You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
tạp bút<br />
CAO VỊ KHANH<br />
2018
phân trần<br />
Khởi thủy từ một cơn hồng thủy.<br />
.........................<br />
Những dòng chữ, rồi ra như những con sóng lẻ, vật vờ xô, mỗi lúc<br />
một xa bờ.<br />
Vâng, những nỗi niềm lạc mất một quê xa ...<br />
... Những tức tưởi từ một thời gấm hoa đã mất , sau gần bốn mươi<br />
năm lưu lạc xứ người kể từ thảm họa tháng 4 năm 75.<br />
Biệt xứ, không có gì buồn hơn ...<br />
Vốn liếng chữ nghĩa ... rồi ra chẳng qua ... một mảng mây trôi ...<br />
Tập sách gồm những bài viết từ những năm 2000-2010, sau khi<br />
miếng ăn đã thôi là một ám ảnh thiết thân và nhục nhằn, đã được<br />
viết bên lề phố, trong góc quán, cuối xó nhà, lúc trưa nắng hay giữa<br />
đêm khuya, rồi được sao chép, cóp nhặt ... - hữu ý hay vô tình - đâu<br />
đó trên những tờ báo chợ, báo quảng cáo ... trên những tập kỷ yếu<br />
của những người học trò đã quá tuổi học trò ... trên những tập san<br />
yểu mệnh của những người mê văn chương chữ nghĩa khi chữ<br />
nghĩa văn chương chỉ còn là những ký hiệu vô nghĩa trong một thế<br />
giới đã vô tình.<br />
Góp lại, giống như người phu quét đường gom lá vàng mỗi độ thu<br />
sang dẫu biết rằng, rồi ra lá sẽ mục rả, một ngày nào đó ...<br />
Góp lại, giống như người nhạc sĩ năm xưa đã làm một việc vô ích<br />
nhất ... gởi gió cho mây ngàn bay ...<br />
chẳng qua, dẫu vậy, rồi ra<br />
để ... vui chút vậy ... mà !
từ những ngậm ngùi được phân làm ba bản, đánh dấu XANH,<br />
NÂU và XÁM sẽ lần lượt được gởi tới thân hữu, như những lọn sóng vỗ vào bờ,<br />
một ngày đứng gió.<br />
XANH : chuyện chữ nghĩa<br />
NÂU : chuyện thời<br />
XÁM : chuyện đời
Ở<br />
một chỗ<br />
rất gần<br />
sao...<br />
Có lần người bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New<br />
Jersey hứa mời tôi đi uống cà-phê ở một nơi rất gần với<br />
mấy vì sao. Những vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất<br />
đỗi ngây thơ của những " Hoàng tử bé ". Thử cho anh<br />
coi lại điệu vũ của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như<br />
vậy. Mấy lần điện thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn<br />
chưa uống được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần<br />
nào.<br />
5
Chỗ tôi đang ở cũng là một thành phố lớn, nằm chênh<br />
chếch về phía đông bắc lục địa. Những con đường<br />
ngang dọc từ trên cao nhìn xuống cũng y như mấy<br />
miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi lần ra phố<br />
chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến, có bận<br />
nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và lần nào<br />
cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ trốn đâu mất<br />
biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con mắt đèn như bầy<br />
đom đóm đeo dính mấy tấm vách thẳng băng ngước<br />
nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm nhìn đã chóa mắt<br />
giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh đỏ đỏ. Riết rồi<br />
thua buồn cũng quên lửng luôn những vì sao đã chắt<br />
chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng của quê<br />
hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam. Chắc<br />
quê hương tôi ở hướng đó.<br />
Thuở mười một mười hai tuổi, mỗi lần được cho về quê<br />
nội, cứ đợi chiều xuống là tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm<br />
cao ngất ngoài bìa ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời<br />
tối. Ngó lên là trời vòi vọi cao, không một bợn mây mà<br />
lại xanh mướt, xanh ngọt cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả<br />
ra sao cái màu ngan ngát của buổi chiều đương chuyển<br />
sang đêm. Chỉ thấy nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng<br />
muốn bay bổng. Rồi chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón<br />
chân tới, rất nhẹ. Rồi con sao thứ nhất bắt đầu ló ra.<br />
Cũng êm ru như đã ở đó tự bao giờ. Chớp lia chớp lịa<br />
như để nháy gọi nhau, một chút nhẻo thôi là không biết<br />
ở đâu mà sao đã rải ra đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng<br />
lộng lẫy như tấm nhung đen đính hàng triệu kim cương<br />
6
hột mẳn đều như tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần<br />
tính thử đếm chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn<br />
tay nên chán bỏ. Nhưng mà lần nào cũng không quên<br />
ao ước hể thấy có một vệt sao băng. Mà rồi y như lần<br />
nào cũng trễ, thành ra không kịp có một lời nguyện nào<br />
cho tròn. Cho đến một lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi<br />
cũng đủ. Mỗi vì sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó<br />
vào một thế giới khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại<br />
càng nở ra, trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả<br />
lớn đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi bao<br />
la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ trụ thì<br />
quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt mà<br />
không biết vì sao.<br />
Từ đó, bầy sao cứ lấp lánh theo tôi như những cặp mắt<br />
dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở thành phố,<br />
đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng. Nhưng rồi cái ngày<br />
đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi thật xa, xa đến mất luôn<br />
một lúc cả trời sao trăng nước ở một xóm nhỏ bên bờ<br />
kinh Bình Phụng<br />
Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê đi ngó sao ở một<br />
chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy mà rồi không kịp. Cái<br />
chỗ rất gần sao đó không còn nữa. Buổi sáng ngày 11<br />
tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con người đã làm<br />
nó nổ tung. Hai tòa nhà cao cả trăm tầng cùng với mấy<br />
ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu tấn sắt<br />
thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người dựng<br />
đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một<br />
7
thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó<br />
đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển.<br />
Vậy mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành<br />
của ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng<br />
hư vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của<br />
tôi cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không.<br />
Có. Không. Không. Có. Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu<br />
vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới<br />
ngàn dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được<br />
cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước<br />
mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất động. Cả<br />
ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền hình, nhìn cảnh<br />
máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép lừng lững đó,<br />
rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái nấm bụi khổng lồ<br />
bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng hoàng đến ngớ<br />
ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một lời. Không có<br />
một lời nào nói ra được sự kinh khiếp đó. Sự hung dữ đó.<br />
Sự mù quáng đó. Rồi cảnh người sống chạy chết. Cảnh<br />
gạch đá sắt thép văng bay tứ tung. Còi xe cứu thương<br />
kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng mù mịt. Tôi ngồi chết<br />
trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá điên dại từ bàn tay con<br />
người. Con người. Tuyệt phẩm của thượng đế. Con<br />
người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người. Quả tình<br />
tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại cứ để mở.<br />
Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền hình thu không<br />
sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy không thu<br />
được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới làm tôi hốt<br />
hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt, mấy ngàn<br />
người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn người mới<br />
8
đó bỗng hư không. Một người cha, một người mẹ, một<br />
người con, một người tình... mới sáng đó còn hăm hở<br />
thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro, xe bus tới<br />
sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở bước<br />
vào thang máy, cười với người quen này, nói đùa với<br />
người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở<br />
ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở máy com-pu-tơ vừa<br />
bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn gởi mấy cánh<br />
hồng cho người bạn gái. Năm phút trước đó còn vừa mở<br />
xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm chiều với vợ và bầy con<br />
nhỏ. Một phút trước đó còn vừa lau sàn nhà vừa nghĩ<br />
đến số tiền sẽ gởi cho bà mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng<br />
cái cảnh thiếu sót trong mấy bản tin quá đầy đủ đó nó<br />
chỉ có trong đầu tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp<br />
xuống. Rồi tòa nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương<br />
thịt. Tro than. Cái cảnh không ai thấy được mặc dù đã<br />
xảy ra sờ sờ, cùng lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với<br />
khung sắt thép, cùng lúc với tiếng nổ của hàng trăm tấn<br />
dầu, cùng lúc với lòng thù hận biến con người thành thú<br />
dữ. Cái cảnh không có trong phim ảnh bởi vì không có<br />
máy nào chụp được nhưng nó thật sự có đó, có đó rõ<br />
ràng giữa hiện trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc<br />
càng lớn ra, lớn đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang<br />
bỏ lại của mấy ngàn nhân mạng mất đi cùng một lúc.<br />
Cùng một lúc thất tung. Cùng một lúc biệt tích. Cùng<br />
một lúc tan tành. Thịt xương. Niềm tin. Hy vọng. Cái<br />
khoảng trống im ỉm của pháp trường sau khi bọn đao<br />
phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn của mặt đất<br />
9
không còn người ở. Cái trống hoác ghê rợn nổi lên ngay<br />
sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn gì nữa.<br />
Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.<br />
Có còn lại chăng, những ngày sau, là cái không vô cùng<br />
vô tận trong lòng tôi, trong lòng mọi người.<br />
Mấy ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên<br />
đường phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên<br />
những nến, hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ<br />
giấy viết tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một<br />
khuôn mặt, những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp<br />
mắt lặng lẽ của một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn<br />
lạc lõng của một đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng<br />
đầu bất lực của người lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên<br />
đường mếu máo, trong tiếng kèn đồng sầu thảm của<br />
người da đen vừa thổi vừa khóc khi chiều xuống ở một<br />
góc công viên... Cái khoảng trống lớn ra hoài không<br />
chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra nữa. Một tháng sau. Một<br />
năm sau. Nhiều năm sau nữa...<br />
Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ<br />
còn lại niềm tuyệt vọng.<br />
Tôi bỏ xứ ra đi hai mươi năm, sống lây lất ở xứ người như<br />
một thân chùm gởi. Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ<br />
điên khùng chưa bao giờ biết trời sao là ân huệ của<br />
thượng đế. Tôi xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện<br />
thương tâm hai mươi mấy năm trước. Những chuyện<br />
10
thương tâm chưa bao giờ kể đủ về những đọa đày gây<br />
ra bởi sự cuồng bạo của mê muội. Tôi đi mà cầu trời<br />
khẩn phật cho có ngày đất nước tôi sáng lán, người ở<br />
quê tôi tìm lại được tình thương và niềm tin cậy giữa<br />
người và người. Tôi chờ mà cứ sợ không còn dịp.<br />
Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa đăng đón<br />
kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca hát, ôm<br />
nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường như có<br />
một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở, tin cậy, nhiệt<br />
thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của lề thói hẹp<br />
hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán và ghét bỏ,<br />
của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia và chấp nhất,<br />
của lừa đảo và phản trắc... Có lúc sao tôi thấy dường như<br />
ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ lượng, khoan dung...<br />
Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười. Mọi tiếng nói<br />
đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu da đều mừng<br />
nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi tiếng<br />
khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng<br />
đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng sản,<br />
mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn độ giáo<br />
... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một tiếng khóc cho<br />
nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia, cái nọ chỉ có<br />
trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này, kẻ kia, kẻ nọ chỉ có<br />
trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ thật ra tất cả chỉ là<br />
MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn. Cái một hồng hào<br />
hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯỜI làm đấng cứu thế.<br />
Lấy con người làm đối tượng cho cuộc cứu rỗi. Cho con<br />
người và vì con người. Không còn chủ nghĩa tôn giáo chỉ<br />
11
còn con người. Không còn biên giới chủng tộc chỉ còn<br />
con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda. Sẽ không<br />
còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không còn chôn sống ở Huế...<br />
Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút,<br />
vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng<br />
nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi. Và tin<br />
tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của tiến<br />
bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng ra<br />
đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của địa<br />
cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại.<br />
Tôi mừng như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam<br />
đã mơ ước một đời. Biết đâu đất nước tôi cũng có cơ<br />
theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng đến nỗi làm được<br />
cả thơ vui ...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt bồ câu<br />
thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị.<br />
Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.<br />
Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm buổi sáng tháng chín<br />
này. Cái vòng tay khít liền đó gãy vụn ra, tan nát. Người<br />
của thế kỷ hai mươi mốt giống y như người của thế kỷ<br />
hai mươi, giống y như người của thế kỷ thứ nhứt, thứ<br />
mười, thứ mười lăm, giống y như thời của pháp đình tôn<br />
giáo với giàn hỏa, giống y như thời "thánh chiến " đẩm<br />
đầy máu Jésus và Allah. Lịch sử chỉ quay vòng vòng như<br />
trò chơi rồng rắn. Và con người thì vẫn đắm chìm trong<br />
ngu tối, dốt nát và thù hận. Ðã từ bao lâu, con người thôi<br />
ăn lông ở lỗ nhưng đâu thôi suy nghĩ và hành động như<br />
12
cái thời còn ở trong hang động. Chúa, Phật, Allah chắc<br />
cũng chỉ biết ngậm ngùi.<br />
Hành động sát nhân một cách tỉnh táo của cái đám gọi<br />
là " tử vì đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy<br />
ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái<br />
chết để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng<br />
nào để biện minh cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng<br />
một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người<br />
vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy.<br />
Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm<br />
tin của người này để cướp lấy quyền sống của người<br />
khác có phải là phương thế để xây dựng một thế giới<br />
hoà bình, công bằng và bền vững? Có thượng đế nào<br />
chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện minh<br />
được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và<br />
nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại<br />
thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh<br />
danh đó.<br />
Nhiều ngàn năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú<br />
tánh vẫn còn đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông,<br />
vị tha, hòa đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ<br />
câu trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh<br />
đạm trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn<br />
còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm<br />
giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu. Con<br />
người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại. Có<br />
dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê hương?<br />
13
Những đêm như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc<br />
đầy trời. Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói<br />
bắt ước mơ tôi.<br />
14
Ải<br />
Nam Quan<br />
Thuở mới cặp sách đến trường, học bài địa dư đầu đời<br />
bằng tiếng thầy sang sảng. Nước Việt Nam ta hình cong như<br />
chữ S, chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà mau. Câu địa lý vỡ<br />
lòng nghe thì nhẹ nhàng giản dị mà suy ra mới thấy trầm<br />
trọng từng chữ từng lời. Mỗi chữ mỗi lời là mỗi gánh<br />
nặng máu xương. Từ thời lập quốc, bung đi từ lưu vực<br />
15
sông Hồng bị rào chắn bởi núi non cạnh Bắc đến chừng<br />
dừng lại ở chỗ đất giáp biển cực Nam, đã có bao nhiêu<br />
máu xương người Việt đổ ra cho bài địa lý được hoàn<br />
chỉnh như vậy …<br />
Ải Nam quan ! Mũi Cà Mau !<br />
Lớn lên chút nữa, mười một mười hai tuổi, ngày bãi<br />
trường đến rạp hát lãnh thưởng, ngồi xem các anh lớn<br />
diễn kịch Nguyễn Trải tiễn cha ngoài cửa ải Nam Quan.<br />
Tiếng con đòi đoạn, lời cha khẳng khái làm rung động<br />
tới con tim còn rất trẻ. Sân khấu dựng cảnh rừng âm u,<br />
đèn xanh đỏ chiếu mờ, đoàn tù xa đi chầm chậm rồi<br />
ngừng lại trước ải để mấy anh kép học trò nói lối. Ải xa<br />
cắt dán bằng mấy tấm giấy cạc-tông mà xem như thật.<br />
Cũng vách đá lầm lì, cũng lầu gác dọa dẫm làm cho đứa<br />
bé hay mơ mộng đã thấy ngay một trời biên tái.<br />
Hình ảnh đó giữ mãi suốt một thời mới lớn để đến nỗi hễ<br />
nghe nhắc tới ải Nam Quan là lại nghĩ tới đoạn lìa. Nghĩ<br />
tới đoạn lìa là có bên này bên kia. Có ta và người. Có thù<br />
và bạn.<br />
Rừng cô tịch suối trầm nao tiếng thở. Lá hoa tàn nức nở hận ly tan.<br />
Kéo về đâu mây Tần chênh bóng vỡ. Ðây Nam Quan ly biệt máu<br />
sôi tràn. (*)<br />
Rồi suốt một thời trai trẻ, học thêm những hồi lịch sữ khi<br />
nguy biến lúc quang vinh của dân tộc bao giờ cũng thấy<br />
gắn liền với cái cửa ải xa mù xa mịt đó. Xa mù mịt nhưng<br />
vẫn có đó, vững chải như được dựng lên bằng cả khối<br />
16
máu xương vô định của không biết bao nhiêu lớp tiền<br />
nhân trong cuộc chiến không ngừng chống người<br />
phương Bắc. Cả đến trong hai kỳ Bắc thuộc cả ngàn<br />
năm, cửa ải tuy bị xóa trên bản đồ thực tế mà chưa bao<br />
giờ chịu mờ phai trong lòng người dân Việt. Nó ở đó<br />
sừng sửng trong đầu trong tim để nhắc nhở, để hãnh<br />
diện, để gọi dậy lòng căm phẩn, chí phục thù và nghĩa<br />
hy sinh. Nó ở đó như để phân định rõ ràng bên này là<br />
dân tộc, là nghĩa cả, bên kia là giặc thù, là phản bội. Nó<br />
ở đó, nám đen lời xâm sát-đát của người lính Bạch Ðằng,<br />
rền rền tiếng thét xung phong của cảm tử Ðống Ða, biến<br />
trái đắng của rừng núi Chí linh thành trái phá nổ rung<br />
bốn cửa Ðông Ðô ... Nó ở đó, thất thanh trong đêm Huế<br />
bỏ ngõ, ung dung trong chén thuốc độc khi thất thủ sáu<br />
tỉnh Nam kỳ, bi tráng trong tiếng tung hô đất nước dưới<br />
máy chém Yên Báy... Và trong hằng hằng hy sinh vô<br />
danh khác nữa ... để cho một đất nước rất nhỏ hẹp, một<br />
dân tộc rất ít oi còn được đánh tiếng với đời về sự riêng<br />
biệt của mình ở bên này lằn ranh một cửa ải.<br />
Cho mãi đến khi đất nước đã bị chia hai vì tham vọng<br />
cuồng tín, trong sử sách, ải Nam Quan vẫn được kể là<br />
phần đất cực bắc của quê hương, và được trịnh trọng<br />
mở đầu cho bài sử địa khai tâm. Ðứa nhỏ Việt Nam nào<br />
mà không được học đến nằm lòng hình thể nước ta hình<br />
cong như chữ S chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà mau...<br />
Học như vậy rồi mỗi lúc một lớn lên, dẫu có làm gì bê<br />
bết cách mấy đi nữa hoặc lỡ có trôi sông lạc chợ tới đâu<br />
đi nữa thì cứ vẫn mủi lòng mỗi bận nghe mấy câu vọng<br />
cổ mùi tận mạng. Ôi-tay-cắt-tay-bao-nỡ-mà-ruột-cắt-ruột-<br />
17
ao-đành... Phải rồi sông nước núi non có khác gì lóng tay<br />
núm ruột ...<br />
Biết như vậy rồi làm sao mà không khỏi giựt mình khi<br />
nhớ lại lời khẳng quyết ngọt như mía lùi và chắc như<br />
đinh đóng cột của người “lãnh tụ” (!?) đã tự nhận là yêu<br />
quê hương dân tộc bậc nhất :“ nước Việt nam là một,<br />
sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không<br />
bao giờ thay đổi “ (sic). Những lời tâm huyết đại loại như<br />
vậy làm ai nấy nức lòng, ngay cho tới cái đám cùng dân<br />
mạt kiếp cũng phải nhận rằng núi non sông nước là máu<br />
huyết xương tủy của dân tộc, không thể để cho thù<br />
ngoài chặt đầu bẻ tay. Bèn hè nhau mà theo lời đi đánh<br />
Tây đánh Mỹ.<br />
Nhưng mà sau cơn dầu sôi lửa bỏng rồi mới thấy sự thật<br />
không phải như vậy!<br />
Bởi vì nghĩ cho tới thiệt cùng, non nước mà có bỏ công<br />
giành giựt cách mấy đi nữa trong khi con người sống<br />
trên đó rồi ra bị đối xử như loài cầm thú thì cái chuyện<br />
non nước đã hô hào có ra cái… nước non gì đâu. Non<br />
nước cũng chỉ là xẻo đất thó, khúc mương lạch đã có ở<br />
đó tự khi nào và sẽ còn ở đó cho tới bao giờ cũng là<br />
điều nằm ngoài vòng hiểu biết hữu hạn của con người.<br />
Nó ở đó, vô tình hay hữu tình chính là do sự có liên hệ<br />
hay không với con người sống ở đó. Một khoảnh đất đai<br />
vô tình mà trở nên giang sơn thắm thiết là tại đã thấm<br />
không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt và máu xương<br />
của lớp lớp người tới trước, khai phá… và hằng hằng<br />
18
người tới sau, vun bồi. Từ đó sông nước đưa đón, núi<br />
non đỡ đần và con người rủ nhau dắt díu về nương náu.<br />
Ðất và người dính liền nhau không khác gì da với thịt.<br />
Thịt có nở nang thì da dẻ mới hồng hào. Lóc thịt bỏ đi<br />
bất kể thì da chẳng khác gì lớp vỏ bầy nhầy có đem cân<br />
cũng không đáng nửa xu. Làm cái công việc bất nhân<br />
đày đọa con dân năm này qua năm khác thì núi có liền<br />
núi sông có liền sông cũng chỉ là ngụy tín. Bôn ba trời tây<br />
rồi trời đông, học đòi đủ thứ triết thuyết ngông cuồng<br />
của mấy tay biện sĩ láo khoét, rồi đem về xử quyết cho<br />
bằng được cái đám con dân đã bị xuất huyết đến mõn<br />
hơi sau ngàn năm Bắc thuộc và trăm năm Pháp thuộc thì<br />
phải kể là độc còn hơn Tần Bá. Hô hào cho được cả<br />
nước đuổi ngoại xâm, lấy một nửa đất nước rồi là phóng<br />
tay đánh ngay đám con dân khố rách áo ôm không một<br />
chút run tay. Nhân văn giai phẩm là đánh ngay bọn văn<br />
nhân trí thức cốt để đập đầu. Cải cách ruộng đất là đánh<br />
hết tứ tung trên dưới trong ngoài bất kể trời đất cốt để<br />
dập đuôi. Ðánh để nhà nhà run sợ. Ðánh để người người<br />
run sợ. Rồi vừa khi trong nhà ngoài ngỏ đã không còn<br />
tiếng hó hé là gom hết của cải lương thực mượn thêm<br />
sức thù ngoài gây thêm giặc trong cho tận tuyệt mới<br />
vừa. Dẫu có chết tới người cuối cùng cũng mặc. Làm như<br />
vậy để gọi là giành nước giữ nước? Cái thứ đất nước mà<br />
sỏi đá nát ngướu cỏ cây trơ trụi con người xơ vơ xửng<br />
vửng thì hỏi thử có thương yêu gì mà đòi với hỏi. Cho<br />
nên dẫu có cả tiếng kêu nòi gọi nước thì nghe ra cũng<br />
trơn trớt như giọng điệu chài mồi của đám giám sinh họ<br />
Mã vậy thôi. Lịch sử vài chục năm gần đây rốt lại chỉ là<br />
19
hệ lụy của mấy lời "tâm huyết" độc địa đó. Bằng chứng<br />
có đâu xa. Nó ở ngay trên cặp mắt lơ láo của lũ trẻ<br />
không trường, ở trên đôi vai xương xẩu của bà mẹ chạy<br />
gạo móm con, ở trong hốc mắt thất thần của đám dân<br />
không vây cánh sau hơn một phần tư thế kỷ độc quyền<br />
lãnh đạo ... Hai mươi lăm năm sau ngày giành lại hết<br />
miếng đất cong cong hình chữ S nếu thiệt tâm sao<br />
không đem lòng yêu thương mà gìn giữ. Ít nữa cũng đỡ<br />
tủi hờn cho cái đám trót nghe lời sinh-bắc-tử-nam. Ðằng<br />
này, chưa kịp đánh đã thua, chưa kịp thua đã tự dưng<br />
nạp mạng. Tâm địa cầu an hẳn còn hơn Trần Ích Tắc và<br />
Lê Chiêu Thống tới mấy bậc. Rõ ràng thẻo đất rộng có<br />
mấy dặm vuông hay mấy ngàn dặm vuông đi nữa, hay<br />
cả một dãy đất nước đã giành giựt bằng gian lận máu<br />
xương đâu có đáng hơn mấy chỗ ngồi trong bộ chính trị<br />
giữa Hà nội bây giờ. Lịch sử trôi rỉ rả mà giống y như<br />
đứng khựng. Ðô hộ phủ phá đi rồi muốn dựng lại mấy<br />
hồi. Cả linh hồn một dân tộc còn bán đứng được thì có<br />
sá gì cái cửa ải đã rêu xanh đòi đoạn đó. Cho nên có lạ<br />
không khi những ngày cuối năm qua đám cầm quyền ở<br />
đó đã lẳng lặng cắt đất cắt biển dâng cho kẻ thù truyền<br />
kiếp. Chẳng qua cũng chỉ là hệ quả tất nhiên của một<br />
chủ nghĩa bất cận nhân tình và một tâm địa gian hùng<br />
phản trắc đến bệnh hoạn. Trong nước thì thẳng tay đè<br />
đầu bóp cổ dân đen đến xác xơ mà miệng thì cứ thơn<br />
thớt yêu dân yêu nước. Bên ngoài thì o bế bợ đỡ đám<br />
đàn anh phương bắc " vĩ đại " để đụt nhờ chổ yên thân<br />
mà mồm thì lại ra rả tổ quốc với dân tộc. Tội nghiệp<br />
hồn tiên tổ còn lưu luyến phưởng phất trên đầu cây<br />
20
ngọn cỏ không biết phải dằn làm sao cho qua cơn uất<br />
ức. Mà con cháu, đọa lạc ở quê nhà hay lang thang<br />
ngoài xứ lạ cũng chịu thấu làm sao nỗi tủi nhục tày trời.<br />
1300 cây số đường biên giới là rừng cây đồi cỏ, là núi<br />
non suối nguồn. Mà cũng còn là chim muông quen<br />
thuộc. Và nhất là nơi chốn đi về của hàng vạn người<br />
thiểu số mộc mạc chỉ quen với đồi nương liếp rẩy, cả đời<br />
