />

thời rất hiền hòa. Dù muốn dù không, cũng phải nhận<br />

rằng, nếu trước đây thế giới đã ca tụng mỗi cuộc vượt<br />

biên là một cuộc bỏ phiếu bằng chân cho lý tưởng tự do<br />

thì mỗi bước trở về bây giờ sẽ không còn lời giải thích<br />

nào khác hơn là một bước dày xéo lên lương tâm của<br />

chính mình và của nhân loại bằng chính đôi chân đã có<br />

hồi giúp cho người ta đứng thẳng lên như … CON<br />

NGƯỜI !!!<br />

Vậy thì vui nỗi gì mà về !<br />

Vâng vui nỗi gì mà về !<br />

119


Về để đi nhởn nhơ dạo phố dạo phường mà có thấy ở<br />

đằng sau những phố phường ra vẻ nhởn nhơ đó là hằng<br />

hằng bao nhiêu uất ức của những người còn cố sống<br />

lương thiện ở đó nên phải khuất mày khuất mặt.<br />

Về để dẫm lên những tấm đan tâm còn bị vùi dập giữa<br />

một xả hội bất nhân như mớ hoa xuyên tuyết còn bị<br />

chôn vùi dưới mấy tầng tuyết kín bưng.<br />

Mùa cứ đổ tuyết thêm, làm sao cho hoa xuyên tuyết trồi<br />

lên mà báo được tin xuân !<br />

(*) thơ Thanh Nam<br />

viết thêm<br />

Từ khi viết bài, kể cũng đã vài ba năm trôi qua. Thời gian trôi qua<br />

đã không làm nhạt bớt chút nào cái vẻ tối mò trong bức tranh<br />

chính trị và xả hội ở bên đó. Mà ngược lại càng lúc càng tối mịt.<br />

Còn ở cái chỗ ngoài này, thì cũng vẫn y vậy. Y như sáng hôm nay,<br />

trời đã sang xuân được mấy bữa, mà tuyết vẫn ... rơi. Rơi hoài.<br />

120


tháng tư,<br />

tháng thầm<br />

...<br />

Ờ thì tôi muốn viết một điều gì đó cho em, khi tháng tư<br />

đang lật bật sắp hết và những hàng phố quanh đây<br />

121


đang háo hức bày bàn ghế ra vỉa hè. Rồi thì trên trời<br />

những đám mây xám thôi không còn dậm dật những hột<br />

tuyết cuối mùa. Hoa xuyên tuyết đã rút ngược vào lòng<br />

đất và những đóa uất-kim-hương nở sớm, bụ bẫm như<br />

gò má bầy con nít sỗ sữa. Rồi thì những tia nắng sẽ dài<br />

hơn, trong trẻo hơn và nồng nàn hơn trên những lọn tóc<br />

thả rối, nâu sẩm, vàng hoe hay ưng ửng đỏ... Rồi thì<br />

người ta sẽ thi nhau kéo ra đường, phơi trần những cánh<br />

tay, những bờ vai, những thuôn lưng mặc kệ những con<br />

mắt suồng sã... Những cặp tình nhân sẽ ríu rít như chim,<br />

thả lang thang hay ngồi lơ mơ quanh những bàn cà-phê<br />

để nói huyên thiên hay để không nói gì hết. (nói gì nữa<br />

khi người ta đang có nhau trong mắt trong tay và nhất là<br />

trong tấm lòng đang vui như mở hội )... Chiều qua tôi đã<br />

thấy cặp bồ câu trắng trở về đậu lại trên nóc nhà thờ đỏ<br />

ở cuối con dốc có hàng cây bạch dương đang nhú lá<br />

xanh non, phải là cặp bồ câu từ năm trước hay chỉ là một<br />

lứa đôi mới bạn bầy, rủ rỉ rỉa lông rỉa cánh cho nhau, như<br />

xuýt xoa lắm về cái mùa đông vừa hậm hực bỏ đi...<br />

Vậy thì còn điều gì để nói về cái tháng tư sắp sửa đi qua,<br />

khi lòng tôi lại cứ loay hoay với những hồi tưởng buồn<br />

bã...<br />

Ờ thì có nhiều điều muốn nói, rất nhiều điều, dù tôi biết<br />

có nói triệu điều cũng không thay đổi được gì nữa......<br />

(dù từ đầu xuân năm ngoái, trong cái chộn rộn của trời<br />

đất chuyển mùa, tôi đã hứa với em, như hứa với chính<br />

tôi, sẽ rất biết điều với mọi sự đổi thay )<br />

122


Vậy là tôi lại lần nữa thất hứa với em. Thì thôi có hề gì<br />

những lời hứa đâu em. Như chính cái tháng tư và những<br />

bội phản của nó.<br />

30-4-1975/ 30-4-2004<br />

hai mươi chín năm.<br />

Buổi sáng tháng tư này, sao bỗng nhiên tôi phát giận vu<br />

vơ. Ở bên kia đường, chỗ có một góc công viên nhỏ,<br />

những người làm vườn của thị xả đang hốt dọn rác rưới,<br />

gom quét lá mục, cắt tỉa nhánh khô, sửa sang mấy sợi<br />

giây đu cầu tuột. Họ làm một cách nhẩn nha, chậm rãi,<br />

vừa làm vừa hút thuốc, lơ đãng đến độ mấy con sóc nhỏ<br />

cũng chẳng thèm để ý tới, cứ thập thò nhảy nhót ra vào<br />

mấy lùm cây vạn niên thanh. Không khí gây gây mùi<br />

tuyết tan, lẫn trong mùi cỏ chết, mùi đất cũ dậy hơi ủ<br />

mốc lâu ngày cộng thêm mùi nhựa non hơ hớ như cứ<br />

chực trào ra khỏi kẽ lá. Vậy mà tôi phát giận vu vơ. Vu vơ<br />

đến nỗi không hẵn là cơn giận. Dường như là một nỗi<br />

cay đắng thì đúng hơn.<br />

Đêm hôm trước tôi mới nói chuyện với người anh ruột<br />

đã gần 70, nguyên là môt sĩ quan của quân đội miền<br />

nam, đã chiến đấu như một chiến-sĩ, tù tội như một kẻsĩ,<br />

và gần hai mươi năm nay, trên phần đất chạy chết<br />

ông đã sống như một nhà tu cấm phòng. Mọi thở than,<br />

trách móc, đổ thừa, biện giải, phân bua, đều không cần<br />

123


thiết... Trong đêm, ở bên kia đường giây viễn liên, ông đã<br />

đọc cho tôi nghe mấy câu thơ của Alfred de Vigny, giọng<br />

đã thầm nhưng tiếng còn đãi trọng từng chữ.<br />

À voir ce que l'on fait sur terre et ce qu'on laisse<br />

Seul le silence est grand; et tout le reste est faiblesse<br />

Seul le silence est grand. Chỉ có sự im lặng là lớn lao.<br />

Thì chính vì cái IM LẶNG LỚN đó, buổi sáng tháng tư<br />

này, tự nhiên tôi thấy mình bèo bọt đến phát giận.<br />

Không, chua xót thì đúng hơn. Anh em tôi, bạn bè tôi,<br />

những con chốt sang hà của cái bàn cờ thí.<br />

Tôi sẽ nói gì thêm với em, buổi sáng tháng tư này, trời<br />

xanh cao trong vút, chim chóc tung hê cánh lượn, cây cối<br />

hoa lá tung hê nhựa sống, đường phố quét dọn sạch<br />

trưng... và tôi, tôi thì thúc thủ như một tên du thủ hết<br />

thời ( đã có lúc tôi thèm hết sức được đập phá tung hê<br />

hoặc ít nữa được bắt chước một nhân vật của Kim Dung<br />

để ngửa mặt lên trời mà xắn xả ... lão-tặc-thiên ! ) Nhưng<br />

để làm gì em hả, những lời than van, cầu khẩn hay<br />

nguyền rủa...<br />

Có còn lại không, sau hết, cũng chỉ là tiếng kêu thống<br />

thiết trong cái im ỉm bí ẩn của kiếp người.<br />

Tôi sẽ nói gì thêm với em sau buổi nói chuyện sáng hôm<br />

nay với người bạn viết văn ở một thành phố nhỏ bên rìa<br />

Nữu ước. Từ nhiều năm nay, ở xứ người, ngay trong sự<br />

hạn chế đến tội nghiệp của sinh hoạt nghệ thuật lưu<br />

124


vong, anh vẫn tiếp tục xông pha giữa trường văn như<br />

con ngựa chứng của thời tuổi trẻ xông pha giữa trận<br />

mạc. Viết văn, làm thơ, in ấn... mặc kệ vó câu đã có triệu<br />

chứng chùn mỏi của một con ngựa già ở cuối những<br />

dặm hành. Mặc kệ cái đời sống cùn mằn quanh quẩn,<br />

ngày đêm sớm tối giữa phố xá ì ầm và tiếng đời ì xèo,<br />

giữa những tranh sống ti tiện và những tranh cãi chí<br />

chóe, anh vẫn cưởi hồn-thiên-lý-mã... Sao sáng hôm nay<br />

tự dưng tôi nghe ra đằng sau giọng cười khinh bạc đó,<br />

một chút gì đó, não nề. Tại có sự trùng hợp bất ngờ của<br />

ngày tháng ? Tại tôi tưởng đã quên mà vẫn nhớ ? Hay tại<br />

cái hình ảnh so sánh tình cờ mà sao hiện thực quá đổi?<br />

Ờ thì những con ngựa ! Những con ngựa đã tung vó câu<br />

mãi miết qua cánh đồng thanh xuân mình, bất kể. Những<br />

con ngựa đã nám mình qua vòng gai lửa, đã phỏng<br />

móng trên những bãi chiến ngút khói, đã bị tròng xiềng<br />

xích trong những chuồng giam hôi thối ...và đã hơn một<br />

lần, hất tung hai vó lên trời hí tiếng oan khiên.<br />

Em thấy không, còn cái hình ảnh nào bi tráng hơn, để<br />

nói về những người anh của tôi, những người bạn của<br />

tôi, trang lứa tôi trong buổi sáng tháng tư này ?<br />

Ở trong tận cùng niềm im lặng lớn đó, em có nghe<br />

chăng tiếng hí thảm thiết của bầy ngựa Hồ mỗi kỳ cơn<br />

bấc thổi.<br />

29 năm. Thời gian đã đủ lâu để xếp lại một trang sử, dù<br />

đó là trang oan ức nhất của suốt dòng lệ sử. Người ta đã<br />

kể với tôi về những mồ mã bị đào xới, những thương<br />

phế bị bạc đãi và hàng triệu điều oan ức khác, ở đó.<br />

125


Những chuyện nghe ra chỉ biết ngậm ngùi về giá trị của<br />

một chiến thắng !<br />

Ở đây, người ta đã kể, đã viết, đã phân tích, đã giải bày...<br />

chiến lược chiến thuật chính trị xả hội ... đủ thứ bởi-tạivì....<br />

Có triệu điều đã nói... nhưng có điều nào nói đến<br />

chưa cái niềm-im-lặng-trầm-thống của bầy ngựa già thất<br />

tán đang phóng mình vào những dặm chót của cuộc lữ<br />

đoạn trường.<br />

Ở đằng sau những vinh quang và tủi nhục, ở đằng sau<br />

những cái chết và những phế tật, ở đằng sau những con<br />

số thống kê cộng trừ nhân chia... còn bao nhiêu điều<br />

không đếm được. Sẽ không bao giờ đếm được những<br />

vết thương chưa từng chảy máu, những vết thương tâm<br />

linh còn đó, đã không lành.<br />

Những người lính Mỹ, sau hai cuộc chiến ngắn hạn ở<br />

vùng vịnh, trở về nước với vòng hoa chiến thắng đã hô<br />

hoán lên về những cơn ác-mộng-hậu-chiến. Thử nghĩ<br />

đến những người lính đã chiến đấu đến già đời trong<br />

một cuộc chiến nhùn nhằn, năm này sang năm khác, mọi<br />

phản ứng tâm sinh lý đã bị chiến-tranh-điều-kiện-hóa...<br />

cộng thêm với thời gian tù đày không bản án trong<br />

những trại giam khổ sai... cộng thêm cuộc sống vất<br />

vưởng khi trở về lại trong một xả hội đã đổi chủ... cộng<br />

thêm sự ngỡ ngàng khi tìm sang đất mới lúc tuổi đời<br />

không còn trẻ nữa, sức lực trí óc đã tàn phai. Thử nghĩ<br />

đến... thử nghĩ đến...<br />

126


Trong tác phẩm Exodus của Léon Uris, có một nhân vật...<br />

thằng bé Do Thái gốc Ba Lan lẩn trốn một mình dưới<br />

những cống rảnh của thành phố Varsovie sau khi chứng<br />

kiến tận mắt cảnh toàn thể cha mẹ anh em thân quyến<br />

bị bắt và đưa vào lò thiêu... một mình, mười mấy tuổi,<br />

đói, rét, xanh xao, gầy gò, lẩn lút như một con chuột ban<br />

ngày chui rúc trong những lỗ hang ẩm ướt hôi thối, ban<br />

đêm ló ra lục lọi thức ăn trên những bãi rác mênh mông<br />

của thành phố... vậy đó suốt cuộc chiếm đóng dằng<br />

dặc... bao nhiêu ngày ? bao nhiêu đêm?... rồi nó được<br />

giải cứu... khỏi cái nhà ngục kẻm gai và hầm hố nhưng<br />

không khỏi cái nhà ngục tâm linh. Nó mắc một chứng<br />

bệnh lạ... bệnh buồn. Mọi cố gắng chữa trị ( sinh lý, tâm<br />

lý ) đều vô hiệu... Bệnh buồn. Càng lúc nó càng chìm sâu<br />

vào một nỗi buồn kỳ lạ... Nỗi buồn như một rào chắn vô<br />

hình ngăn cách nó với thế giới chung quanh. Tệ hơn nữa,<br />

nó chỉ thấy an bình trong cái cõi quạnh hiu của riêng<br />

nó... Bệnh buồn.<br />

Tôi đã gặp những người lính già, buổi sáng buổi trưa<br />

buổi chiều buổi tối nơi những quán cà-phê lề đường,<br />

đâu đó giữa một góc phố lạ, ngồi một mình hay năm<br />

bảy, lơ đãng ngó trời đất hay chuyện trò nọ kia... mà làm<br />

gì đi nữa, từ trong con mắt lạc thần, vẫn còn nguyên<br />

đó... một nỗi buồn.<br />

Tôi đã gặp những người lính già, ban ngày thở dốc lê lết<br />

trong những xưởng thợ ám bụi, ban đêm gò mình trên<br />

127


những phiếm chữ gỏ lốc cốc những hoài niệm những<br />

vọng tưởng những thê thiết cũ những tha thiết mới... để<br />

gởi đi... gởi đi đâu...<br />

Buổi sáng tháng tư này em, những sợi giây tơ giữa lòng<br />

tôi bỗng chùng điệu oán.<br />

Không phải ai cũng muốn mang lấy cho mình nghiệp<br />

chướng. 29 năm chừng đủ chưa sau khi đã tự nhận lấy<br />

phần trách nhiệm của mình trong cơn đọa lạc chung. Imlặng<br />

hay lên-tiếng-ngay-thật cũng chỉ là sự chọn lựa<br />

cuối cùng rất trân trọng của kẻ sĩ trầm luân. Có điều<br />

đáng nói là giữa cái thế giới thờ ơ đến lạnh tanh đây đó,<br />

mọi sự xem như đã an bày đến đáng ghét. Những ngày<br />

những đêm đối lòng diện bích hay trải lòng nhỏ máu ra<br />

năm đầu ngón tay, anh em tôi bạn bè tôi càng lúc càng<br />

thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câm nín thì đã đành. Mà<br />

lên tiếng rồi cũng chỉ như nói giữa thinh không. Đã có<br />

mấy ai chạnh lòng thấm khô cho những giòng hãn mã.<br />

Ta sống sót nghĩ thương trời đất rộng. Giữa triều lên,<br />

giáp nước, quạnh hiu dầy. Ngó quanh quất, bỗng tuôn<br />

hàng lệ mỏng. Còn ai không, ngồi nhắc chuyện thề phai.<br />

Thật ra tôi có muốn làm buồn lây em đâu, em và cái tuổi<br />

lưng chừng, gạch nối giữa đám trẻ lớn lên thành đạt ở xứ<br />

người, xa lạ với chính cội nguồn của họ. Và đám cha chú<br />

đã đánh mất tuổi trẻ ở xứ mình, lại quá quen thuộc với<br />

những gì đã bỏ lại.<br />

128


Nhưng ít ra, ít ra em cũng có nghe được tiếng vó câu<br />

buồn bã đó, phải không?<br />

Thì cũng xin cám ơn em, buổi sáng tháng tư này.<br />

Hãy phóng nước đại tiếp đi những con chiến mã bất<br />

kham, mặc kệ cái nẻo hư vô chờn vờn trước mặt.<br />

30-4-1975<br />

30-4-2004…<br />

... 30-4-2008<br />

… thêm năm ba năm nữa…<br />

rồi bao nhiêu năm nữa…<br />

vẫn đi về<br />

lừng lững<br />

những chiếc bóng lẻ loi…<br />

............................................<br />

............................................<br />

... 30-4-2016.......................<br />

?????????<br />

!!!!!!!!!!!!<br />

...30-4-2017<br />

30-4-2018 .........<br />

?<br />

129


tháng năm<br />

ở Cali...<br />

Khi tôi tới Cali lần này mùa xuân đang hồi diễm lệ. Con<br />

đường One-O-One (gọi theo người ở đây) ngược lên<br />

hướng bắc chạy vắt qua những đồi cỏ mượt, leo những<br />

đoạn đèo loáng thoáng sương mù như thứ hơi thở váng<br />

vất của tình nhân đánh thức nhau buổi sớm. Cảnh vật<br />

lãng đãng màu tranh thủy mặc. Người qua đó lòng cũng<br />

130


nhẹ bâng. Ngày lên hay ngày xuống mà đời bỗng thôi<br />

huyên náo. Thử nghĩ trên một chót đỉnh cô phong, một<br />

cội tùng đã cỗi... Dưới xa những lũng thấp mở ra, ăm ấp<br />

lượng bao dung... Khí trời thong dong làm nhớ đến giấc<br />

mơ Tăng Nghi và lòng ràn rụa mối thâm ân trời đất.<br />

Những cơn mưa dầm của mùa-đông-mới-đó đã thay<br />

hẵn bộ mặt rám vàng của Cali trong trí tưởng. Mùa này,<br />

cây cỏ hoa lá mặc tình. Mùa này, phố xá đông vui.<br />

Ðất đai, phong thổ Cali hẵn đãi người rất hậu. Người Việt<br />

tụ về đó từ một ngẫu nhiên giờ an bài thành định mệnh.<br />

30 năm ăn nên làm ra, chợ búa phố xá mới tinh, hàng<br />

quán nhộn nhịp, xe cộ bóng lộn và người, người ngơ<br />

ngác từ cơn thất tán, người xác xơ từ cuộc bại vong, ra<br />

vô đi lại, hân hoan tự tín và tươi rói ... như vốn sanh ra và<br />

lớn lên trên một vùng đất chưa từng có thống khổ. 30<br />

năm kể ra đủ dài cho một cuộc sống yên phận thủ<br />

thường nhưng lại quá ngắn cho một cuộc đổi đời toàn<br />

diện. Lấy 30 năm làm thước đo cho đời một người bỏ<br />

chạy làm dân mất nước và một người chọn (bị) ở lại làm<br />

chủ (?) một đất nước có đầy đủ chủ quyền, đủ đề thấy sự<br />

dằng co ý thức hệ còn tới bây giờ ở đó là một hành<br />

động vừa bất trí vừa bất nhân. Sự thật đã rành rành ra<br />

đó. Cái khung chính trị để phát triển toàn diện đất nước<br />

và con người chỉ có thể là ý thức tự do chân chính. Mọi<br />

thứ giải thích lập lờ cong quẹo chỉ là ngụy biện. Và còn<br />

là một tội ác đối với nhân loại vì đã cố tình dìm chết mọi<br />

toan tính làm-người với đầy đủ phẩm tính con người.<br />

131


Ba mươi năm rồi, sự phồn vinh ở đây và ở đó cũng đã<br />

được thống kê bằng những con số. Tuy nhiên còn một<br />

thứ phồn vinh không thể cộng trừ nhơn chia, đó là thứ<br />

hạnh phúc hồn nhiên trong cái nhìn thẳng hay tiếng cười<br />

dòn, biểu hiện cho một đời sống an lành, sung mãn và<br />

tự tin vào dự phóng tương lai. Người Việt phồn vinh ở<br />

Cali khác người Việt phồn vinh (?) ở Việt Nam chính là ở<br />

chỗ đó. 30 năm đã chứng tỏ sự thật và dối trá cách biệt<br />

nhau như cái biển Thái Bình mênh mông nằm ở giữa.<br />

Mùa xuân này tôi đến Cali khi tháng tư vừa qua được<br />

mấy ngày. Trời Cali trong xanh, giữa trưa vàng hoe nắng,<br />

y như quê tôi những ngày trở hạ. Lòng thấy vui như về<br />

lại chỗ thân quen. Ghé chợ Bolsa, vào những hàng quà<br />

vặt, uống lại ly nước mía ngọt xớt, nhắp miếng bánh khọt<br />

béo ngậy, gọi tô phở với dĩa rau xanh mướt xum xuê và<br />

nhất là những lá rau cần gai cứ làm nhớ tô phở Hiền<br />

Vương những ngày sinh viên ăn phở thay cơm, húp chén<br />

nước xúp hủ tiếu Mỹ Tho dậy mùi tôm khô y như hủ tiếu<br />

lề đường Chợ Cũ những sớm mai ngai ngái mùi lá me<br />

mới rụng... Bỗng dưng thấy quê hương đầy mùi vị làm<br />

cảm động đến tần ngần.<br />

30 năm dựng lại góc quê nhà giữa một vùng đất trời lạ<br />

lẫm phải kể là một kỳ tích. Dù hàng cọ không lả lả ngọn<br />

như hàng dừa, dù bông magnolia không phơ phất như<br />

bông trang, dù kiến trúc phải thích ứng vào điều kiện<br />

phong thổ ... vẫn là một chỗ để đi đi về về của hàng<br />

triệu người Việt tha hương. Bởi vì thật ra nhà cửa phố xá<br />

132


chỉ là mặt nổi mà tâm thức Việt Nam mới chính là nỗi<br />

lòng.<br />

Little Saigon.<br />

Ðứng giữa Sài-gòn-nhỏ một buổi trưa tháng năm, bỗng<br />

giựt mình đến bàng hoàng nghe ra tiếng người gọi nhau<br />

rôm rả, rặt giọng lục tỉnh, trơn trớt một chút ngọng<br />

nghịu cứ y như buổi trưa nào đứng ăn đậu đỏ bánh lọt<br />

góc phía nam chợ Bến Thành, chỗ con đường Lê Thánh<br />

Tôn chạy qua. Chèn-ơi-đi-đâu-mà-như-ma-bắt-ông-vãidzậy-chị-năm-làm-tui-theo-muốn-hụt-hơi-hà.<br />

Ngoảnh<br />

lại, hai người đàn bà quần (lãnh?) đen bóng mướt, áo bà<br />

ba vải bông, và trên đầu, trên đầu... là hai cái nón-lá che<br />

khuất mặt vừa gọi nhau ơi ới vừa kéo nhau đi vội qua ...<br />

quá vội làm tôi không kịp nhìn rõ dưới chân có phải là<br />

hai đôi guốc dông... ?<br />

Ôi... Nắng Cali bỗng dưng mà chợt mát<br />

Bởi vì ai đội nón lá nghiêng nghiêng (1)<br />

Người Việt đến ở đâu cũng mang theo cái lối đi đỏng<br />

đảnh, cái lối nói xắn xả mà thân mật, cách giao tế lề mề<br />

nhưng ấm cúng... cùng với mớ hành ngò tỏi ớt húng lũi<br />

húng thơm tô phở chén cháo hội hè đình đám... nhưng<br />

chưa ở đâu bằng ở đây, với số lượng người đông đảo đã<br />

làm dậy lên được một thứ hơi hướm rặt Việt Nam. Ðứng<br />

ở đó, giữa trưa tháng năm Cali, thấy lại Việt Nam, lòng<br />

vui rồi chợt buồn khang.<br />

Trong một thoáng có ngón tay nào khều nhẹ vào miệng<br />

vết thương tưởng đã lành. Và bỗng chốc cái tháng tư<br />

vừa mới qua như muốn quày trở lại. Quày trở lại trên<br />

133


hàng lá cờ vàng ba sọc đỏ treo đầy hai bên những con<br />

đường chính. Người ở đây vừa mới kỷ niệm quốc hận<br />

ngày 30 tháng 4 tuần trước. Lễ lạc xong rồi. Một chút<br />

ngậm ngùi gói cất lại đợi năm sau. Những năm sau... và<br />

còn bao nhiêu năm sau nữa. Người ta phải trở lại với<br />

công ăn việc làm, bón mớm gia đình, chăm chút người<br />

yêu... Chỉ còn hàng cờ vàng bay lất phất trong gió trở<br />

chiều đã bắt đầu thấm lạnh.<br />

Vâng, thì cũng chỉ còn là những lá cờ kỷ niệm. Mà kỷ<br />

niệm nào thì không buồn nhất là thứ kỷ niệm dính đầy<br />

xương và máu. Máu của bạn và thù. Máu của niềm tin và<br />

của bội phản.<br />

Ban nãy, lần đầu tôi được viếng khu tượng đài chiến sĩ ở<br />

một góc phố Westminster..... Hai bức tượng đồng cao<br />

ngút, đường dao khắc tạc sắc lẻm, dựng thẳng đứng trên<br />

bệ cao như hai cổ tháp đen từ một bình yên phẳng nhoi<br />

lên xé toạt cái góc trời xanh ngát trong mắt người nhìn.<br />

Trưa im im. Tượng thì lừng lững bất động. Hai lá cờ thì<br />

cứ phần phật theo gió động đậy không ngừng. Sự đối<br />

nghịch hổ tương của hai thế "động" và "tĩnh" phá vở cái<br />

bố cục rất cân bằng của toàn cảnh để từ đó thoát đi cái<br />

hơi trầm uất của một giai đoạn lịch sử gần như muốn bị<br />

bỏ quên. Ngưởng mặt nhìn lên, hai bức tượng lung linh<br />

đằng sau ngọn lửa thiêng vẫn đang tiếp tục cháy trong<br />

chiếc đỉnh đồng kê chính giữa vọng đài bán nguyệt. Cả<br />

hai người lính trẻ, một Việt một Mỹ, dáng hăm hở quyết<br />

tâm, ngực ưởn như thách đố. Cả hai, trông thế đứng<br />

ngửa mặt, vai ngang, hai cặp mắt đăm đăm cùng nhìn về<br />

một hướng biểu lộ một sự đồng tình tuyệt hảo. Cả hai,<br />

134


mỗi người từ vị trí chiến đấu ở cấp thấp nhất của mình<br />

trong cuộc chiến thực sự 30 năm trước chắc cũng đã<br />

thực tâm nghĩ vậy về ý nghĩa keo sơn của tình liên kết<br />

minh thệ.<br />

Nhưng cuối cùng, lịch sử đã diễn ra trái hẵn với những lời<br />

rao giảng.<br />

Sau khi có gần sáu mươi ngàn quân lính tử trận, người<br />

Mỹ tìm mọi cách để rút chân ra khỏi cái mà họ gọi là<br />

vũng-lầy-việt-nam. Bằng mọi cách kể cả cách bán đứng<br />

những người lính đã từng cùng họ chiến đấu cho cái lý<br />

tưởng (!) mà cho tới giờ này họ vẫn còn tiếp tục tự nhận<br />

cái sứ mệnh đem truyền bá khắp nơi. Và bằng bất cứ lý<br />

do nào khi họ trả mọi giá nuôi dưởng cuộc chiến tranh<br />

đó (kể cả lý do VN chỉ là cái cớ để những đại cường<br />

thương thảo cho một cuộc xích lại gần nhau... ) thì lời<br />

nhận định sau đây của nhà văn Phan Nhật Nam trong<br />

bài viết " Ðồng Minh "không" tháo chạy" đăng trong Hợp<br />

Lưu số tân niên Bính Tuất phải kể là ráo cùng tình lý của<br />

hai chữ "đồng minh" ".... mối tương quan liên hệ giữa hai<br />

quốc gia bị so kè từng đồng bạc một. Việc so sánh 300<br />

triệu quân viện bổ sung của tháng 3, tháng 4/ 1975 đối<br />

với tồn tại của một quốc gia từng gọi là đồng minh với<br />

giá máu 58.000 mạng sống binh sĩ Mỹ ( và bao nhiêu<br />

mạng sống của người lính miền Nam? và dân miền Nam<br />

? * lời người viết thêm vào ) trong mười lăm năm chiến<br />

trận mang hình thức một lời nguyền rủa tàn tệ mà lịch sử<br />

hôm nay phải nhìn lại với mối trách cứ ngậm ngùi..."<br />

135


Ðứng ở đó, trưa tháng năm, dưới tượng đài hai người<br />

lính chết trận vô danh, ở một nơi cách biệt chiến trường<br />

cũ dài hơn độ dài của quên lãng, khi mùa xuân đang ở<br />

hồi diễm lệ, tôi tự hỏi sự hy sinh của họ (trong cái nghĩa<br />

chất phát nhất của hai chữ hy sinh) có ý nghĩa gì không...<br />

... khi mà cũng trong tháng năm này, tin tức về chuyến<br />

viếng thăm VN của nhà tỷ phú Bill Gate được đưa lên<br />

trang đầu của những tờ báo ở đó kể cả những tờ báo<br />

đang thúc giục cả nước tiến nhanh tiến mạnh lên xhch<br />

... cũng trong tháng năm, những chuyến đi đi về về từ Hà<br />

Nội qua Washington để tìm sự ủng hộ của Hoa Kỳ trong<br />

việc xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới của VN<br />

... vẫn trong tháng năm, có tin ông bộ trưởng quốc<br />

phòng Mỹ sẽ chính thức viếng thăm VN<br />

...<br />

...<br />

Giả sử như không có cuộc chiến tranh đó, mọi sự có<br />

tuần tự diển ra như thế đó không ?<br />

Giả sử như không có cuộc phản bội đó, có một Little<br />

Saigon khang trang và là niềm kiêu hảnh cho người dân<br />

Việt lưu vong không ?<br />

Và có cần không, niềm kiêu hảnh đó ?<br />

136


tháng bảy,<br />

và những ngôi<br />

trường cũ ...<br />

Tháng bảy. Tháng của bất chợt mưa đêm và lao chao<br />

cánh phượng. Tháng của trường đóng cửa và bàn ghế<br />

bỏ trống.<br />

Tháng bảy. Tháng của râm ran tiếng ve đến sốt ruột và<br />

của những trang lưu bút viết vội khi đầu óc còn bàng<br />

137


hoàng vì dư âm của khúc nhạc tạm biệt, bây giờ nghe ra<br />

ngu ngơ mà hồi đó sao xao xuyến chi lạ. Hôm nay đây<br />

còn vui trông thấy nhau. Bên tiếng ca tiếng đàn vượt trời<br />

cao...<br />

Không đâu mà bỗng dưng nhớ lại. Những mùa bãi<br />

trường tháng bảy... của một thời đã xa và ở một chỗ<br />

không còn gần nữa.<br />

Mới cuối tháng sáu, sách vở đã bị bỏ quên sau kỳ thi đệ<br />

nhị lục cá nguyệt mới vừa xong. Thầy cô còn lo chấm bài<br />

thì học trò không hẹn mà đã bắt đầu lơ là với chuyện<br />

học hành. Mà làm sao không lơ là cho được. Học trò còn<br />

bận bịu trăm ngàn chuyện khác, còn quan trọng và thiết<br />

thực hơn biết mấy cái mớ định lý với luận đề cùng những<br />

niên biểu với triều đại xa xôi như mấy cái cố sự mịt mù.<br />

Phải rồi ai mà dửng dưng cho được, khi trên trời xanh thì<br />

mây trắng cứ đong đưa, nắng thì cứ vàng hoe, ve sầu cứ<br />

kêu ra rả và lòng người ta thì chộn rộn như cái nắp vung<br />

đậy nồi xào bần ba ngày tết bị chụm lửa quá độ. Người<br />

ta đã bị o ép chín tháng trời mệt lả. Toán, lý hoá, văn<br />

chương, sử ký, địa lý... toàn là thứ cũ mèm khô hóc trong<br />

khi mấy cái món tươi roi rói kia thì cứ bị cấm đoán rầy la.<br />

Này mắt em-chưa-quen-đã-nhớ ngoài cửa lớp, này<br />

bóng anh-nhẳn-mặt-còn-lạ lấp ló cuối hành lang, này tờ<br />

thư làm bộ bỏ quên trong quyển sách mới-mượn-chiềuqua-đã-trả-lại-sáng-nay...<br />

- học trò còn mắc mớ với bao<br />

nhiêu là bận-bịu-chẳng-ai-xúi-biểu của cái thuở vậy-đóbỗng-nhiên-mà-họ-lớn...<br />

138


Tháng bảy là những ngày dài rong chơi, phố gần, chợ xa,<br />

vườn rẫy, núi non, sông nước... những góc vắng tụ năm<br />

tụ ba chia lén điếu thuốc đầu đời, những tối long nhong<br />

đạp xe qua nhà ai mắt cứ liếc ngang liếc dọc, có thấy gì<br />

được đâu họa may một cái bóng vô tình mà cũng về hí<br />

ha hí hửng chép thơ-nguyên-sa-gặp-một-bữa-anhmừng-một-bữa...<br />

Tháng bảy. Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết. Ðàn<br />

chim non hớn hở rủ nhau về. Chín mươi ngày nhảy nhót<br />

ở đồng quê. Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.(*)<br />

Cái mùa bãi trường tháng bảy... cái mùa xuân lộn chỗ đã<br />

làm hơn một kẻ luyến lưu... Có người còn coi đó là<br />

những kỷ niệm đẹp nhất của một đời người.<br />

Vậy mà rồi mất hết khi người ta phải bỏ đi, một ngày<br />

nào đó. Ở chỗ xa, không có phượng đỏ làm sao còn thấy<br />

rơi xuống lòng ta những giọt châu. Không có bạn bè làm<br />

sao mà yêu dấu. Không có tiếng trống thùng thình làm<br />

sao mà bồi hồi. Và nhất là không có ngôi trường cũ nóc<br />

dột đã mấy đời, những gốc me gốc còng cỗi đến không<br />

còn đếm được tuổi, những xe bánh lọt đậu đỏ ngọt<br />

ngây, những rổ cốc rổ ổi chua lét, và những mái tóc và<br />

những đôi mắt... thôi đã mờ như trầm tích, lấy gì mưa<br />

xuống cho những linh hồn đã khô...<br />

Vậy mà rồi mất hết... Người ta buồn bã bỏ đi. Mười năm.<br />

Mười lăm hai mươi năm. Buồn bã sống như loài ốc<br />

không hồn, bò lết trên những nhánh đời thất lạc...<br />

139


Từ vài năm nay, tháng bảy ở Mỹ châu, ở Âu châu, ở một<br />

thành phố xa lắc tuốt bên Úc, ở một thị trấn lưng chừng<br />

đâu đây, bỗng nghe một ngày họp mặt, một buổi gặp<br />

gỡ của những người tưởng đâu đã biệt tích, ngờ đâu đã<br />

trầm luân... Rồi bỗng trở về, bàng hoàng như từ cõi trăm<br />

năm... Họ gặp lại nhau, đuôi mắt đã đầy dấu chân chim,<br />

đầu tóc đã bào hao sương tuyết... Họ níu tay, vỗ vai, cười<br />

ha hả hay khóc sụt sùi. Họ ôm chầm lấy nhau, ngỡ<br />

ngàng ngó lại quá khứ mình, rưng rưng thấy lại tuổi trẻ<br />

mình... cái quá khứ cái tuổi trẻ đã chìm khuất theo quê<br />

hương biết bao nhiêu thương nhớ mà cũng biết bao<br />

nhiêu ruồng rẫy. Họ cười nói, chuyện trò, uống chung<br />

nhau ly rượu, ăn ké nửa miếng bánh như thuở còn sẻ<br />

nhau góc tư góc tám những sợi-tóc-cứ-vương-vướngchân-người.<br />

Em kể cùng ta những dặm đường. Những hồi ly biệt, nỗi<br />

tang thương. Những sông suối cạn, cồn quạnh quẽ.<br />

Những núi tang thương, biển đoạn trường.<br />

Chép lại một đoạn đã viết về một lần họp mặt đó.<br />

Vậy đó, mỗi người đều có một ngôi trường cũ tưởng khi<br />

vội vã ra đi đã bỏ sót lại. Tưởng đâu người ta đã cướp<br />

mất luôn cái nơi chốn thân yêu sau khi đã đuổi mình đi<br />

tan tác. Nhưng không, ngôi trường cũ của em đã không<br />

bị cướp mất mà còn được nhân lên mấy lần nhiều hơn<br />

nữa. Bởi vì cái xác trường thì còn kẹt lại đó, chớ cái hồn<br />

trường thì đã theo em và bạn bè đi lưu lạc tứ phương.<br />

140


Bằng chứng là lâu lâu lại nghe tin buổi hợp mặt học trò<br />

trường Nguyễn Trung Trực ở chổ này, mai mốt lại nghe<br />

hợp mặt ở chổ khác. Hóa ra cái trường Nguyễn Trung<br />

Trực đâu còn ở tận cái thị xả xa xôi đó nữa. Nó ở ngay<br />

đây, kề bên em đó. Nó ở giữa phố phường đông đúc<br />

vùng vịnh biển phía tây nước Mỹ, nó cũng ở tại vùng đồi<br />

núi cheo leo phía đông. Nó nằm trên vùng cực bắc lạnh<br />

lẽo mà nó cũng có giữa đồng cỏ miền trung tây mênh<br />

mông. Nó có ở châu Âu mà cũng có tuốt bên châu Úc.<br />

Nó đã hóa thân thành muôn vạn tấm lòng rải ra khắp<br />

cùng mặt đất. Ðến đổi chừng như nơi nào có đôi ba học<br />

trò cũ là có trường mới dựng lên, hồn nhiên và thành<br />

khẩn. Những người học trò cũ đã chắt chiu mang theo<br />

từng mảng vụn để rồi dựng lại thành những ngôi trường<br />

mới, những nơi chốn mới để cùng trở lại hành hương. Ở<br />

đó em gặp lại đủ hết, thầy cô cũ, bạn bè cũ. Có thể còn<br />

thiếu sót một số người. Nhưng có sao đâu em, họ đến<br />

trễ đó thôi, vẫn còn chổ để dành riêng cho họ. Ở đó em<br />

sẽ thở lại chút hương thời tuổi dại. Em sẽ thấy lại từng<br />

mặt người quen, dù sơ hay thân vẫn là cái tình người<br />

nồng ấm, cái tình người mà tôi chắc nếu em có bỏ công<br />

lặn lội ngàn ngàn cây số để trở về, đứng lại giữa khung<br />

lớp cũ em cũng không còn tìm thấy được nữa. Người ta<br />

đã thiêu hũy nó lâu rồi. Cái tinh thần tôn sư trọng đạo,<br />

cái ý chí của bậc đại nghĩa mà trường mang tên đâu còn<br />

chỗ ở đó nữa. Tên tuổi đó bây giờ chỉ là sự ngụy trá chớ<br />

còn hồn thiêng cũng đã phưởng phất theo bầy con cháu<br />

tha phương. Chính những ngôi trường mới mà đám học<br />

trò cũ bằng tinh thần xưa gầy dựng lên ở đâu đây, một<br />

141


hôm nào đó mới là cái nối tiếp liền lạc của nếp văn hóa<br />

đã thành truyền thống, mà chúng ta còn hảnh diện<br />

mang tên. Tôi vẫn tin rằng, ở nơi chốn cũ, bạn bè và thầy<br />

cô, những người đã mang chung cùng em kỷ niệm, dù<br />

có lao đao lận đận vẫn gởi lòng sang trong những buổi<br />

hợp mặt này. Tôi tin em cũng không quên họ. Em đến<br />

để gặp lại những người có mặt. Mà em cũng đến để gặp<br />

lại những người vắng mặt nữa. Phải không? Giữa bàn tay<br />

siết chặt, trong vòng ôm thân ái ở đây làm gì không có<br />

thấp thoáng một dấu vết xa xôi, một lời thăm hỏi ở đây<br />

làm gì không có ngậm ngùi một câu nhắn gởi thầm cho<br />

người còn ở lại đó. Tôi tin vậy lắm bởi vì chung thủy vẫn<br />

là đức tính của người-nguyễn-trung-trực và nghĩa nhân<br />

vẫn là bài học thuộc lòng mà chúng ta vì muốn nhớ nên<br />

đến nỗi phải bỏ đi. Ở ngôi trường mới đó còn bao nhiêu<br />

người em chưa hề thấy mặt nhưng tôi tin rồi em sẽ quen<br />

biết dễ dàng. Ở đó mọi cấp lớp đã bị xóa đi, mọi giờ<br />

khắc sẽ sắp trùng lại. Mọi người chỉ còn một thời dụng<br />

biểu duy nhất. Thực tập cái bài học tình thương bị bỏ dở<br />

nửa chừng. Những anh, những chị, những em sẽ không<br />

còn là những chủng tử lạc loài. Chúng ta đã có cơ may<br />

để nhập lại làm một. Một tấm lòng duy nhất. Chúng ta<br />

may mắn có ngôi trường cũ rộng mênh mông như biển<br />

đủ sức hút về hết mọi nhánh sông con. Giữa lượng biển<br />

hãi hà có giọt nước nào khác với giọt nước nào đâu, phải<br />

không em? Dường như có lần nhà thơ họ Vũ sau khi thấy<br />

hết cảnh núi lở sông bồi đã ngậm ngùi than rằng:"<br />

Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau". Vâng, đúng rồi em,<br />

chúng ta đã mất hết, nước non, tuổi trẻ, danh vọng, tiền<br />

142


tài... Cái chúng ta còn lại chỉ là một tấm lòng son sắt như<br />

chút "của tin" mà Thúy Kiều đã giữ suốt mười lăm năm<br />

đòi đoạn để trân trọng giao lại cho người tình. Ðoạn<br />

trường của chúng ta đã hơn hai mươi lăm năm, chúng ta<br />

còn gì để lại cho trường cũ nếu không là chút tình nghĩa<br />

tặng cho nhau trong cơn thất tán này.<br />

Và cũng chút xíu tình nghĩa đó thôi để mai kia mốt nọ có<br />

lỡ bước trên dặm đường lưu lạc vẫn còn biết có một nơi<br />

mà gởi gắm lòng về.<br />

Ðã đủ chưa để nói về một sinh hoạt mới của đám dân<br />

lưu lạc. Hai mươi lăm năm đã quá thừa cho một câm nín.<br />

Ðã đến lúc để nhắc nhở nhau về một nơi chốn đã bỏ đi,<br />

hâm nóng lại chén đời đã lạnh, mời nhau húp lại chút<br />

cặn thừa rất tình-xưa-nghĩa-cũ. Nhưng mà có gì nồng<br />

nàn và chân thành hơn mớ dây mơ rễ má bắt đầu từ<br />

ngôi trường cũ đó, lúc mà tuổi đời không quá non để<br />

còn khờ khệch mà cũng không quá cằn để đến nỗi chai<br />

lì. Bởi vì phải không, chính ở đó mà chúng ta đã lớn lên,<br />

học hỏi trong yêu thương và tin tưởng sáng lán nhất.<br />

Chính ở đó chúng ta đã có những thầy cô gần gũi và ân<br />

cần đã hé mở cho chúng ta dấu dạng của tương lai. Và<br />

cũng chính ở đó, chúng ta đã có những người bạn mà<br />

chân tình không dễ gì tìm lại được nữa.<br />

Tháng bảy năm nay tôi sẽ đi dự buổi họp mặt thầy cô và<br />

học trò cũ của ngôi trường tôi đã dạy. Chắc tôi sẽ gặp lại<br />

một số người quen biết cũ. Dù thân hay sơ, có thể họ đã<br />

143


già đi nhiều sau những năm lận đận, có thể họ sẽ tươi<br />

tắn hơn nhờ những thành đạt ở đây, tôi không biết tôi sẽ<br />

gặp ai, nhưng điều tôi biết chắc là tôi sẽ gặp lại những<br />

tấm lòng. Những tấm lòng dù nông sâu khác nhau đều<br />

đã được un đúc, nuôi dưỡng bằng chính tinh thần nhân<br />

ái vẫn là nền móng của những ngôi trường trung học cũ<br />

ở miền Nam trước năm 75. Cái tinh thần nhân ái đã chắp<br />

cho họ đôi cánh mỏng, giúp họ bay qua những vòm trời<br />

gió bão, và còn giúp họ bay tìm nhau sau cơn hoạn nạn<br />

chung.<br />

Chúng ta vẫn còn đó, những niềm tin, phải không ?<br />

144


tranh CAO HÀNH KIỆN


Tháng chín ,<br />

mùa thu ,<br />

... ở hai đầu nỗi nhớ<br />

Tháng chín. Tháng của rỉ rả mưa đêm, của lả chả cánh<br />

phượng và hiu hiu mùa chuyển.<br />

Tháng chín. Tháng của líu ríu chim sẻ rủ nhau bỏ đi và<br />

xôn xao học trò rủ rê nhau trở lại.<br />

Tháng chín ... khi lá ngoài đường rụng nhiều và trên<br />

không có những đám mây bàng bạc.<br />

Tháng chín bây giờ, xứ lạ đã thành quen và tháng chín<br />

hồi đó, rất quen mà như chừng đã lạ.<br />

146


Tháng chín ở một thành phố nhỏ, giữa miền Nam nắng<br />

cháy mưa lầy, nơi tôi đã sống lụy như tình nhân và tấm<br />

tức bỏ đi như người bị ruồng rẫy.<br />

Tháng chín ở đó với không biết bao nhiêu là kỷ niệm của<br />

những mùa thu giả tưởng. Phải rồi, làm gì có thu đến thu<br />

đi như mấy bài hát nghêu ngao làm người ta tưởng như<br />

mùa màng cũng theo chân mấy người tình tới tới lui lui<br />

mà thay hình đổi dạng. Thật ra có gì khác lạ đâu ở bên<br />

ngoài lòng người, chỉ là hai mùa mưa nắng. Vậy mà mỗi<br />

lượt nghe ai cất giọng rầu rĩ ... thu đi cho lá vàng rơi ... là<br />

lòng dạ cứ nao nao ... làm như nghe được tiếng chân thu<br />

đang chuyển dịch sẽ sàng. Chắc tại mình quá mơ mộng.<br />

Hay tại vì nhịp mùa có chuyển cũng chuyển từ trong tâm<br />

tưởng. Trời đất thay đổi rất vô tình. Tại mình kiếm<br />

chuyện mới có chuyện. Xứ sở đâu có bốn mùa vẫn cứ cố<br />

bày ra cho được. Trời miền Nam quanh năm suốt tháng<br />

nắng nướng đến dòn da mà cái đầu thì cứ mê muội bày<br />

đặt đủ thứ tứ thời bát tiết. Hết xuân-hồng-ta-muốn-cắn-vàongươi<br />

đến anh-vẫn-thấy-em-ngồi-đây-tóc-ngắn-mà-mùa-thudài-lắm-ở-chung-quanh...<br />

Mình lợi dụng trời đất vào tình<br />

riêng riết rồi lậm lúc nào không hay. Đến nỗi hể nghe<br />

xuân tới là rậm rật hy vọng mà hay tin thu về thì lại đâm<br />

ra buồn ngẩn buồn ngơ.<br />

Truy cho ra nguyên ủy chắc cũng đã xa lăm lắm, đâu từ<br />

đời Đường đời Tống ở bên tàu, có thể gần hơn một chút<br />

thì Lamartine với Chateaubriand ở bên tây. Gần hơn chút<br />

nữa thì cũng cỡ những năm hai mươi khi bà Tương Phố<br />

viết Giọt lệ thu buồn đến ngất ngư làm cái đám sinh sau<br />

147


đẻ muộn lỡ thuộc nằm lòng rồi cũng đâm ra sầu thu đến<br />

chảy nước mắt, từ đó. Ai biểu.<br />

Vài chục năm sau, ở một thành phố nằm ngay trên vĩ độ<br />

45 bắc, đột nhiên giữa một buổi chiều cuối tháng chín,<br />

tôi thấy mùa thu trở lại thật sự. Đúng ra, chắc cũng đã<br />

rục rịch từ mấy ngày trước mà không ai hay, từ bên kia<br />

dãy núi chắn ngang phía bắc thành phố. Ở đó rừng núi<br />

mênh mông, cây lá mênh mông, mặc tình cho trời đất<br />

xun xoe làm dáng. Ở đó trên những chỏm núi ngất<br />

ngưởng cao đã thấy quầng thâm những ngụm mây xam<br />

xám. Và chắc ở đó cây lá cũng đã len lén đổi màu từ khi<br />

mặt trời cứ bỏ đi ngủ sớm. Ở dưới này, giữa lòng phố,<br />

ngày đã ngắn lại đâu từ giữa tháng, mỗi ngày một chút.<br />

Và gió cũng đã đổi hướng, mỗi lúc một lạnh lùng. Lòng<br />

người ta bén nhạy còn hơn đài khí tượng, đánh hơi mùa<br />

ngay từ khi máy móc chưa kịp tính toán xong.<br />

Vậy đó, một buổi chiều cuối tháng chín, tôi bỗng thấy<br />

mùa thu trở lại, dù mùa hè còn vụt vặt chưa chịu bỏ đi.<br />

Bắt đầu là một cơn gió lạ. Cũng không biết từ đâu thổi<br />

tới. Chỉ biết khi tôi thấy thì nó đã ra tới giữa lòng đường.<br />

Lúc đó đâu khoảng giờ cơm nên lòng đường trống trơn,<br />

duổi dài như một cánh tay mệt mõi sau khi đã vật vã mệt<br />

nhoài với mớ xe cộ hối hả qua lại khi nãy lúc vừa tan sở.<br />

Mặt đường xám ngắt, mệt lì giữa hai hàng cây im sựng.<br />

Cơn gió lách tới bất ngờ, quợn qua quợn lại một chút rồi<br />

bốc thẳng lên, mang theo một chút bụi đường và một<br />

chiếc lá vàng đã nằm sẵn đó tự lúc nào, thổi ngược vào<br />

lề thả lá bay vất vưởng một đổi rồi bỏ đi bất chợt để lại<br />

148


chút gai gai lạnh trên cánh tay trần của người khách bộ<br />

hành vừa trờ tới. Một chút động đậy thôi trong một giờ<br />

chiều rất tịnh bỗng nhiên làm quậy lên lao xao một cái gì<br />

rất lạ. Một cái gì rất mơ hồ, nhẹ hửng, chẳng đâu ra đâu<br />

vậy mà như đủ sức khều dậy giữa lòng người một ý niệm<br />

hay đúng hơn, một ấn tượng ... Ngô đồng nhất diệp lạc.<br />

Thiên hạ cộng tri thu.<br />

Vậy đó rồi đâm ra buồn ngang, buồn ngửa, buồn ngất<br />

trên vai áo theo kiểu của thi sĩ du tử họ Lê.<br />

Mà buồn cái gì ? Mùa thu ở đây, ở vùng đông bắc này<br />

rồi sẽ đẹp gần chết mà buồn nỗi gì ! Trời hanh nắng,<br />

gió hiu hiu lạnh, khoác chiếc áo dạ len thả hở hàng nút,<br />

kéo cao cổ áo phủ ót, một tay đút túi, một tay quơ quơ<br />

hốt nắm sương la đà, chân thả lang thang coi trời đất<br />

làm duyên. Xanh vàng tím đỏ rồi xanh xanh vàng vàng<br />

tím tím đo đỏ có loạn thị cách mấy cũng phải chịu là<br />

đẹp. Vậy tại sao lại còn đòi buồn đòi tủi. Vâng thì đẹp.<br />

Mà điều cái đẹp là cái bây giờ, ở đây. Còn cái buồn là cái<br />

hồi đó, còn vận đến chừng này, trong tâm tưởng.<br />

Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi, trời lắng u buồn mây hắt<br />

hiu ngừng trôi, nghe gió thoảng mơ hồ, trong mưa thu ai khóc ai<br />

than thở ...<br />

Đố ai đã từng nghe Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong<br />

một lần mà không thấy ngậm ngùi tới xót ruột. Nhất là ở<br />

cái thời mới lớn.<br />

149


Rồi dọc theo cái thời tập tành yêu-đương-phụ-tình-tìnhphụ<br />

đó là không biết bao nhiêu mùa thu nữa lãng đãng<br />

theo mấy nốt nhạc làm phông cho chàng tình nhân trẻ<br />

tuổi thả trái tim ba chìm bảy nổi theo mấy dòng tóc mây<br />

thu. Dĩ nhiên là chắc chìm nhiều hơn nổi cho nên rốt lại<br />

cứ nghe tới thu là đâm ra rầu miết.<br />

Đến khi Phạm Duy đem nhạc phổ thơ Appolinaire thì ôi<br />

thôi chắc mẻm thu ơi sao mà buồn lắm vậy !<br />

Em ngắt đi một cùm hoa thạch thảo. Em biết cho mùa thu đã chết<br />

rồi. Mùa thu đã chế́t ...<br />

Nhạc đã vậy, còn văn thơ thì khỏi nói. Trong một chục<br />

bài văn thu với thơ thu thì đã có tới chín mươi chín phẩy<br />

chín mươi chín phần trăm nói về thu buồn, thu nhớ, thu<br />

sầu, thu khổ ... nước mắt ngắn nước mắt dài ... đến nỗi<br />

mới nghe tới hơi thu là đã ngửi ngay mùi ẩm mốc, dẫu<br />

rằng có thiếu chi những ngày thu khô ráo !<br />

Thử nghe bà Tương Phố ở cái thời đàn bà chỉ biết có kim<br />

chỉ mà cũng đem thu ra than van thảm thiết về với anh<br />

mùa thu, tiễn đưa anh mùa thu, mấ́t anh cũng lại mùa thu, cho<br />

nên mỗi năm cứ đến độ thu sang thì em lại bồi hồi nhớ trước<br />

tưởng xưa mà lòng thu một tấm cũng ngây ngất sầu ... thì đến<br />

đá tảng khi đụng tới mùa thu cũng phải rụng rời nói chi<br />

trái tim thanh niên mềm như lá liễu.<br />

Tới ông Tản Đà thì thu quả nhiên buồn đến hết nói. Trận<br />

gió thu phong rụng lá hồng. Lá rơi tường bắc lá sang đông. Hồng<br />

bay mấy lá năm hồ̀ hết. Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không. Đâu mà<br />