chưa một lần hay chưa muốn một lần xa rời bản buôn<br />
của họ. Cắt đất như vậy là cắt lìa một lúc cả vạn cuống<br />
rún ra khỏi núm nhau. Là bứt mạch máu ra khỏi con tim,<br />
là xua đuổi con người ra khỏi vùng môi sinh thân thuộc.<br />
Làm như vậy có khác nào kêu án tử cùng một lúc cho cả<br />
vạn người vô tội.<br />
Thật ra cửa ải rồi ra cũng chỉ là một biểu tượng. Mớ đất<br />
đá xây thành hẳn đã bị bào mòn theo thời gian và có<br />
ngày sẽ sụp đổ dẫu không ai chạm tới. Chính cửa-ải<br />
chắn giữ giữa lòng người mới chính là hào lũy thiên thu.<br />
Từ cuộc khởi nghĩa Mê Linh đến trận thủy chiến Bạch<br />
Ðằng, từ câu tứ tuyệt của Lý Thường Kiệt đến lời hịch<br />
sấm dậy của Trần Hưng Ðạo, từ lời nguyền sông Hoá<br />
đến câu thề sát đát, rồi đoản đao Ngọc Hồi, gươm bạc<br />
Nhật Tảo, ... ngay đến lúc thất thế mà lời khẳng quyết<br />
còn làm rung động được nước non chính là đã phát xuất<br />
tự bên trong cái cửa ải cao ngùn ngụt chắn ngay giữa<br />
tấm lòng người dân Việt. Những cửa ải đã dựng lên<br />
bằng xương vô định, bằng máu trường giang, bằng trí<br />
ngưu đẩu, bằng dũng bạt sơn, bằng nhẫn trấn thủy...<br />
nghĩa là bằng cả cái dòng lịch sử chảy cuồn cuộn trong<br />
máu huyết ngàn năm lập quốc. Chính những cửa ải vô<br />
21
hình đó đã giữ cho nước Việt tồn tại qua hai lần Bắc<br />
thuộc mà sức đồng hóa đã thành huyền thoại. Chính<br />
những cửa ải vô hình đó đã giữ lại nguyên trạng người<br />
Việt trải qua chính sách diệt chủng thâm độc của người<br />
phương bắc từ luật cống nhân tài đến lệnh cạo tóc tết<br />
đuôi sam, từ cột đồng Mã Viện đến bùa yểm Cao Biền,<br />
rồi vó ngựa Nguyên Mông, rồi súng thần công Thanh<br />
triều...<br />
Còn gì nữa, nói được hết không từ tội ác bắt người lênrừng-tìm-ngà-voi-xuống-biển-mò-ngọc-trai<br />
của An nam<br />
đô hộ phủ, đến dã tâm phế bỏ linh hồn dân Việt bằng<br />
cách gom thâu sách vở chở về đốt hết ở Kim Lăng ... Còn<br />
nhiều nữa, nhiều lắm để viết đầy những trang sử diệt<br />
chủng bất tận.<br />
Vậy mà cho đến cuối thế kỷ 20 người dân Việt vẫn còn<br />
có mặt trên dãy đất oan khiên trong khi đã có không ít<br />
những tộc chủng đã biến mất hoặc hầu như biến mất<br />
trên mặt đất này. Vâng, người Việt vẫn còn có mặt. Và sự<br />
có mặt này hẳn không ít thì nhiều là cái gai nhọn trong<br />
mắt người phương bắc. Mà độc đáo hơn nữa, cuộc tồn<br />
sinh của dân tộc không phải là một tình cờ của lịch sử.<br />
Cuộc tồn sinh đó là một cuộc kháng chiến trường kỳ, dai<br />
dẳng, âm ỉ không những chỉ bằng gươm giáo mà còn<br />
bằng niềm kiêu hãnh, lòng quyết tâm, chí can cường và ý<br />
thức độc lập. Lịch sử cuộc tồn sinh đó là lịch sử những<br />
trận chiến giằng dai và đẩm máu của một bên, nhỏ và<br />
yếu như con châu chấu và một bên, lớn và mạnh như<br />
22
chiến xa. Lịch sử cuộc tồn sinh đó là lịch sử của một sức<br />
đề kháng dẻo dai và bền bỉ được nuôi dưỡng bằng tình<br />
yêu đất đai, làng mạc, xóm giềng, gia đình và những<br />
truyền thống đã thành nề nếp. Sức đề kháng đó bung ra<br />
thành những hy sinh đến mức khó tin và nhiều không<br />
sao kể xiết, người bỏ thây ngoài trận địa để giành lại một<br />
tấc đất, kẻ nhẫn nhục ở xóm thôn để nuôi dưỡng một<br />
niềm tin. Sự kết hợp của hằng hằng hy sinh đó, oanh liệt<br />
hay thầm lặng, chính là cái cửa ải trong lòng người,<br />
chống lại mọi sức đột phá từ bên ngoài để giữ cho được<br />
hồn Việt còn mãi mãi là hồn Việt. Vâng, cái cửa ải đó đã<br />
có thật, lưu liên trong lòng của bao nhiêu thế hệ. Và<br />
cũng rất thật, cái cửa ải đó đã sụp mất trong lòng của<br />
những người đang cầm quyền ở đó, hiện nay. Nghĩ lại<br />
coi, có một chế độ tự trọng nào mà lại bo bo đầu phục<br />
kẻ thù truyền kiếp ở phương Bắc tới vậy, ngoại trừ cái lần<br />
họ Mạc mưu toan dùng kế khổ nhục để hoãn binh hầu<br />
cứu vãn nghiệp cả. Việc không thành. Họ Mạc mất còn<br />
bị nguyền rủa đời đời và chưa bao giờ được coi là một<br />
họ chính thống. Còn lại, trong suốt dòng lịch sử dù có<br />
phong ba vẫn chưa bao giờ người xưa cam lòng khuất<br />
nhục nếu đã chưa thử thách đến kỳ cùng. Kể từ năm 939<br />
là năm có chính sử, sau lần tuyên ngôn tự chủ của Ngô<br />
Quyền, đến danh xưng Ðại Cồ Việt được coi là lời khẳng<br />
quyết đầu tiên của một dân tộc về quyền sống của mình<br />
dưới ánh mặt trời, xứng đáng như mọi dân tộc khác.<br />
Nghĩa là một quốc gia với biên cương là những lằn ranh<br />
vạch bằng xương máu. Nghĩa là một quốc gia với đầy đủ<br />
quyền lực và trách nhiệm để bảo vệ lãnh thổ và con dân.<br />
23
Những đời vua lần lượt thay nhau nắm lấy cái quyền<br />
thiêng liêng đó. Có triều đại rực rỡ, có triều đại lu mờ<br />
nhưng có triều đại nào nhượng đất đợ con như triều đại<br />
họ Hồ này đâu.<br />
Ải Nam quan ở đó đã bao đời bỗng chốc thụt sâu vô nội<br />
địa cả chục ngàn thước mà kẻ thù không mất một mảy<br />
lông thì quả thực ngàn năm có một. Bởi vì cũng chỉ ngàn<br />
năm mới có một hạng cầm quyền bạc nhược đến như<br />
vậy. Họ bạc nhược như vậy vì lòng họ không còn cái cửa<br />
ải sừng sửng như trong lòng tiền nhân để chận đứng cái<br />
xấu và bảo vệ cái tốt. Vì chủ nghĩa bất nhân thất đức đã<br />
bứt lìa họ khỏi cái nôi của dân tộc. Vì sự dối trá lâu ngày<br />
đã biến họ thành những kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Vì<br />
những lợi lộc đang thụ hưởng sau khi đã quá khát thèm<br />
làm họ mất hết lương tri. Và sau chót vì họ không còn là<br />
người Việt như những người Việt từ ngàn đời vẫn dính<br />
liền với quê mẹ như một cuống rún chưa lìa. Nói như vậy<br />
không phải vì ngạc nhiên mà nói. Thật ra có gì lạ đâu cái<br />
việc nhà cầm quyền ở miền Bắc trước năm 75 và nguyên<br />
nước Việt Nam sau năm 75 đã mặc nhiên biến VN thành<br />
một quận huyện của Trung Hoa từ rất lâu rồi. Ðâu từ sau<br />
cái thời kháng chiến 9 năm lận. Nghĩ lại coi cái nước Việtnam-dân-chủ-cộng-hòa<br />
đó có khác gì nước Trung-hoacộng-sản<br />
của "Mao-chủ-tịch" đâu. Từ tổ chức hành<br />
chánh quân đội đến xả hội đều rập khuôn với đàn anh,<br />
làm như người Việt vốn sanh ra không có một chút kiến<br />
thức và sáng tạo gì khác ngoài việc bắt chước, kể cả bắt<br />
chước cái xấu xí quê mùa. Từ việc lớn như phát động<br />
phong trào đấu tố đẫm máu đến cái việc nhỏ nhặt như<br />
24
ộ quần áo đại cán ngây ngô, từ cái tiểu tổ tam tam chế<br />
để kiểm soát nhau tới chết đến cái chiến thuật biển<br />
người đem nướng thanh niên vào lửa đỏ, từ cái tổ chức<br />
trại-viết-văn coi nghệ thuật như một thứ sản phẩm kêtoa-đặt-hàng<br />
đến những bài ca líu lo rặt giọng nhạc tàu<br />
nghe muốn thủng tai... còn cái gì là cái-việt-nam ngoài<br />
cái ngu dốt và nghèo đói. Thành ra nói như trên không<br />
phải vì ngạc nhiên mà nói. Nói chỉ để nhắc lại một<br />
chuyện ai nấy đều biết nhưng nín lặng hoặc vì che mắt<br />
để an thân hoặc bịt tai để khỏi xấu hổ. Cái cửa<br />
ải Nam quan vốn mất đã từ lâu rồi. Mất từ lúc cái cổng<br />
thành đá vẫn còn đó, giữa núi sông, mà thật ra giữa lòng<br />
người lãnh đạo thì không còn nữa. Mất đâu từ năm 54<br />
khi người cộng sản kéo nhau vào diễn hành qua 36 phố<br />
phường của Thăng Long cũ. Mất đâu từ trước nữa, từ khi<br />
ông Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa cộng sản làm vũ khí<br />
đấu tranh. Và chọn làm bạn đường ông Mao Trạch Ðông<br />
"vĩ đại" mà quên rằng từ nhiều ngàn năm nay, người Việt<br />
ưu thời mẩn thế luôn luôn dè dặt với người láng giềng<br />
khổng lồ đó. Lịch sử lịch triều là bằng chứng không thể<br />
làm lơ. Lời đường mật "môi hở răng lạnh" nghe thì ỏn ẻn<br />
như giọng Ðiêu Thuyền mà thật ra ngậm đầy gươm đao<br />
tẫm độc. Thành ra chỉ có hoặc vô tâm đến độ ngây ngô<br />
hoặc cố tình làm ngơ vì dụng ý hẹp hòi mới có thể đinh<br />
ninh tin cậy vào lòng tốt của một dân tộc vốn cũng trồng<br />
lúa nước và ăn gạo như chúng ta. Chỉ có mù quáng đến<br />
tối mắt giống như Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống mới<br />
có thể thấy cái lợi che thân mình trước mắt mà quên cái<br />
hại lâu dài cho dân tộc. Chỉ có thể huênh hoang như<br />
25
phường tuồng mới có thể hô hào không ngượng miệng<br />
cái tình "hữu nghị" đã nát như tấm giẻ rách sau cuộc "<br />
trừng phạt" năm 79. Chỉ có thể a tòng với tội ác mới<br />
không thấy cái việc tương nhượng lần này là mở cửa<br />
trước cho bọn cướp ngày được-đằng-đầu-lấn-đằngchân<br />
thập thò dòm ngó cửa sau. Chỉ có thể mặt dạn mày<br />
dày mới không bị lấn cấn trong việc rước-voi-giày-mảtổ.<br />
Mà nhất là có lâu lắc gì cho cam, mới đây thôi, chính<br />
họ đã la hoáng lên như kẻ cháy nhà về cái chủ nghĩa bá<br />
quyền của người-anh-em-phương-Bắc. Rồi một sớm<br />
một chiều cũng chính họ đã nhủn như con chi chi rước<br />
rước đưa đưa người qua lại cắt đất cắt trời cắt biển của<br />
tổ quốc một cách ngang nhiên như chia của riêng của<br />
ông cha họ để lại. Thành ra nói không phải vì ngạc<br />
nhiên. Nói chỉ để ngậm ngùi mà xác nhận lại một điều lo<br />
sợ đã thành sự thật. Cái hệ luận tất yếu của một chủ<br />
nghĩa quái đản, mạo nhận đại đồng để che đậy vọng<br />
ngoại, tiếm xưng dân tộc để giấu giếm vong bản, cường<br />
điệu ngôn ngữ để lấp liếm sự rỗng không và hoa hòe<br />
hoa sói là để lòe mắt gạt gẫm đám con dân khốn khổ.<br />
Tất cả đã nằm ngay trong lối kết bè tụ đảng, học đòi bạo<br />
lực bất chấp nhân nghĩa, chuyên trị khủng bố với<br />
phương châm cứu cánh biện minh cho phương tiện. Việc<br />
phải tới đã tới. Bắt đầu bằng cái việc đòi nợ trả nợ mặc<br />
dầu miệng lúc nào cũng ra rả là nghĩa vụ quốc tế. Nợ<br />
súng đạn mìn bẩy dao găm trả lại bằng tấm lưng còng<br />
của mấy chục triệu con dân. Rồi là nợ đất đai chắc là đòi<br />
đâu giao đó. Bởi vì có dám chống lại đâu khi nhìn suốt cả<br />
nước có tìm đâu ra được một tấm lòng dân như thuở<br />
26
Diên Hồng. Thành ra việc phải tới đã tới. Tới bây giờ hay<br />
mai mốt thì cũng vậy bởi vì quan ải đâu còn nữa trong<br />
lòng những kẻ đã bán linh hồn cho quỹ dữ. Mấy chục<br />
năm qua bao nhiêu xác người thúc ké thả trôi sông, bao<br />
nhiêu lựu đạn nổ giữa chợ, bao nhiêu trường học đổ sập,<br />
bao nhiêu người đã chết không nhắm mắt trong những<br />
trại lán heo hút, bao nhiêu xương-máu-khởi-nghĩa-giảiphóng-hiệp-thương-thống-nhất...<br />
gì gì nữa để đánh đổi<br />
cái việc nay dưng đất này, mai nhường biển nọ cho kẻ<br />
thù nguy hiểm nhất vì vốn liền núi liền sông thì dẫu là<br />
ngu cách mấy chắc cũng không thể không tủi hổ và tức<br />
giận đến bầm gan tím mật. Vậy mà những kẻ đó, với<br />
quyền lực sinh sát trong tay vẫn tự trói thân phủ phục.<br />
Vậy mà những kẻ đó, đang phè phởn trên đầu muôn<br />
dân vẫn tổ chức lễ reo mừng. Không lẽ chỉ có chúng ta,<br />
cái đám con dân đang ngất ngư vì bị bóp hầu siết cổ hay<br />
đang lang thang lơ láo trên xứ người là còn thấy xấu hổ<br />
hay sao. Thật ra câu trả lời đã nằm ngay trong việc làm<br />
trời không dung đất không tha đó.<br />
Ôi Nam Quan ly biệt máu sôi tràn ! (*)<br />
(*) thơ của một tác giả không nhớ tên. Muôn vàn tạ lỗi<br />
27
viết thêm<br />
Bài viết đã lâu, từ lúc xảy ra ba cái vụ gọi là “ dời cột mốc” ở biên<br />
giới phía bắc. Đến nay tình trạng càng lúc càng tồi tệ hơn. Gần<br />
đây nhất và có vẻ rầm rộ nhất, mang tai mang tiếng nhất do sự<br />
việc xảy ra ở ngay cửa ngõ mở ra thế giới (chỗ người ta hay dòm<br />
ngó) là ba cái vụ biển đông với Hoàng Sa và Trường Sa ... Thật ra<br />
mọi sự chỉ diễn ra theo một trình tự rất “họp lý” và ... “họp tình”.<br />
Một khi cửa ải Nam Quan không còn sừng sững trong đầu trong<br />
lòng con người ở đó nhất là trong đầu cái đám “ gọi-là-lãnh-tụ ”<br />
thì dù cho có một triệu cái cột mốc đi nữa cũng không phân định<br />
được đâu là ranh giới nói chi là ở chỗ trời biển mênh mông. Mà<br />
nói chi cho xa xôi (và lớn chuyện), ngay cả trong đời sống hằng<br />
ngày, từ cây đủa ăn cơm đến cái nhà máy điện, từ cái lồng đèn đỏ<br />
lòm treo đầy trong nhà ngoài ngõ tới cái mỏ bau-xít đỏ hoét cả<br />
một vùng trời đất tây nguyên v.v... và v.v... Có kể hết được không<br />
sự có mặt (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) của người đồng-chí-môihở-răng-lạnh<br />
ở phía bắc vốn bị coi là kẻ thù truyền kiếp của dân<br />
tộc ngay từ thời lập quốc.<br />
Cái chuyện lộn xộn rùm beng nay ở chỗ này mai ở chỗ kia chẳng<br />
qua chỉ nói để mà nói, chớ thật ra, đã từ lâu lắm, đâu hồi “ bác ”<br />
nổi hứng đi làm cách-mạng-made-in-china thì thật ra cả đất nước<br />
ông bà tổ tiên còn có ra gì nói chi đến năm ba tấc đất. Chuyện<br />
phải tới thì sẽ tới. Vậy thôi !<br />
28
" Bonjour<br />
Vietnam "<br />
Mấy ngày giáp năm, lòng bỗng nhong nhóng chờ<br />
một cái gì dù biết mình đã thật không có gì để đợi. Ở<br />
cheo leo ngay trên vĩ độ 45 bắc, núi rừng ao hồ<br />
29
thành phố vẫn bằn bặt trong cơn đồng thiếp trắng.<br />
Và gió và tuyết cứ tha hồ đục đẽo mặt người. Và<br />
người xa xứ cứ vật vã với mớ kinh nghiệm càng lúc<br />
càng còm cõi về một nhiệt đới vàng.<br />
Rồi tết đến. Rồi tết đến, rồi lòng anh nhớ quá. Thơ<br />
Nguyễn Đình Toàn đẹp như một kỷ niệm. Và tết, rồi<br />
cũng chỉ là một kỷ niệm trong mớ kỷ niệm tội nghiệp<br />