150


toàn là chuyện trắc trở với lại phòng không chiết bóng.<br />

Nghe mà nhão cả người.<br />

Rồi Nguyễn Bính giang hồ rất mực ra bắc vào nam như<br />

ăn cơm bữa mà lại cũng chọn cho được mùa thu để ...<br />

thất tình. Tôi về gom hết ba thu lại. Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời.<br />

Thậm chí tới mấy cái chuyện cổ tích cũng vậy. Mới nứt<br />

mắt ra là ngốn không biết bao nhiêu chuyện tình oan<br />

trái. Mở đầu là câu chuyện anh chàng Ngưu Lang với cô<br />

nàng Chức Nữ . Yêu chi mà yêu khổ. Yêu chi mà mỗi<br />

năm chỉ cho gặp gỡ có một lần. Mà còn phải có đám<br />

chim ô thước thương tình bắt cầu cho qua sông Ngân tái<br />

ngộ. Đêm mùng bảy tháng bảy. Khóc mừng hay khóc tủi<br />

mà lụt lội thế gian. Nước mắt mùa thu khóc duyên phận người<br />

...<br />

Lớn lên chút nữa, mới học được đâu ba chữ u chữ tây mà<br />

lỡ nghe Yves Montant hát Les feuilles mortes rồi là không<br />

ít thì nhiều cũng sẽ lụy cái mùa thu có gió cuốn đi hàng<br />

đống lá vàng, mang theo cả mớ kỷ niệm và hối tiếc khi<br />

sóng biển đang xóa dần dấu chân trên cát của những<br />

cặp tình nhân một thưở đến lúc phải lìa nhau ....<br />

Kể ra thì cũng oan ức cho cái mùa thứ ba của trời đất.<br />

Mùa nào không lấy cứ đè mùa thu ra mà gán ép bao<br />

nhiêu oái ăm ngang trái tương tư thất tình phụ bạc anhđi-đường-anh-tôi-đường-tôi<br />

cho đành đoạn. Bộ yêu<br />

nhau rồi phụ nhau vào mùa xuân không được sao? Hay<br />

mùa hè? Hay mùa đông? Mà cũng lạ. Thiên hạ yêu nhau<br />

hồi nào đâu không biết mà hể tới hồi rẻ rúng là cứ kéo<br />

cho được mùa thu ra làm cảnh và làm chứng. Cả cái cô<br />

151


Thúy Kiều và ông thương gia Thúc Sinh cũng một điệu.<br />

Người lên ngựa, kẻ chia bào. Rừng phong thu đã nhuốm màu<br />

quan san. ... Riết rồi ai nấy cứ khăng khăng mùa thu là<br />

phải buồn dẫu là tôi-buồn-không-biết-vì-sao-tôi-buồn,<br />

là phải nhớ dẫu là nhớ vẩn nhớ vơ hay nhớ có nơi có<br />

chỗ, nhớ độc chiếc hay là nhớ song phương, nhớ tam<br />

giác hay ngũ lục giác gì cũng được. Miễn là có mùa thu<br />

cho ra cái điệu ... nhớ.<br />

Bởi vậy mà dầu muốn hay không, thì ở đây, nơi mùa thu<br />

được coi là mùa lộng lẫy nhất trong năm, người khách<br />

tha hương vẫn cảm thấy buồn buồn ngay khi mùa thu<br />

vừa trờ tới.<br />

Giữa khi trời đất vàng rực huy hoàng thì lòng người bỗng<br />

chùng xuống, tối mịt những kỷ niệm. Mà kỷ niệm thì<br />

không vui. Kỷ niệm chỉ co buồn thôi vì kỷ niệm là cái đã<br />

mất. Giống như mùa thu chỉ để buồn thôi vì mùa thu chỉ<br />

là sự gắng gượng làm vui của trời đất khi sắp lịm vào cơn<br />

mê thiếp. Cũng kỳ. Ở đậu xứ người mà không chịu vui<br />

với người. Người ta tổ chức hết lễ lá đến lễ màu. Mà lòng<br />

mình thì chỉ có mỗi một lễ duy nhất. Lễ nhớ. Mà hể nhớ<br />

thì buồn. Mà đã buồn thì lại nhớ. Tại cái mùa thu đó, nó<br />

gợi nhớ. Hay tại mình, mình không chịu quên.<br />

Không dưng mà lại nhớ đến một câu trong bài tùy bút<br />

của Đinh Hùng viết đâu từ vài chục năm trước về một<br />

mùa thu trở lại. Lâu quá đã quên gần hết chỉ còn loáng<br />

thoáng, hình như là ... nắng ở đây vẫn là nắng ấm ngày xưa và<br />

linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước.<br />

152


Ờ linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Năm não<br />

năm nào. Mà có cần xác định một thời điểm chính xác<br />

trong cái chuổi nhớ thương dằng dặc đó. Năm nào mà<br />

chẳng được. Khi đã là quá khứ thì ngày tháng cũng mù<br />

sương. Trí nhớ thì chập chùng mà kỷ niệm thì trùng điệp.<br />

Nhưng vẫn có đó. Đôi khi lộn trước lộn sau. Nhưng có<br />

cần không một thời biểu rõ ràng cho mớ hình sương<br />

bóng khói.<br />

Mùa thu. Mùa của năm học mới bắt đầu. Những buổi<br />

tựu trường. Tiếng trống giục giã. Áo trắng quần xanh.<br />

Tóc rẽ bảy ba. Sách vở, viết mực, hàng chữ nắn nót ... Rồi<br />

phấn trắng bảng đen, thi cử, ly cà phê trắng mắt, lá thư<br />

tình thứ nhất ...<br />

Mùa thu. Mùa của trăng đêm hò hẹn. Của giận hờn. Của<br />

xin lỗi. Của vụn dại dễ thương như lần đầu lầm lỡ.<br />

Mùa thu. Mùa của biệt ly. Của cửa sông đen ngòm. Của<br />

ngọn đuốc lập loè. Của bỏ cha bỏ mẹ, bỏ bầy bỏ bạn,<br />

bỏ nước bỏ quê.<br />

Mùa thu. Mùa của điêu tàn. Của nát tan. Của khúc ruột<br />

đứt lìa. Của ngón tay vuột mất.<br />

Ôi mùa thu thương khó từ trong tâm thức. Có nhớ có<br />

thương năm nay thì cũng chỉ là nối tiếp cái thói quen<br />

thương nhớ từ năm kia năm kìa. Mà sao cứ nhớ thương<br />

hoài vậy ? Rồi không chừng lại nhớ tiếp luôn tới năm sau,<br />

năm sau nữa ! Bộ khoảng giữa của hai đầu thương nhớ<br />

nó nhủn nhẳn nhùn nhằn như cao su vậy sao mà kéo dài<br />

tới chừng nào cũng được.<br />

153


Bộ chỉ có cái trí nhớ là đức tính cần thiết và dai dẳng<br />

nhất của con người sao ?<br />

Còn đến chừng nào thì lãng quên sẽ là đức tính cần thiết<br />

hơn nữa ... ?<br />

...............<br />

........................<br />

154


Tháng 10,<br />

ngày 23 năm 1956,<br />

ở Budapest …<br />

Tôi chưa bao giờ thích thơ tự do (hổng hiểu thì lấy gì mà<br />

thích) kể cả thơ của Thanh Tâm Tuyền, ngay khi ở tuổi 20<br />

155


vốn vẫn khoái cái trò nổi loạn với phá phách. Chậm tiến<br />

(?) hơn các bạn cùng lứa cứ thường hay cặp nách tập thơ<br />

Tôi không còn cô độc của ông như bằng chứng của một<br />

sự thách thức với những lề thói rề rà lệch bệch của xả hội<br />

miền Nam thuở đó. Ngay cả đến những năm 60 mà còn<br />

mê Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính hay những bài<br />

thơ-mới của những năm 30 như tôi thì quả nhiên là<br />

chậm tiến… thứ thiệt.<br />

Vậy mà có hai câu thơ của ông tôi thích vô cùng<br />

… hãy cho anh khóc bằng mắt em<br />

những cuộc tình duyên Budapest…<br />

Trong cái đầu rất hương-xa của tôi thuở đó, hai câu thơ…<br />

thơ đến tuyệt vời. Tuyệt vời không phải vì thơ nhắc đến<br />

Budapest, kinh thành cổ kính và hoa lệ của Âu châu thế<br />

kỷ 19, nằm soi bóng hai bên bờ con sông Danube sóng<br />

lanh chanh như vòng quay luân vũ, cũng không phải vì<br />

đó là nơi sinh trưởng của Liszt với dòng nhạc cổ điển<br />

mang đầy âm hưởng lãng mạn của một thời vàng son…<br />

Tôi thích vì hai câu thơ là một ẩn dụ trữ tình về một biến<br />

cố chính trị đẩm máu năm 1956, ở đó, những “tình nhân”<br />

của tự do đã khóc nhau vì một thất hẹn của định mạng<br />

Ðọc lại chứng từ của một người Pháp có mặt ở đó vào<br />

những ngày tháng 10, năm đó…<br />

156


“… ngày 23 tháng 10… tình hình vô cùng phức tạp.<br />

Những cuộc biểu tình của sinh viên diển ra khắp nơi.<br />

Người ta sống trong sự thắp thỏm chờ đợi một cái gì đó<br />

sẽ xảy ra…<br />

Những cuộc biểu tình biến thành những cuộc đụng độ<br />

thực sự. Sinh viên và thợ thuyền lao mình vào hàng rào<br />

cản của cảnh sát chính trị. Người ta nghe súng nổ khắp<br />

nơi. Chính quyền cộng sản ra lệnh cho quân đội với<br />

chiến xa kéo tới nhưng rồi chính binh sĩ lại tỏ ra thân<br />

thiện với đám biểu tình và quay lại dẫn đầu cho đoàn<br />

biểu tình tấn công đài phát thanh của chính quyền cộng<br />

sản. Ðường phố trở thành pháo đài dựng chống bằng đủ<br />

thứ gạch ngói, bàn ghế, đường rầy xe lửa mà tuổi trẻ<br />

khát vọng tự do đã đi tháo gở đem về.<br />

Sáng hôm sau, từ cửa sổ của khách sạn trên đảo Saint<br />

Maguerite, tôi thấy từng đoàn chiến xa Nga kéo qua với<br />

súng đạn tua tủa. Ít lâu sau, lính sô-viết Nga nổ súng tấn<br />

công khách sạn Astoria, trụ sở của những người khởi<br />

nghĩa. Nhóm nổi dậy chống trả kịch liệt dù ô hợp. Họ<br />

mai phục với súng ống cá nhân trong những dinh thự<br />

quanh đó bắn cản chận đường hy vọng làm chậm bước<br />

tiến của đoàn chiến xa hùng hổ.<br />

… chỉ riêng quanh đó đã có trăm người chết… và đạn đại<br />

bác của quân Nga sô-viết thì tiếp tục đổ xuống thành<br />

phố như mưa. Trận chiến càng lúc càng ác liệt, kéo dài<br />

qua suốt đêm…. Rồi chuyện phải đến đã đến, xe tăng<br />

157


ọc sắt với đại pháo cũng bắn sập được thành trì chống<br />

giữ không có gì ngoài những tay súng nhỏ và... những<br />

tấm lòng khao khát tự do …”<br />

Bài tường thuật ngưng lại ở đó.<br />

… Có điều, đằng sau những lời tường thuật nghe như<br />

thản nhiên đó, có bao nhiêu điều không nói hết.<br />

Thử tưởng đến những khuôn mặt sinh viên non dại mà<br />

tâm hồn thì lồng lộng khí tiết của bầy ngựa thảo nguyên,<br />

những nhà văn nhà thơ sức trói gà không chặt nhưng đủ<br />

sức để bứt tung những vòng xích đang chực chờ trói<br />

chặt linh hồn họ, chính họ, tuổi trẻ và trí thức tháng 10<br />

năm đó đã chứng tỏ một điều: người ta có thể bỏ tù<br />

một thân xác, nhưng không bao giờ người ta giam hãm<br />

được một tinh thần.<br />

Hãy hình dung những người tuổi trẻ của Budapest đã<br />

buồn rầu và thương tích vì sức công phá của đạn bom,<br />

và còn thứ thương tích không có bệnh trạng rõ ràng gây<br />

nên bởi sự áp đảo của súng đạn trên tay trơn, của ngụy<br />

tín trên chân lý, của bất nhân trên lương tâm, của độc tài<br />

trên tự do…<br />

Hãy nghĩ đến hàng tấn đạn bom sắt thép đổ lên đầu họ<br />

để bịt miệng, chẹn cổ dập tắt tiếng kêu gào của ý thức<br />

tự do.<br />

hãy cho anh khóc bằng mắt em<br />

158


những cuộc tình duyên Budapest<br />

Tháng 10 năm đó ở Budapest, có rất nhiều người đã<br />

chết, bị bắt bớ, bị tù đày và hàng trăm ngàn người phải<br />

bỏ xứ ra đi. Nhưng cũng từ những người đã chết ở đó, từ<br />

những người bị bắt bớ tù đày bỏ đi lưu lạc tháng 10 năm<br />

đó ở Budapest, mà mươi năm sau người ta lại được nghe<br />

cùng một tiếng kêu đòi ở Prague, mùa xuân năm 68. Y<br />

như cùng một khuôn mặt, một nhân dáng cũ hiện<br />

nguyên hình trong những hầm tối, trong những khuôn<br />

viên đại học, trên những con đường dẫn tới những<br />

quảng trường ở Tiệp Khắc. Và vẫn y nguyên một niềm<br />

khao khát cũ.<br />

Rồi cũng chính niềm khao khát đó lại một lần nữa tái<br />

hiện trên khuôn mặt người thanh niên mảnh khảnh và<br />

đơn độc, đứng dang tay như muốn chặn đứng cả đoàn<br />

chiến xa đang lầm lì băng qua Thiên an môn ở Bắc kinh,<br />

một đêm mùa xuân năm 89...<br />

………………………………………………………………………………………………<br />

………………………………………………………………………………………………<br />

Tháng 10 năm 1956 ở Budapest sẽ còn trở lại hoài hoài<br />

khi trên mặt đất này còn những trại giam không tên và<br />

những người tù không số hiệu.<br />

50 năm sau, ngày 23 tháng 10 năm 2006, cả thế giới kỷ<br />

niệm cuộc nổi dậy dũng cảm của những người tuổi trẻ<br />

159


Budapest. Sự thức tỉnh của họ là một điều tất yếu sau<br />

mươi năm bị tước bỏ quyền làm người. Không ai có thể<br />

bị ép nói trắng thành đen, bị buộc nói không thành có<br />

mãi mãi. Bạo lực có trói tay bịt miệng người ta cách nào<br />

đi nữa để che giấu tính phi nhân cũng không thể triệt bỏ<br />

được hoàn toàn lòng yêu chuộng sự thật. Cái sự thật đơn<br />

giản và căn bản như chính Lời mẹ dặn trong thơ Phùng<br />

Quán<br />

yêu ai cứ bảo là yêu<br />

ghét ai cứ bảo là ghét<br />

Có bấy nhiêu đó thôi để làm-người mà có lúc cả mấy<br />

phần nhân loại bị bắt buộc phải tráo trở kể từ khi cái chủ<br />

nghĩa không tưởng đến quái đản đó được thực hiện ở<br />

Nga sô năm 1917. Ðể từ đó bằng bạo lực và lừa dối áp<br />

đặt lên một số dân tộc không may khác, trong đó có dân<br />

tộc Việt Nam.<br />

50 năm nay, lịch sử đã quay lại theo cái vòng quay thuận<br />

chiều của nó. Mọi thứ quyền lực đi ngược lại với nguyện<br />

vọng chân chính của con người, dù có được hổ trợ bằng<br />

mọi thứ phù phép ma quỷ nào đi nữa cũng sẽ có lúc sụp<br />

đổ.<br />

Từ giữa đêm 9 rạng ngày 10 tháng 11 năm 1989, người<br />

dân Berlin đã giật đổ Bức tường ô nhục, chia rẻ thâm<br />

tình của một thành phố trên dưới 30 năm. Những bức<br />

tường thành vô hình nhưng có thật khác đã được dựng<br />

160


lên sau thế chiến thứ hai nhằm che đậy sự đày đọa con<br />

người ở phía đông châu Âu cũng đã lần lượt sập ngã.<br />

Những cuộc cách-mạng-nhung, cách-mạng-xanh, cáchmạng-vàng-cam…<br />

như những đợt sóng thủy triều buổi<br />

sáng kiên nhẩn vổ lên bờ, xóa sạch rác rưới trên những<br />

bãi cát đêm qua. Ðể con người ở đó hít thở lại cái không<br />

khí trong lành và hiền hòa của quê hương đích thực.<br />

Mừng cho họ ! Mừng cho nhân loại ! Và bao giờ thì đến<br />

lượt chúng ta !<br />

Ôi đất nước có còn vui kịp<br />

Một đời tôi héo úa từng giờ !<br />

161


Tháng<br />

mười một<br />

ở<br />

Dallas<br />

Khi viên đạn được bắn ra từ một góc khuất trên căn lầu<br />

bỏ trống của cái kho sách phế thải ở một góc<br />

đường Dallas năm đó, nó đã mang theo trong đường<br />

bay của nó định mạng của một người và một dân tộc. (<br />

162


giả sử có một hơi thở gấp làm ngón tay bấm cò khẻ run,<br />

một tia nắng chợt lóe qua làm chớp con mắt đang chăm<br />

chăm vào ống ngắm, chiếc công xa chạy nhanh hơn một<br />

chút, chậm hơn một chút … và viên đạn trệch đi một kẻ<br />

tóc … ờ có bao nhiêu giả sử trong đời như những phảichi<br />

vẫn mãi là những lời xin lỗi )<br />

Lúc đó, trong một góc vườn nằm xa hơn một chút về<br />

phía tây bắc, lá phong cũng đã đổi màu đỏ rực.<br />

Khi đó, xa hơn nữa, tận đáy cùng một lục địa da vàng tối<br />

tăm và buồn bã, người thiếu niên mới lớn là tôi như chợt<br />

thấy chính mình vừa tử thương. Trong trái tim nồng nàn<br />

của nó, thời đó, không chỉ có hoa và bướm, có thơ và<br />

mộng mà còn có thêm nữa những áp bức bất công,<br />

những chết chóc điêu tàn, những nghèo nàn ngu dốt…<br />

hậu quả của một chủ nghĩa thực dân khốc hại và đang<br />

trở thành một vùng môi sinh mầu mỡ cho chủ nghĩa<br />

cộng sản. Bộ mặt điêu tàn của một xả hội nhược tiểu<br />

càng trở nên thảm hại hơn nữa trong sự tranh chấp giữa<br />

những bạo quyền. Và cùng lúc càng lộ rõ vẻ trơ trẻn của<br />

những “thần tượng” trong cơn chạng vạng của niềm tin.<br />

Ngay lúc đó, sự xuất hiện của một người Mỹ trẻ tuổi connhà-giàu-học-giỏi-đẹp-trai<br />

đặc biệt với những ý tưởng<br />

cấp tiến đến độ gần như thách thức lại cả một lực lượng<br />

bảo thủ đã ăn rễ trăm năm trong xả hội (tư bản) Mỹ tự<br />

nhiên trở thành một niềm hy vọng cho hơn một người<br />

tuổi trẻ. Ðã có lúc thanh niên ở những nước kém mở<br />

mang, nô lệ nghèo đói và giặc gĩa, bỗng vui náo nức<br />

163


như vừa tìm được một người đồng minh thông cảm và<br />

tin cậy. Lứa tuổi của cách-mạng-lãng-mạn tìm được<br />

trong đôi mắt sáng, nụ cười ấm, và nhất là ý thức công<br />

bằng xả hội như một liều thuốc hồi sinh cho căn bệnh<br />

trầm kha của đất nước họ.<br />

Buổi sáng hôm đó cái chuyện không ai ngờ được đã xảy<br />

ra, viên đạn được nhắm bắn từ một độ cao năm tầng lầu<br />

đã đi đúng hướng và nổ tung làm văng mất một phần<br />

não bộ của vị Tổng Thống trẻ tuổi thứ 35 của Hoa Kỳ,<br />

niềm hy vọng của tuổi trẻ những năm 60, bỗng như nổ<br />

tung một lần nữa, giữa tim tôi.<br />

Mới vài năm trước, trong kỳ thi tú tài, tôi đã cắm cúi và<br />

hào hứng viết không kịp thở bài luận văn có đề tài rất<br />

thời thượng. “Anh hay chị nghĩ gì về câu nói của Tổng<br />

Thống J.F.Kennedy : đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn<br />

mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc” Bài thi văn có hệ<br />

số 3 và đã vớt tôi qua trót lọt kỳ thi dù rằng điểm toán<br />

nếu chẳng là zéro thì chắc cũng không khá hơn một.<br />

Câu nói được khéo léo đặt theo lối nghịch đảo và mệnh<br />

lệnh cách đủ gây ấn tượng mạnh và đột ngột đặt lại mối<br />

tương quan giữa con người và đất nước. Câu nói có thể<br />

là lời nhắn gởi riêng với thanh niên của xứ sở ông ta<br />

nhưng cũng đã gây tác động không ít đến thanh niên xứ<br />

khác. Dường như đã từ lâu lắm người ta mới thấy xuất<br />

hiện một lãnh tụ thông minh và khả ái như vậy.<br />

Giai nhân tự cỗ như danh tướng<br />

164


Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu<br />

Tháng mười một năm nay tôi lại có dịp ghé qua Dallas.<br />

Ðúng dịp kỹ niệm 40 năm ngày thảm sát. Thành phố đã<br />

có chút dáng vẻ vào thu. Trời không còn nóng cháy và<br />

quanh tượng đài đã có lác đác lá vàng rơi. Bốn bức<br />

tường trắng vẫn đứng im ỉm như còn giữ nguyên niềm bí<br />

ẩn chưa được giải thích thỏa đáng.<br />

Xa hơn một chút, trong góc vườn cũ, những lá phong<br />

cũng đã bắt đầu ửng đỏ.<br />

40 năm. Lịch sử đã xóa đi và viết lại nhiều lần. Cuộc<br />

chiến ý thức hệ ở Việt Nam mới dây dưa vào thời kỳ ấy<br />

đã bộc phát dữ dội suốt mười năm sau và rồi cũng đã<br />

chấm dứt từ hơn hai mươi lăm năm nay. Người chết đã<br />

chết. Người còn sống, cay đắng, tật nguyền hoặc vui<br />

cười thỏa mãn. Và sự thật thì vẫn còn là nạn nhân đầu<br />

tiên và cuối cùng của bất kỳ một cuộc chiến tranh nào.<br />

Tháng mười một thơm như một tàu lá mới. Thành phố<br />

sạch bóng như vừa được lau chùi. Và lòng người thì cũng<br />

trơn lùi kỷ niệm. Người ta có nhớ lại thì cũng chỉ một<br />

chút ngậm ngùi. (để làm gì những ngậm ngùi !) Giữa mặt<br />

đường láng lẩy ngay chỗ viên đạn nổ tung một giấc<br />

mộng có đánh dấu chữ X. Người ta đánh dấu một tội ác<br />

hay đánh dấu một tiếc nuối. (và những tiếc nuối có phải<br />

là lời tạ lỗi vô thưởng vô phạt ?)<br />

165


Ðứng ở đó, dưới một bầu trời rất mới mà cũng rất cũ<br />

như đã y vậy tự bao giờ, lòng bỗng nhiên cảm khái như<br />

chuyện chỉ mới vừa xảy ra. Có một cái gì không phải cứ<br />

tiếp tục được lặp đi lặp lại. Con người có tự nhận là<br />

thượng đế của chính mình thì cũng chỉ là một cuộc đảo<br />

chánh vô vọng. Và, lịch sử rốt lại chỉ là một cuộc đánh<br />

tráo gian lận của định mạng. Vậy thôi. Trời đất bày vẻ đủ<br />

điều chỉ cốt để mà mắt con người và ... bi kịch, chính là ai<br />

nấy đều tưởng thật. Người ta sống với cái ảo tưởng về<br />

một quyền năng phù phiếm. Người ta ôm ấp những hoài<br />

bảo, nuôi nấng lý tưởng, năng nổ hành động như trăm<br />

năm là một khắc mà quên rằng sát na đã lố tận thiên<br />

thu. Cái phút-chốc có giá trị tiên tri của một lời sấm rủa.<br />

Và con người mãi mãi chỉ là một thứ đồ chơi rẻ tiền của<br />

tạo hóa.<br />

Tháng mười một rực rỡ như một vết thương mới kéo da<br />

non.<br />

Và… trong góc vườn thu cũ, lá phong cứ hực đỏ như một nỗi tiếc<br />

nuối bị ngậm nín lâu ngày.<br />

166


... và<br />

một chút xuân thì<br />

Nơi tôi ở, vẫn được gọi là thành phố có trăm nóc<br />

chuông nhà thờ, mùa xuân đang lấp ló trở lại.<br />

Nói là lấp ló vì từ trăm cái nóc chuông đang im ỉm đó<br />

bỗng dưng trở nên chộn rộn khác thường. Có một cái gì<br />

lít chít lao chao đang làm xao động cả những mái đá đã<br />

trăm năm.<br />

À bầy chim thành phố !<br />

Những con chim đã bỏ đi lâu lắm bỗng dưng rồi trở lại<br />

từ lúc nào, đang ríu rít gọi nhau như gởi gắm từng lời<br />

thăm hỏi. Rồi là cả một chuyển động không ngừng. Từ<br />

167


sớm mai đến chiều hôm, từng bầy chim cứ bay đi bay về,<br />

líu ríu lích rích, chao qua đảo lại giữa mấy ô cửa, kè đá,<br />

bệ tường, vòm tượng vắt vẻo trên ngàn tấm nóc rêu<br />

xanh. Líu lo, dáo dác, rỉa lông, gỏ mỏ rồi chíu chít gọi<br />

nhau, rồi bay ra bay vào, lăng xăng lít xít như để nhìn<br />

ngó lại cái góc nhỏ quen thuộc đã bỏ đi từ lúc những<br />

cơn gió đổi chiều bắt đầu thổi về từng hơi gió bấc. Khu<br />

phố cũ với những dãy nhà xám xịt và hàng cửa kín mít<br />

cũng làm như giựt mình thức giấc. Có một cái gì đang<br />

rục rịch sống dậy ngay giữa mớ gạch đá im lìm. Một cái<br />

gì đang trở mình thấp thỏm dưới mấy lớp tuyết kín<br />

bưng.<br />

Trời đâu đã thôi lạnh hẵn. Vậy mà coi bộ lũ chim đã rất<br />

vừa lòng, cứ lấp la lấp ló, ríu ra ríu rít cả ngày làm khách<br />

qua đường cũng thấy dạ vui lây. Ờ thì ra từ những nóc<br />

chuông cao vút đó, có một chút dáng xuân đang chờn<br />

vờn quẩy đập theo mấy cánh chim mà tụ hình, mà khều<br />

nhẹ vào từng nỗi ủ ê trong những tấm lòng còn khóa<br />

chặt.<br />

Thêm một chút xíu mặt trời ló ra, một chút xíu nồng nàn<br />

thôi là ai nấy như sống lại, rạo rực đến nỗi muốn ôm hôn<br />

bất cứ ai, mặc kệ người quen kẻ lạ.<br />

Coi vậy mà tin xuân quan trọng dữ.<br />

168


Tôi cũng có khác gì đâu.<br />

Hồn tôi không dưng mà thức dậy sau một mùa đông<br />

thiếp ngủ.<br />

Vậy đó, mùa xuân đang lấp ló trở lại, e dè nhưng quyết<br />

chắc nơi thành phố tôi đang ở. Hôm qua trên con đường<br />

về vắt ngang núi, tôi thấy mấy đóa hoa xuyên tuyết đã<br />

nhoi lên, loi choi điểm chút vàng chút tím giữa bãi tuyết<br />

trắng phau. Và cái mùi nhựa thông chổi dậy cứ hăng hắc<br />

theo gió mà bay xa, xa cùng khắp. Trời đất chộn rộn giao<br />

mùa làm lòng người ngây ngất cũng muốn say theo.<br />

Rồi bỗng dưng mà tôi nhớ lại cái truyện ngắn mới đọc<br />

đâu đó. Ông nhà văn gốc lính, sau khi đã ba chìm bảy<br />

nổi với nước non trở thành người sinh viên già , ôm sách<br />

vở đến trường làm lại đời mình. Ông đi học mà lòng cứ<br />

lấn cấn không nguôi với chuyện nhà chuyện nước. Bởi<br />

vậy mà ông ta buồn nhiều hơn vui. Thiệt ra có ai mà vui<br />

được với cái lịch sử quá sức bầm dập của dân tộc, nhất là<br />

có mình ở trỏng. Không viết lách thì thôi, hể viết là thế<br />

nào rồi cái buồn đó cũng vận vào thơ văn nên cứ nghe<br />

ra cay đắng. Mãi rồi đến khi ông ta gặp một cô sinh viên<br />

từ nước ngoài sang du học. Cô ta trẻ, đẹp và xinh tươi<br />

như một nụ tầm xuân. Hai người kết bạn trong một đêm<br />

cuối năm rồi đưa nhau đi đón giao thừa giữa lòng Nữu<br />

Ước. Đêm đó, đêm hết một năm, đêm bắt đầu một năm<br />

mới. Trời đất và con người hẵn cũng có niềm giao cảm.<br />

169


Không biết tại người bạn gái đó trẻ đẹp và mong manh<br />

như hình sương bóng khói hay tại ông lính già cảm thấy<br />

sự lung linh thay đổi của trời đất cũng làm lòng mình<br />

rưng rưng thay đổi theo mà tự dưng ông ta chợt băn<br />

khoăn khi sắp sửa thổ lộ nỗi buồn rầu của mình với cô<br />

gái. Ông ta băn khoăn rồi ngưng lại. Tuổi em không phải là<br />

tuổi tôi. Không thể mang nỗi buồn rầu của thế hệ tôi về thế hệ<br />

em.(*)<br />

Câu văn đó đã là đề tài nói chuyện một bữa tình cờ tôi<br />

gặp lại người học trò cũ. Gọi là học trò cũ cho oai chớ<br />

thật ra cô ta cũng đã trên dưới 40, đã chồng con đề huề,<br />

đã lao đao vì vận nước và lận đận vì đời sống xứ người.<br />

Nghĩa là đã có đủ điều kiện để nói chuyện ngang hàng<br />

với ông thầy cũ. Tuy nhiên vì truyền thống, cô ta vẫn một<br />

mực thầy trò khuôn phép lắm. Vậy mà lần đó, khi nghe<br />

tôi kêu ca về nỗi sầu lữ thứ kéo theo một mớ dây mơ rễ<br />

má sầu vong quốc sầu vong thân sầu vong tình ... hầm<br />

bà lằn xắn cấu sầu của thế-hệ-bất-hạnh-tôi đến nỗi cô<br />

ta phải duyên dáng mà nhẹ nhàng cản lại. Còn đang bất<br />

ngờ, cô ta đã đột nhiên hỏi vặn lại tôi vậy chớ sầu hoài<br />

không thấy khổ thân sao. Rồi lịch sự đề nghị hay là lần<br />

này người lớn thử nghe lại người nhỏ coi. Thay vì cứ đi lo<br />

truyền lại cái buồn rầu dẫu chính đáng của mình cho em<br />

út sao không bắt chước tuổi trẻ mà sống cho vui. Lớp trẻ<br />

đó có tội tình gì mà kéo vô gánh tiếp cái sầu bất tận của<br />

cha anh. Lớp lớn cũng có tội tình gì mà đeo đẳng mãi cái<br />

sầu vô cùng vô hạn. Mọi người phải sống chớ. Ai cũng<br />

còn một đời dài lắm chớ có ngắn ngủi gì đâu ... Hai con<br />

170


mắt lao đao đã thoáng chút gì phiền muộn, giọng nói<br />

nhẹ tênh mà không giấu được nỗi ân cần, giữa buổi<br />

chiều cuối năm nơi một vùng đất lạ chợt làm tôi giựt<br />

mình ...<br />

Câu khuyên lơn của cô học trò cũ cùng với tâm sự của<br />

ông nhà văn, trong cơn say đúng lúc của mùa xuân dậy<br />

thì bỗng như một luồng gió ấm thổi suốt cõi lòng tôi đã<br />

quá chừng ảm đạm. Bỗng chốc tôi thấy sương khói.<br />

Bỗng chốc như có tiếng vỗ về từ một bãi bờ nào xa tắp.<br />

Ờ quá khứ. Ờ hiện tại. Tại sao nhớ. Tại sao quên. Ờ mùa<br />

đông sắp hết. Mùa xuân đang lật bật trở về. Rồi hè. Rồi<br />

thu. Tôi nhỏ nhoi trong cái vòng quay bất tận của trời<br />

đất. Tôi bọt bèo trong cơn cuồng nộ của lịch sử. Tôi giữ<br />

gì cho tôi. Tôi để lại gì cho em. Bỗng chốc mọi sự rõ<br />

ràng như đã an bày từ một định mạng. Những hẹn thề.<br />

Những bội phản. Những được thua còn mất. Tự giam<br />

mình trong nhà giam của quá khứ có phải là một chọn<br />

lựa thích hợp khi cuộc đời vẫn thản nhiên quay trọn cái<br />

vòng quay của nó. Bỗng chốc tôi thấy mình như con<br />

chim trốn tuyết, mỗi mùa đông bỏ đi để rồi quày quả trở<br />

về, đều đặn như người tình chung thủy. Đường bay xa có<br />

dịu vợi nhưng làm sao thất lạc được cái gác chuông nhà<br />

thờ, nơi chốn đã sanh ra. Tôi bỗng thấy lòng mình mở ra,<br />

thênh thang. Cái thế giới trước mắt, trăm hướng. Và con<br />

người, con người cũng chỉ là sản phẩm của thời đại nó<br />

sống. Ai đã tạo ra cuộc đổ vỡ. Và tôi, tại sao tôi phải<br />

gánh hết nguồn cơn.<br />

Có đơn giản vậy mà sao tôi không biết.<br />

171


Phải rồi. Thiệt tình đơn giản như hết đông thì xuân tới.<br />

Những mùa lạnh thì buồn. Trời ấm sao mình lại không<br />

vui. Tuổi già hay tiếc nuối những mất mát. Tuổi trẻ có<br />

mất mát gì đâu sao bắt lại tiếc nuối với mình.<br />

Mùa xuân của trời đất còn đi đi lại lại. Mùa xuân của con<br />

người chỉ tới có một lần. Tuổi trẻ, yêu đương, hạnh phúc<br />

có những bước chân rất vội. Lỡ để vuột mất thì không<br />

còn lần thứ hai nào nữa.<br />

Nghĩ tới sự vội vã của xuân thì lại làm liên tưởng đến bức<br />

tranh đen trắng của Robert Doisneau chụp đâu từ những<br />

năm 50 một cặp tình nhân trẻ tuổi đang hôn nhau bất<br />

chợt ngay khi mùa xuân vừa lật bật trổi dậy ở Paris.<br />

Trích lại một đoạn viết đã lâu :<br />

“... Bức ảnh có tên là Nụ hôn trước tòa thị sảnh, được bày<br />

bán trong một quán sách dọc bờ sông Seine. Nụ hôn<br />

của tuổi trẻ đúng độ ngay giữa một thời tiết đúng mùa.<br />

Cả người cho và người nhận cùng có mặt đúng lúc. Cuộc<br />

hạnh ngộ với định mạng chỉ có một lần trong đời.<br />

Người ta đến kịp hay không. Rồi thôi, không có lần thứ<br />

hai nữa. Ôi nụ hôn tuổi trẻ say đắm không gợn một vết<br />

buồn phiền, hồn nhiên như mây thì bay và chim chóc thì<br />

ca hát khi xuân thì vừa chín tới. Cái hạnh phúc tuyệt vời<br />

đó lẫn lẫn đâu trong nhân gian mà bỗng bị sớt ngang và<br />

cắn ghịt giữa hai cặp môi ngon, thành ra như giữ cả<br />

thiên thu ở lại. Tóc người trai bay lồng theo gió sớm, mặt<br />

người gái ngửa lên, hiến dâng và tay buông thỏng, chấp<br />

172


nhận. Cả hai như đã bỏ quên thế giới này, lánh mặt vào<br />

thế giới của riêng họ, bất kể thiên hạ chung quanh mặc<br />

tình dòm ngó. Vũ trụ chắc không có ai, không còn ai<br />

nữa. Trong một thoáng hai người đã nhập làm một và nụ<br />

hôn của họ có vẻ kiêu kỳ của một cơn gió lạ, bất<br />

thường. Ôi có phải hạnh phúc là cái khoảnh-khắc-đãqua-đi-ngay-khi-đang-nói-tới<br />

đó không mà người chụp<br />

ảnh tài hoa may mắn bắt kịp vào âm bản. Và thanh xuân<br />

nữa, có phải là cái thời khắc hiếm hoi chỉ được nhận-rakhi-đã-mất<br />

đi, bây giờ được đóng khung lại để treo trên<br />

bức tường kỷ niệm ...”<br />

173


Em, tôi, bạn bè chúng ta, những người tuổi trẻ của<br />

những năm 70, đã có mấy ai chụp bắt kịp cái khoảnh<br />

khắc tuyệt vời đó đâu em, cái khoảnh khắc hiếm hoi đến<br />

gần như không có thật. Hằng hà số còn lại, trong đó có<br />

tôi và em, đã để lỡ. Không phải tôi muốn đổ lỗi cho mớ<br />

giáo điều đã vây khốn chúng ta nhưng mà nghĩ lại coi,<br />

cái thời buổi kỳ cục đó. Chúng ta có quá nhiều trách<br />

nhiệm phải chu toàn ngoại trừ cái trách nhiệm với chính<br />

mình. Chúng ta lớn lên và sống cho đủ thứ đòi hỏi chỉ trừ<br />

cái đòi hỏi được sống cho riêng ta ...<br />

Rồi còn giặc giã, rồi cơn ly tán. Ai trong chúng ta đã tới<br />

kịp giờ hẹn của đời mình ...! ”<br />

Hình ảnh của một khoảnh khắc hạnh phúc được đông<br />

đặc để còn lại mãi mãi có phải là cái ước mơ vĩnh cữu<br />

của con người, của tôi, của bạn về một hạnh phúc trần<br />

thế rất đỗi mong manh mà thế hệ chúng ta đã để cho<br />

vuột mất.<br />

Thế hệ chúng ta đã hy sinh hay đã bị hy sinh, điều đó ai<br />

cũng biết. Cũng đã đành. Thì hãy để cho thế hệ sau<br />

được sống đời của họ, yên lành và sung sướng như<br />

chúng ta đã mơ ước cho mình.<br />

Nỗi sầu của ta đã vậy. Thêm một người nữa cũng chẳng<br />

bớt sầu hơn. Mà thiếu đi một người không chừng cuộc<br />

đời này có đáng yêu thêm chăng<br />

Vâng, thiếu đi một người sầu không chừng mùa xuân sẽ<br />

dài thêm một chút. Thêm nhiều người thôi sầu nữa cho<br />

174


mùa xuân cứ dài mãi thêm ra. Cho đến lúc cả mặt đất<br />

này là một mùa xuân bất tận.<br />

Vâng, xuân chính là ở lòng ta đó.<br />

175


... tựu trường,<br />

xa xứ<br />

Khám phá được sự có mặt của một nhân vật tiểu thuyết<br />

trong đời thật vẫn là một điều thích thú thầm kín của<br />

người đọc dù rằng điều đó chẳng ăn nhập gì hết đến giá<br />

trị văn chương của tác giả hay tác phẩm. Một chút vui<br />

phụ trội vậy mà.<br />

Trong một truyện ngắn tôi đọc đã lâu, kể chuyện những<br />

ngày đầu tới Mỹ của một gia đình Việt Nam sau cuộc<br />

chạy chết năm 75. Người cha, người mẹ và đứa con trai<br />

độc nhất lên sáu tuổi. Chuyện người lớn chắc ai cũng<br />

giống nhau, không nhiều thì ít. Còn chuyện đám con nít<br />

?<br />

176


Hình dung trở lại những năm bảy mươi-tám mươi, đứa<br />

bé ba-bốn-năm- sáu ... tuổi, rúc trong mình cha mẹ nó<br />

dưới những khoan ghe tối đen như mực và nghẹt ứ hơi<br />

người ... Và mịt mù sóng gió. Và chực chờ hải tặc. Và<br />

những đảo hoang trôi lênh đênh giữa góc biển với chân<br />

trời. Rồi trại tạm cư trên bãi bờ hiu quạnh. Chiếc chòi lá<br />

giữa đêm mưa rừng nhiệt đới. Những hạt cơm khô trộn<br />

lẫn với cát sỏi... Rồi đất mới tạm dung. Rồi định cư vĩnh<br />

viễn. Rồi sau đó cũng chính nó chạy lúc thúc bên chân<br />

cha mẹ cho kịp cuộc đuổi bắt một đời sống mới, lạ từ<br />

miếng ăn thức uống, lạ từ tiếng hỏi câu chào ... Nó nghĩ<br />

gì trong đầu khi thấy cha mẹ, người lớn tất bật làm lụng,<br />

tính toán, rầu rĩ, lo buồn ... đến nỗi như muốn bỏ quên<br />

nó luôn ... dù mục đích của cuộc chạy chết một phần<br />

cũng vì tương lai của chính nó.<br />

Nó thấy gì trong những giọt nước mắt trên mặt mẹ khi<br />

trên tay còn cầm lá thư nhòe chữ được gởi đi từ một xứ<br />

đã xa. Nó nghĩ gì khi ngó cặp mắt đăm chiêu của cha khi<br />

nhắc tới người thân còn kẹt lại đâu đó ... Tội nghiệp đứa<br />

nhỏ đã mất tuổi thơ khi chưa kịp lớn ...<br />

Hình dung trở lại những ngày tháng đầu ở xứ người,<br />

trong căn chung cư hẹp té, tồi tàn, và chung quanh thì<br />

đầy những khuôn mặt lạ, lạ từng cọng tóc đến vóc dáng,<br />

nhất là thứ tiếng nói đa âm với những âm sắc lạ tai xoắn<br />

xuýt nhau như một xâu chuổi ... Nó ra vào chơi đùa một<br />

mình, mớ đồ chơi xin ở nhà thờ, chiếc máy ti-vi mua ở<br />

tiệm đồ cũ ... giữa bốn bức tường cũ xì, ẩm mốc và chiếc<br />

cửa khóa kín sau khi cha mẹ nó từ sáng sớm đã vội vã<br />

177


xách hộp đồ ăn mỗi người mỗi hướng nhảy lên những<br />

chuyến xe buýt đầu ngày chạy băng ngang thành phố ...<br />

Hình dung trở lại, nó một mình tới bữa trưa lục tủ lạnh<br />

tìm miếng xăng-quít mà mẹ đã làm từ tối qua. Hình<br />

dung trở lại, bữa ăn trưa một mình, đứa con nít năm sáu<br />

tuổi. Hình dung trở lại những buổi sáng buổi chiều buồn<br />

tênh sau khi đã chán chê mớ đồ chơi cũ kỷ nhàm chán,<br />

bắt ghế dựa đầu vào khung cửa kiếng, từ một căn chung<br />

cư cao ngất, nhìn ngó ngu ngơ xuống cái miệng vực<br />

thẳng đứng giữa hai bức vách lầu cao ngất và xám ngắt,<br />

dưới đó xe cộ người ta qua lại huyên náo để hy vọng bắt<br />

gặp một dáng vẻ thân quen ...<br />

Hình dung trở lại bữa tựu trường đầu tiên không có<br />

sương-thu-và-gió-lạnh. Nó cũng mang cặp sau lưng<br />

nhưng không có bức-tượng-trắng-trong-vườn-Lục-xâmbảo<br />

làm bạn như khi cha mẹ nó tựu trường ... Bởi vì nó<br />

bắt đầu đi học ở một nơi không phải là quê hương của<br />

nó nữa ... Nghĩa là nó đã bị bứng khỏi cái gốc ruột rà của<br />

nó, cái gốc phải có của một đứa-bé-việt-nam với chuồn<br />

chuồn châu chấu, với tiếng dế ngoài bờ cỏ, với cánh diều<br />

giữa đồng trống, với ngõ trúc quanh co, với cầu tre lắt<br />

lẻo ... Nghĩa là nó bắt đầu đi học làm người, người Mỹ,<br />

người Canada, người Pháp, người Úc .. mặc dầu cha mẹ<br />

nó vẫn muốn trước hết và sau cùng nó mãi là người Việt<br />

Nam ... Có khó cho nó lắm không ?<br />

Hình dung trở lại mọi nỗi khó khăn lúng túng của đứa<br />

nhỏ giữa sân trường, trong lớp học khi chung quanh từ<br />

ông thầy đến bạn học không ai giống nó, nó cũng<br />

178


không giống ai, cái màu tóc cái màu da và nhất là cái<br />

tiếng nói ...<br />

Nghĩa là còn nhỏ xíu nó đã phải chiến đấu giống y như<br />

cha mẹ nó đã chiến đấu, tả xung hữu đột, để tìm một<br />

chỗ đứng có chút ánh sáng giữa một thế giới đầy những<br />

nhà chọc trời đã che kín hết mặt trời.<br />

Vậy đó, thằng bé đó đã chiến đấu, rất cô đơn ... dù đi<br />

học một mình, dù tan trường một mình, dù khi về nhà<br />

phải lục dưới tấm thảm chùi chân tìm chiếc khóa rồi<br />

nhón gót lách ca lách cách trật vuột mở cho được chiếc<br />

khóa cửa hoen rỉ ...<br />

Vậy đó, thằng bé đó đã chiến đấu, thầm lặng như nhiều<br />

đứa-bé-việt-nam cùng trang lứa với nó, trong những<br />

năm tháng lao đao đó đã chiến đấu cũng cô đơn và<br />

thầm lặng như vậy ... ở đâu đó, trên những xứ sở lưu<br />

vong ...<br />

Tên lính nhỏ đó - cùng với rất nhiều tên lính nhỏ khác -<br />

đã chiến đấu thay cho cha, cho chú bác nó trên một mặt<br />

trận khác để chứng tỏ với thế giới rằng đó không phải là<br />

tàn dư của một đội quân bại trận.<br />

Tên lính nhỏ đó - cùng với rất nhiều tên lính nhỏ khác –<br />

đã chiến đấu thay cho mẹ, cô dì nó trong một cuộc<br />

kháng chiến khác để cưỡng chống lại sức hút cuồng lưu<br />

của một xả hội tân tiến, và giữ cho được nguyên tính của<br />

giọt-máu-việt-nam.<br />

............................................................<br />

179


Hình dung trở lại tấm bằng khen đầu tiên nó mang từ<br />

trường về. Mắt cha nó vụt sáng. Mắt mẹ nó bỗng rướm<br />

giọt trong veo ...<br />

Hình dung trở lại đêm đầu tiên nó xa nhà để đến trọ<br />

trong một campus đại học. Cha nó vui và lo lắng. Mẹ nó<br />

mừng và lo lắng.<br />

Hình dung trở lại những chồng bài vở cao ngất, xếp qua<br />

bên để chạy tới quán ăn đầu đường chùi rửa từng chồng<br />

dĩa chén cao ngất, để khuya về chong đèn ôn luyện có<br />

khi tới hửng sáng rồi lại ôm sách vở chạy vội tới giảng<br />

đường. Hình dung trở lại những chiếc bánh pizza cha nó<br />

chạy giao qua phố xá vắng tanh lúc nửa đêm về sáng,<br />

sau tám giờ làm chính thức trong nhà máy để cho nó<br />

thêm chút tiền túi, phòng khi... Hình dung trở lại những<br />

đống vải mẹ nó ôm về từ hảng may, rồi chui vào một<br />

góc khuất, may luôn tới khuya lơ khuya lắc để sắm thêm<br />

cho nó chiếc áo lạnh khi gió đông đang vội vã thổi về.<br />

Hình dung trở lại ... Hình dung trở lại ...<br />

Hình dung trở lại ngày tốt nghiệp. Áo thụng mão mủ.<br />

Cha nó quằn vai vì sức trì của những kiện hàng quá khổ.<br />

Mẹ nó hấp háy tia mắt lợn cợn bụi mù từ những xưởng<br />

may kín mít. Cả hai sao bỗng quên hết nhọc nhằn !<br />

...........................................................................<br />