đang lún dần vào phía bên kia của trí nhớ.<br />
Ở giữa cái thờ ơ của đất trời xứ lạ và lòng người lạ<br />
xứ, âm vang tết nghe mơ hồ như chính cái quê<br />
hương chẳng những đã xa mút ngoài dặm trường<br />
mà còn xa mù trong lý tưởng. Người về người qua kể<br />
chuyện này chuyện nọ đã có lúc làm nhớ đến Túy<br />
Hồng có lần mô tả Huế như một thành phố « đi xa<br />
để mà nhớ chớ không phải ở để mà thương ». Câu<br />
viết trong một tâm cảnh đặc biệt nào đó chẳng lẻ trở<br />
thành một lời tiên tri thấu thị, cho từng lượt người<br />
qua lại đi về,<br />
Hàng năm tết đến lại thấy lũ lượt người về... Rồi lũ<br />
lượt kéo qua, và những lời phiền trách!<br />
Thì đã đành là lá rụng về cội, chỉ có điều cái cội này<br />
sao có quá nhiều gai góc nhất là cho những chiếc lá<br />
còn quá xanh non.<br />
Vâng những chiếc lá còn quá xanh non, những tuổitrẻ-việt-nam<br />
không quá khứ, chẳng hận thù đang<br />
phơi phới lớn lên khắp cùng mặt đất này, ngoại trừ<br />
30
cái phần đất có hình cong cong chữ S... và đang náo<br />
nức muốn tìm lại về nguồn. Cái ước muốn đúng đắn<br />
và cảm động biết bao. Cha chú đã bồng ẳm họ trên<br />
tay, giấu diếm họ trong nách, những bà mẹ đã mang<br />
họ trong bụng, những dì cô đã cỏng họ trên lưng lội<br />
bùn lầy, chui rừng rậm trốn tránh đồn bót và băng<br />
qua những cơn bão dữ của thiên nhiên và lòng<br />
người, cốt tìm cho họ một-chỗ-đứng-dưới-ánhsáng-mặt-trời,<br />
những người đó chắc cũng vừa lòng<br />
lắm. Hổng vừa lòng sao trong mấy ngày tết vừa qua,<br />
lòng ai nấy bỗng thấy rưng rưng khi tình cờ nghe<br />
được một giọng vành khuyên non xèo, hát lên lời<br />
hoài vọng quê hương nghe thương đến đứt ruột.<br />
Giọng hát đó là của cô gái Việt Nam mười tám tuổi<br />
tên Phạm Quỳnh Anh, sinh ra và lớn lên ở Bỉ. Và bài<br />
hát có tên gọi Bonjour Vietnam, lời và nhạc của một<br />
ca nhạc sĩ đang được ưa chuộng ở Pháp, Marc<br />
Lavoine. Nhạc êm dịu, trữ tình. Và lời thì tuyệt tác.<br />
Raconte-moi ce mot étrange et difficile à prononcer<br />
que je porte depuis que je suis né<br />
Raconte-moi le viel empire et le trait de mes yeux bridés<br />
qui disent mieux que moi ce que tu n'oses dire<br />
Je ne sais de toi que des images de la guerre<br />
Un film de Coppola, (et) des hélicoptères en colère<br />
Un jour, j'irai là bas, un jour, dire bonjour à ton âme<br />
Un jour, j'irai là bas (pour) te dire bonjour Vietnam.<br />
Raconte-moi ma couleur, mes cheveux et mes petits pieds qui me<br />
porte depuis que je suis né...<br />
31
..... Hãy kể cho ta biết cái tên khó gọi mà ta đã mang từ thuở sơ<br />
sinh<br />
Hãy kể cho ta về đất nước xa xưa và về đôi mắt xếch của ta<br />
đôi mắt biểu lộ lòng ta hơn những lời không dám thốt lên<br />
Ta chỉ biết quê nhà qua hình ảnh chiến tranh<br />
Qua phim của Coppola với những chiếc trực thăng hung dữ ...<br />
Một ngày nào đó, ta sẽ về chào hồn thiêng dân tộc<br />
Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam<br />
Hãy kể ta nghe về màu da, mái tóc và bàn chân nhỏ bé của ta<br />
đã theo ta từ lúc mới chào đời... (1)<br />
Phải nói là người nhạc sĩ Pháp trẻ tuổi và thời danh<br />
đó đã có một tấm lòng liên mẫn tuyệt diệu lắm mới<br />
viết thay được cho lớp trẻ Việt Nam đang sống như<br />
một loài cây không rễ - dù không phải là đã không<br />
hòa nhập được với nếp sống xứ người. Nỗi ưu tư đó<br />
có thật, trong tròng mắt đen nhánh như hai hột<br />
nhãn, trên mái tóc cứng sợi đen tuyền, trên làn da<br />
sẫm vàng nhiệt đới, dù cặp môi xinh xắn đó có xổ<br />
tiếng Tây tiếng Anh như gió cuốn mây bay. Chắc<br />
chắn, ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó, trong<br />
cái đầu nhỏ xíu và thông minh của họ, đã có lúc bật<br />
ra câu hỏi... tôi-là-ai giữa cái đám đông nhung nhúc<br />
mắt xanh tóc vàng đang vây quanh họ. Và từ đó, câu<br />
hỏi về một quê nhà nghe ra cứ mù mịt trong những<br />
câu chuyện giữa mẹ cha cô dì chú bác... Cái thế hệ<br />
thứ hai lớn lên giữa một-chỗ-không-phải-quêhương,<br />
làm gì không có lúc muốn nhìn cho biết tận<br />
mặt quê hương, cái ước muốn không kém phần luận<br />
32
lý như chính cái luận lý bỏ đi của cha mẹ họ hơn ba<br />
mươi năm trước.<br />
Người nhạc sĩ, trong khuôn khổ giới hạn của bài hát,<br />
đã chọn lọc thật khéo những hình ảnh đơn giản<br />
nhưng đủ gây ấn tượng về lịch sử trầm luân của một<br />
dân tộc. (Thì thôi nhìn bằng cách nào, ngay cả khi chỉ<br />
thấy có một phía... những hélicoptères en colère,<br />
những chiếc trực thăng hung dữ, cuộc chiến rồi ra<br />
cũng đã là một tai họa chung cho cả dân tộc đó !<br />
Cũng có thể đó là tâm trạng chung của cái thế hệ tới<br />
sau chỉ biết chiến tranh qua những lời kể lại. Từ đó<br />
cái nhìn trở thành bao dung, khoan hòa, rộng<br />
lượng... như chính cái hồn tuổi trẻ vẫn thường không<br />
biện biệt...)<br />
Hãy quên đi cái anh nhạc sĩ người Pháp và nghe lời<br />
ca từ trên đôi môi xinh xắn của một cô-bé-việt-nam,<br />
cái giấc mơ về quê nghe hiền lành, vô tội và dễ<br />
thương như tiếng kêu chiêm chiếp của một con chim<br />
con đang tập hót.<br />
Hãy kể ta nghe về căn nhà, con đường và vùng đất ta chưa biết<br />
có chợ nhóm trên sông và thuyền tam bản<br />
Và nỗi náo nức tìm về cũng thiệt thà, hồn hậu như<br />
chính những hình ảnh nó gói ghém trong đó.<br />
33
Một ngày nào đó, ta sẽ về chào hồn thiêng dân tộc<br />
Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam<br />
Sẽ đi thăm những ngôi chùa, tượng Phật, thay cho cha<br />
Chào hỏi những người phụ nữ cấy lúa trên ruộng đồng, thay cho<br />
mẹ<br />
Và nhất là vòng tay mở ra, tấm lòng mở ra để ôm<br />
cho hết ... Việt Nam.<br />
Dans la prière, dans la lumière, revoir mes frères<br />
Toucher mon âme, mes racines, ma terre...<br />
Un jour, j'irais là bas. Un jour, dire bonjour à mon âme<br />
Un jour, j'irais là-bas (pour) te dire bonjour, Vietnam.<br />
Trong lời nguyện cầu, trong ánh sáng chan hòa, ta sẽ gặp lại các<br />
anh em<br />
Trở về sống với tiếng lòng, cội nguồn, với đất mẹ quê cha<br />
Một ngày nào đó, ta sẽ về gặp lại linh hồn của ta<br />
Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam (1)<br />
Tình tự đó được hát lên bằng một giọng hát rất non,<br />
non như màu xanh của lúa mạ. Nghe hát, liên tưởng<br />
đến người hát thấy ra cái mâu thuẩn ngộ nghĩnh vừa<br />
gây thích thú vừa bỗng thấy một chút nghẹn ngào.<br />
Chính cái dáng dấp xinh xắn của một cô gái rặt-việtnam<br />
hát lời vọng tưởng Việt Nam bằng thứ tiếng<br />
Pháp phát âm hết sức đúng điệu, đúng cách, đúng<br />
giọng không thua bất cứ một cô đầm chính hiệu nào<br />
đã làm người nghe thấy bàng hoàng.<br />
34
Và... vấn đề đặt ra ở đây.<br />
Giọng non, thanh mà ấm, hát hồn nhiên và say sưa<br />
cái nỗi thiết tha của mình về một quê hương chưa<br />
từng biết bỗng làm người nghe giựt mình. Nhất là<br />
mỗi lần cô xuống giọng để kết một phiên khúc bằng<br />
mấy tiếng bonjour Việtnam,-trong tiếng Pháp không<br />
có "dấu nặng", cô phải láy giọng để phát ra cho<br />
đúng cái âm "dấu nặng" đó- nghe mà thương hết<br />
sức. Cô nhỏ hát thành khẩn như một người đã sinh ra<br />
ở đó và sẽ chết ở đó, đã chơi đùa một tuổi thanh<br />
xuân ở đó và ngậm ngùi một tuổi vàng ở đó. Cô nhỏ<br />
hát như một người đã biết đau cái đau của viên đạn<br />
xé thịt, đã khóc tiếng khóc của một người đào huyệt<br />
chôn bạn, đã rạng rỡ những vinh quang tự chủ và tối<br />
ám những nhục nhằn nô lệ. Cô hát như một người<br />
đã lồng lộng gió chiều Cữu Long, đã rám mặt núi<br />
đèo Trường Sơn, đã lún mỏi sình lầy Đồng Tháp, đã<br />
biết oan khiên Thúy Kiều, não nùng Cung Oán... Rõ<br />
ràng cô hát bằng cả một hồn hoài hương dù giữa cô<br />
và cái quê hương đó chưa biết nhau được một lần.<br />
Có phải chính cái mà Carl Jung đã gọi là vô thức tập<br />
thể đã tàng ẩn trong những sợi nhiễm thể của cô<br />
khiến tiếng hát cô mang đầy vẻ trìu mến về một đối<br />
tượng mà cô chỉ mơ hồ nghe kể lại. Như vậy có phải<br />
đã có một giấc-mơ-việt-nam đâu sẵn trong tim<br />
trong óc của những người tuổi trẻ dù chưa một lần<br />
35
thực sự biết mặt quê hương tròn méo dài ngắn ra<br />
sao. Có điều... hình như giữa giấc mơ êm đềm đó và<br />
cái thực-tại-việt-nam bây giờ dường như vẫn còn<br />
một khoảng cách không lấy gì hẹp lắm.<br />
Em nhỏ, em thấy gì trong giấc mơ em?<br />
Phải cái hình ảnh biểu tượng từ bao lâu nay, từ một<br />
thuở yên bình...phải Hà Nội mơ màng với tháp Rùa<br />
hồ Gươm, phải Huế trầm lặng với thành mộ lăng<br />
tẩm, phải Sài Gòn sinh động với đèn đuốc lấp lánh<br />
như viên ngọc của Viễn đông .... Phải là những ruộng<br />
đồng bát ngát lúa vàng, những sông rạch chằng chịt<br />
thừa mứa tôm cá, những hội hè đình đám rộn rịp,<br />
những con người cần cù chất phát... Hay một thời<br />
cuồng nộ với hình ảnh kinh hoàng của đứa bé trần<br />
truồng chạy ra từ một vòm lửa đỏ, những vành khăn<br />
tang quấn trắng cả phố Huế-mậu-thân... Hay sự hồi<br />
sinh của một vùng đất chết. Hay sức sống thầm lặng<br />
của một dân tộc oan ương... Có điều biểu tượng nào<br />
cũng đúng và cũng không đúng. Dù biểu tượng nào<br />
cũng có thể làm em ngây ngất một ý hướng tìm về.<br />
Em sẽ về. Tôi biết em sẽ về. Một lúc nào đó.<br />
Thử nghĩ đến một ngày em và tâm hồn trong vắt của<br />
em sẽ về lại đó. Em sẽ về, tôi biết.<br />
36
Thử đọc lại một đoạn trong bài "Quê hương ngày<br />
gặp lại" của Kim Thanh đăng trên báo Khởi Hành số<br />
108, tháng 10 năm 2005<br />
"... chiếc Boing 777 của Asiana Airlines lượn vòng Sài Gòn để<br />
chuẩn bị đáp. Lúc ấy gần hai giờ sáng. Thủ đô một thời, Hòn Ngọc<br />
Viễn Đông đã mất tên, hiện qua ô cửa máy bay, tối om.... Từ trên<br />
cao, chưa thấy một thành phố, phi trường về đêm nào ảm đạm<br />
như Sài Gòn... Huệ Trân, con gái tôi, hỏi, cắt đứt dòng suy tư:<br />
-Thành phố gì mà tối thui vậy ba? Sao họ không thắp đèn<br />
lên, nhiều thiệt nhiều như ở Mỹ ?<br />
-Việt Nam bây giờ đó con<br />
.......................................<br />
Từng lượt hành khách từ các chuyến bay lục tục tiến vào một tòa<br />
nhà khá khang trang. Các nhân viên tiếp đón mặt lạnh như tiền...<br />
Tôi trình giấy tờ cho một nữ công an, sồn sồn, da tai tái, mặt lấm<br />
tấm mụn. Ả mở hé hộ chiếu, rồi nhìn xéo tôi, ra lệnh bằng giọng<br />
Bắc nhà quê, the thé:<br />
- Ông kẹp các giấy này vào hộ chiếu, của ai phải đúng tên<br />
người đó, rồi đứng đấy chờ tôi !<br />
Và lạnh lùng vẫy gọi những người kế tiếp. Nửa tiếng sau ả mới<br />
quay sang tôi:<br />
- Ngoài tên thật, ông có biệt hiệu, bí danh nao không ?<br />
Sinh quán ở đâu, làm gì ở Mỹ, ở Mỹ lâu chưa, đến Mỹ diện gì, về<br />
Việt Nam mấy lần rồi ?<br />
Muốn kiếm chuyện gì nữa đây. Tôi nhìn thẳng mặt ả, cao giọng:<br />
- Tôi đã trả lời rồi trong đơn xin visa<br />
Ả nổi nóng, rít lên:<br />
- Bây giờ tôi hỏi lại có được không ?<br />
Đến nước này, tôi phải đốp chát, bất cần hậu quả<br />
- Không được. Bà không có cái quyền đó. Giấy tờ của tôi<br />
rất hợp lệ, được ký bởi hai chính phủ.<br />
................................<br />
37
Sau này, kể lại cho gia đình nghe, tôi vẫn hậm hực nói với Loan:<br />
- Mà tại sao nó chỉ chiếu tướng một mình anh ?<br />
Nàng cười bảo:<br />
-Tại vì nó thấy mặt anh hãm tài quá ! Hoặc biết đâu chừng<br />
nó mê anh, muốn cho anh nếm một chút thú đau thương... Em đã<br />
dặn kẹp tiền vào passport thí cô hồn mà anh không chịu... (2)<br />
Rồi thử nghĩ tiếp, giả sử em qua trót lọt cửa quan<br />
Tân Sơn Nhất, em vào tới phố phường Sài Gòn, mắt<br />
em mở lớn để làm quen với những lạ lẫm... Giả sử<br />
em về tới nhà một người thân nào đó, lệ trùng<br />
phùng mừng mừng tủi tủi...<br />
Như vầy ...<br />
... Buổi sáng, Quốc, chồng Huyền Trân, đi trình giấy tờ, hộ chiếu<br />
cho đồn công an, nhưng quên không đem theo tiền "bồi dưỡng".<br />
Lập tức, hai tên còn trẻ, lạ hoắc, một nam một nữ, xuống nhà để "<br />
trước thăm bà cụ, sau chào anh hai mới về". Tôi không hiểu<br />
chuyện gì, phải ngồi tiếp nửa tiếng cho đến khi Huyền Trân đi đâu<br />
về rút tiền ấn vào tay, họ mới rút êm. (2)<br />
Rồi em có thể cũng sẽ được đưa đi thăm những<br />
thắng cảnh đền đài di tích lịch sử như bất cứ người<br />
Việt nào trở về chỉ cốt để thăm-gia-đình nhưng đều<br />
cũng sẵn-dịp-đi-cho-biết.<br />
Hãy đọc thêm một đoạn của học giả Nguyễn Huệ<br />
Chi, người rất có thẩm quyền về những thắng tích<br />
Việt Nam, đã được đăng trên diễn đàn Talawas ngày<br />
21/ 9/ 2005<br />
38
... trèo lên Ngọa Vân Am ở phía tây hòn Yên Tử, ở độ cao khoảng<br />
1000 mét, nơi người anh hùng hai lần lãnh đạo cả nước chống giặc<br />
Nguyên và cũng là vị tổ của nền<br />
Phật giáo thống nhất đời Trần : dòng thiền Trúc Lâm-Trần Nhân<br />
Tông, an tịch, người ta thấy choáng váng đến sững sờ : ngôi tháp<br />
Phật hoàng tức tháp Trần Nhân Tông cao sừng sững, bị đào rỗng<br />
ruột đứng vật vờ trước gió, bài vị bằng đá đen và một tấm đá bán<br />
nguyệt rất lớn khắc mấy chữ "Phật hoàng tháp" thật đẹp trong<br />
niên hiệu Minh Mạng (1839) bị đập thành nhiều mảnh... (2)<br />
Em nhỏ, em có biết tại sao vậy không, những chùa<br />
chiềng, đền đài, tượng đồng, những con hạc gổ,<br />