Còn nhiều chuyện để nói lắm, những chuyện để đời.<br />

Những đứa-bé-việt-nam lớn lên ở một chỗ không phải<br />

Việt Nam.<br />

180


....................................<br />

Nhưng thôi. Đủ rồi.<br />

Vấn đề là tên lính nhỏ can trường đó, những tên lính nhỏ<br />

can trường đó, đã chiến thắng, từng trận nhỏ, rồi trận<br />

lớn .. Cấp bằng đại học. Vị trí khả dĩ trong một xả hội dị<br />

chủng. Những đóng góp ít nhiều cho đất nước đã đem<br />

lòng cưu mang sau khi tương lai nó đã bị hũy diệt ngay<br />

trên chính xứ sở của nó từ sau cuộc bại trận của cha ông.<br />

Sự thành công đó còn là dịp cho cha mẹ chú bác nó,<br />

người đã chết, kẻ lưu lạc, người tù tội ... được có lần<br />

minh chứng cho lý tưởng mà họ đã xả thân để bảo vệ,<br />

dù có phải thất bại : con người chỉ được phát triển toàn<br />

vẹn trong một xả hội tự do và nhân bản.<br />

Tháng tám nhiều năm sau, nhân vật đứa-nhỏ trong<br />

truyện đã nhảy ra khỏi cái khung truyện cũ chật hẹp để<br />

bắt đầu viết cho chính nó một cái truyện mới, khung<br />

truyện lần này chắc chắn sẽ rộng lớn hơn, thênh thang<br />

những chân trời ... Truyện của nó có thêm nhân vật mới,<br />

tình tiết mới, như loại feuilleton đăng báo mà mỗi ngày<br />

được đánh dấu bằng mấy chữ ngày-mai-đăng-tiếp như<br />

một hứa hẹn những khai mở bất ngờ đầy thú vị.<br />

( nó đang làm như cha mẹ nó, bạn bầy trang lứa nó, gầy<br />

dựng và tiếp tục gìn giữ chút di sản ông bà, ở phần đất<br />

mới, rất xa mảnh đất quê hương )<br />

Này chú-bé-nhân-vật mà tôi đã cảm mến khi đọc truyện,<br />

chú can trường lắm !<br />

181


viết thêm<br />

Tháng 9 năm nay, tôi lại có dịp ghé qua một buổi lễ tựu<br />

trường. Trường tiểu học, học trò mới cũ trai gái ồn ào và<br />

lộn xộn như một bầy ong vở tổ. Đám quen mặt tụ năm<br />

tụ ba ríu rít hỏi han kể lể. Mấy đứa bé vừa từ một nhà trẻ<br />

gởi sang, níu riết tay cha mẹ ông bà đi những bước chân<br />

líu ríu như bầy sẻ nhỏ.<br />

Bất ngờ, rất bất ngờ, tôi gặp lại cậu-bé-nhân-vật cũ của<br />

tôi. Bao nhiêu năm qua rồi, từ đó. Đã bao nhiêu con<br />

nước xa dòng. Cũng chẳng hơi sức đâu mà đếm nữa. Chỉ<br />

biết trước mặt tôi là một người đàn ông trẻ, chững chạc,<br />

quần áo thẳng thớm, lịch sự. Cạnh bên là một phụ nữ tây<br />

phương, cũng chừng tuổi, da trắng tóc nâu và mắt có<br />

màu xanh biếc. Giữa hai người là một đứa bé trai, có làn<br />

da trắng của mẹ và màu tóc đen của cha, vừa đi vừa<br />

nhún nhảy theo bước chân người lớn. À, cậu-bé-con,<br />

nhân vật trong cái truyện ngắn theo cha mẹ bỏ nước,<br />

vượt biển chết tìm đất sống của gần ba mươi năm trước,<br />

vừa đi học chữ mới vừa ngọng nghệu tập nói tiếng nước<br />

mình. Đến hôm nay, ngày đầu một năm học mới, dắt tay<br />

đưa đến trường, đứa con đầu lòng, kết tinh của một sự<br />

phối ngẫu kỳ diệu giữa hai dòng máu lạ chảy từ hai lục<br />

địa mênh mông xui đâu mà gặp gỡ. Lắm khi cũng chỉ từ<br />

những trái ngang của lịch sử. Vậy mà rồi, đôi lúc lại là<br />

những kết cuộc có hậu, đẹp và vui như bất cứ một câu<br />

chuyện cỗ tích nào được kể bằng hai tiếng ... ngày xưa !<br />

182


Buổi sáng hôm nay, trên khắp cùng mặt đất, sẽ có bao<br />

nhiêu đứa trẻ việt-nam-vàng-trắng-đen-đỏ lần đầu theo<br />

cha mẹ tới trường để học đọc học viết thứ chữ không<br />

phải ... chữ-việt-nam. Điều đó có đáng buồn hơn nếu<br />

còn kẹt lại bên đó để bị nhồi nhét vào đầu thứ chữ nghĩa<br />

câu cú đã bị biến thái một cách quái gỡ đến đỗi người đi<br />

xa mươi năm sẽ phải ngỡ ngàng như Từ Thức khi lỡ bước<br />

về trần.<br />

Đó là chưa kể đến những dụng tâm đầy hậu ý đã loại bỏ<br />

hết những bài Việt sử vốn dĩ đã là và phải là những bài<br />

học vỡ lòng của bao nhiêu thế hệ người Việt, làm thành<br />

chất keo sơn kết chặt họ với đất đai xứ sở quê hương tổ<br />

quốc. Vậy mà ...<br />

Nhất là gần đây lại nghe tin có kẻ ( bọn ! ) lại còn muốn<br />

thay đổi cả cách viết, đánh vần ... của chữ quốc ngữ, thứ<br />

phương tiện duy nhất để phổ biến, gìn giữ, lưu truyền cái<br />

vốn liếng văn hóa đã ngàn năm của dân tộc. Thứ chữ<br />

viết đó đã là chiếc cầu bắt qua tấm lòng của bao nhiêu<br />

thế hệ, là cái gạch-nối người đời sau với muôn đời trước,<br />

cũng như chính là vốn liếng còn lại sau bao nhiêu chắt<br />

lọc nghiệt ngã của cả một dòng lịch sử đã quá đỗi trầm<br />

luân. Thứ vốn liếng đầy ắp bao nhiêu lời ân cần dạy dỗ,<br />

dặn dò ... của người đi trước đã khuất mặt để lại cho<br />

người tới sau còn biết đâu là gốc tích của chính mình mà<br />

hãnh diện mà chiến đấu để bảo vệ tới kỳ cùng nền độc<br />

lập và quyền tự chủ của một mảnh giang san đã giành<br />

được bằng bao nhiêu máu xương của từng bao nhiêu<br />

183


thế hệ. Từ ngàn ngàn câu ca dao tục ngữ vốn chỉ là<br />

truyền khẩu đến những bản hùng văn với hằng hằng câu<br />

chữ như đã được trích máu từ đầu ngón tay ra mà viết,<br />

từ những vần thơ minh triết ẩn tàng dưới nóc am mây<br />

trắng đến uẩn khúc đoạn trường bi thiết qua hơn ba<br />

ngàn câu lục bát mà hơn ba trăm năm rồi không phai lợt<br />

chút sắt son ... Còn nữa, còn Nguyễn Trải với Bình Ngô<br />

đại cáo lấy chí nhân thay cường bạo, còn Bà huyện<br />

Thanh Quan với thơ Đường mà hồn thơ không vướng<br />

bận chút luật thơ, còn Hồ Xuân Hương tinh quái với mớ<br />

chữ nghĩa léo lắt, còn khúc ngâm Cung Oán đài các, còn<br />

khúc ngâm Chinh phụ ngọt ngào như nước suối trong<br />

veo, còn bao nhiêu công trình nghiên cứu lịch sử địa dư,<br />

dịch thuật khoa học tư tưởng từ túi khôn của nhân loại<br />

mà hằng hà sa số tài năng của dân tộc đã nặn tim vắt óc<br />

để lại cho đời sau.<br />

Cả cái gia tài vô giá đó rồi còn được tồn tại tới ngày nay<br />

để con cháu có dịp học lấy sự tinh khôn, thấm nhuần<br />

được tấm lòng nhân hậu của cha ông, nối tiếp được tính<br />

quật cường của tiền nhân là do đã được ghi chép lại<br />

trong những văn bản kể từ khi có chữ viết.<br />

( Có cần kể ra không những khổ công của cả một lớp<br />

tiền nhân những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã tìm<br />

tòi chăm chút uốn nắn để biến thứ chữ mới tượng hình<br />

mà mục đích chỉ nhằm rao giảng đạo chúa trở thành<br />

một phương tiện học hỏi và sáng tạo cho cả khối dân<br />

tộc kịp chân bước vào thời đại mới. Những Trương Vĩnh<br />

Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Bá<br />

184


Học, Nguyễn văn Vĩnh ... rồi Phạm Quỳnh với tạp chí<br />

Nam Phong, rồi Tản Đà ngoài bắc Hồ Biểu Chánh trong<br />

nam... rồi ... v.v... và v.v... Kế đó tiếp nối những khai phá<br />

của những Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng<br />

Phụng ... với phong trào Thơ mới như sự ngửng mặt của<br />

một hồn tính việt nam thức tỉnh sau cả ngàn năm lệ<br />

thuộc vào ý hệ phương bắc ... Chữ nghĩa một ngày một<br />

dồi dào, mỗi lúc mỗi hoa gấm. Xảy đến cuộc chia cắt đất<br />

nước năm 54, nhưng ở miền nam là cả một trời sáng tạo<br />

nhằm phá vở mọi thành trì cổ điển để tạo nên những cổ<br />

điển mới ... Những đột phá của Mai Thảo với nhóm Sáng<br />

Tạo, Nguyên Sa với Hiện Đại, Vũ Khắc Khoan với Vấn đề,<br />

Nguyễn Khắc Hoạch với Thế kỷ Hai Mươi, Viên Linh với<br />

Khởi Hành ... những Võ Phiến, Đinh Hùng, Bình Nguyên<br />

Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đình Toàn, Tô Thùy Yên,<br />

Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy Vũ v.v ... và v.v...<br />

Làm sao kể hết ! Làm sao kể đủ ! Còn những người lính<br />

vừa đánh trận vừa viết truyện. Những anh học trò vừa<br />

học bài vừa làm thơ. Từ thành phố đến núi rừng, đâu<br />

đâu cũng rộn ràng những dòng chữ, những khám phá và<br />

những kết tinh. Thơ văn bay nhiều không thua lửa đạn.<br />

Còn nhiều nhiều lắm ! Làm sao kể hết ! Mà thật ra có kể<br />

hết được đâu nét tài hoa ngùn ngụt đó.<br />

Bây giờ tự dưng rồi đòi hủy bỏ thứ chữ viết ruột rà đó để<br />

thay bằng một loại qui ước mới chẳng hợp lý hợp tình<br />

mà cũng chẳng một mảy may cần thiết. Làm vậy chẳng<br />

khác gì thẳng tay chặt đứt chiếc cầu bắt qua triệu triệu<br />

185


tấm lòng dân Việt từ muôn đời trước đến ngần ấy đời<br />

sau.<br />

Lịch sử Việt đã trải qua hơn hai ngàn năm Bắc thuộc,<br />

trăm năm Pháp thuộc mà người Việt ở trong nước hay<br />

biệt xứ khắp cùng mặt đất, mà người Việt từ mấy ngàn<br />

năm trước đến người Việt của mấy ngàn năm sau còn<br />

hiểu được nhau, còn kết nối được nhau, còn có cơ liên<br />

lạc được nhau phải chăng chính là do thứ chữ Việt đã<br />

được sáng tạo, điểm xuyết và giảng dạy từ gần bốn trăm<br />

năm nay. Vậy hà cớ gì mà đòi đổi đòi thay. Vậy hà cớ gì<br />

mà muốn bứng cả gốc rể của một rừng đại thụ vốn toàn<br />

là gỗ quí.<br />

Nếu không vì thứ tự cao tự đại ngu xuẩn thì hẵn cũng vì<br />

một thứ mưu đồ đen tối nào đó.<br />

Dòng sinh mệnh của ngôn ngữ cũng y như của con<br />

người, cũng sinh diệt thăng trầm theo lẽ tự nhiên nhưng<br />

lẽ đâu không cố luyện cho tinh tuyền lại đem học-đòipha-trộn-chắp-vá-vay-mượn-quá-ư-ngu-xuẩn<br />

với thứ<br />

chữ của nước ngoài, nhất là thứ nước ngoài vốn dĩ đã là<br />

giặc trong từ hơn mấy ngàn năm lập nước và giữ nước<br />

của cha ông.<br />

v.v... và v. v...<br />

Còn điều gì để nói thêm, buổi hôm tựu trường trên một<br />

xứ sở tạm trú, cách xa nơi sanh đẻ hơn nửa vòng trái đất,<br />

nơi bên nây ngày lên thì bên kia đêm xuống, nơi có<br />

những đứa-trẻ-việt-nam từ sanh ra đã có cha mẹ ông bà<br />

186


cứ tha thiết móm cho nó ê a từng dấu giọng sắc-huyềnhỏi-ngã-nặng<br />

dù không phải không biết mai kia mốt nọ,<br />

thứ tiếng mẹ-đẻ-cha-đẻ đó cũng chỉ còn là những hoài<br />

vọng về một gốc gác đã mù. Nhất là trong một thế giới<br />

đang trên đà tiến bộ bằng những đôi-hia-bảy-dặm.<br />

Dẫu vậy, họ vẫn ru, vẫn ầu ơ ... từng khuya hôm, vẫn<br />

móm đút từng trưa sớm ... từng tiếng từng chữ ... dẫu<br />

biết rằng ... dẫu biết rằng ... !<br />

Vui thêm hay buồn thêm, buổi sáng tựu trường này, lần<br />

thứ bao nhiêu trong đời tôi, biệt xứ !<br />

187


tranh CAO HÀNH KIỆN


Lời trần tình<br />

của người thầy cũ<br />

trích ...<br />

...........<br />

1.<br />

Tại sao đến hôm nay tôi lại viết những dòng này ?<br />

Những dòng chữ lẽ ra phải được viết từ nhiều năm trước.<br />

Tại sao tôi đã giữ kín trong lòng hơn suốt hai mươi mấy<br />

189


năm nay những điều tôi sẽ nói bây giờ. Bởi vì tôi thấy nó<br />

tầm thường, quen thuộc đến nhàm chán. Nó hao hao<br />

giống với hàng trăm hàng ngàn câu chuyện đã được kể<br />

ra. Câu chuyện về một quê hương bị bức tử, của hai<br />

mươi lăm triệu người bị tước đoạt quyền sống một cách<br />

ngang nhiên, tức tưởi. Câu chuyện tôi kể có khác không ?<br />

Chắc là không ! Chỉ thay đổi một cái tên, một nhân dáng<br />

là có một câu chuyện đời thương tâm, quen thuộc đến<br />

độ cái thương tâm khó còn làm xúc động ai nữa. Tội<br />

nghiệp cho tôi, tội nghiệp anh, tội nghiệp em, những con<br />

người đã quen với cái bất hạnh đến thành dửng dưng,<br />

quen với cái tan nát đến độ chai lì. Tội nghiệp trái tim<br />

Việt Nam đã quá độ cằn cỗi.<br />

Vậy tại sao tôi còn viết. Tại sao trong cái buổi chiều nắng<br />

nhạt ở một thành phố ven biển miền tây nước Mỹ, bỗng<br />

nhiên tôi gặp lại em, người học trò cũ. Người thiếu phụ<br />

trên dưới 40, trong bộ âu phục lịch sự đã đến chào tôi<br />

bằng tiếng thầy vốn quá xa lạ từ hơn hai mươi năm nay,<br />

giữa một nơi lạ lẫm đến từng cọng cỏ ngọn cây, đã làm<br />

tôi thảng thốt đến độ sững sờ. Em đó sao, cô học trò<br />

ngày xưa rụt rè như thỏ con, cứ mỗi lần được gọi trả bài<br />

là mắt như rươm rướm, ngồi im như pho tượng nhỏ,<br />

thành khẩn và tin cậy, nghe tôi mở đầu bài giảng Chinh<br />

phụ bằng cái hình ảnh tuyệt vời của tiếng trống trận dập<br />

dồn làm lay động cả bóng trăng xưa. Cái cô học trò nhỏ<br />

vẫn thường tung tăng chiếc áo dài chưa-biết-sầu trong<br />

những quán bán quà vặt ngoài cổng trường, vẫn thường<br />

len lén cắm vội cánh hoa tươi lên bàn thầy như một lời<br />

190


cám ơn nhỏ nhẹ và kín đáo. Tại sao hôm đó, giữa những<br />

lời thăm hỏi nồng nàn hay dửng dưng, giữa nỗi ngậm<br />

ngùi của một thân quen gặp lại, nỗi hụt hẩng của một<br />

cái tên biệt tích, cái náo nức của một lời hẹn tái ngộ, em<br />

bỗng hỏi tôi một cách điềm đạm và ân cần, điềm đạm<br />

như cánh hoa dại ngắt vội bên đường và ân cần như<br />

ngón tay vụng lén cắm vội lên góc bàn viết, em đã hỏi<br />

tôi :<br />

-Vậy chớ thầy đã sống ra sao từ hai mươi mấy<br />

năm nay ?<br />

Câu hỏi bỗng làm tôi giựt mình. Tôi đã sống ra sao từ hai<br />

mươi lăm năm nay ? Có lần nào tôi đã hỏi mình như vậy<br />

? Cuộc sống như dòng sông phẩn nộ, cuốn phăng ta đi<br />

không-nghĩ-lại-qua-đêm ! Người xưa đã nghĩ vậy, bây<br />

giờ tôi thấy còn đúng hơn nữa. Con sông Việt Nam chảy<br />

tẻ thành triệu nhánh, có nhánh dài nhánh ngắn, nhưng<br />

nhánh nào cũng chảy miết xa nguồn. Có lần nào mỏi mê<br />

chèo chống ta ngó lại đời ta ? Bến nước nào bỏ lại ? Bãi<br />

bờ nào đành đoạn xa ? Những cầu sương điếm cỏ !<br />

Những quán khách dặm trường ! ... Có một lần nào ngồi<br />

lại ta tính toán đời ta chưa ? Những được thua còn mất !<br />

Những ân oán nợ nần ! Ta đã làm được gì đời ta ? Hai<br />

mươi lăm năm qua mãi miết như tên bại tướng lọt giữa<br />

vòng vây, tả xung hữu đột, đến lúc kiếm gãy cờ tan mà<br />

vòng thù còn trùng điệp, tự dưng sao thấy lòng ngao<br />

ngán chỉ muốn buông tay ngồi bệt xuống vệ đường, bật<br />

khóc. Bởi lẻ, trong phút giây, tất cả rồi ra sẽ nhạt nhòa<br />

như một cái gì không có thật.<br />

191


Tôi đã sống thế nào trong những năm qua ? Sao bỗng<br />

dưng tôi thèm được một lần tâm sự dù biết rằng ở giữa<br />

lòng ốc mượn, có nói gì cũng không hết tang thương.<br />

Hai mươi lăm năm có phải đã đủ khoảng cách và bình<br />

tĩnh để nhìn lại một chặng đường.<br />

Tôi, thằng sinh viên 19 tuổi năm 65 đến trường Văn Khoa<br />

để lang thang ngoài hành lang lộng gió thường hơn<br />

trong giảng đường chật nứt, đã ngồi ở quán cà-phê Văn<br />

lâu hơn ở thư viện, vẫn viết vội những câu thơ bất chợt<br />

lên góc mấy bao thuốc lá rồi bỏ quên đâu đó mất biệt,<br />

đã chảy nước mắt nghe Khánh Ly đi chân trần hát tôi-cóngười-yêu-chết-trận-Ba-gia<br />