những đồ sứ đồ sành... những cổ vật vốn vô tri<br />
nhưng hữu tình vì thường chứa đựng trong nó cả lịch<br />
sử của một dân tộc mà bất cứ một người văn minh<br />
nào cũng trân trọng gìn giữ lại bị đập thành nhiều<br />
mảnh.... Vì ở quê hương của em, từ hơn hai thập kỷ<br />
qua, những kỷ vật đó đã trở thành một món hàng<br />
thời thượng.<br />
Khi nghe em hứa sẽ đi thăm những chùa chiềng,<br />
tượng Phật thay cha, tôi muốn rưng rưng.<br />
Thử đọc tiếp một bài viết khác từ năm 2000 của giáo<br />
sư Phạm Cao Dương, cũng là một người rất có thẩm<br />
quyền về lịch sử. Ông trích lại một bản tin từ trong<br />
nước<br />
... trong khi đó các đền chùa cổ tại Việt Nam, đặc biệt là tại miền<br />
bắc, đang bị trộm phá tan hoang. Chỉ tại địa bàn tỉnh Hà Tây gần<br />
đây đã liên tục xảy ra hơn 70 vụ trộm cắp cổ vật . Tại bốn huyện<br />
39
Chuơng Mỹ, Hoài Đức, Quốc Oai và Thạch Thất, trong lúc công an<br />
đang tiến hành điều tra truy tìm thì vào một đêm tháng 9/ 1999,<br />
tại chùa Tây Phương ở huyện Thạch Thất, kẻ gian lại đột nhập lấy<br />
đi một tượng Phật Bà nghìn mắt và một số đỉnh đồng... Ta cần để<br />
ý là những pho tượng ở các chùa không phải nhỏ và nhẹ... (3)<br />
Em có hiểu cái lưu ý của tác giả không... Ta cần để ý<br />
là những pho tượng ở các chùa không phải nhỏ và<br />
nhẹ... Điều đó có nghĩa là không phải ai cũng có khả<br />
năng cạy, gỡ, khuân vác và chuyên chở những pho<br />
tượng không phải nhỏ và nhẹ và mua bán và "xuất<br />
khẩu" sang tận Trung Hoa !<br />
Tôi áy náy khi nghe em dự trù đi viếng thăm những<br />
dấu xưa tích cũ của một nền văn hiến khi dường như<br />
qua bài viết của ông Phạm Cao Dương, thì đó không<br />
chỉ là những vụ trôm vặt. Dường như còn có gì trong<br />
đó nữa...<br />
... có điều ở cả hai việc, chính quyền Hà Nội đã tỏ ra hoàn toàn bất<br />
lực hay không để ý tới, đôi khi có vẻ như đồng lõa trong cảnh hỗn<br />
loạn của chợ chiều... Cái đau và cũng là điều mỉa mai đối với người<br />
Việt là rất nhiều những cổ vật này là thuộc nhiều trăm năm trước.<br />
Trải bao thời loạn lạc, tất cả vẫn còn đó và được chính người dân<br />
đời này sang đời khác nối tiếp nhau gìn giữ. Các chính quyền bị<br />
gọi là phong kiến tồi tệ xấu xa không hề đụng tới. Người phương<br />
bắc và người phương tây cũng không đụng tới được. Bây giờ dưới<br />
một chính quyền gọi là của nhân dân, chúng đã bị cướp mất... (3)<br />
40
Tôi sợ khi em về, em sẽ thấy ngỡ ngàng trước những<br />
bệ bỏ không, những tháp nghiêng ngã vì gỗ đá<br />
gạch ngói bị cạy gỡ nhiều phen... hay là những tu<br />
sữa chắp vá ngờ nghệch, cẩu thả, sơn phết lòe loẹt<br />
lòa mắt chỉ cốt để thu tiền du khách mà chẳng có<br />
một chút ý tứ văn hóa nào. Em muốn tìm lại hồnthu-thảo,<br />
tôi sợ em về rồi chỉ còn thấy nuớc caumặt-với-tang-thương.<br />
Tấm lòng em, tôi biết phẳng phiu chưa từng gấp<br />
nếp. Em mơ nhân ái, em mơ hòa bình, em mơ tự do,<br />
em mơ công bằng (là những điều em đã học hỏi<br />
thấm nhuần trong những nhà trường phương tây và<br />
cũng chính là mục đích tối hậu mà mẹ cha em đã bỏ<br />
mẹ cha của họ, bỏ làng xóm của họ, bất chấp hiểm<br />
nguy chết chóc tù đày để bế bồng dắt díu em bỏ<br />
trốn đi tìm) Hồn em phơi phới như gió sớm, em<br />
muốn thương yêu hết nhân loại... tôi còn biết em<br />
muốn đem sự lành lặn của mình đắp vá che phủ cho<br />
những mảng rách rưới của hết thảy nhân loại, nói gì<br />
tới lòng em với những người anh em đồng chủng.<br />
Tôi tin lắm đoạn kết của bài hát em sáng rở một<br />
niềm tin<br />
Trong lời nguyện cầu, trong ánh sáng chan hòa, ta sẽ gặp lại các<br />
anh em<br />
Trở về sống với tiếng lòng, cội nguồn, với đất mẹ quê cha<br />
41
Một ngày nào đó, ta sẽ về gặp lại linh hồn của ta<br />
Một ngày nào đó, ta sẽ về chào Việt Nam<br />
Em ở xa, và lòng em mở ra, tưởng chừng mở lớn ra<br />
hết cỡ, em xa quê, muốn nối dài cánh tay để vòng<br />
tay em ngày về ôm trọn hết anh em, những người<br />
anh em từ mấy chục năm nay ở lại cội nguồn, chớ<br />
không như em, đã lạc lỏng ngoài cõi lạ. Có điều tôi<br />
sợ dù tay em có nối dài qua sông qua biển cũng<br />
không níu hết được những anh chị em mà em tha<br />
thiết muốn gặp lại như ... gặp lại linh hồn của ta, vì<br />
hiện có khoảng hơn 90 ngàn người (theo con số<br />
thống kê đăng trong bản tin của đài BBC ngày<br />
30/6/2005) đang vẫn được quen gọi là "cô dâu Việt<br />
Nam" ở Đài Loan. Cũng xa xứ như em vậy, nhưng<br />
tình cảnh hoàn toàn khác em. Họ là những người con<br />
gái nhà nghèo, theo kiểu quen gọi là nghèo rớt<br />
mồng tơi, đã rời xứ sở đi lấy chồng người-nướcngoài<br />
sau khi trải qua một thứ "chợ" kiểu như chợ<br />
buôn nô lệ thời thế kỷ 19. Cái kiểu nhà nghèo đợ vợ<br />
đợ con lúc nào chắc cũng có. Tuy nhiên tấm thân<br />
con gái biến thành một sản phẩm mua bán cò kè bớt<br />
một thêm hai, trong một thứ chợ có tổ chức hẳn hoi<br />
và rầm rộ như một phong trào thì chắc chỉ có dưới<br />
thời hậu-giải-phóng. Đó là chưa kể đến còn ngàn<br />
ngàn thanh niên thiếu nữ Việt Nam khác cũng đã<br />
được "xuất cảng lao động" qua Đông Âu từ thời còn<br />
các nước-anh-em để trừ nợ súng đạn, hay gần đây<br />
42
qua các nước kỷ nghệ để vừa giải quyết vấn đề thất<br />
nghiệp vừa có ngoại tệ thu về. Cho đến nay, vấn đề<br />
xuất cảng lao động vẫn là một phương cách kinh tế<br />
của các nước nghèo hầu giảm bớt miệng ăn trong<br />
nước và giải quyết tạm thời nạn thất nghiệp. Tuy<br />
nhiên, cái lối đem con bỏ chợ chắc chỉ có độcquyền-việt-nam<br />
mà thôi. Trong kỳ Đại Hội Thanh<br />
Niên Sinh Viên lần thứ tư ở Sydney (Úc đại lợi), linh<br />
mục Nguyễn Văn Hùng đã lên tiếng báo động về số<br />
phận thảm thương của gần 100 ngàn công nhân Việt<br />
đã đến Đài Loan trong cái chương trình được gọi hoa<br />
mỹ là Hợp Tác Lao Động, và gần trăm ngàn cô gái<br />
Việt Nam khác được bán đi Đài Loan, Hàn Quốc ...<br />
làm vợ cho những người đàn ông có khi chưa từng<br />
biết mặt, có khi thành vợ chán chê rồi lại được sang<br />
nhượng lại cho một người đàn ông khác. Chuyện<br />
nghe ra như từ một thời nào xa xăm lắm, phải không<br />
em.<br />
Một người nghèo có khi là trách nhiệm của chính họ.<br />
Một gia đình nghèo cũng có thể tại chính họ. Nhưng<br />
mà hàng trăm ngàn gia đình nghèo khó và dốt nát<br />
tới đỗi tuyệt vọng phải bỏ xứ, bỏ thân, bỏ nhân<br />
phẩm và "tự nguyện" biến thành nô lệ tình dục, tôi<br />
tớ, bị hành hạ đánh đập không một phương tiện tự<br />
vệ thì chắc không phải là chỉ tại chính họ. Người ta<br />
có thể ẩn nhẩn chịu nghèo khi còn một niềm tin. Chỉ<br />
43
khi không còn một niềm tin nào nữa, người ta mới thí<br />
mạng... mình. Thông thường thì niềm tin của người<br />
dân phát sinh từ những việc làm của chính quyền<br />
một nước. Đã có hay không những việc làm phát sinh<br />
những niềm tin ở đó.<br />
Nghe em hát, xa xôi tôi vẫn biết lòng em tha thiết<br />
ngần nào với quê cha đất tổ. Tiếng hát em là tiếng<br />
lòng chung của cả một thế hệ em út tôi, con cháu<br />
tôi. Những đứa trẻ chưa từng thấy lá tre lả lả làm sao,<br />
nhịp cầu tre lắt lẻo thế nào, chưa được nghe tiếng<br />
mẹ ru ví-dầu-cầu-ván, chưa bao giờ nghe tiếng con<br />
dế gáy te te sau hè, chưa từng tắm truồng dưới cơn<br />
mưa nhiệt đới, chưa lần nào chạy chân trần thả<br />
phăng con diều giấy trên cánh đồng đầy rạ... Nhưng<br />
em vẫn mang một giấc-mơ-việt-nam<br />
Tội nghiệp em, giấc mơ thì tuyệt vời !<br />
Tội nghiệp em, nếu giấc mơ đó tan tác khi va chạm<br />
với thực tế. Em sẽ ngỡ ngàng biết bao nhiêu. Không<br />
chừng em còn tủi thân nữa. Nơi em đang ở, những<br />
người di dân Ý vẫn hảnh diện về một nước Ý của họ.<br />
Những người gốc Đức, gốc Hy Lạp... ngay cả gốc Ba<br />
Lan, gốc Tiệp Khắc vẫn còn rất nhiều khó khăn nơi cố<br />
quốc, họ vẫn tìm được một niềm tin vào ngày mai<br />
của đất nước họ. Còn em, em sẽ trở lại nơi đất nước<br />
đã cưu mang em, có gì không trong túi xách hành<br />
trang nhẹ hửng. Em sẽ tiếp tục vỗ về mình bằng<br />
44
huyền thoại một mẹ trăm con? Hay em phải an ủi<br />
mình bằng những ảo tưởng được thống kê như<br />
người ta vẫn quen làm ở đó. Em sẽ kể lại gì với bạn<br />
bè em về một chuyến về quê ? Không lẻ bằng cách<br />
giải thích một cách giáo điều đến ngô nghê rằng đó<br />
chỉ là hiện tượng ? Và không lẻ bằng cách kể lại một<br />
câu chuyện khôi hài (xám) mà em đã nghe được rằng<br />
... thì... là Việt Nam chỉ mới đi được một phần ba<br />
đường, mà là cái phần ba thứ nhất trong cái câu<br />
tuyên ngôn xanh dờn có ba vế "Không có gì... quý<br />
hơn... độc lập tự do". Ôi cái phần ba đường khôngcó-gì<br />
thăm thẳm !<br />
Tôi không muốn gieo vào đầu óc trong trắng của em<br />
sự hoài nghi hay thiên kiến. Hàng ngày trên báo trên<br />
web còn nhan nhản ngàn điều tệ hại khác nữa. Ở<br />
đây tôi chỉ muốn trình bày một vài sự thực mà những<br />
chuyến đi đi về về của những người lớn quanh em có<br />
thể tạo ra cho em những huyển hoặc như mưa sớm<br />
ở Lô Sơn cứ làm người ta tưởng đỉnh núi là thiên thai,<br />
mà chừng mưa tạnh rồi thì núi đá vẫn là núi đá.<br />
Mà cũng tại tôi nghe tiếng Bonjour Việtnam của em<br />
làm tôi quá đỗi xúc động. Tôi cũng như em vậy, tôi<br />
cũng muốn được một lần về chào lại Việt Nam. Tôi<br />
đã sống gần nửa đời tôi ở đó. Và thịt da tôi còn nám<br />
nắng Việt Nam. Và miệng lưỡi tôi còn thèm thuồng<br />
miếng cá mài-vinh nấu tô canh mẳn. Và hồn tôi còn<br />
45
đầy ứ những câu hát đưa em ngọt ngào, những bài<br />
vọng cổ mùi tận mạng. Tôi sẽ buồn như em vậy thôi<br />
nếu khi về mà những hoài vọng của mình trái hẵn với<br />
thực tế. Mà không chừng tôi còn buồn hơn em nữa.<br />
Em chỉ mới ở đoạn đầu một đời lưu lạc. Tôi đã ở<br />
đoạn cuối cái kiếp lưu vong của tôi. Tôi không có áo<br />
gấm để về làng. Tôi chỉ muốn hết người làng tôi mặc<br />
lại được áo ấm. Sao chưa được em hả? Khi chiến<br />
tranh đã chấm dứt từ hơn ba mươi năm nay?<br />
Ở cuối cái slide show được trình chiếu trên internet<br />
mấy tháng nay, ai đó đã thêm vào một câu viết bằng<br />
tiếng Pháp.<br />
Oui! J'irai là bas pour chercher pourquoi je t'ai quitté.<br />
Vâng, ta sẽ về để tìm biết tại sao ta đã bỏ đi.<br />
Câu viết là một lối chơi chữ đau lòng. Nhưng sự thực<br />
cũng đau lòng không kém. Nhất là cái viễn tượng<br />
chối bỏ khi người ta không tìm được niềm tin và<br />
hảnh diện về gốc gác của họ.<br />
Sao không vun bón lại quê hương để đám trẻ xa<br />
xôi... còn có chỗ mà bám rễ vào lòng đất mẹ !<br />
Bonjour Vietnam !<br />
hay<br />
Adieu Vietnam !<br />
(1) bản tiếng Pháp và bản dịch trích từ Phần Việt ngữ của đài BBC<br />
(2) bài trích từ số Khởi Hành đã dẫn (3) Thế Kỷ 21 số Xuân Canh thìn, tháng 2 &3 2000<br />
46
tranh CAO HÀNH KIỆN
Rồi<br />
như ...<br />
đá ngây ngô !<br />
Trịnh Công Sơn là người viết nhạc có tài đưa người ta<br />
vào mộng mị ngay khi cuộc chiến dữ dằn cứ như kéo trì<br />
người ta lại với đời thực. Súng mìn nổ tứ tung. Người ta<br />
chết khơi khơi dễ còn hơn đi chợ. Ðời sống buồn lắm, có<br />
lúc cùng quẩn không thua gì mấy cái ngõ cụt. Giữa lúc<br />
đó nhạc TCS được hát và nghe giữa đám đông mà lại<br />
như mấy lời to nhỏ, rất đỗi riêng tư. Ông ta thường viết<br />
nhạc bằng cung thứ (mineur) kể lể, giai điệu ít thay đổi,<br />
48
giọng lầm thầm như tiếng ru mê. Lời là thơ không vần,<br />
chữ đẩy nghĩa tới tận cùng ranh giới của mộng và thực,<br />
của hạnh phúc và khổ đau, của hy vọng và tuyệt vọng,<br />
của cái sống và cái chết. Chữ thay đạn nổ trong lòng<br />
người. Sức bung ép mềm phế phủ. Người ta chết điếng<br />
trong lòng, lẫn lộn một cơn mê và một hồi tỉnh. Rồi sống<br />
lại vào cơn mộng khác, ở đầu một đỉnh non cao hay đáy<br />
một vực đen thẳm, không có chỗ nào ở giữa lưng chừng<br />
một cõi tạm. Người ta sống và chết với nhạc họ Trịnh,<br />
yêu mê và bội bạc, náo nức và chán chường giống y như<br />
cái tuổi trẻ vốn dĩ đã bất thường lại còn bất thường hơn<br />
nữa trong một thời kỳ hiếm hoi tiếng cười mà lại ê hề<br />
nước mắt. Thử nghĩ lại cái tuổi trẻ của tôi, của anh, của<br />
chị, của chúng ta, những người hai mươi tuổi vào những<br />
năm 64, 65. Chúng ta đã có gì, đã mất gì, cái tuổi trẻ bạc<br />
phần của quê hương bạc mệnh. Còn nhớ gì không tiếng<br />
hí bơ vơ của bầy ngựa hoang mà Trần Hoài Thư đã kể<br />
trong quyển sách đầu tay những năm 60. Vâng cả tuổi<br />
trẻ thời đó là một bầy ngựa hoang thiếu trời thiếu đất. Lẽ<br />
ra phải được chạy nhảy thênh thang trên thảo nguyên<br />
xanh mướt thì ngược lại bị cuồng chân trong chuồng trại<br />
hẹp té, cũ kỷ, rào cản bằng những thành kiến tị hiềm, lại<br />
còn bị lừa lọc tới thui chột hết niềm tin và sau hết đem<br />
bán rẻ cho bọn lái buôn súng đạn. Còn nhớ không cái<br />
tuổi trẻ chưa cỗi đã bị bỏ xó như đồ vật phế thải, cầu bơ<br />
cầu bất trong mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền. Sao tuổi<br />
trẻ quá buồn. Như bàn ghế không bày. Cái tuổi trẻ chưa có đã<br />
mất ngay khi mới vừa làm bài Nhả Ca thứ nhất. Tôi làm<br />
con gái. Buồn như lá cây. Chút hồn thơ dại. Xanh xao tháng<br />
49
ngày.Vâng cả một tuổi trẻ của tôi, của anh, của chị, của<br />
những người sinh ra và lớn lên không nhằm lúc. Cha chú<br />
chúng ta còn có thời giờ vớt vát chút đỉnh dư hương một<br />
thời lãng mạn. Còn anh, còn tôi, chúng ta đôi khi đã chạy<br />
giặc ngay từ trong bụng mẹ, phải không? Lớn lên một<br />
chút, thanh bình đâu được vài năm là giặc giã lại nổi lên<br />
tứ tung. Chiến tranh từ bên ngoài xúi biểu. Tai ương từ<br />
lòng người dấy lên. Người ta hè nhau chết như rạ, kẻ<br />
sống sót thì bầm dập không thua gì cỏ dại. Ðứa trẻ chín<br />
mười tuổi vừa chập chửng ngó thấy đời thì đời đã thôi<br />
vui. Cái nước Việt Nam hình " cong như chữ S", mường<br />
tượng như người gánh lúa học đâu từ lúc vỡ lòng bỗng<br />
nhiên bị cắt ra làm hai phần cụt ngủn cụt ngẳn, hình thù<br />
kỳ dị, không đầu không đuôi rồi bị hò hét bắt ép phải<br />
yêu nó đi, đất nước của mày đó. Ðứa nhỏ sanh ở Ninh<br />
Bình Thanh Hóa bỗng nhiên có một thủ đô tên Hà Nội,<br />
đứa đẻ ở Vĩnh Long Rạch Giá bỗng dưng có thủ đô riêng<br />
gọi là Sài Gòn mặc dù cả hai đứa nhìn không khác gì<br />
nhau, cũng cái màu da vàng nắng, sợi tóc đen mun. Cái<br />
tiếng nói đơn âm, cứ ríu ra ríu rít đã có lúc người ta thích<br />
lắm đến nỗi đem làm ca dao để nói với nhau tiếng ân<br />
tình bỗng chốc trở thành cộc cằn thô lỗ và nhất là tối<br />
nghĩa đến độ không còn đủ sức làm ai hiểu ai nữa. Thật<br />
ra người ta chỉ cố tình không chịu hiểu tại vì người ta đã<br />
chủ ý muốn đem súng đạn thay cho lời nói. Vì vậy những<br />
đứa trẻ tội nghiệp đó lớn lên không còn nhìn anh em<br />
nữa mà lại nhìn nhau như kẻ thù truyền kiếp. Rồi súng<br />
đạn được giao tận tay, mã tấu lưỡi lê được giao tận tay<br />
và thúc giục và ép uổng và xua đẩy đi giết nhau tận tình<br />
50
làm như trên đời này không còn một chuyện gì khác<br />
ngoài chuyện giết người. Khổ nỗi một khi nhìn tận mặt<br />
kẻ thù, nhìn cho tận mặt cái xác chết đã lạnh ngắt hay<br />
còn nóng hổi, lột bỏ hết chiếc áo ngụy trang, lột bỏ hết<br />
danh hiệu phe phái, chừng đó mới thấy tường tận cái<br />
khó ăn khó nói của cuộc chiến tranh mà người ta đã bày<br />
vẽ ra cho mình.<br />
Ðấy cái tình cảnh mà chúng ta đã sống và lớn lên suốt<br />
một thời tuổi trẻ là như vậy. Tôi không biết những người<br />
tuổi trẻ ở phía bên kia đã nghĩ gì ( mà có nghĩ được gì<br />
không dưới sức ép nghiệt ngã của bộ máy chuyên chính<br />
bất nhân mà đến nay chắc ai cũng biết ) chớ còn bạn bè<br />
tôi, anh em tôi ở phía bên này không người nào là không<br />
vướng vít những thắc mắc cứ làm run họng súng khi tay<br />
đến lúc phải siết cò. Cái đau đớn của chúng ta là chỗ đó.<br />
Tay run không vì hèn nhát mà tay run chính vì sự sáng<br />
suốt của tâm thức nhân linh và dân tộc. Phải chi người ta<br />
cứ huấn huyện chúng ta từ sơ sinh như đám con dân<br />
thành Spartan thì gọn biết mấy. Hay là cái lối giáo dục<br />
hận thù ngay từ bài toán sơ học cộng trừ nhân chia xác<br />
lính ngụy thì càng đỡ khổ hơn nữa. Ðằng này lại cứ đi<br />
dạy dỗ cho thấm nhuần đủ thứ nhân nghĩa với yêu<br />
thương. Rồi còn thêm cả sự mềm mỏng tế vi để ngưỡng<br />
mộ đến cả hơi run của lá cỏ, chớ đừng nói gì đến hơi thở<br />
nồng nàn của con người. Bởi vậy mà khi phải trực diện<br />
với kẻ thù dù dưới bất cứ một danh nghĩa nào, người<br />
lính, người thanh niên miền Nam làm sao có thể vô tâm<br />
cho được. Cái đau đớn thao thức của chúng ta là chỗ đó.<br />
51
Nhưng mà cũng chính chỗ đó làm ta khác với loài cầm<br />
thú. Cho nên sẽ không lấy gì làm lạ khi cả một thế hệ<br />
tuổi trẻ miền Nam say mê nhạc Trịnh Công Sơn dù rằng<br />
có lắm khi rất là mâu thuẩn. Trong khi người từ phương<br />
bắc bôi mặt xua quân hết lượt này đến lượt khác đánh<br />
nhầu bất kể, thì anh em ta lại vừa dang tay chống cự vừa<br />
cứ lầm thầm hát hỏng mấy bài Nối vòng tay lớn với lại<br />
Người về bỗng nhớ... Biết rằng thì là như vậy, nhưng mà<br />
ông ta nói đúng quá. Làm sao cải chối cho được. Thấy<br />
không, tôi có người yêu chết trận Ba Gia. Tôi có người yêu chết<br />
trận đêm qua. Xác ngoài hàng rào... Nằm chết như mơ. Người ta<br />
chết một lần đã là quá đủ. Ở đây những người Việt tha<br />
hồ chết đi chết lại, chết tới chết lui, chết bất kể tới hai lần<br />
thịt da nát tan... Vâng. Người yêu nào đã chết, chết bờ<br />
chết bụi, tôi nào còn đây, mất hồn mất trí. Chỉ là hết thảy<br />
chúng ta đó, cái đám người Việt vô tình vô tội vô lý vô cớ<br />
bị xua vào lò sát sinh như một bầy súc vật hèn mọn. Rồi<br />
một buổi sáng mùa xuân. Một đứa bé ra đồng. Ðạp trái mìn nổ<br />
chậm. Xác không còn đôi chân... Có em bé nào xa lạ đâu.<br />
Thằng ba thằng tư con sáu con tám ở bên hàng xóm, ở<br />
cuối làng trên hôm qua hôm kia còn chạy nhảy ôm cặp<br />
sách đến trường, bữa nay đã nằm im lìm bờ môi dường<br />
thầm hỏi có thiên đường hay không... những đứa bé hôm qua<br />
vô tư như hoa đồng cỏ nội sáng nay đã im nằm bàn tay<br />
cầm cỏ dại có hoa vàng mong manh. Trời ơi có họa chăng là<br />
tim đồng tim sắt mới không bị xúc động bởi những hình<br />
ảnh hết mức thảm thiết mà lại cực kỳ thơ mộng đó. Có ai<br />
đã viết nhạc như ông ta đâu. Cái chết là biểu hiện tột<br />
cùng của chiến tranh. Xác chết là thảm họa được nhân<br />
52
lên gấp hai lần. Xác chết của một đứa bé là cái vô lý<br />
được nhân lên không biết tới bao nhiêu lần. Gắn vào đó<br />
một cánh hoa vàng, mà là một cánh hoa thiệt mỏng,<br />
ông ta xô sự tưởng tượng của người nghe ra tới bờ tuyệt<br />
vọng. Rồi thêm câu hỏi chót có thiên đường hay không thì<br />
quả tình là nhát chém ân huệ cuối cùng chặt đứt luôn sợi<br />
giây mục còn níu ta lại với cuộc đời. Cộng vào đó cái<br />
giọng khàn khàn nhừa nhựa của Khánh Ly đặc quánh<br />
như mấy giọt cà-phê phin pha đậm đến nỗi vừa uống vô<br />
đã thấy muốn đứng tim. Ai không biết sao chớ còn tôi,<br />
trái tim mười chín hai mươi tuổi của tôi thời đó mỗi lần<br />
nghe là thấy rã rời như bị xé ra từng miếng vụn. Tất cả<br />
cái vô lý của chiến tranh, nhất là cuộc chiến không ranh<br />
giới, không biện biệt, không chừa ai, không sót ai làm<br />
cho câu hỏi thầm nghe vừa tức tưởi vừa mỉa mai và như<br />
vừa thú nhận sự bất lực của con người trước tai ương.<br />
Nhất là cái tai ương do chính con người tạo ra cho con<br />
người. Hơn nữa do chính những người cùng màu da<br />
màu tóc. Ðấy tất cả manh mối nằm ngay chỗ đó, chỗ bất<br />
lực của một lũ người rất mực sáng suốt, rất mực khôn<br />
ngoan mà cứ hằng ngày hằng đêm cứ phải chứng kiến<br />
cứ phải tham gia vào cái trò chơi đốn mạt đó.<br />
Tôi mười chín tuổi bỏ quê lên thành phố. Bỏ quê là bỏ<br />
luôn cái dòng nhạc lãng mạn tha thướt của thời tiền<br />
chiến. Cũng là bỏ luôn cái văn chương hiền lành của Tự<br />
Lực Văn đoàn. Từ vài năm trước sinh hoạt văn nghệ<br />
trong Nam đã dọn đường cho một cảm thức mới, cảm<br />
thức của một thời chiến tranh. Nhóm ông Mai Thảo từ<br />
53
ngoài Bắc vô đòi cắt đứt quá khứ và hô hào làm mới trên<br />
tờ Sáng Tạo. Nhóm ông Nguyên Sa từ Pháp về đem luôn<br />
cái không khí của những hầm cà-phê mịt mù khói thuốc<br />
ở St. Germain des Près vào tờ Hiện Ðại. Văn chương trở<br />
nên nồng nặc mùi hiện sinh, mùi nôn mửa, mùi phản<br />
kháng, mùi nổi loạn. Văn chương bỏ con đường quen<br />
thuộc êm ái để len vào những hóc hẻm rối bung như tơ<br />
vò của lòng người hậu chiến và hiện chiến. Rồi quyển Ý<br />
Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học của Phạm Công<br />
Thiện nổ bùng như Ngày Sinh Của Rắn. Ðám trẻ bị mê<br />
hoặc với tư tưởng cũ-người-mới-ta mặc tình làm dáng.<br />
Sài-Gòn những năm 60 hừng hực cái tinh thần đột phá.<br />
Có khi cũng quá đà nhưng nhìn chung đã mở ra cho sinh<br />
hoạt văn học nghệ thuật một niềm hưng phấn mới. Văn<br />
chương không còn bóng bẩy lả lướt kiểu gió mát trăng<br />
thanh thời 30, 40 nữa. Văn chương trở nên gần gũi với sự<br />
thật diện tiền đến độ trần trụi. Mà sự thật ở đây chính là<br />
cuộc chiến tranh cùng với nỗi chết rập rình như một cặp<br />
bài trùng sinh tử. Vì vậy văn chương phải tìm ra ngôn<br />
ngữ mới để diễn đạt, thật hơn, mạnh hơn, bức phá hơn,<br />
tha thiết hơn gấp bội và cũng thê thảm hơn gấp bội, y<br />
như cái tình người sống vội chết vội thành ra yêu thương<br />
hờn giận cũng gấp rút, cứ như sợ trễ, sợ lỡ, sợ không kịp<br />
phút sống thì sẽ tới phút chết. Trong cái hơi thở hối hả<br />
của thành phố giới nghiêm, dưới vòm trời vần vũ đạn<br />
pháo, người sống như đợi chết. Lời ăn tiếng nói vì vậy<br />
nghe ra cắn đắng, chua chát, bứt rứt và đay nghiến, làm<br />
như người ta uất ức một điều gì đó mà không nói được.<br />
Làm như người ta sống mà nghi ngờ cả sự hiện hữu, cho<br />
54
nên thơ văn nhạc họa thành ra cũng chỉ là những níu kéo<br />
tuyệt vọng cho một niềm tin đã điêu tàn. Văn thời này là<br />
Dương Nghiễm Mậu, là Nguyễn Ðình Toàn..., tranh thời<br />
này là Nhóm Họa Sĩ Trẻ... Nghệ thuật thời trước không<br />
còn đáp ứng được những lo âu khắc khoải của thời này<br />
nữa. Nhạc tình kiểu Cô Láng Giềng hay Gởi Gió Cho Mây<br />
Ngàn Bay dịu dàng quá đằm thắm quá làm sao xoa dịu<br />
được cơn đau tình dữ dội của đám trẻ sống nay chết<br />
mai. Phải có cái gì khác hơn, đúng hơn, ray rứt hơn, bức<br />
thiết hơn như tấm lòng đã quá đỗi nhiêu khê của lứa tuổi<br />
bị bỏ quên, bị đọa đày giữa cơn đọa đày chung của dân<br />
tộc. Giữa lúc đó nhạc Trịnh Công Sơn xuất hiện với âm<br />
điệu buồn rầu, với lời lẽ phiền muộn, với hình tượng tan<br />
nát đúng như cái tấm lòng héo hon của lớp trẻ già trước<br />
tuổi. Cái lớp trẻ bị kẹt cứng dưới tầng tầng oan ức, cái<br />
lớp trẻ thiếu niềm hứng khởi mà dư giả chán chường,<br />
thường ngồi quạnh quẽ trước những ly cà-phê đen<br />
quánh, khói thuốc mù, và những ngõ cụt. Cũng như cái<br />
lớp trẻ đã bị ép uổng bỏ trường bỏ lớp quá sớm đem<br />
tuổi thanh xuân đi thách đố cùng mạng số, ngoài bãi<br />
trận. Tình yêu thời này không thể là con mắt có đuôi chỉ<br />
mới liếc nhìn là đã thấy hân hoan. Tình thời này phải là<br />
cái trong tay, giây này phút này, được thua gì trong chớp<br />
mắt bởi vì trong chớp mắt đã có thể không còn đó nữa.<br />
Tình thời này sỗ sàng vì không đủ thời giờ để nhẩn nha<br />
chờ đợi. Chiến tranh cướp mất của những tình nhân sự<br />
thơ mộng thay vào đó cơn háo hức cháy da cháy thịt bởi<br />
vì nó mong manh quá, mong manh còn hơn sương khói<br />
nữa. Tình thời này phải có nhạc thời này. Nhạc đó là<br />
55
nhạc của Trịnh Công Sơn. Nghe thử lại một bài tình sầu<br />
coi có phải không? Tình yêu như trái phá con tim mù loà...Tình<br />
yêu như nỗi chết cơn đau thật dài. Tình khâu môi cười. Hình hài<br />
xưa đã thay. Mặn nồng xưa cũng phai. Tình chia nhau gian dối.<br />
Tình đày tình đôi nơi... Có gì vui không cuộc tình rách nát<br />
như đường chỉ khâu vá từng phiến đời vụn. Tình yêu như<br />
cơn bão đi qua địa cầu. Tình thắp cơn sầu. Tình dìu qua hố sâu.<br />
Tình vời lên núi cao. Rồi trong cơn yêu dấu. Tình đày tình xa<br />
nhau. Tình yêu không kịp thăng hoa bởi vì đau khổ đã<br />
nằm chật trong hạnh phúc. Cuộc tình lên cao vút như chim<br />
mỏi cánh rồi như chim xa lìa bầy như chim xa lìa trời như chim bỏ<br />
đường bay...Và yêu chỉ là mỏi, là bỏ, là lìa, là tan, là vỡ.<br />
Làm như trong bản thể của tình yêu chỉ là bất toàn và<br />
bất trắc. Con tim mù lòa và tình yêu thương phế. Tình<br />
yêu không phải là ánh sáng, tình yêu chỉ còn bóng tối.<br />
Cái bóng tối đen ngòm như cái bóng chiến tranh che<br />
rợp trời thuở đó.<br />
Ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn là thứ ngôn ngữ<br />
thời thượng của văn chương hiện sinh, văn chương phản<br />
kháng đã một thời rất được ưa chuộng. Ðôi khi giữa lời<br />
văn trau chuốt như thơ có thêm một chút làm dáng triết<br />
học. Nó mới lạ, đặc biệt, chứa đầy mâu thuẩn làm nổi<br />
bật những hình tượng nghịch thường, những so sánh kỳ<br />
quặc. Nó chứa chấp những khám phá tuyệt vời của ngôn<br />
ngữ mới. Những hình ảnh lần đầu được đem vào nhạc<br />
vừa kiêu kỳ vừa đẹp lạ lùng. Những vòng xe thổ mộ lăn<br />
qua cuộc đời trống hoang như quán đợi, những giọng<br />
buồn cỏ khô, những ngựa hồng mỏi gối trên đồi quê<br />
hương... chưa bao giờ có trong âm nhạc Việt Nam. Nó<br />
56
khác xa lắm với Hòn Vọng Phu hay Tà áo xanh. Và lại<br />
càng khác xa hơn nữa với Căn nhà ngoại ô hay Duyên<br />
Kiếp. Nó rêu rao mà không huênh hoang, nó rên rỉ<br />
nhưng không nhàm chán. Nó đẩy đưa người ta vào<br />
mộng mị xa tắp nhưng vẫn bám liền vào mộng dữ của<br />
thực tại. Nghe như khượi lại một vết thương chưa lành<br />
miệng, đau râm ran mà lại thích thú. Ðó là thứ ngôn ngữ<br />
của một thế giới bị vùi dập, của phận người bị kết án,<br />
của trần thế đang phai tàn, của cõi đời đã tận thế. Bởi<br />
vậy mới lớn lên tôi say mê nhạc đó giống như đám bạn<br />
tôi, giống như lớp thanh niên trang lứa đã bị kêu án tử từ<br />
khi chưa phạm tội. Chúng tôi đi đến đâu cũng mang<br />
theo như để thay mình nói lời tình tự. Rồi ở đâu gần như<br />
cũng được đáp trả lại bằng chính giọng điệu giống y như<br />
mình. Thành ra gần gũi nhau thương xót nhau dễ dàng<br />
qua trung gian của ngôn ngữ âm nhạc đó. Ở đâu cũng<br />
hát cũng nghe những bài ca đó. Trường học, quán xá,<br />