... trên nền đất cũ cạnh<br />

đường Lê Thánh Tôn, đã đọc ngấu nghiến truyện Bắt trẻ<br />

đồng xanh của Salinger suốt một đêm thức trắng, đã đi<br />

trình diện vào trường Đại Học Sư Phạm với chiếc quần<br />

jean bạc thếch và đầu tóc dài ngổ ngáo, đã ngồi mò<br />

mẫm học nắn nót từng nét chữ tàu và cũng hay lang<br />

thang ngoài phố để nghe người nhạc sĩ già oằn người<br />

thổi bản Summertime lúc nửa đêm về sáng. Thằng thanh<br />

niên lạ lùng, tên giáo sư trẻ ra trường năm vừa hai mươi<br />

ba tuổi, lãng mạn như một bài thơ tình, đứng đắn -hay<br />

cố gắng đứng đắn- như một nhà giáo lão thành, với<br />

những mâu thuẩn trùng trùng đó đã sống thế nào từ hai<br />

mươi lăm năm nay ? Từ cuộc đổi đời năm ấy ?<br />

... Lệnh đầu hàng từ Sài Gòn loan ra trưa ngày 30 tháng<br />

4 năm 1975. Lời báo dữ như tiếng sấm trái mùa làm nổ<br />

192


tung giông bão đang giậm giựt giữa thinh không. Lòng<br />

người cũng giống thinh không buổi đó, ngầy ngật cơn<br />

nóng sốt thời cuộc, âm ỉ một niềm lo nghĩ không nguôi.<br />

Người ta chờ đợi một cái gì đó xảy ra, một cái gì mơ hồ<br />

không dám nghĩ tới vậy mà cứ lẩn quẩn trong đầu. Từ<br />

vài tháng gần đây, tin tức chiến sự và chính trị mỗi ngày<br />

mỗi tồi tệ. Mùa mưa sắp đến. Cộng quân chuẩn bị đánh<br />

lớn như mọi năm. Ở Sài Gòn thì năm phe bảy phái rình<br />

rập nhau tranh giành quyền hành. Rồi Cao Miên và Lào<br />

lần lượt thất thủ. Rồi miền Trung di tản. Cao nguyên bỏ<br />

ngỏ. Từ giữa tháng ba, những chiếc bè mỏng manh chở<br />

người lánh giặc từ vùng giới tuyến đã bắt đầu tấp vào bờ<br />

biển Phan Thiết, Vũng Tàu. Người ta xầm xì bàn tán về<br />

một giải pháp liên hiệp, những cắt đất chia ranh, hoặc tệ<br />

hơn nữa, một đảo Phú Quốc như trạm tự do cuối cùng<br />

cho đám người cùng khổ. Người ta lo lắng, nghi ngại, hy<br />

vọng rồi thất vọng, rồi lại tiếp tục lo lắng, nghi ngại ...<br />

Những người có tiền của, quyền thế thì chộn rộn sửa<br />

soạn cho một chuyến đi xa. Còn đa số tiếp tục sống<br />

trong nỗi hoang mang, trì trệ. Trường học vẫn còn mở<br />

cửa nhưng chỗ ngồi đã thưa trống dần. Sợ chờ đợi kéo<br />

lê ngày tháng một cách mệt nhọc.<br />

Cho đến buổi trưa ngày 30, trời đất bỗng như tan tành<br />

trong một giây một phút. Lệnh buông súng xắn xả như<br />

viên đạn bắn trúng ngay tim. Trong một chốc, cả miền<br />

Nam như ngừng thở. Người ta sửng sốt, bàng hoàng,<br />

ngây dại như tỉnh như mê. Người ta thử nghe đi nghe lại<br />

như cố nghĩ mình nghe lầm, như có một cái gì đó không<br />

193


thật. Mọi người chết điếng nhìn nhau, lẳng lặng, thất<br />

thần. Rồi bỗng như một cơn đau kích xúc mãnh liệt ùa<br />

tới, mọi người chợt hiểu. Cái không dám nghĩ tới đã tới.<br />

Tới thật. Đến lúc đó, nỗi sợ hãi như một cơn gió lạ thổi<br />

rút vào người, luồn theo mạch máu làm tê liệt châu thân,<br />

căng thẳng đầu óc, cổ khô, miệng đắng, chân tay rời rã.<br />

Người ta biết không phải chiêm bao, người ta biết mình<br />

đang ở giữa một sự thật, cái sự thật mạnh hơn cả đạn<br />

trái phá, nổ tung hết cả ước mơ của một đời người, giựt<br />

sập hết mọi niềm tin của bao thế hệ. Người ta cảm thấy<br />

chới với, hụt hẩng, ngơ ngác, bối rối ... Người ta đổ túa<br />

ra đường, chạy vội về nhà, nhốn nháo một cách vô ích<br />

như chỉ để có một cái gì đó để làm, như chỉ để lấp đầy<br />

cái khoảng trống khủng khiếp vừa hiện ra giữa đời sống,<br />

trong lòng người.<br />

Miền Nam chống giặc từ 30 năm không phân thắng bại,<br />

vậy mà tự dưng sụp đổ trong vòng 55 ngày. Dân theo<br />

quân kéo nhau chạy chết, dẫm đạp lên nhau, trong khi<br />

đạn thù xối xả đuổi sau lưng, xác bỏ sình thối bên vệ<br />

đường mù bụi hay trôi tấp theo sóng biển vật vờ.<br />

Địa ngục ở một chỗ rất gần và rất thật !<br />

Anh nghĩ gì, hởi người lính trẻ, khi anh kê súng tự bắn<br />

vào đầu, buổi sáng ngày 30 bên chân cầu xa lộ. Có phải<br />

cái hình ảnh cuộc tháo chạy thảm hại của cả một chế độ<br />

đã làm anh hổ thẹn ? Hay cái cao ngạo sừng sững của<br />

hồn thiêng sông núi đã không cho anh khuất nhục ? Cái<br />

194


chết của anh có phải là lời cảnh cáo hay chỉ là lời nhận<br />

lỗi của cả một thế hệ bị hy sinh ?<br />

Có ai còn nhớ không anh ?<br />

Vậy đó mà miền Nam mất.<br />

Vậy đó mà dâu bể tang thương.<br />

Người cộng sản vào thành phố với lời phủ dụ ngon ngọt<br />

không-đụng-tới-cây-kim-sợi-chỉ của người dân. Tuy<br />

nhiên thực tế khác xa cả trời cả vực. Ai cũng biết sẽ có<br />

nhiều thay đổi nhưng không ai ngờ sự thay đổi rốt ráo và<br />

tàn tệ tới vậy. Người ta bắt đầu một cuộc tàn phá mới<br />

sau 30 năm tàn phá đất nước và con người bằng súng<br />

đạn. Cuộc chiến tranh hũy diệt mới, ít ồn ào hơn, cũng<br />

không kém phần tàn độc. Bằng những âm mưu thâm<br />

hiểm và những tính toán xảo quyệt mà người ta đã tìm<br />

cách quân-bình-hóa hai miền nam-bắc, thay vì tìm cách<br />

nâng cao đời sống của miền Bắc, người ta lại kéo tụt đời<br />

sống của miền Nam xuống cho ngang tận mức kiệt<br />

cùng. Bằng cách nào thì cũng không che giấu được cái<br />

tâm lý hèn hạ nhỏ nhen vì ghen tức của đám lãnh tụ mất<br />

lương tri, sôi sụt ý muốn trả thù trước một miền Nam<br />

phồn thịnh dù vừa xây dựng vừa phải chống giặc. Song<br />

song với những cuộc đổi tiền- một hình thức phá giá<br />

đồng bạc- những cuộc cướp giựt tài sản của tư nhân<br />

được ngụy danh là cải tạo kinh tế xả hội, gom hết mọi tài<br />

lực, vật lực và nhân lực của đất nước vào trong tay một<br />

nhóm người vừa ngu dốt vừa cuồng tín, người cộng sản<br />

tổ chức một cuộc tráo đổi “ vĩ đại’’ và “ ngoạn mục ”.<br />

195


Hằng ngày, hằng đêm từng đoàn xe vận tải bít bùng,<br />

những chuyến xe lửa dài thậm thượt vội vội vàng vàng<br />

tháo gỡ máy móc, dụng cụ tân tiến cồng kềnh chở rầm<br />

rộ về Bắc, để rồi chở quay ngược vào Nam những đoàn<br />

bộ đội ngờ nghệch, những cán bộ xảo quyệt, những<br />

đám dân nghèo đói từ hai-mươi-năm-xả-hội-chủ-nghĩa,<br />

đổ xô vào những thành phố mới chiếm để tiếp tục cuộc<br />

vơ vét, xin xỏ, tráo trở, mua rẻ, hăm dọa ... đủ kiểu đủ<br />

cách gom góp từ cái chén, đôi đủa, cái đồng hồ, chíếc xe<br />

đạp, cái ti-vi ... đến căn nhà, dãy phố ... Cùng lúc, nhà tù<br />

được ngụy danh là trại cải tạo mọc lên như nấm dại,<br />

trong thành phố, ngoài đồng hoang, hay tít trên những<br />

vùng rừng sâu nước độc. Bằng thông báo chỉ thị mập<br />

mờ, nhà cầm quyền mới lừa gạt đưa vào tù hàng trăm<br />

ngàn quân nhân công chức của chế độ cũ trong khi<br />

hàng giờ hàng phút, từ miệng những chiếc loa treo mắc<br />

khắp hang cùng ngỏ hẻm ra rả những lời bao dung<br />

khoan hồng hòa họp hòa giải ... Sau những cuộc sàng<br />

lọc, kẻ nhốt trong Nam, người đày ra Bắc. Từng đoàn tù<br />

chất chồng trên những toa tàu chở súc vật chạy băng<br />

băng trong đêm tối kinh hoàng, từ Nam ra Bắc, đổ<br />

xuống và dẩn giải qua những xóm làng xa lạ và thù<br />

nghịch. Hai bên đường, dân chúng được tổ chức, xúi giục<br />

chửi rủa ném đá vào những xác người tả tơi thất thểu.<br />

Cuộc trừng phạt trả thù không kể ngày tháng, người tù<br />

không danh số, không bản án một khi bước vào trong<br />

cổng trại tự nhiên biến mất như chìm lẫn vào những<br />

rừng cây bạt ngàn, mất hút trong những đồi núi chập<br />

chùng, không còn lại chút dấu vết. Thế giới không hay<br />

196


iết -hay không muốn biết đến- dãy quần-đảo-ngục-tù<br />

nằm mênh mông ngay trong lòng đất nước như một vết<br />

chàm ô nhục. Ở đó người tù bị bỏ đói ngày này sang<br />

tháng khác đến độ phải ăn cả côn trùng, củ dại để sống<br />

sót, phải lượm mót từng bao cát mục nát để chắp vá che<br />

thân, phải lao động khổ sai bằng tay không và chân trần<br />

đến kiệt lực. Ở đó, bệnh hoạn không một viên thuốc, cô<br />

lập bít kín mọi tin tức bên ngoài, người tù còn phải chịu<br />

đựng một cuộc tra khảo tinh thần thường trực bằng<br />

những màn tự khai, tự thú, phản tỉnh ... Đã không ít<br />

người còn có dịp trở ra.<br />

Địa ngục trần gian có ở một nơi rất gần và rất thật.<br />

197


trích ......<br />

.........<br />

2.<br />

Và để chấm phá thêm cho đủ nét bi-hài của vở-tuồnggiải-phóng,<br />

tôi và một số đồng nghiệp cũng bị bắt đi tùcải-tạo<br />

với một tội danh hết sức ngộ nghĩnh : “ dạy học<br />

trò thi đậu tú tài để đi sĩ quan đánh phá cách mạng (sic)”.<br />

....................<br />

Nhiều đêm, nằm trằn trọc trên tấm tôn lạnh buốt, trong<br />

ngôi đình làng được biến thành trại tù, tôi bật cười khan<br />

khi nghĩ tới tội danh “ khôi hài ” đến chết người này. Hóa<br />

ra từ mấy năm nay dạy cho học trò lòng nhân ái, nghĩa<br />

yêu thương, tình bằng hữu, biết thưởng thức cái đẹp, tôn<br />

trọng sự chân thực ... là một cái tội. Tội chi mà tội lạ. Như<br />

vậy nếu theo đà lý luận này thì phải sát nhân, căm thù,<br />

phản trác, lật lọng mới là “ cách mạng ”. Nghĩ mà thương<br />

cho mớ chữ nghĩa của cha ông bị bóp méo vo tròn<br />

trong thời đại dối trá.<br />

....................<br />

Giữa đêm oan khuất mịt mờ âm khí của trại giam, tôi cứ<br />

thao thức, mắt mở trao tráo, lăn lộn với những thắc mắc<br />

không lời giải đáp. Tại sao cuộc chiến 30 năm ? Tại sao<br />

198


hòa bình ? Để làm gì đống xương vô định đó ? Chẳng lẻ<br />

để đánh đổi sự lệ thuộc này bằng sự lệ thuộc khác, tệ hại<br />

hơn cả vạn vạn lần ?<br />

....................<br />

Trong những lúc cùng quẩn nhất, sao tự nhiên tôi nhớ lại<br />

cặp mắt thất thần của người thi sĩ vô danh trong cuốn<br />

phim Docteur Djivago chiếu ở Sài Gòn mới vài năm<br />

trước. Trên chuyến xe lửa chở tù đi lưu đày xuyên Tâybá-lợi-á<br />

vào thời kỳ cộng sản cướp chính quyền ở nước<br />

Nga, chen chúc giữa đám tù nhân nằm ngồi la liệt như<br />

cá đóng hộp, anh cố nhoi mình chen sát kẽ vách nhìn<br />

cho được con trăng cô đơn trắng lạnh, treo ở một góc<br />

trời. Cặp mắt mở trừng trừng mà như trống hoác, sâu<br />

thăm thẳm. Đôi con ngươi bất động như cố chụp bắt<br />

cho được con trăng đang chạy vun vút ngược đường tàu.<br />

Chắc anh nghĩ sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại vầng trăng<br />