chợ búa, công viên, ngã tư, đồn bót, mặt trận, bệnh<br />
viện... Những cuốn băng cát-sết nho nhỏ thân thuộc như<br />
người bạn tâm tình thứ nhất và sau cùng. Ai nấy lắng<br />
nghe, ngậm ngùi, lòng héo hon mà vẫn cứ nghe, cứ hát.<br />
Nghĩa là say mê như say mê người tình đầu đời, say mê<br />
bất kể, tóc dài tóc ngắn, miệng rộng miệng hẹp, mũi cao<br />
mũi gãy gì cũng bất cần thành ra như mù quáng vậy,<br />
thành ra như chín bỏ làm mười vậy. Chớ thật ra dường<br />
như lắm lúc có thấy một cái gì đó không ổn trong những<br />
bài hát mình vẫn nghêu ngao. Nếu những bài tình ca<br />
tuyệt diệu là những liều thuốc ngủ mê man thì những bài<br />
hát thời thế mà người ta vẫn gọi là nhạc phản chiến có<br />
57
cái gì đó lấn cấn không yên. Những hình ảnh thoáng<br />
qua, thoáng qua rất nhẹ đôi khi có làm mình nghĩ ngợi,<br />
có làm mình so đo. Nhưng rồi tại lười biếng chăng? Tại vì<br />
thờ ơ? Tại mệt mỏi đến buông xuôi? Hay là tại tiếng bom<br />
đạn lớn quá làm át luôn tiếng chắc lưỡi ngại ngần? Ðã có<br />
không ít thắc mắc, tra vấn về ý nghĩa thật sự của một số<br />
bài hát được hát đi hát lại nhiều lần giữa đám đông. Tôi<br />
cũng vậy. Trong cái đầu rất non nớt về chính trị của tôi<br />
thuở đó, đã hơn một lần tôi thấy lạ. Cuộc chiến rất khó<br />
khăn, không có lằn ranh nhất định. Biên giới trong lòng<br />
người lại càng mập mờ hơn nữa. Tuy nhiên như vậy<br />
không có nghĩa là không có những cấm kỵ. Bạn bè mình<br />
chết hằng phút hằng giờ để giữ yên một thành phố, một<br />
xóm thôn. Nếu sáng miền Nam thức dậy còn nhìn thấy<br />
mặt nhau là tại vì đêm qua có những người đã chong<br />
con mắt mỏi mòn canh giấc. Và thông thường đã có<br />
không ít người ở lại luôn trong cõi mịt mùng đó, không<br />
về nữa. Như vậy một cách công bình người ta không có<br />
quyền nói năng hồ đồ trên xác những người đã gánh<br />
nạn thay mình. Ngoại trừ đã có một chủ ý. Từ Nối vòng<br />
tay lớn đến Người về bỗng nhớ, cái hình ảnh người về là<br />
một ẩn dụ có chủ đích. Không phải vô tình mà giữa ngày<br />
tháng hoang vu, trên mặt đất âm u chợt thấy em qua<br />
rợp bóng cờ. Cái hình ảnh rợp bóng cờ rất ít được dùng<br />
trong văn chương miền Nam mà trái lại dường như rất<br />
thông dụng đối với người miền Bắc theo kiểu khoe<br />
khoang hù dọa của những rừng cờ đỏ, rừng biểu ngữ<br />
trong mỗi dịp lễ lạc của phe cộng sản. Y hệt như cảnh<br />
Trần Dần đã thấy Hà Nội sau năm 54. Tôi đi không thấy phố<br />
58
thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Chỉ có người cộng<br />
sản mới ham dùng cờ như vậy. Cho nên cái cảnh em qua<br />
rợp bóng cờ chỉ có thể có trong giấc mơ của một người<br />
cộng sản hay ít nữa cũng là một cảm tình viên.<br />
Thật ra ở đây không cốt tìm hiểu TCS có là cộng sản hay<br />
không, điều đó không cần thiết nữa. Việc ông ta đã chọn<br />
lựa ở lại và nhận hưởng những đặc quyền đặc lợi của<br />
nhà cầm quyền mới bên đó đã là một trả lời rất dứt<br />
khoát. Cái việc cần ngạc nhiên là tại sao biết như vậy rồi<br />
chúng ta vẫn tiếp tục say mê ca hát nhạc TCS như đã<br />
không có gì xảy ra, từ trước năm 75 và sau năm 75. Thật<br />
tình số hình ảnh bội bạc đó không có nhiều lắm. Vã lại<br />
nó được che giấu rất nghệ thuật. Bên cạnh đó có vô số<br />
những hình ảnh mập mờ khác chẳng những đã không<br />
làm ta khó chịu mà còn làm ta xúc động nữa. Có gì mâu<br />
thuẩn không? Ngay trong một bài hát rất nổi tiếng giữa<br />
lúc chiến cuộc dữ dội nhất, bài Tình ca của người mất trí<br />
cũng đã làm bàng hoàng không ít người. Giữa những xác<br />
người nằm chết như mơ, có cả những xác người nằm<br />
chết ngoài hàng rào mình không manh áo nữa. Người<br />
chết trong trận Ba Gia, trận Ðồng Xoài, trận Plei-me... là<br />
ai? Câu trả lời tùy theo chỗ đứng của mỗi người. Ai cũng<br />
có thể dành phần của mình cả. Còn ai đi trận mà thân<br />
trần trụi? Mà nằm chết bên ngoài hàng rào phòng thủ?<br />
Chỉ có đám du kích miền Nam, đám bộ đội miền Bắc,<br />
đám đặc công ôm bộc phá. Như vậy có phải những<br />
người hát tình ca là những người theo phía bên kia?<br />
Không! Câu trả lời phức tạp hơn nhiều lắm. Tôi vẫn thích<br />
59
ài hát đó. Anh em tôi, bạn bè tôi, những người quần<br />
thảo sống chết với cộng sản hằng giờ hằng phút vẫn<br />
thích bài hát đó. Có mâu thuẩn không? Cũng không nữa.<br />
Bởi vì chúng tôi đâu phải là những bộ máy được đào tạo<br />
để đi giết người. Bởi vì người miền Nam nổ súng nhưng<br />
vẫn thương xót người bị trúng đạn. Bởi vì người miền<br />
Nam đã được nuôi dưỡng và dạy dỗ như những con<br />
người thật sự là người. Chúng ta biết yêu thương, đau<br />
khổ, thù hận và còn biết đau lòng trước vết thương nhân<br />
loại. Cho nên trước xác chết dù là kẻ thù chỉ cách đó vài<br />
phút còn nổ súng như điên vào hàng ngũ mình, ai nấy<br />
cũng thấy nao lòng chớ chưa từng hả dạ. Hãy nghe một<br />
nhân vật lính của nhà văn Trần Hoài Thư nói trong một<br />
truyện ngắn được viết trước năm 75."Dạ, ngoại nói đúng. Khi<br />
chết rồi ai cũng như ai, không còn là ngụy cũng không còn là VC,<br />
không còn Bắc không còn Nam. Thưa ngoại, xin ngoại cho cháu<br />
một cây nhang, để cháu thắp cầu cho anh ấy ". Tôi nói mà lòng<br />
tôi ràn rụa... Câu văn đó có thể là một giải đáp thỏa<br />
đáng chưa? Hay là nên thêm một vài câu thơ của<br />
Nguyễn Bắc Sơn cũng đã làm trước năm 75. Kẻ thù ta ơi ta<br />
là lính cậu. Ði hành quân rượu đế vẫn mang theo...Ta bắn ngươi,<br />
chỉ vì người bạc phước. Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi. Với<br />
lòng người như vậy thì việc yêu thích nhạc TCS cũng là<br />
điều dễ hiểu. Bởi vì tình nhân loại, nghĩa đồng bào, lòng<br />
khát khao hòa bình... không phải là độc quyền của TCS<br />
hay của phía CS như họ đã luôn miệng rêu rao ( và cũng<br />
đã trâng tráo bôi bác ). Người miền Nam, lính miền Nam,<br />
chế độ miền Nam ( với tất cả sự khiếm khuyết ) vẫn ngàn<br />
lần nhân bản hơn. Ðiển hình là ông TCS vẫn làm được<br />
60
loại nhạc chống chiến tranh đó ( chống từ vị trí nào thì<br />
còn cần phải xét lại) trong lòng một xã hội miền Nam<br />
đang bị chính cuộc chiến đó khuynh đảo tơi bời và vẫn<br />
được hâm mộ bởi những người đang bị ông đâm sau<br />
lưng bằng những nhát dao chí tử. ( Giả thiết ông ta sinh<br />
ra và lớn lên ở miền Bắc, thử hỏi sẽ có một loại nhạc<br />
được gọi là nhạc TCS hay không? ) Như vậy, ở miền Nam<br />
người ta hâm mộ ông không phải tại ngây thơ đến độ bị<br />
ông lừa đảo. Người ta hâm mộ vì thấy ông nói ra được<br />
điều mà họ đã thấy, đã đau lòng trong suốt cuộc đoạn<br />
trường đó. Nói một cách khác, họ hâm mộ ông như một<br />
nghệ sĩ, loại người sống nổi trôi thiệt lòng theo vận nước.<br />
Tôi cũng vậy, tôi ở trong cái số rất đông đã yêu thích<br />
nhạc TCS mặc kệ những thắc mắc này nọ, cho đến ngày<br />
tàn của trận chiến.<br />
Tháng 4 năm 75, tất cả thay đổi hết. Hậu quả đến nay ai<br />
cũng biết. Có một điều hết sức oái ăm, là trong số nạn<br />
nhân đếm không xuể của cuộc thanh trừng vô tiền<br />
khoáng hậu đó, những người yêu thích nhạc TCS là<br />
thành phần đông đảo nhất và cũng là thành phần gánh<br />
chịu oan khiên nhất. Ðiều đó thật ra cũng dễ hiểu. Trong<br />
suốt cuộc chiến tranh 30 năm, cái số người đứng phơi<br />
mình trước đầu sóng ngọn gió chính là cái số tuổi trẻ vừa<br />
cầm súng chiến đấu vừa thao thức không nguôi cho<br />
phận mình và vận nước. Họ là người thứ nhất nhận chịu<br />
nợ nần của dân tộc và cũng là người sau cùng ở lại trả<br />
cho hết món nợ tiền khiên đó. Họ cũng là người đã<br />
thưởng thức âm nhạc của TCS sâu sắc nhất, thưởng thức<br />
61
ằng hết nước mắt, máu xương và hết cả thanh xuân của<br />
đời mình. Tôi, bạn bè tôi, anh em tôi, lứa tuổi bầm dập<br />
nhất của cơn giông lịch sử bị xua vào các trại tập trung<br />
mọc lên như nấm dại. Trong tù tôi có nghe phong phanh<br />
về chuyện ông TCS lên đài phát thanh Sài-gòn hát bài<br />
Nối vòng tay lớn trong ngày ba mươi. Ðầu óc còn đang<br />
rối ben về ba cái chuyện chết chóc, tù đày, đói khát... tôi<br />
nhớ hình như đã mỉm cười một cách rất triết lý vụn ối ba<br />
cái chuyện đời sớm nắng chiều mưa. Vã lại dường như<br />
cũng đâu phải chỉ có mình ông ta lẹ miệng như vậy.<br />
Không ít người miền Nam cũng đã tìm cách che thân<br />
bằng cách này hay cách khác, hoặc vì ngây thơ ngỡ đời<br />
đã thôi hết chiến chinh, ở với ai cũng được miễn là<br />
không còn giặc giã. Hoặc cũng muốn góp công chút<br />
đỉnh biết đâu lòng "cách mạng" bao dung thí cho chút<br />
danh thừa thiếu sót lúc còn ở với chế độ trước. Nhưng<br />
mà rồi bằng lý do nào thì sau vài tháng, vài năm, số<br />
người đi làm "cách mạng" ngày ba mươi tháng tư cũng<br />
vỡ lẽ và tìm cách sống chết bỏ trốn. Nhưng mà ông TCS<br />
thì ở lại. Ở lại rất thiệt tình với những người chủ mới. Và<br />
dường như đã nhận được rất nhiều ưu đãi của đám chủ<br />
vốn rất khắc khe với bầy con ghẻ nhưng lại rất sẵn sàng<br />
vun tay quá trán mỗi khi cần làm cái việc đánh bóng cho<br />
chế độ. Khác với những văn nghệ sĩ miền Nam cùng thời<br />
lũ lượt bị đưa đi tẩy não, ông TCS chẳng những không bị<br />
đảng và nhà nước ưu ái đem đi “dạy dỗ”, mà lại còn<br />
được đảng chiếu cố phong cho làm ủy viên văn nghệ<br />
của thành phố vừa bị ép uổng đổi tên. Tôi ở xa quá, lại<br />
thân phận tù đày không biết gì hơn ngoài cái lần được<br />
62
nhìn thấy hình ông mang túi dết ( y như một cán bộ<br />
chính cống đã có trăm tuổi đảng ) in trên tờ Sài-gòn giải<br />
phóng. Thật tình lúc đó, khoảng những năm 77,78 mới<br />
được thả tù ra tôi còn bận lo cho mình chưa xong thì lấy<br />
đâu ra mà lo chuyện thiên hạ. Từ sáng tới chiều cứ tối<br />
tăm mày mặt chạy vạy kiếm chút đỉnh gạo muối nhét<br />
cho yên cái bao tử, tối đến là lo tìm chỗ ngủ đỗ nay chỗ<br />
này mai chỗ khác. Rồi còn thắc thỏm nghe ngóng cái<br />
chuyện thả ra bắt lại, thắc thỏm trông tin người anh này<br />
mới bị đày ra Sơn La, người bạn kia vừa chết vì kiết lỵ ở<br />
Suối máu. Vậy đó, tôi sống như một người mà trái tim đã<br />
lãnh đạm với hết thảy mọi trò nhí nhố của thời sự. Vậy<br />
mà chứng nào tật nấy, có lắm khi giữa kẽ trống của hai<br />
hồi vật vã, nhất là những lúc không tiền hết việc lang<br />
thang qua phố xá ủ dột, tôi vẫn còn nghe từ trong tiềm<br />
thức những câu hát ru lầm thầm đã một thời ưa thích<br />
lắm. Xin đứng im trong chiều. Trên môi thả khói quạnh hiu. Xin<br />
đứng im trong chiều. Treo tình trên chiếc đinh không. Gập ghềnh<br />
ngày tháng lưu vong. Ta lăn đời đã quá. Ðôi tay vẫn còn ôm mịt<br />
mùng. Chịu nỗi không? Ðến chừng ấy rồi tôi vẫn chưa<br />
quên những lời nhạc đã thay tôi kêu khổ giùm tuổi trẻ<br />
của tôi. Mà khổ quá, nó nói đúng phóc những điều tôi<br />
đang có trong đầu. Cuộc khổ nạn này có bao nhiêu<br />
chiếc đinh không đang đóng chằng ta trên thập giá. Còn<br />
thân ta có khác gì mấy viên đá cuội đang lăn theo triền<br />
dốc ngặt nghèo. Ðúng ra cho tới giờ phút đó, với tất cả<br />
một trời oan ức đang đổ ụp xuống đời, tôi vẫn không<br />
phiền muộn gì ông TCS. Mỗi người đều có quyền chọn<br />
lựa đường mình đi theo sở thích và lương tâm của mình.<br />
63
Nếu tôi đã đau khổ vì sự bại trận của miền Nam thì tôi<br />
đâu cấm được ông ta sung sướng, hãnh diện về chiến<br />
thắng của miền Bắc nếu ông ta đã vui thật lòng. Có cay<br />
đắng là cay đắng cho tôi, cho bạn bè tôi, cái đám trời<br />
không dung đất không tha đang thất thểu trong những<br />
trại giam biệt mù về những hành động đã không do<br />
mình lựa chọn. Và như vậy tôi tiếp tục kéo lê phận tôi<br />
qua những "eo chết" ngặt nghèo giống y như hàng triệu<br />
người Việt khác vốn vẫn được ông TCS thương lắm trong<br />
những ca khúc da vàng của ông ta.<br />
Cho đến một đêm tôi không còn nhớ rõ ngày tháng, chỉ<br />
nhớ là vào lúc người ta đang tìm cách bỏ đi vượt biên rất<br />
đông, còn tôi thì vì không tiền nên vẫn còn đang ngắc<br />
ngoải như con cá mắc lưới, trong một gian nhà lá giữa<br />
miếng rẫy của người bạn thương tình cho tá túc, tôi<br />
nghe được một bài nhạc mới của ông TCS. Người chủ<br />
nhà tốt bụng đêm đêm vẫn lén mở đài BBC hay VOA gì<br />
đó từ chiếc máy thu thanh ấp chiếc lược còn sót lại. Ðêm<br />
đó từ những làn sóng xa xôi lắm vọng về tiếng hát của<br />
một người nữ hát bài Em còn nhớ hay em đã quên. Nằm<br />
chèo queo trên chiếc chiếu rách trải sơ sài trên mặt đất<br />
ẩm, mới nghe mấy câu đầu là tôi đã muốn chảy máu con<br />
mắt khô khốc. Giọng người ca nữ thê thiết sắc mắc chi<br />
lạ. Em còn nhớ hay em đã quên. Nhớ Sài-gòn mưa rồi chợt nắng.<br />
Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân. Nhớ đèn đường từng đêm<br />
thao thức sáng che em vòm lá me xanh. Trời ơi Sài-gòn của<br />
tôi. Sài-gòn những năm 65, 66 qua lại quen thuộc đến<br />
mòn vẹt gót giày. Sài-gòn ngã sáu ngã bảy đón đưa ai<br />
64
mà mưa nắng không hay. Sài-gòn của con đường Lê<br />
Thánh Tôn có hàng me lá rụng như sợi chỉ đan tay, có<br />
quán Văn che sơ sài mấy miếng ván thông sần sùi trên<br />
nền Khám Lớn cũ, những năm mười chín tuổi lần đầu<br />
tiên nghe Khánh Ly từ Ðà Lạt về hát nhạc tình TCS. Nhạc<br />
bay lên quyện theo khói thuốc mang tiếng hát đi xa tới<br />