lãng mạn đó nữa khi đất nước anh đã lọt vào bàn tay<br />

của lũ sát nhân. Sao tôi không quên được cặp mắt đó dù<br />

nhiều năm đã qua. Cặp mắt ngơ ngác, buồn rầu, bơ vơ<br />

đến tuyệt vọng. Tia nhìn như hai ngọn đèn hiu hắt chiếu<br />

rọi qua dặm trường thất lạc, như một thú nhận cho sự<br />

bất lực của những giá trị tinh thần trước cơn bạo hành<br />

của lịch sử. Cặp mắt như một hoi hóp của lương tri, báo<br />

hiệu cho thời đại suy tàn của con người. Sao cặp mắt cứ<br />

nhìn tôi chòng chọc ngay trong cơn mê mệt rã rời. Tôi<br />

thấy mình hấp hối như con cá mắc cạn, chờ chết. Và dân<br />

tộc tôi, dân tộc tôi cũng đang hấp hối chờ chết trong mẻ<br />

lưới khổng lồ đó.<br />

199


Những câu hỏi “ tại sao ” cứ tiếp tục dằn vật, làm khổ tôi<br />

trong cuộc sống tù đày vốn đã không có gì dễ chịu.<br />

Những ngày tù kéo dài lê thê nhùng nhằng một cách vô<br />

tội vạ. Đúng y theo chủ trương bắt-lầm-hơn-tha-lầm,<br />

những người cầm quyền mới không biết phải giải quyết<br />

ra sao số phận của chúng tôi sau khi đã bắt nhốt vào<br />

đây. Càng lúc tôi càng cảm thấy buồn bực chua chát. Có<br />

dịp tiếp xúc với những cán bộ chính trị và quân sự của<br />

họ, tôi càng thấy vô lý cuộc bại trận của miền Nam và<br />

càng thêm bi quan cho những ngày sắp tới. Mức độ học<br />

vấn ấu trỉ, trong khi ý thức chính trị vừa cuồng tín vừa<br />

nông cạn của họ sẽ đưa đất nước tới đâu ? Có lúc nghe<br />

họ nói chuyện, tôi có cảm tưởng đang đứng trước một<br />

đám người máy, lập đi lập lại y nguyên, không sai một<br />

dấu phẩy, không sót một dấu chấm những điều đã được<br />

cấy nhét vào bộ óc của họ, y như một con két nói líu lo<br />

mà không biết mình nói gì. Rồi ra chúng ta sẽ sống ( hay<br />

chết !) ra sao với những người chủ mới, cầm quyền với<br />

mớ kiến thức cạn sớt, lòng hẹp hòi đầy mặc cảm và nhất<br />

là đường lối chính trị lỗi thời ? Rõ ràng chúng ta đang<br />

sống vào một thời kỳ oái oăm của lịch sử, mới hết tang<br />

thương này đã vội sang đoạn trường khác. Những trái<br />

ngang đã liên tiếp xô đẩy bao nhiêu thế hệ người Việt<br />

vào cảnh chết chóc phân ly và bây giờ gọi là hòa bình,<br />

chúng ta vẫn tiếp tục phân ly thù hận. Chúng ta sẽ tiếp<br />

tục ly tán như vậy cho tới bao giờ. Cái cảnh một người<br />

học trò cũ, trước giấu mặt như một kẻ nằm vùng nay là<br />

một cán bộ thành danh, tình cờ đến gặp tôi, đứng trò<br />

chuyện bên kia hàng rào kẻm gai một buổi trưa giáp tết<br />

200


có phải là tiêu biểu cho nỗi oan trái đó không ? Đứa học<br />

trò mà tôi đã dạy liên tiếp ba năm từ lớp đệ tam đến đệ<br />

nhất. Đứa học trò đã cùng tôi tranh luận về những chủ<br />

nghĩa chính trị xã hội khi ngồi đón mặt trời mọc ở bãi Đá<br />

bàn một buổi sớm cắm trại ngoài hòn Sơn rái. Nó có<br />

một cái tên khá đặc biệt mà tư tưởng và hành động đã<br />

làm tôi nghi ngờ - không, tôi biết chắc là có liên hệ với<br />

phía bên kia. Tại sao tôi giữ kín trong lòng mối bí mật đó<br />

? Tại sao tôi không báo với nhà trường ? Với chính quyền<br />

? Tôi đồng ý với nó ? Chắc chắn là không. Thương nó ?<br />

Có thể có. Nhưng ở cương vị một người thầy, tôi có làm<br />

công việc điềm chỉ đó được không ? Điều tôi giữ kín có<br />

phải không ? Và như vậy tôi sẽ nói thế nào về người em<br />

họ, 19 tuổi, chuẩn úy vừa ra trường được 6 tháng, lãnh<br />

nguyên một tràng đạn AK trong đêm hưu chiến tết Mậu<br />

Thân, chết không kịp kêu lên một tiếng má ơi, chết mà<br />

chưa có được một người yêu để biết thương nhớ. Sự kín<br />

miệng của tôi có phải là một phản bội trắng trợn với<br />

những người bạn đồng lứa đã lặn lội ngày đêm trong<br />

những cánh rừng tranh dài bạt ngàn, những đầm lầy lún<br />

sâu tới ngực, cả tuổi thanh xuân nặng trình trịch ba-lô<br />

súng đạn, máu mồ hôi và nước mắt, ngày di hành tối<br />

nằm tiền đồn, để giữ an ninh cho một thành phố, một<br />

ngôi trường được yên lành học tập, một ngôi chợ được<br />

yên lành mua bán.<br />

Tôi sẽ nói gì về người vợ trẻ mà cuộc sống lứa đôi chỉ là<br />

ngày tháng đợi chờ, về người góa phụ mới hai mươi tuổi<br />

ẳm đứa con sơ sinh đi nhận xác chồng, về những người<br />

mẹ người cha suốt đêm van vái khi nghe xa tiếng đại bác<br />

201


vọng về, về viên đạn trái pháo bắn ngay vào trường lớp<br />

Cai Lậy, về những hầm chôn người tập thể ở Huế, về trái<br />

lựu đạn nổ ngay giữa phiên chợ đầu xuân ... và sẽ nói gì<br />

với người bạn tù đang oằn oại dưới đòn thù tàn độc<br />

trong các trại lán cheo leo. Tôi sẽ trả lời ra sao với người<br />

phế binh đang lê lết ăn xin ngoài phố chợ ?<br />

Có lời nào để biện hộ cho cái thái độ im lặng đó ?<br />

Câu hỏi quái ác như cái mỏ nhọn hoắc của loại dị điểu<br />

quặp cứng trái tim của tôi, rỉa rói để tìm cho được câu trả<br />

lời. Nhưng có câu trả lời nào đâu em ! Ai nói được cho<br />

tôi thái độ của người học trò cũ, người cán bộ của tỉnh<br />

ủy bây giờ, nếu đổi ngược vai trò, có sẽ giữ kín “ bí mật ’’<br />

của người thầy cũ dưới thời “ công an trị ”.<br />

Ai sẽ giải thích giùm tôi về thái độ cầu an, thờ ơ, thụ<br />

hưởng của người-dân-hậu-phương suốt cuộc chiến 30<br />

năm, cuộc chiến tranh gọi là toàn diện mà mỗi gốc cây<br />

là mìn bẩy, mỗi bãi cỏ che giấu một hầm chông tẩm độc,<br />

mỗi lời nói là một âm mưu, mỗi hình ảnh là một dàn<br />

dựng thâm hiểm ...<br />

Ai sẽ giải thích giùm tôi những trác táng của đêm Sài<br />

Gòn xa hoa, những nhớp nhúa của tối Chợ Lớn trụy lạc,<br />

những đồng bạc mua nửa miệng cười gái nhảy bằng cả<br />

tháng lương của anh binh nhì gạo sấy lương khô ngày<br />

này sang tháng khác ...<br />

Ai sẽ nói giùm tôi về ông tướng hối lộ, ông dân biểu<br />

buôn lậu, những ông trí thức ngồi xa-lông bàn chuyện<br />

quét dọn xã hội, những tuyệt- thực-tự-thiêu, những bãikhóa-xuống-đường,<br />

những ký-giả-bị-gậy-đi-ăn-mày,<br />

những phong-trào-đòi-quyền-sống v.v... và v.v... Ai sẽ<br />

202


chỉ rõ cái trách nhiệm của tôi, của anh, của chị, của<br />

chúng ta trong cơn đổ vở này?!<br />

Có ai không ? Hay chỉ là những im lặng đồng lõa, những<br />

nín thinh cam phận, những lãng tránh vu vơ, hay chỉ là<br />

những đổ thừa tệ bạc, những trốn chạy hèn nhát ... Và<br />

tôi, tôi đã đóng vai trò gì trong vở tuồng trường hận đó<br />

?!<br />

Cái trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta đến đâu,<br />

làm sao tính toán đo lường được. Chỉ thấy rõ một điều là<br />

ngày hôm đó, người học trò đứng bên kia hàng rào, phía<br />

kẻ chiến thắng, và tôi bên này, phía bại trận, người thầy<br />

đã từ chối làm một-việc-cần-làm. Hằng hà sa số côngviệc-cần-làm<br />

khác đã bị bỏ lỡ, bị từ chối, bị trốn tránh ...<br />

Và bây giờ cuộc tháo chạy, sự đổ vở, cảnh tù đày, nỗi<br />

tiếc hận có phải là cái giá của một nền đạo đức mà tôi<br />

đã được nuôi dạy, của một tình tự mà tôi đã nghe ru từ<br />

thuở nằm nôi. Cái nhân nghĩa mà người bên này đã chọn<br />

lựa, đã chiến đấu để bảo vệ cho dù đó là một trong<br />

những đầu mối của cuộc thất bại trong cuộc chiến<br />

trường kỳ giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai .<br />

Ai sẽ trả lời ? Và trả lời ra sao cho câu hỏi oái oăm đó ?<br />

Những ngày cuối năm, trời bỗng trở lạnh bất thường,<br />

lạnh như miền Nam chưa từng có. Tối tối đám tù tụ năm<br />

tụ bảy nhúm củi khô mót lượm từ chiều để sưởi ấm.<br />

Ngọn lửa rọi chập chờn từng mặt người ủ dột. Ai nấy<br />

buồn thắt dạ bởi không ai biết được ngày về. Cái lạnh kỳ<br />

cục chui rút vào xương tủy làm như để nhắc nhở con<br />

đường khổ nạn nằm ngay chính trong ta. Sân trại rộng<br />

203


mênh mông, rải rác vài đóm lửa hiu hắt, mập mờ mấy<br />

bóng người quấn khăn mền sùm sụp im lìm đi tới đi lui<br />

trông không khác gì cảnh âm ty mộ địa. Đó lại là lúc dễ<br />

chịu nhất trong ngày của một người tù, bóng tối trở<br />

thành người bạn thân thiết, đồng lõa, sẵn sàng che giấu<br />

giùm ta mọi điều thầm kín. Ban ngày, ngay cả những lúc<br />

cuốc đất đào mương dở rào phá cổng, những cặp mắt<br />

cú vọ của bọn vệ binh, quản giáo nhìn ta gườm gườm<br />

như đã thù nhau từ muôn kiếp. Mọi cử chỉ, mọi ý nghĩ<br />

đều phải thận trọng kềm giữ nếu muốn tránh khỏi bị<br />

cùm chân hay nhốt vào thùng sắt biệt giam. Đêm về, chỉ<br />

còn ta và bóng tối. Đêm về chỉ có ta và gió và mây và tất<br />

cả những gì mà chế độ mới cấm đoán. Và nhất là những<br />

câu thơ kêu gào trong đầu khi giấy bút đã bị tước đoạt,<br />

tự do đã bị cướp mất. Những ngày đó tôi làm từng câu<br />

thơ vụn vặt, rời rạc giữa hai nhát cuốc, giữa mấy gánh đá<br />

nặng còng lưng, lẩm nhẩm thầm trong đầu cho khỏi<br />

quên, đợi đến đêm về trong bóng tối chập choạng, tìm<br />

cách chắp nối gói ghém lại thành bài. Những bài thơ<br />

lóng lánh từng giọt mồ hôi và nước mắt nhục nhằn.<br />

Tôi ba mươi tuổi chết không mồ<br />

Giữa trái tim nồng nhát chém khô<br />

Đã khóc Khuất Nguyên thời trẻ dại<br />

Mắt giờ cay xé chuyện dời đô<br />

Tôi viết điếu khúc cho tôi, cho anh em, cho bạn bè tôi,<br />

cho một dân tộc vừa bị bức tử. Tôi viết điếu khúc cho<br />

người còn sống hay đã chết. Tôi viết luôn cho người<br />

204


chưa sanh ra, bởi vì đất nước mà tôi để lại cho em sẽ<br />

không còn là cái quê hương hiền lành với tình người rạt<br />

rào như sóng lúa và đậm đà như sông nước phù sa. Tôi<br />

đã khóc không thành nước mắt hay chính là nước mắt đã<br />

chảy ngược vào lòng, khô quắt. Vì đúng ra có giọt nước<br />

mắt nào đủ mặn cho cuộc tang thương này.<br />

Ôi vết thương sầu tận đáy tim<br />

Năm năm vật vã nỗi đau chìm<br />

Đêm đêm máu gọi trường thiên hận<br />

Dậy lúc tàn trăng lạnh bóng đêm<br />

Cái vết thương không bao giờ lành. Cái vết thương còn<br />

mưng mủ nhiều năm về sau nữa.<br />

205


trích .......<br />

.........<br />

3.<br />

Sau hơn một năm nhốt lên nhốt xuống và chuyển từ trại<br />

tù này sang trại tù khác tôi được thả ra khỏi cái nhà tù<br />

nhỏ để đẩy vào cái nhà tù lớn hơn ngoài xả hội, cũng vô<br />

cớ như khi bị bắt đi tù.<br />

Kể từ hôm đó, tôi sống lưu vong ngay trên chính đất<br />

nước tôi !<br />

..................................................<br />

............................................<br />

.....................................<br />

Không ! Người ta không còn quê hương khi không còn<br />

thấy liên hệ gì nữa với mảnh đất vườn rau, công viên phố<br />

xá ... nhất là với nếp tinh thần đang bị ép uổng theo một<br />

thứ chủ nghĩa vừa ngoại lai vừa quái đản. Cuộc sống từ<br />

đó bị hạ thấp xuống ngang hàng thú dữ.<br />

Từ đó, bị dồn vào đường cùng, người Việt miền Nam bắt<br />

đầu tìm lối bỏ nước ra đi, bằng đường bộ hay bằng<br />

đường biển thì cũng chỉ là tuyệt vọng hóa liều, một kiểu<br />

đi tìm cái sống trong cái chết. Đi mà không biết chừng<br />

206


nào đi. Đi được rồi không biết chừng nào tới. Nếu tới<br />

cũng không biết tới đâu. Chưa kể những bẫy gài, những<br />

gạt gẫm, những mìn chôn ở bìa rừng, những đồn bót<br />

hiểm hóc, những dãy đá ngầm khôn dò, những mùa<br />

chướng không chừng đổi, đám hải tặc chực chờ và sau<br />

hết biển cả như một người tình phản trắc. Ở lại để chết<br />

dần mòn hay bỏ đi để chết dấp dúi ở một bờ bãi nào<br />

đó, người ta chọn cách thứ hai với chút hy vọng mỏng<br />

còn hơn sợi chỉ mành treo chuông. Vậy mà người ta vẫn<br />

tìm đủ cách để ra đi, bán nhà bán cửa, trốn chui trốn<br />

nhủi, nhịn đói nhịn khát để ra đi. Những người Việt mà<br />

nếp sống ngàn đời dính liền với ngọn rau tấc đất, với mồ<br />

mả ông bà, những người Việt mà đạn bom mấy chục<br />

năm không tách rời họ ra được khỏi làng xóm, mà thiên<br />

tai bão lụt chỉ làm họ nặng lòng hơn nữa với quê hương,<br />

đến cùng cũng dứt bỏ ra đi. Quả nhiên câu chuyện “ Hà<br />

chính mãnh ư hổ ” đâu phải chỉ có trong sách xưa thôi<br />

đâu. Đến cuối thế kỷ 20 người ta vẫn không sợ gì hơn sợ<br />

chính trị hà khắc. Người dân Việt vốn quen cực khổ như<br />

đã ngàn năm cực khổ với quê mẹ nghèo nàn, vẫn bám<br />

vào mảnh đất cằn cỗi như gốc tre già bấu rễ trong lòng<br />

đất, có nghiêng ngã theo gió bão, nhưng vẫn ở đó, dẻo<br />

dai, bền bĩ, an nhiên tự tại. Có ai bỏ đi đâu, đời này sang<br />

đời khác, dính liền như núm ruột. Vậy mà lần này bỏ đi<br />

thiệt, cắt ruột mà đi.<br />

Tôi đã thấy những cơn đau cắt ruột đó. Có thật trong<br />

mắt bà mẹ dặn dò gởi gắm đứa con trai 10 tuổi cho<br />

người quen dắt trốn. Có thật trong cái siết vai vội vã của<br />

người chồng chia dẩn hai con đi trước để lại hai đứa cho<br />

207


vợ đợi chuyến sau. Có thật trong cái lạy tử biệt cha mẹ<br />

già. Có thật trong cái vuốt mắt cho đứa em kiệt sức giữa<br />

rừng. Có thật trên xác thân trần truồng của em gái bị<br />

luân phiên hãm hiếp ở đảo Ko-Kra. Có thật ... Mà đúng<br />

ra làm sao tôi thấy hết được hằng hà cơn đau cắt ruột đó<br />

? Hơn 10 năm, bao nhiêu người ra đi, bao nhiêu người tới<br />

được một bãi bờ nào đó, còn bao nhiêu người đi mà<br />

không tới, hay tới mà không kịp lên bờ vì thuyền lật chìm<br />

ngay nơi bãi đến !<br />

Ở đảo Bi-đông, trên một góc đồi ngó cheo leo ra biển<br />

cả có một nghĩa trang sơ sài và những nấm mộ không<br />

tên. Ở đó ngày đêm gió heo hút thổi, cây cỏ lần lữa<br />

vàng,<br />

Ở đó, trại đã đóng cửa, người ta đã bỏ đi hết, những<br />

núm đất chắc đã lạn mất, những mộng đời bỏ dỡ, giữa<br />

đường...<br />

Tôi cũng bỏ xứ ra đi năm 80. Thuyền ra bến khoảng 3giờ<br />

sáng. Đêm mịt mù như tấm lòng bỏ lại. Tiếng máy chạy<br />

rì rầm không át được tiếng sóng vổ ngược rập rền. Khi<br />

thuyền chui ngang Cầu đúc để ra biển, sao bỗng nhiên<br />

tôi nghe tim nhói đau. Có phải không, tôi đang chạy trốn<br />

lần nữa cái trách nhiệm của mình. Năm năm ở đó, dò la<br />

nghe ngóng, hy vọng rồi thất vọng, tôi chẳng làm được<br />

gì ngoài cái việc tự cứu mình. Đất nước của tôi, đất nước<br />

của em, chúng ta bỏ lại mặc dầu có ai không tiếc<br />

thương. Xứ sở bị kềm kẹp nghẹt thở, bên kia biển là tự<br />

do hy vọng. Mọi người bỏ đi là lối thoát cho mình.<br />

Nhưng còn đó nguyên vẹn một cơn đau, còn đó đầy ứ<br />

những uất nghẹn. Ai sẽ cởi ách giùm ta nếu không phải<br />

208


là ta ! Một vài nhen nhúm phản kháng bị dập tắt trong<br />

trứng nước. Rồi thôi, coi như một việc đã rồi, mọi sự đã<br />

an bày, mọi người đều yên phận. Gục đầu ở lại hay cúi<br />

đầu bỏ đi cũng chỉ là chấp nhận một tình trạng không<br />

chấp nhận được. Chắc tại ta bất tài thiếu đức. Hay tại ta<br />

không đủ niềm tin. Hay vì cuộc chiến đã kéo dài quá<br />

mức, dài hơn cả độ dài của những tấm lòng trung kiên<br />

nhất, đến lúc kể cả những cánh tay rắn chắc và dẻo dai<br />

nhất cũng đành bỏ mặc buông xuôi ... Nước mất, chúng<br />

ta đành làm kẻ thất phu bỏ trốn. Chúng ta lần lượt bỏ đi,<br />

kẻ trước người sau, bất kể nguy hiềm kề cận từng bước.<br />

Cả thế giới khâm phục nỗi nhục nhằn mà người ra đi đã<br />

gánh chịu. Tuy nhiên đi mà em thơ còn thiếu bầu sửa<br />

ngọt, đi mà cha mẹ già còn bữa cháo bữa rau, đi mà cả<br />

nước vẫn tiếp tục chìm đắm trong cảnh ngu dốt nghèo<br />

đói, vẫn tiếp tục sống trong sự đối đãi bất nhân ... thì<br />

quả thật có phải là đầu hàng thêm một lần thứ hai nữa ?<br />

Sao ngày trước có Việt Câu Tiễn nằm gai để đừng quên<br />

nỗi nhục mà nay kẻ sĩ ít người còn chịu nếm mật để nhớ<br />

hận xưa Có phải tại phần số dân ta không ? Hay chính vì<br />

tại chúng ta là một dân tộc quá mau quên, lại còn nhẹ<br />

dạ !<br />

Tôi cũng vậy, tôi đang bỏ đi xa đây, hởi quê<br />

hương khốn khổ !<br />

Bốn ngày sau, thuyền tới đảo Bi-dong. Con thuyền nhỏ<br />

và mỏng như chiếc lá khô đổ lên bãi 90 người mất hồn,<br />

209


mệt lã. Chân lảo đảo vì say sóng, đầu còn lao đao giữa<br />

mộng và thực, bỗng nhiên tôi ứa nước mắt khi nhìn thấy<br />

lá cờ cũ bay phần phật trên cổng trại giữa một ngày gió<br />

lớn. Màu vàng lợt lạt, vải tưa sút sổ như đã treo ở đó từ<br />

lâu lắm, chắc đâu từ ngày người tỵ nạn đầu tiên đặt chân<br />

lên đảo. Chỉ có ba lằn gạch đỏ là còn đậm nét, cuốn bay<br />

ngoằn ngoèo, vùng vằng như thể vẫn còn giận dữ. Cái<br />

màu vàng đã phai, mấy lằn gạch đỏ còn đậm sao bỗng<br />

làm tôi khóc. Có phải tại tôi nhìn thấy màu vàng xơ xác<br />

đó trên màu da của tôi, của những người bạn đồng<br />

thuyền đang bở ngở dắt dìu nhau lê lết lên bãi, của<br />

những người đồng cảnh đến trước đang nhốn nháo kéo<br />

đến hỏi han tìm kiếm, của hàng trăm ngàn người đồng<br />

tình đang lưu lạc lang thang trong các trại tỵ nạn, và của<br />

hàng triệu triệu đồng bào tôi còn đang oằn oại ở xứ<br />

ngục tù. Có phải tại tôi nhìn thấy mấy lằn đỏ đó như mấy<br />

vệt máu tươi trên xác anh xác chị nằm chết la liệt vì<br />

miểng đạn pháo dọc Đại lộ kinh hoàng, vì viên đạn bắn<br />

sẻ lẻ loi từ một gốc cao su bên đường 13, vì trái mìn bẫy<br />

hèn hạ và mù lòa không phân biệt được một quân xa<br />

hay một chiếc xe đò chở dân đi chợ sớm. Có phải tại tôi<br />

thấy màu đỏ đó giống như màu máu đang chảy mệt<br />

nhọc trong huyết quản tôi, cũng giống y như màu máu<br />

đã chảy lênh láng trên đất nước tôi suốt ba mươi năm<br />

qua một cách vô lý và vô ích. Có phải không chính màu<br />

cờ đó mà anh đã tập chào kính ngay từ tuổi mới đến<br />

trường, đã theo anh suốt những năm tháng dài đi giữ<br />

nước, đã gói ghém thi hài anh buổi đưa anh vào lòng<br />

đất, bây giờ đây lá cờ đó đang bay vật vờ trên một đảo<br />

210


hoang ở giữa chừng biển lạ. Sao tôi thấy có một cái gì<br />

thảm thiết lắm. Sao tôi thấy chừng như mình quá đỗi bội<br />

bạc. Những người đã chết không còn vui hay buồn.<br />

Nhưng những kẻ còn sống làm sao vui được !<br />

Tôi mang nặng cái tâm tình đó đi định cư ở một vùng<br />

đất lạnh. Ở đây có những tháng mùa đông dài như bất<br />

tận. Gió đồng không khô khốc thổi tuyết bay mù mịt.<br />

Trời xám ngắt làm thèm nhớ một giọt nắng tươi. Mỗi lần<br />

ra đường là áo khăn trùm quấn sùm sụp từ đầu đến<br />

chân, nhiều năm sau vẫn không quên được cái hơi nóng<br />

nồng nàn của trời đất cũ, đêm chiêm bao cứ thấy đi về<br />

ngồi quanh bếp lửa quê nhà. Nhưng riết rồi cũng quen,<br />

quen cả cái lạnh nứt da bỏng thịt, quen với mùa màng<br />

chộn rộn, quen với nếp sống tất bật đến nỗi không có<br />

thì giờ để buồn tủi. Ban ngày làm công cho một tiệm<br />

buôn của Tàu, tối chạy giao hàng cho tiệm ăn của Ý.<br />

Cuộc sống kể ra cũng tạm yên. Số tiền kiếm được nhín<br />

nhút cũng đủ cho mấy miệng ăn ở đây và một phần<br />

chăm đút cho cha mẹ còn kẹt ở đó. Nghĩ ra cũng đáng<br />

công băng sông vượt biển ! Mấy năm đầu qua mau như<br />

sợi giây đàn căng cứng, sống chẳng kịp đắn đo. Nhưng<br />

rồi càng sống càng thấy mình lệch lạc. Nhiều khuya một<br />

mình lái xe về qua mấy con phố vắng hoe, lòng bỗng<br />

nhiên chùng xuống như sợi giây đàn lỏng phiếm, có khảy<br />

lên cũng chẳng nghe được tiếng nào ra hồn. Chẳng lẻ<br />

trầy trật chạy chết thoát sang đây để suốt đời bương chải<br />

lo cho mấy cái miệng ăn, còn lời hẹn lớn ngày bỏ ra đi<br />

sao chẳng lo được cho trót. Theo đuổi lắm lần rồi cũng<br />

211


chỉ thấy còn lại toàn đắng cay. Những lời thề xưa nghe<br />

sao thơn thớt ở đầu môi. Bạn đồng tâm một ngày một<br />

vắng vẻ. Có lắm khi giữa buổi chuyện trò chợt lỡ lời nhắc<br />

chuyện ngày xưa cũng đủ làm đôi người khó chịu. Mấy<br />

năm lận đận gồng mình nuôi thân nuôi con và nuôi chí<br />

cả chỉ làm mình thành cô đơn hơn nữa. Dường như đã<br />

không ít người quyết tình quên phứt cho đỡ phiền toái.<br />

Thật ra nói mà không trách được ai. Cái nợ nước nặng<br />

bằng non bằng biển, có một thời hình như ai cũng nhớ<br />

cũng mang. Nhưng rồi chuyện quê hương mà có lúc<br />

đem rao bán, đổi chác làm sao cho khỏi chán chường.<br />

Người thiên hạ cũng giống như chim bị tên sợ ná, đôi lần<br />

đem tấm lòng son gởi gắm, việc lớn đã không thành thì<br />

chớ, lắm khi lại thấy cảnh xôi thịt tranh giành, thử hỏi làm<br />

sao giữ cho bền chí được. Chắc tại căn phần của đất<br />

nước ta. Hay như đã nói tại chính chúng ta, chúng ta là<br />

một dân tộc quá mau quên. Có phải không, hãy thử nghĩ<br />

lại coi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ cha bỏ mẹ đã xẻ thịt<br />

cho ta chào đời, đã vắt cạn bầu sửa lép cho ta kháu<br />

khỉnh, đã còng lưng cho ta đứng thẳng lên làm người,<br />

đến ta khôn lớn mẹ cha mòn mõi mắt mờ chân yếu ta lại<br />

bỏ mà đi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ trời bỏ đất đã che<br />

chở cưu mang, đã cho ta hạt cơm ngon, mùi hương lạ,<br />

đã cho ta biết tình đầu ngây ngất, biết nghĩa nặng vợ<br />

chồng, đã cho ta bạn bè chung thủy, dạy ta biết buồn<br />

vui, nhớ thương, hờn giận ... và còn bao nhiêu thứ khác<br />

nữa mà ta sẽ không bao giờ tìm được ở một nơi không<br />

phải là quê hương. Vậy mà đến chừng đất nước hoạn<br />

nạn, ta lại bỏ xứ mà đi. Đi như vậy đâu phải như người<br />

212


Tàu ở Đài Sơn Phúc Kiến đi tìm miếng ăn manh áo, rồi<br />

đến lúc phú quý thì “áo gấm về làng”. Dĩ nhiên không ai<br />

chối cãi cái chén cơm ăn từng bữa, nhưng đánh đổi hết<br />

núi sông bằng miếng thịt cá, thì kể ra cũng đáng thẹn<br />

thùng. Quên lửng món nợ mà ta đã vay là không tròn<br />

chữ “tín”. Tay bắt mặt mừng với kẻ thù hôm qua là không<br />

tròn chữ “ nghĩa ”. Làm người không có “ tín nghĩa ” thì<br />

lấy gì mà ngẩng mặt lên đối đãi với đời !<br />

Rõ ràng từ 25 năm trước, chính chúng ta đã lên tiếng kêu<br />

gào vang dội bằng những cuộc vượt biên hãi hùng làm<br />

cả thế giới rúng động. Cuộc-bỏ-phiếu-bằng-chân như<br />

một trả lời dứt khoát ngay mặt lũ tuyên truyền láo khoét,<br />

mở toang cánh cửa khóa kín che đậy thực-tế-Việt-Nam<br />

cho nhân loại có dịp nhìn thấy mặt thật của cái-gọi-làlương-tâm-loài-người<br />

mà người cộng sản vẫn luôn<br />

miệng rêu rao. Nếu chúng ta đã không trực tiếp đánh<br />

đuổi được bạo quyền thì ít nữa chúng ta cũng đã gián<br />

tiếp làm một việc cần-làm, biểu lộ tối thiểu ý thức phản<br />

kháng của một dân tộc tự trọng. Ít nữa cha mẹ ta cũng<br />

đỡ phần tủi hổ, bạn bè ta cũng có chỗ gởi lòng và đất<br />

nước ta còn có cơ hy vọng. Rõ ràng thế giới đã mở cửa<br />

đón chúng ta như những người trốn chạy độc tài. Rõ<br />

ràng lòng hào hiệp đó là một vinh danh cho ý thức tự<br />

do. Chúng ta đến đệ tam quốc gia như những người tỵnạn-chính-trị.<br />

Sao không giữ lấy niềm hãnh diện đó dù là<br />

một hãnh diện rất tội nghiệp. Bởi vì dẫu sao đó là chút<br />

liêm sĩ còn sót lại của một dân tộc có lịch sử và văn hiến<br />

lâu đời.<br />

Vậy thì sao nay lại kéo nhau về ?<br />

213


Tại sao lại kéo nhau về khi tình thế vẫn giống y như ngày<br />

bỏ ra đi ? Làm như vậy có phải chính tay ta bôi lấm cái<br />

hình ảnh đầy cảm tính của người-thuyền-nhân trong<br />

lòng thế giới. Chúng ta có đang làm bẽ bàng những ủng<br />

hộ trước đây hoặc gây ngộ nhận đáng tiếc rằng mọi sự<br />

đã thay đổi tốt đẹp ở đó. Mỗi bước đi về hôm nay là một<br />

bước đi xa thêm cái ước vọng mà mỗi người ở bên này<br />

hay bên kia đã thắc thẻo trông ngóng từ một phần tư<br />

thế kỷ nay.<br />

Trở về như vậy có phải là đầu hàng thêm một<br />

lần thứ ba nữa !<br />

Em thấy đó người ta đang lũ lượt kéo nhau về, thản<br />

nhiên như mới bỏ đi hôm qua hôm kia. Thản nhiên như<br />

không có gì đã xảy ra ở giữa lòng ta hay ở bên kia biển<br />

lớn. Làm như những nấm mồ la liệt đã lạn mất dưới ba<br />

tấc cỏ, những trại tù đã hết sạch, những hờn oán đã tiêu<br />

tan. Làm như xác tàu nằm chơ vơ trên bờ bãi hoang vu là<br />

bộ xương cá mục, những trinh tiết rơi rớt trên đảo hoang<br />

mọi rợ là cái giá phải chăng, những xác chết trôi dập rã<br />

rời trên đầu sóng dữ chỉ có trong ác mộng. Làm như<br />

chuyến vượt biên bán sống bán chết là cuộc du ngoạn<br />

đồng tình và lý thú. Làm như cái chuyện anh em ta, bạn<br />

bè ta bị đày đọa đến bỏ xác trong các trại tập trung sau<br />

khi đã buông súng là hợp công lý, cái chuyện nhẫn tâm<br />

mua bán xua đuổi hàng triệu người ra biển dữ là thuận<br />

đạo trời, cái sách lược chèn ép kềm giữ con dân trong sự<br />

tối tăm ngu dốt là hợp lòng người !<br />

214


Tại sao lại hăm hở kéo nhau về khi mà mọi sự mọi việc<br />

mọi chuyện mọi thứ mọi lối mọi cách mọi kiểu mọi điều<br />

... vẫn ù lì trì trệ như nước ao tù hãm đã ù lì trì trệ từ<br />

ngàn ngàn năm xưa năm xửa. Thử bình tâm mà xét coi.<br />

Từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội vẫn rặt một bài<br />

bản cũ xì, mốc thếch, lỗi thời mà thiên hạ bốn phương<br />

đã đào huyệt chôn bỏ từ đời nào. Cái đau lòng là ngay<br />

tại đất mẹ của nó, người ta cũng đã sáng mắt phủi bỏ<br />

cái chủ nghĩa tàn hại bất nhân đó như phủi bỏ một loài<br />

sâu nhặng ghê tởm thì tại Việt Nam những đầu óc cầm<br />

quyền già nua tối ám vẫn khăng khăng cứng đầu cứng<br />

cổ nhắm mắt nhắm mủi quơ quào bám riết lấy, cương<br />

quyết theo đuôi như chưa bao giờ cương quyết đến vậy.<br />

Trong khi cả thế giới đang hào hứng lên đường cho kịp<br />

vận hội mới, thì tại Việt Nam họ vẫn bịt mắt bịt tai tiếp<br />

tục chằng giữ dòng sinh mệnh của dân tộc, tiếp tục trì<br />

kéo dân lành đi cho hết cuộc trầm luân. Những chiêu bài<br />

“ đổi mới ”, “ cởi trói ” chỉ là những giả vờ làm mà mắt kẻ<br />

ngây thơ, còn thật sự thì tiếng nói của lương tâm chỉ có<br />

thể cất lên đằng sau những chấn song tù ngục.<br />

Có ai nghĩ rằng về như vậy là mặc nhiên thỏa hiệp với<br />

độc tài, là tiếp tay bóp chết cái phôi dân chủ còn trong<br />

trứng nước. Tại sao lại rủ rê kéo nhau về, vô tư như một<br />

chuyến đi chơi xa. Làm như chốn đó là một nơi nào xa lạ<br />

lắm, chẳng có một chút liên hệ ruột rà. Làm như tai điếc<br />

mắt mù nên không thấy cái sinh hoạt “ ồn ào và náo<br />

nhiệt ” hiện nay chỉ là mặt nổi của một xả hội tuyệt vọng<br />

đến độ buông thả, cái kiểu ăn chơi “ chết bỏ ” chẳng cần<br />

215


iết đến ngày mai. Bên cạnh đó, đại đa số thì nghèo đến<br />

độ cũng thành ra buông thả, chạy ăn từng bữa nên cũng<br />

chẳng còn biết đến ngày mai. Bởi vì có một ngày mai<br />

nào đâu để lo, có một ngày mai nào đâu để chuẩn bị.<br />

Người ta sống qua ngày nào hay ngày nấy, không một<br />

mảy may hy vọng vào tương lai. Đó có phải là một trong<br />

những lý do mà chúng ta phải bỏ đi. Tại sao trước đó<br />

không chịu nỗi mà bây giờ trở về lại khứng chịu ? Hay tại<br />

cảnh tình lam lủ đó không có ta, chẳng dính dáng gì đến<br />

vợ con ta, nên mắt ta bàng quang, lòng ta thanh thản.<br />

Vậy chớ còn nỗi nhục của lần trốn chạy ? Nỗi căm hận<br />

cuộc bách hại cha ông ? Nỗi đớn đau thắt ngặt của<br />

nghèo đói và ngu dốt ? Chẳng lẻ 25 năm đã làm mòn trí<br />

nhớ để thấy thù là bạn. Hay thật sự ta chỉ là một đám<br />

cùng dân mòn đầu tha phương cầu thực, không ý thức<br />

chẳng lý tưởng, đến khi có đồng tiền rủng rỉnh thì tìm về<br />

khoe áo gấm, để thỏa mãn cái sở thích “ sadique ” chỉ<br />

khoái lạc khi thấy người chung quanh đau khổ.<br />

Dĩ nhiên ai cũng có cha mẹ già cần về phụng dưỡng, em<br />

út cần bảo bọc. Nhưng có cần thiết và hợp tình không đi<br />

thưởng lãm vịnh Hạ Long, lăng tẩm Huế, phố xá Sài Gòn<br />

... nhởn nhơ phè phỡn như một đoàn du lịch dư ăn dư<br />

mạc, khi hai bên đường sông núi vẫn xác xơ, cây cỏ còn<br />

buồn rầu và lòng người nặng nề uất hận. Anh hay chị có<br />

gặp không, dài theo tam cấp mấy ngôi đền, lấp ló sau<br />

mấy hàng cột, từng bầy trẻ nhỏ lang thang chờ đợi mấy<br />

đồng bạc bố thí của anh chị, mà lẻ ra giờ đó phải ngồi<br />

trong lớp học. Có một cái gì không ổn, có một cái gì trục<br />

trặc, phải không ? Anh hay chị có lần nào ăn uống linh<br />

216


đình trong một nhà hàng sang trọng mà trước cửa hàng<br />

chục đứa bé lem luốt đang chực chờ vét hột cơm thừa<br />

húp tô canh cặn của anh chị không ? Có một cái gì quá<br />

bất nhẫn, phải không ? Có khi nào anh chị thả dài nhởn<br />

nhơ trên bãi biển Vũng Tàu Nha Trang Phan Thiết để<br />

nhìn cái hoạt cảnh của những cô gái bán hàng rong và<br />

bán luôn cả thân xác. Có lần nào được nghe kể lại về<br />

những trò chơi của đám du khách Việt kiều trong các căn<br />

phòng khách sạn dành cho người nước ngoài chưa ?<br />

Những đồng đô-la được thảy ra để trả giá từng bộ phận<br />

trên tấm thân phụ nữ trần truồng giữa tiếng cười sặc sụa<br />

hơi rượu thịt. Ngay cả với một cô điếm thập thành, cái<br />

trò mua bán đó đã là một cái gì quá ư tàn nhẫn. Biết đâu<br />

cô gái đó đã không là nạn nhân của một chế độ mà<br />

chính chúng ta nhờ nhanh chân hơn, nhờ may mắn hơn<br />

đã chạy thoát. Đùa giỡn như vậy có phải là đùa giỡn trên<br />

chính sự tan nát của lòng ta không ? Dòm quanh coi có<br />

những lối rẽ nào cho những cuộc đời khốn khổ đó ? Vẫn<br />

những mặt người thờ thẫn, những cặp mắt u ám, những<br />

lưng còng tóc rối, những chân tay khẳng khiu, những xác<br />

thân gầy đét, những cuộc đời buồn hiu ... Xứ nào cũng<br />

có người nghèo đói, nhưng tại sao người nghèo đói ở xứ<br />

mình không có một chút may mắn nào để thoát ra. Dòm<br />

quanh coi những trường học, nhà thương, đường xá, cầu<br />

cống ... đã có gì là dấu hiệu của một sự phát triển đúng<br />

đắn có kế hoạch cho một tương lai lâu dài chưa ? Hay<br />

chỉ là những vá víu tạm thời, chụp giựt, những chương<br />

trình sớm thay chiều đổi hoặc là những bày biện vẽ vời<br />

cốt để trám cho đầy bảng thống kê, nhất là để trám cho<br />

217


đầy cái túi tham không đáy của bọn người man trá. Ngó<br />

suốt từ nam ra bắc có tìm ra được một dấu hiệu nào cho<br />

lòng thành khẩn, ân cần của kẻ cầm quyền lo cho con<br />

dân như những thời thịnh trị.<br />

Như vậy tại sao lại rầm rộ kéo về ?<br />

Có phải tại chúng ta là một dân tộc quá nhẹ dạ. Mới<br />

nghe giở cái giọng o bế đòi nối liền “ khúc ruột ngoài<br />

ngàn dặm ” là đã mũi lòng, mà không chịu nhớ đến<br />

hằng chục triệu “ ruột thịt ” khác vẫn còn đang tiếp tục bị<br />

chèn ép thắt buộc đến mức oằn oại ở trong nước. Tại<br />

sao họ không lo nối cho liền lạc những khúc đời tơi tả<br />

đó, mà lại phải tốn công vòng vo đi níu kéo những kẻ đã<br />

bỏ trốn, đã bị giáng cho cái tội phản quốc tày trời, đôi<br />

khi năm lần bảy lượt mới vượt thoát sau khi đã bị cướp<br />

hết từ vòng vàng đến nhà cửa, nhất là nhân phẩm của<br />

một con người. Hay là tại vì những kẻ đó đã “ hết ” phản<br />

quốc vì trong túi đã có chút đỉnh đô la sau nhiều năm<br />

cày cục ở xứ người. Và vì vậy, một sớm một chiều trở<br />

thành khúc “ ruột tượng ” của chế độ. Người ta nhân<br />

danh hai chữ dân tộc không ngượng miệng, kêu gào đến<br />

thảm thiết đám con dân đã bỏ trốn ở nước ngoài, vốn dĩ<br />

đã bị chèn ép xua đuổi không chút xót thương trở về để<br />

tiếp tế, hợp tác, xây dựng lại đất nước sau khi đã thẳng<br />

tay tàn phá và vẫn đang thẳng tay vơ vét, hưởng thụ trên<br />

đầu trên cổ của đám dân đen còn kẹt lại, những tài<br />

nguyên nhân vật lực đang có sẵn. Nghĩ ra thấy trân tráo,<br />

vô luân một cách thảm hại.Vậy mà vẫn có những chuyến<br />

trở về !!!<br />

Vâng, vẫn có những chuyến trở về.<br />

218


Người ta vẫn ngang nhiên đi về qua lại vui chơi, mua<br />

bán, làm ăn chẳng một chút bận lòng. Vẫn tiếp tục qua<br />

lại cửa quan với tờ giấy năm, mười đô-la kẹp giữa sổ<br />

thông hành, vẫn tiếp tục coi tờ giấy bạc như tấm danh<br />

thiếp “ passe-partout ”. Và như vậy, mặc nhiên tiếp tục<br />

thông đồng với nhà cầm quyền, phát triển và nuôi<br />

dưỡng một hệ thống tham nhũng hối lộ chằng chịt, tiếp<br />

tục nuôi béo cho những cánh tay bạo lực đang bóp cổ<br />

bịt miệng đám người thấp cổ bé miệng, tiếp tục nuôi<br />

béo cho những bàn chân bạo lực đang dẫm đạp lên<br />

những phận người vô tội – hay chính là thân phận của<br />

anh em bạn bè quyến thuộc của chính họ còn kẹt lại.<br />

Điều đáng nói là người ta coi việc làm đó như một<br />

chuyện đương nhiên, không thắc mắc, chẳng bận tâm.<br />

Một chuyện tầm thường như trăm ngàn chuyện tầm<br />

thường nhất. Nhưng mà có thấy không, cái bi đát là đến<br />

một lúc cái tầm thường đó nổi tiếng như một đặc-điểmviệt-nam<br />

. Chúng ta có thấy ray rứt gì không ?<br />

Hai mươi lăm năm đã qua, qua nhanh như một cơn lốc.<br />

Tôi đã già đi nhiều. Những mộng ước cũng theo tóc bạc<br />

dần. Chuyện nước non vẫn còn đó, nguyên vẹn. Mười<br />

lăm năm trước tôi đã kết thúc một bài thơ bằng cái hình<br />

ảnh tuy cay đắng nhưng nghe còn rạo rực :<br />

Ta lơ láo giữa bầy chim múa rối<br />

Làm sao về trổi kịp khúc hoan ca ?<br />

Mới gần đây tôi lại viết, nhưng sao chỉ thấy buồn hiu :<br />

219


Ôi đất nước có còn vui kịp<br />

Một đời tôi héo úa từng giờ !<br />

Thơ tôi cũng bắt đầu thấm mệt như đời tôi vậy. Hai mươi<br />

lăm mất nước. Hai mươi năm lưu lạc rồi còn gì. Chữ hiếu<br />

không tròn mà chữ trung cũng không trọn. Nghĩ lại còn<br />

thua kẻ thất phu ngậm than rửa hờn cho chủ cũ. Nhớ<br />

đến Bá Di Thúc Tề chẳng chịu ăn rau Chu mà thêm thẹn<br />

với đời.<br />

Chuyện lớn không làm được, chuyện nhỏ càng thêm vụn<br />

vặt. Ngó quanh quất chỉ thấy lệ cũ đã đóng khô, xếp xó<br />

trong từng góc bụi nhòa. Sợ mai kia mốt nọ, đám nhỏ<br />

lớn lên có khi tự hỏi sao mình ở đây, ở một nơi không<br />

phải chỗ mình ? Có ai không để bắt đầu câu chuyện kể :<br />

“ Ngày xưa, đã lâu lắm, có một lũ người bỏ xứ ra đi rồi ...<br />

không kiếm được đường về ... ”<br />

... Độ rày, trời sắp sửa vào thu.<br />

Ngày bỗng dưng ngắn lại và đêm, đêm thì cứ dài ra như<br />

không sáng nữa. Những cơn gió lạnh chiều chiều từ dãy<br />

núi xa ở bên kia con sông lớn đã bắt đầu thổi về thành<br />

phố mang theo cái mông quạnh của những đồng cỏ bạt<br />

ngàn ở mạn bắc, và đồng thời cũng mang đi mất bầy sẻ<br />

nhỏ thường làm vui góc phố quạnh hiu. Chỉ còn lại<br />

những dây thép đen xấu xí với hàng cột đèn trơ trụi.<br />

Công viên trước nhà vắng ngắt, bầy trẻ nhỏ đã rút vào<br />

nhà, bỏ trơ lại bãi cát vô hồn, chiếc cầu tuột xiêu vẹo và<br />

220


những dây xích đu im lìm. Cái không gian vốn dĩ rất lặng<br />

lẽ của một góc phố nhỏ với những căn nhà kín cửa<br />

quanh năm lại càng lạnh lùng hơn khi gió bấc trở mùa.<br />

Khu vườn sau nhà xao xác gió, lá rụng sớm hơn mọi<br />

năm. Những chiếc lá úa nằm rải rác trên sân cỏ, buồn<br />

hiu như xác giấy hoa của một đêm vui vừa tàn. Trời đất<br />

đang sửa soạn cho một cuộc thay đổi lớn, bất tận. Và<br />

con người, con người ở đâu trong cuộc tuần hoàn miên<br />

man của vũ trụ ?<br />

Sao bỗng nhiên tôi chùn tay, muốn ngừng viết. Có ích lợi<br />

gì không những điều tôi đã và sắp viết ra. Sao bỗng<br />

nhiên giọng văn của tôi trở nên sầu thẳm quá đỗi. Có<br />

phải tại đứa con trai út vừa đi nhập trường ở một thành<br />

phố xa, bỏ lại gian nhà đã trống lại còn trống hơn ? Tại<br />

nó mang đi mất một phần thân xác và tâm hồn tôi ? Hay<br />

tại vì cái khoảng trống lớn giữa đời tôi đã không lấp bớt<br />

được chút nào lại còn tiếp tục khơi rộng hơn nữa ? Có<br />

phải đó chỉ là sự tiếp tục bình thường của dòng đời miên<br />

viễn, chỉ là sự lập lại một lần nữa hàng triệu triệu biệt ly ?<br />

Đưa con đi xa lần này, suốt con đường trở về hơn bảy<br />

tiếng đồng hồ lái xe, sao tự nhiên tôi như thấy lại và hiểu<br />

rõ ràng hơn lúc nào hết tấm lòng của ba tôi buổi chiều<br />

xuân năm mậu thân, khi con đường quốc lộ số 4 bị cắt<br />

đứt, ba tôi phải đưa tôi ra bến tàu xin quá giang một<br />

đoàn tàu quân đội về Sài-gòn nhập học. Năm đó, nhà<br />

cháy, của cải tan hoang, ba tôi 58 tuổi, tóc sương phơ<br />

phất, bộ quần áo bà ba trắng quen thuộc sao như rộng<br />

hơn thường khi. Ông đứng đó không nói một lời nào, tay<br />

xách túi quần áo của tôi, lo lắng bồn chồn, cặp mắt vắng<br />

221


vẻ... Rồi tàu rời bến, mặt sông rộng mênh mông, gió lên<br />

và chiều xuống. Ông đứng đó, đằng sau lưng một mặt<br />

trời tẻ lạnh, bỗng nhiên tôi thấy ba tôi giống như một<br />

pho tượng, im lìm, chịu đựng, nhẫn nhục như suốt một<br />

đời đã nhẫn nhục nuôi lớn bầy con quá đông. Tàu xa<br />

dần, pho tượng vẫn im lìm, bất động. Và bỗng dưng, tôi<br />

như thấy một giọt nước mắt nào đó đọng mơ hồ trên<br />

khóe mắt ba tôi. Giọt nước mắt mà dường như ba tôi đã<br />

cố nén tự nãy giờ. Từ lâu lắm. Từ câu nói vói “ thôi con đi<br />

”. Từ lúc móc đưa cho tôi xấp tiền cuối. Từ lúc nhà cháy.<br />

Từ lúc dắt tôi đi thi tú tài. Từ lúc dắt tôi đi thi trung học,<br />

tiểu học. Từ lúc ẳm tôi đặt tôi vào nôi ... Ba tôi có nói gì<br />

đâu ? Trời đất có nói gì đâu mà dòng đời vẫn sinh sinh<br />

diệt diệt !<br />

Vậy tại sao tôi lại dài dòng kể lể ? Để làm gì ? Để em<br />

hiểu tôi hơn ? Để làm gì ? Có cần lắm không ?<br />

Tại sao tôi bỗng trở nên sầu thảm thái quá !<br />

Có cần thiết không em ? Người thiếu phụ đoan trang với<br />

gia đình gương mẫu, sau ít nhiều lận đận với vận nước<br />

nổi trôi, cũng đã vói được tới bờ hạnh phúc, thứ hạnh<br />

phúc bình thường, giản dị mà tôi vẫn thường cầu mong<br />

cho những người thân yêu của tôi, em có phải biết<br />

những điều tôi đã nói, những gì tôi đã sống ? Mà tại sao<br />

em phải biết ?<br />

Những dòng chữ này rồi sẽ có<br />

một dịp may nào đến với em hay sẽ được xếp lại và cất<br />

vào một hộc tủ, bỏ quên như hàng chồng bản thảo đã bị<br />

bỏ quên, đâu đó, quến bụi trong những xó xỉnh của đời<br />

222


tôi. Tuy nhiên, lần này, nếu có cái dịp may hãn hữu đó,<br />

xin em hãy đọc một cách từ tốn, điềm đạm, từng chữ<br />

từng dòng. Hết trang này, rồi trang khác. Hết tờ này lật<br />

sang tờ khác. Rồi cũng sẽ đến trang cuối cùng. Cũng<br />

giống như những trang giấy của cuộc đời. Giống như tôi,<br />

tôi cũng đang lật tiếp, không ngừng tay, những trang<br />

giấy của đời mình. Sẽ đến một lúc chỉ còn những trang<br />

giấy bỏ không, lở dở ...<br />

Nếu có đọc, hãy coi đây như<br />

tiếng kêu chót của loài thiên nga tuyệt vọng, một thứ<br />

trần tình của thế hệ đang tàn lụi dần, cái thế hệ của<br />

những người thầy sinh bất phùng thời. Cái thế hệ dở<br />

dang. Cái thế hệ oan trái. Tôi đã được hưởng rất nhiều<br />

ân huệ của người đi trước, nhưng không đáp đền lại<br />

được gì cho người đến sau như cái lý tưởng mà tôi đã<br />

được nuôi dạy. Mấy ngàn năm tình nặng nghĩa sâu của<br />

dân tộc đã un đúc tôi nên người, đã ru tôi bằng những<br />

vần ca dao trìu mến, đã âu yếm tôi bằng những điệu ầu<br />

ơ vỗ về, đã tắm mát tôi bằng dòng suối cỗ tích ngọt<br />

ngào và đã nuôi tôi khôn lớn bằng bầu sữa mầu mỡ của<br />

lịch sử. Tôi đã làm gì được với tất cả cái vốn liếng quí báu<br />

đó đâu em. Tôi mơ mộng năm 18 tuổi, tôi rong chơi năm<br />

25, tôi chững chạc năm 30 tuổi. Tất cả cái gia tài truyền<br />

thống đó, nét tài hoa ngùn ngụt đó, truyện Kiều với hơn<br />

ba ngàn câu thơ thăm thẳm, Chinh Phụ Ngâm là giọt lệ<br />

trong veo, Cung Oán đài các ngay trong hận tình uẩn<br />

khúc. Còn bao nhiêu câu ca dao tươi mát như rau cỏ<br />

ngoài vườn. Còn cuộc chiến cự Bắc phạt Tây, cuộc Nam<br />

tiến là thiên trường ca vô tận. Lịch sử máu xương đầy dẫy<br />

223


những nấm mồ vô danh, để cho ngọn tre già còn phơ<br />

phất tiếng ru trưa, để cho bụi lúa còn trổ đòng đòng<br />

tươm sửa, để bầy trẻ nhỏ ê a tiếng đánh vần, để mái<br />

đình còn thơm mùi hương khói. Những nấm mồ vô danh<br />

từ thuở Đống Đa, Ngọc Hồi. Những nấm mồ vô danh từ<br />

thuở Gia Định, Trấn Tây. Những nấm mồ vô danh ở<br />

Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Giả, An Lộc, Phước Long,<br />

Châu Đốc, đường số 9, quốc lộ 13 ... dấp dúi bên bờ cát<br />

duyên hải, dập vùi giữa rừng già cao nguyên, lạn chìm<br />

dưới bùn lầy châu thổ ...<br />

Tôi đã làm gì ? Thế hệ tôi đã làm được gì đâu em !<br />

Chúng tôi đã bỏ dở một cuộc chiến. Chúng tôi đã đầu<br />

hàng một kẻ thù. Và như vậy có xứng đáng để phàn nàn<br />

hay không ? Cái cơ hội được đóng góp vào cuộc chiến<br />

dựng nước và giữ nước của cha ông đã bị bỏ lỡ một<br />

cách ngây thơ vô tội vạ, cái hạnh phúc tuyệt vời của tự<br />

do đã bị xem thường khi có nó trong tay, thì khi bị tước<br />

đoạt, người ta còn có quyền tiếc rẻ hay không ? Hay chỉ<br />

nên lặng lẽ cúi đầu và ... câm nín. Mặc kệ những khuya<br />

khoắc trở trăn ! Những sớm hôm thắc thỏm!<br />

Tôi có nên viết tiếp hay không ? Có đáng để khượi lại<br />

một vết thương đã lành - hay tưởng như đã lành, gọi dậy<br />

một phần đời đã ngủ yên - hay tưởng đã ngủ yên, tiếp<br />

tục làm khó chịu, mệt mỏi thêm những cuộc đời đã quá<br />

sức mệt mỏi. Có đáng bắt mọi người phải nhớ lại, đau<br />

khổ, thương xót hoài hoài ngay khi cả chính mình cũng<br />

chỉ là một nỗi bất lực thảm hại. Dường như đã quá trễ<br />

nãi để nhắc nhở, đã đủ muộn màng để lãng quên ?!<br />

224


Vậy hãy coi đây như một điều rất đỗi riêng tư, một món<br />

nợ mà tôi chưa kịp trả. Món nợ tôi đã vay 25 năm trước<br />

mà 25 năm sau vẫn chưa quên, thì câu trả lời của tôi<br />

hôm đó quả có vô tình quá hay không –“ Thì tôi cũng đã<br />

sống như mọi người ”<br />

Tôi đã trả lời giống như khi trả lời với mọi người khác.<br />

Điều đó có phật ý em không ? Em đâu còn là cô học trò<br />

nhỏ, dịu dàng và tinh quái, để tôi là ông thầy có thể bắt<br />

nạt dễ dàng. Em đã là một người lớn, chững chạc, điềm<br />

đạm và ân cần. Giọng nói tuy nhẹ nhàng trong trẻo<br />

nhưng dường như đã vẩn đục ít nhiều gió bụi của thời<br />

gian. Và cặp mắt, tia nhìn sao tôi thấy lao đao những dấu<br />

hỏi xốn xang. Cặp mắt đó, dịu dàng nhưng quyết đoán,<br />

tra vấn tôi ngay khi em không nói lời nào, sao tôi thấy có<br />

một vẻ gì chừng như ái ngại. Có phải bằng trực giác em<br />

đã nghe được từ đâu đó nhịp điệu của những bước tàn<br />

phai. Tôi có chủ quan quá không ? Sao từ buổi chiều<br />

hôm đó, tôi cứ bị ám ảnh hoài về cái tia nhìn có một chút<br />

ngơ ngác, một chút phiền muộn, một chút trách móc,<br />

một chút hờn dỗi. Như tôi đã không nói thật. Như tôi đã<br />

giấu diếm một điều gì. Em có quyền nói chuyện ngang<br />

hàng vì em cũng đã có những ưu tư của người lớn. Có<br />

thể trong tấm lòng rất nhân ái của em, hình ảnh người<br />

thầy già cỗi đồng nghĩa với điêu tàn, cái bất ngờ bao<br />

hàm sự mất mát, sự tình cờ có nghĩa rất mong manh và<br />

cuộc tái ngộ chỉ là mặt trái của chia ly.<br />

Ôi biết thời gian có chịu ngừng<br />

225


Tôi đã viết một câu thơ như vậy, sau khi chia tay. Và<br />

thêm nữa, một hẹn hò<br />

Rủ nhau mai mốt về quê cũ<br />

Giảng nốt bài thơ bỏ nửa chừng<br />

Có phải chỉ là để tự an ủi mình trước vòng quay ác<br />

nghiệt của thời gian. Đâu còn một buổi học nào nữa.<br />

Làm sao em mặc lại áo lụa đến trường, tóc bay theo gió<br />

sớm và lòng mới nguyên như giấy trắng, đâu còn chiếc<br />

bàn học gỗ thô màu xám, viết mực tím và sách vở âu lo.<br />

Tôi đâu còn giờ trên bục giảng, với phấn trắng bảng<br />

đen, để cùng em mở cánh cửa đời vạn đại, đưa em vào<br />

thế giới gấm hoa của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh<br />

Quan, của Nguyễn Du, Phan Huy Vịnh ... tìm bắt lại cái<br />

nhịp lòng đằm thắm của lớp người đi trước, khơi lại cùng<br />

em nguồn suối nhân bản của dân tộc để em và các bạn<br />

lớn lên, vững chải như ngàn thu và tươi tắn như tầm<br />

xuân mới nụ, chân thành với mình và rộng lượng với<br />

người, tạo dựng cái thế quân bình tuyệt diệu của tâm<br />

hồn Á Đông trước sức cám dỗ của văn minh Tây<br />

Phương. Tôi muốn sửa soạn cho học trò của tôi cái sức<br />

mạnh dịu dàng của ngọn tre Việt Nam trước bão táp, để<br />

mai sau dù-có-bao-giờ các em vẫn là người Việt Nam<br />

trong cái nghĩa thuần túy nhất của nó. Tôi có lý tưởng<br />

quá không em ? Tôi có làm được việc đó chưa ?<br />

Công việc bị cắt ngang đột ngột. “ Bài thơ bỏ nửa chừng<br />

” có phải là niềm tiếc hận khôn nguôi về một lý tưởng bị<br />

phản bội, một trách nhiệm không chu toàn, một giấc mơ<br />

226


không trọn vẹn. Cái nhìn của em, nỗi quan hoài của em<br />

có phải là đoạn nối dài của bài thơ dang dở đó !<br />

Thôi thì, xin em hãy đọc ở đây như một cố gắng hết lòng<br />

của người thầy cũ để trả cho xong một món nợ tinh<br />

thần. Một lần rồi thôi. Món nợ mà tôi đã gây ra khi tạo<br />

cho các em niềm tín cẩn, lòng kính mến, sự cầu toàn ...<br />

trong những giờ giảng dạy trước đây. Nhưng mà tôi, tôi<br />

có làm được gì không ? Năm học đã chấm dứt một cách<br />

tức tưởi mà không chờ tiếng trống bãi trường.<br />

Tôi chưa nói hết được điều muốn nói. Em chưa học đủ<br />

điều cần học. Tôi và em đều có một cái gì đó lở dở chưa<br />

làm, một cái gì ngang ngửa chưa xong. Chắc vì vậy, mỗi<br />

người đều cảm thấy bất an, thấy thiêu thiếu, thấy hụt<br />

hẩng ... Có thể cái gì đó mong manh quá nên mỗi người<br />

đều như ray rứt khi nghĩ lại. Có thể cuộc đổi đời phủ<br />

phàng quá nên mỗi người đều cảm thấy ngỡ ngàng.<br />

Giống như cơn mưa bóng mây chưa đủ ướt mặt người<br />

đã dứt. Giống như cơn mơ nửa chừng bị đánh thức.<br />

Giống như cuốn tiểu thuyết bị xé mất trang sách cuối<br />

cùng. Người ta bở ngở, bực tức hay tiếc nuối. Cái chờ đã<br />

không đến. Sự mong mỏi không được đền đáp. Người ta<br />

thấy xốn xang như đánh mất một cái gì quí giá lắm.<br />

Người ta cảm thấy chới với như bước lỡ vào khoảng<br />

trống bất ngờ. Người ta cảm thấy bối rối như bỏ quên<br />

một cái gì thân thiết lắm mà lại quá đỗi mơ hồ.<br />

Tuy vậy cứ an tâm đi em. Cuộc đời tự nó rất giản dị. “Trời<br />

sẽ tối tiếc thương rồi sẽ hết. Và dấu giày mai sẽ lá sương<br />

che ” Từ nhiều năm trước tôi vẫn thích câu thơ của<br />

Nguyễn Đình Toàn. Em thấy đó, có gì rắc rối đâu, cái cõi<br />

227


quạnh hiu này. Ngày đến rồi ngày đi, đêm tới. Và bóng<br />

tối sẽ trùm lên tất cả. Những dấu yêu, những ghét bỏ.<br />

Những đợi chờ cũng như những lỗi hẹn. Những khuôn<br />

mặt thân quen, những bóng hình xa lạ. Mặt đất này vẫn<br />

là nơi để người ta đến rồi đi. Cuộc đời này vẫn là chốn<br />

để người ta tụ hợp rồi ly tán. Tất cả sẽ mòn phai dần dần<br />

như dấu giày đã qua đây một ngày nào, sương sẽ cuốn<br />

đi từng lớp mỏng và lá sẽ lấp lên từng chiếc một. Con<br />

đường trước mặt cũng chỉ là một dãy mây trôi, ngã rẽ là<br />

những khúc quanh vô định, lời hứa hẹn chỉ là cơn gió<br />

thoảng và ước mơ cũng chỉ là những an ủi ngậm ngùi.<br />

Tất cả sẽ biến mất kể cả sắt son tưởng là thắm thiết, kể<br />

cả đá vàng đã tưởng là bền chặt.<br />

Trời sẽ tối ! Có thời gian nào không trôi đâu em. Có dấu<br />

vết nào còn mãi đâu em. Những tiếc thương, đọng lại<br />

như vệt sương trên ngọn cỏ, cũng sẽ tan trong một phút<br />

một giây. Người ta náo nức gặp gỡ. Người ta rạo rực<br />

chia tay. Một tháng. Một năm. Rồi tất cả sẽ trở lại bình<br />

thường, rất bình thường. Cái mặt hồ im lìm chợt xao<br />

động vì một chiếc lá rơi sẽ trở lại im lìm như đã tự trăm<br />

năm. Mọi người sẽ trở lại với nếp sống thường nhật, với<br />

trách nhiệm bổn phận. Mọi người sẽ trở lại với văn<br />

phòng, với xưởng thợ, với tiệm buôn, với công việc của<br />

một người vợ, một người mẹ, một người chồng, một<br />

người cha. Người ta sẽ bận tíu tít với chợ búa, với đồng<br />

tiền kiếm được hay mất đi, với ngôi nhà mới tậu, với chức<br />

vụ mới thăng, với việc làm mới mất ...<br />

Vậy đó em, trái đất vẫn tiếp tục quay đều cái vòng quay<br />

của nó. Một năm mười hai tháng. Một tháng ba mươi<br />

228


ngày. Một ngày hai mươi bốn giờ. Mùa hè đã qua. Mùa<br />

thu đang tới. Và mùa đông sẽ chực chờ trước cửa.<br />

Những người sắp tới, sẽ tới. Những người sắp đi, sẽ bỏ<br />

đi.<br />

Tất cả cũng chỉ là những người khách vô tình trong cuộc<br />

tuần hành miên man của vũ trụ.<br />

Và chúng ta, chúng ta cũng chỉ là những sơ sẩy của một<br />

toan tính định mệnh.<br />

Vâng, những tiếc thương rồi sẽ hết.<br />

Em đừng khóc, đừng buồn đừng nhìn nữa<br />

Cứ cúi đầu, cứ thế rồi ra đi<br />

Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết<br />

Và dấu giày, mai sẽ lá sương che (*)<br />

Và tôi, và em, và dấu giày trở lại, mốt mai sẽ chỉ còn là<br />

một vết sương che . Bóng tối sẽ trùm lên tất cả.<br />

Những tiếc thương rồi sẽ hết.<br />

Những tiếc thương sẽ hết .<br />

*thơ Nguyễn Đình Toàn.<br />

tháng cuối năm 2000<br />

229


tranh CAO HÀNH KIỆN


Khuć đoaṇ trường<br />

...<br />

Rồi có còn lại gì không, cuộc chiến<br />

tranh thảm khốc và dai dẳng, dài hơn cả tuổi tôi.<br />

…<br />

Này viên đạn ghim giữa tim, vết nổ tan<br />

hoang lưng chừng trán.<br />

Này trận đánh suốt mùa mưa châu thổ,<br />

lấn rền sang cơn nắng hạn tây nguyên.<br />

Này quả bom nổ tung như cơn thịnh nộ<br />

không chừng.<br />

231


Này trái mìn nổ chậm như một lời rủa<br />

xả ầm ỉ.<br />

Này thịt xương tung toé hốt chưa đầy<br />

nắm tay.<br />

Này cái núm vú khô sữa của người mẹ<br />

chết tự bao giờ mà đứa con còn thòm thèm bú<br />

móm.<br />

Này đôi mắt của thanh xuân mộng mị,<br />

bàn chân của khởi hành rộn rã, ngón tay của tình<br />

thư vụng trộm... tất cả đã bỏ lại dập vùi đâu đó trên<br />

những xó đất nghèo nàn, tàn phế đến từng cọng cỏ<br />

ngọn câỵ<br />

Có nói ra được hết không, cái trò chơi kỳ cục đó?<br />

Người sinh ra ngoài Bắc, kẻ đẻ ở trong Nam, có hẹn<br />

hò không mà cùng kéo nhau đến chết rạp ở một<br />

ngọn đồi không tên, giữa dãy Trường sơn mịt mùng.<br />

Có lý giải nào không cho giọt nước mắt lặng lẽ của<br />

cha, giọt nước mắt<br />

não nề của mẹ và giọt nước mắt tủi hờn của người vợ<br />

trẻ vừa mới cưới hôm nào.<br />

Có nói được hết không, những người chồng vùi thây<br />

vợ bên đường<br />

chạy loạn, những người mẹ điên ôm xác con ru<br />

hoài điệu ầu ơ thê thiết ...<br />

232


... Căn nhà từ đường bốc cháy, ngôi trường loang lổ<br />

dấu đạn, chiếc cầu sắt gãy sụp, phường phố tan<br />

hoang, viên đạn đồng gởi đến từ một xứ xa xôi,<br />

người xã trưởng bị cắt cổ đêm qua, đứa bé trần<br />

truồng chạy ra từ một vòm lữa, lưỡi dao nhọn trui<br />

rèn trong lò thép anh em ... cuộc hội nghị tay ba<br />

tay tư, bản tuyên ngôn hoa mỹ, trò mặc cả trâng<br />

tráo, những thúc ép nghiệt ngã, còn lại gì không,<br />

thân phận anh, số kiếp chị, đoạn trường tôi...<br />

Có còn lại gì không…<br />

Rồi tất cả sẽ qua đi như không có gì đã xảy ra.<br />

Mọi trái tim sẽ rổng không như chưa từng có thống<br />

khổ.<br />

Không có chi . Không còn chi .<br />

Có còn không là chút vị đăńg chát cặn lại trong<br />

lòng chúng ta, mỗi khi nhớ lại !<br />

...<br />

-trích đoản văn viết<br />

những năm 70-<br />

233


ở một chỗ rất gần sao 5<br />

ải Nam Quan 15<br />

bonjour Việt Nam 29<br />

rồi ...như đá ngây ngô 48<br />

mỗi năm hoa đào nở 72<br />

thư tết 82<br />

thương nhớ huyền-trân 97<br />

bữa rượu thời chiến 105<br />

thơ học trò thời chiến 108<br />

trong khi chờ hoa xuyên tuyết 111<br />

tháng tư ... tháng thầm 121<br />

tháng năm ở Cali 130<br />

tháng bảy, ... và những ngôi trường cũ 137<br />

tháng chín, mùa thu ... ở hai đầu nỗi nhớ 146<br />

tháng 10 ngày 23 năm 1956, ở Buadapest 155<br />

tháng mười một ở Dallas 162<br />

... và một chút xuân thì 167<br />

tựu trường, xa xứ 176<br />

lời trần tình của người thầy cũ 189<br />

khúc đoạn trường 231


... do một đẩy đưa nào đó, rồi tập sách được in ra !<br />

Bỗng nhớ Nguyễn Bính có lần đã viết -thế nhân mắt trắng như ngân nhủ !<br />

Giọng khinh bạc mà tỏ dạ không vui.<br />

Bây giờ, cầm tập sách trên tay, làm sao không nói ngược !<br />

- Dẫu sao, dẫu sao, vẫn còn đó ...<br />

những con mắt xanh !<br />

xin cám ơn,<br />

cám ơn muôn vàn.


... mịt mù cố quận giờ xa ngải<br />

ai thiết tha mà ta tiếc thương !

Hooray! Your file is uploaded and ready to be published.

Saved successfully!

Ooh no, something went wrong!