một cõi nào chưa từng quen biết, kéo theo tuổi trẻ của<br />
tôi của bạn bè tôi như một bầy thiêu thân thất lạc.<br />
Nhưng rồi chưa dứt cơn mơ, tới phần điệp khúc, tôi bị<br />
đánh thức ngang xương bằng mấy câu nhắn gởi nghe<br />
bộ rất thiệt tình. Em ra đi nơi này vẫn thế. Lá vẫn xanh trên con<br />
đường nhỏ.Vườn xưa vẫn có tiếng me ru. Có tiếng em thơ. Có<br />
chút nắng trong tiếng gà trưa. Trời ơi tôi có nghe lầm không?<br />
Em ra đi nơi này vẫn thế? Thiệt vậy sao? Quê hương tôi<br />
vẫn xanh mượt vậy sao? Những bà mẹ vẫn ru con ngọt<br />
ngào giữa tiếng gà trưa xao xác với chút nắng nhẹ trong<br />
veo như một cõi thanh bình từ trăm năm trước? Vậy chớ<br />
còn vườn tược nào bỏ phế đến vàng vọt vì nông dân<br />
phản đối chủ trương hợp tác xả? Ruộng rẫy nào dậy<br />
phèn chết rụi vì mấy con-kinh- -nghĩa-vụ đào xới vô lối?<br />
Còn bà mẹ nào địu con trên vùng kinh tế mới đi giữa<br />
nắng trưa đổ lửa, moi móc mấy củ mì teo tóp như cặp<br />
vú teo tóp nặn không ra giọt sữa cho con? Em ra đi nơi<br />
này vẫn thế. Làm sao vậy được. Làm sao mà nơi này vẫn<br />
thế. Làm như đã không có gì xảy ra trên mảnh đất này từ<br />
mấy năm nay. Em ra đi nơi này vẫn thế. Vẫn có em trong tim<br />
của mẹ. Thành phố vẫn có những giấc mơ. Vẫn sống thiết tha.<br />
Vẫn lấp lánh hoa trên đường đi. Nói vậy được sao? Nơi này<br />
vẫn thế. Nghĩa là vẫn y nguyên như một thuở nào đời<br />
65
chưa tận thế. Phải hiểu thế nào để đúng lòng tác giả. Em<br />
ra đi nơi này vẫn thế nghĩa là em có đi thì cứ đi, chẳng<br />
ăn nhằm gì đến ai, chẳng có lòng ai bận bịu? Em ra đi<br />
nơi này vẫn thế. Hay phải hiểu là em có dại dột thì cứ đi,<br />
bởi vì em đi rồi nơi đây vẫn là thiên đường của tôi, thành<br />
phố vẫn sống như mơ, đường xá vẫn lấp lánh như con<br />
đường kim nhủ. Trời ơi nói vậy mà nghe được sao. Vậy<br />
chớ con mắt đã nhìn suốt từ tiền kiếp để đâu, trái tim<br />
chân thật để đâu mà thấy địa ngục hoá ra thiên đường,<br />
để thấy cái đói xanh lét hoá ra hồng hào, để thấy những<br />
bầy người bỏ trốn vùng kinh tế mới kéo về lê lết thất<br />
thểu trên vĩa hè như một đám ma trơi đang có những<br />
giấc mơ. Ông ta, người nhạc sĩ đã một thời tuổi trẻ tôi<br />
mến mộ vì sự chân thực, vì tấm lòng nhân ái, vì tài hoa<br />
hiếm có đã bắt đúng được mạch nhảy của hơn một con<br />
tim, ông ta có thể ăn nói gian trá đến độ trâng tráo vậy<br />
sao? Sài-gòn của những năm 75, 76, 77... , miền Nam<br />
sau 75 mà có thể biểu là mơ mộng, là thiết tha, là lấp<br />
lánh... thì quả tình vừa bội bạc vừa bất nhân. Bội bạc vì<br />
đã ngoảnh mặt làm ngơ trước cơn đau của người thân<br />
kẻ lạ đã một thời cặm cụi lo toan, miệt mài đánh giặc<br />
cho ông thong thả đi lại ôm đàn ca hát giữa đời. Bất<br />
nhân vì chẳng những lãnh đạm lại còn đi giễu cợt nỗi<br />
khổ của kẻ khác bằng cách phủ nhận và ngụy tráo nó đi<br />
bằng hình ảnh thơ mộng không ngoài mục đích che giấu<br />
một sự thật. Cái sự thật ràng ràng ra đó họa chăng cố ý<br />
nói trăng nói cuội để gạt gẫm người xa, hay để gạt gẫm<br />
chính mình. Chết chóc, tù đày, đoạn lìa, đói khát, tuyệt<br />
vọng... ngày đó rất thật. Thật như tiếng vổ tay rào rào<br />
66
của đám thanh niên đứng ngồi la liệt trên mấy tầng cỏ<br />
hoang giữa đêm Sài-gòn giới nghiêm khi có người thay<br />
họ nói lên một sự thật mà ai nấy đều đau lòng. Thật như<br />
những băng cát-sết sang sớt chuyền tay nhau không<br />
ngớt. Vậy tại sao bây giờ nỗi-đau-cũng-có-thật đó bỗng<br />
nhiên trở thành không có dưới mắt ông ta. Con tim chân<br />
chính của người nghệ sĩ đã có lúc nhìn thấy được tới một<br />
vết thương non giữa sóng lá gãy, con mắt tế vi đến đỗi<br />
ngó ra được một bóng tối nhỏ nhoi giữa cặp mắt muộn<br />
phiền, đôi tai tinh tường đến nghe được cả khúc ca cuối<br />
cùng của loài sâu hèn mọn, và nhất là tấm lòng độ lượng<br />
đến độ thương người không đếm xỉa đến chuyện phải<br />
trái đúng sai. Ðã có lúc không ai bảo ai, người ta cứ tự<br />
nhiên coi đó như tiếng nói chót cùng của lương tâm bị<br />
xúc phạm. Con tim đó bây giờ ở đâu, con mắt đó, đôi tai<br />
đó và tấm lòng đó bây giờ ở đâu mà không thấy rằng từ<br />
sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ở VN nhà tù mọc lên<br />
nhiều hơn trường học, hằng trăm ngàn người tù không<br />
bản án bị bỏ đói bỏ khát trong các trại giam được che<br />
giấu đằng sau những số hòm thư vô nghĩa..., hàng đoàn<br />
người chờ chực từ sáng đến tối trước cửa hàng thương<br />
nghiệp để giành giựt nhau từng mỗi kí gạo, từng thước<br />
vải thô, từng cuồn giấy vệ sinh..., đám bệnh nhân hoi<br />
hóp vì thiếu thuốc men lê lết không chiếu không giường<br />
trên những hành lang bệnh viện trong khi đám cán bộ<br />
thì mặc tình bồi dưỡng..., bầy trẻ nhỏ lem luốt lang thang<br />
moi móc đống rác cao nghều nghệu, chực chờ ngoài<br />
cửa tiệm ăn để húp đỡ miếng cơm cặn canh thừa... Con<br />
tim đó ở đâu mà không nghe được tiếng biển gào man<br />
67
ợ, tiếng thét khiếp đãm của trinh tiết hãi hùng, tiếng<br />
khóc đòi đoạn của đứa bé mồ côi từ trên đầu con sóng<br />
dữ... Em ra đi nơi này vẫn thế! Nói như vậy có phải là xỉa<br />
xói những thây người đang vật vờ trôi trên mặt biển<br />
đông. Thành phố vẫn có những giấc mơ. Vẫn sống thiết tha. Vẫn<br />
lấp lánh hoa trên đường đi. Nói như vậy có phải là mỉa mai<br />
những xác người còm cõi đang còng lưng thay trâu thay<br />
bò kéo cày bè cây trên những thửa đất sỏi đá, trong<br />
những cánh rừng già nước độc đến rụng lông chân để<br />
trả món nợ còn sống sót sau cơn lửa đạn. Bản nhạc hết.<br />
Ðêm tối mờ mờ. Người bạn chủ nhà, viên thiếu úy phế<br />
binh chỉ sống bằng một lá phổi từ sau khi bị phục kích<br />
trên quốc lộ 13, ngồi thù lu trong một góc nhà, tay xe xe<br />
vấn vấn điếu thuốc rê, miệng phun phèo phèo. Không<br />
biết anh ta phun mấy sợi thuốc đắng hay muốn phản đối<br />
mấy điều vừa nghe được. Người bạn vốn ít nói nhưng ra<br />
bộ vụt chạc như chừng có gì không vừa ý. Hửng sáng khi<br />
xách cuốc lên rẫy, anh chỉ nói gọn lỏn có ba chữ nóchết-rồi.<br />
Còn tôi thì sửa soạn lội ra chợ kiếm mối khuân<br />
vác mà lòng thì buồn như mới vừa đánh mất một cái gì<br />
không nên mất.<br />
Dĩ nhiên đã đến lúc mỗi người phải chọn lựa cho mình<br />
một chỗ đứng, theo ý thức và lương tâm của mình. Tôi<br />
sẽ không đá động gì đến chuyện ấy. Nếu ông ta đã chọn<br />
phía bên kia từ trước năm 75, thì ông ta đã hoạt động<br />
như một người nằm vùng công tác phá hoại, và chúng ta<br />
đã thất bại với cuộc chiến đấu chống lại trận giặc trong<br />
bóng tối đó. Nếu ông ta ở lại cộng tác với CS như một ý<br />
68
thức mới vừa khám phá, tôi sẽ chống đối ông ta trên<br />
bình diện ý thức nhưng sẽ tôn trọng tính cách tự do chọn<br />
lựa của mỗi người. Còn nếu ông ta chỉ là một kẻ a dua<br />
theo đóm ăn tàn sau năm 75, ông ta chỉ là một kẻ hết<br />
sức tầm thường mê đắm chút lợi danh phế thải. Ðiều đó<br />
thì không còn gì đáng nói nữa. Có điều nếu như vậy tôi<br />
sẽ thương hại ông ta vì sự mềm yếu của tánh người mà<br />
không ghét bỏ và có thể sẽ nghe lại đôi ba ca khúc cũ<br />
như kiểu ta "ru ta ngậm ngùi" cho đỡ phần tiếc rẻ. Dĩ<br />
nhiên với điều kiện ông ta còn chút "liêm sĩ" để giữ thái<br />
độ "ngậm miệng ăn tiền". Ðàng này thì ngược lại dường<br />
như ông ta đã quên một điều hệ trọng của đạo lý làm<br />
người cũng như lý tưởng của một nghệ sĩ chân chính, đó<br />
là cái cố gắng đạt tới "chân thiện mỹ" mà bất cứ một<br />
nghệ sĩ nào cũng xưng tụng kể cả ông ta. Một trong<br />
những giá trị đó là sự liêm khiết của ngòi bút. Ðã có<br />
không ít trong lịch sử những tấm gương bất khuất của kẻ<br />
sĩ còn làm ta rúng động. Trường hợp của A.<br />
Soljenitsyne... đã không phải là một thí dụ đáng suy gẫm<br />
hay sao? Gần với chúng ta hơn, những Phùng Quán với<br />
Trần Dần đã giành quyền "dùng dao khắc thơ lên đá"<br />
sau khi bị tước đoạt hết giấy bút là một hình ảnh đẹp<br />
đến muôn đời. Dĩ nhiên ở đây chắc cũng không ai chờ<br />
đợi ở ông TCS một hành động ngoạn mục nào sau khi<br />
đã chứng kiến đến não nề sự trở cờ rất nhanh nhẩu của<br />
ông ta, nhưng ít nữa sau cơn khủng hoảng của những<br />
ngày cuối tháng tư, người ta vẫn có quyền chờ đợi ở ông<br />
ta một thái độ liêm sĩ tối thiểu. Vậy thì nếu vì lý do nào<br />
đó, ông TCS, người đã mang hồn nghệ sĩ đi qua suốt<br />
69
cuộc chiến để kêu đòi quyền làm người cho những nạn<br />
nhân vô tội, đến giờ này không thể lên tiếng trước triệu<br />
triệu đọa đày mà ông đang chứng kiến, thì ông cũng<br />
không có quyền bóp méo hoặc che đậy một sự thật<br />
nhãn tiền. Nếu đã không nói được thì cũng nên giữ im<br />
lặng trước những đau khổ của đồng loại, dù rằng sự im<br />
lặng đó chỉ là một phản ứng rất đỗi tiêu cực. Nhưng ít<br />
nữa cũng là thái độ biết điều của một người còn lại chút<br />
lòng. Ðã không im lặng ông ta còn cố tình biến đổi<br />
những đau khổ có thật đó thành những hình ảnh thơ<br />
mộng không tưởng. Như vậy tính liêm khiết của người trí<br />
thức ở đâu? Sự trung thực của người nghệ sĩ ở đâu? Tại<br />
sao năm ba năm trước thì có, mà năm ba năm sau thì<br />
không? Hay là trước đây chỉ giả tạo để lương lẹo thế<br />
gian nhằm che đậy một tâm địa đầu Ngô mình Sở. Như<br />
vậy, toàn bộ tác phẩm trước đây của ông ta, kể cả những<br />
tình khúc, nếu đã không xuất phát từ một tấm lòng<br />
thành, có còn giá trị gì khác hơn là lớp phấn son trơ trẻn<br />
trây trét trên mặt gái giang hồ?<br />
Bảy tám năm sau, ở xứ người, tôi có dịp đọc được mấy<br />
lời phản tỉnh của ông ta chối bỏ hết những đứa con tinh<br />
thần một thời đã từng làm ông ta hãnh diện. Cái trò tự<br />
thú, phản tỉnh dưới chế độ CS không có gì là lạ, có lạ hay<br />
không là giọng điệu hối cải, thái độ cúc cung đến bạc<br />
nhược của một kẻ đã có lúc ý thức rất sáng suốt vị trí của<br />
mình trong xã hội. Tôi tiếc cho ông mà tôi cũng tiếc luôn<br />
cho cả tuổi trẻ của một thời khổ nạn, đã như tôi, đặt<br />
niềm tin và hy vọng không đúng chỗ.<br />
70
Cũng như tôi cứ thắc mắc tại sao một kẻ tài hoa như vậy<br />
mà bỗng chốc hoá ra vô tình đến sanh lòng bội bạc<br />
ngay cả với chính đất nước và con người đã có lần bỏ dạ<br />
cưu mang mình. Hay có lẽ tại vì cái chủ nghĩa mà ông ta<br />
đeo đuổi quá ư hiểm độc nên một khi đã lọt vô tròng là<br />
hết đuờng cạy gỡ, có múa may gì nữa thì cũng chỉ rồi<br />
như đá ngây ngô !*<br />
tháng tư-1995<br />
* Tựa một bài nhạc của Trịnh Công Sơn<br />
71
gởi hết cho em lòng nguyên đán<br />
giữ lại hồn tôi nỗi cuối năm<br />
Mỗi năm<br />
hoa đào<br />
nở...<br />
... câu thơ gỏ từng chữ vào lòng như ngón tay gỏ vào<br />
từng phím nhớ của một bản hoài cảm đã được dạo đi<br />
dạo lại nhiều lần, hằng năm một, và sẽ còn được dạo lại<br />
thêm những lần nào nữa? Câu thơ như nhản hiệu một<br />
sản phẩm đã-được-cầu-chứng-tại-tòa, không thể đánh<br />
tráo, không thể lầm lẫn, không thể gian lận vào đâu<br />
được.<br />
72
Mỗi năm hoa đào nở...<br />
...ờ ở đâu mà bỗng bay về những tấm giấy hồng điều lấp<br />
láy lớp kim nhủ mới tinh trên sợi giây giăng ngang hai<br />
đầu một tường vôi lở... ờ có cơn gió sớm làm gây gây<br />
lạnh trên chút da để hở thổi lại từ hướng nào... dường<br />
như từ hướng bờ sông cái theo con đường lớn có hai<br />
hàng me già mới thay lá non xèo... ờ chiếc áo dài đen cũ<br />
rích tới sờn bâu có in hình mấy chữ thọ, chiếc khăn đóng<br />
chít hình chữ nhân ngay giữa trán, mấy ngón tay thuông<br />
xương xẩu, chòm râu bạc lốm đốm và đôi mắt, đôi mắt<br />
đục lờ có một vẻ gì vừa kiêu hảnh vừa nhẩn nhịn .... ngoài<br />
trời mưa bụi bay ...<br />
Vậy đó. Hễ cứ mỗi năm hoa đào nở là ... là lại thấy ông<br />
đồ già ... là ... là cứ y như ... tết đến.<br />
Hiển nhiên như một phản ứng hóa học, không sai chạy<br />
một ly tử, và gọn gàng như một cái búng tay, câu thơ gọi<br />
về những hồn xưa đã tản lạc, dựng dậy những cảnh cũ<br />
còn trầm tích dưới mấy lớp nhớ hư hao, làm nở lại một<br />
bông hoa vàng đã héo, lay dậy một hơi gió đã mỏi,<br />
dựng dậy một góc phố một lề đường một ngã tư một<br />
hẻm chợ, ...rồi là những mặt người những dáng dấp, ...<br />
rồi tiếng nói tiếng cười tiếng kêu tiếng la tiếng o bế tiếng<br />
cự nự tiếng gà vịt đập cánh phành phạch tiếng heo con<br />
ăng ẳng tiếng heo nái ủng ỉnh tiếng chuông xe đạp leng<br />
keng tiếng bố thắng xích-lô ken két tiếng quần lãnh lột<br />
xột tiếng áo bà ba lùng xùng tiếng pháo chuột nổ lẹt đẹt<br />
73
tiếng guốc lốc cốc tiếng dép lẹp xẹp tiếng trẻ nít rượt<br />
đuổi tiếng con trai chọc gái tiếng cô hai cô ba xì xò<br />
nguýt háy tiếng cô tư cô năm đỏng đảnh làm duyên<br />
tiếng chệt-hàng-xén ngọng nghệu tiếng chú-bảy lơ lớ<br />
tiếng trả giá cò kè tiếng nài nỉ thêm bớt... rồi là cái mùi<br />
hăng hắc của rau cải úng nước, mốc meo của vải vóc ủ<br />
kho, tanh tưởi của thịt cá ế thiu, nồng nặc của cống rảnh<br />
ứ đọng, của mồ hôi đúng ngọ, của bả trầu xế trưa, của<br />
dầu thơm rẻ tiền, của bi-giăng-tin bóng lẩy của ... của<br />
một-ngàn-lẻ-một thứ vật thực trần gian đã ứ đọng ở đó<br />
từ bao nhiêu đời cộng thêm một-ngàn-lẻ-một thứ vật<br />
thực y như vậy nhưng còn mới nguyên cộng thêm cái<br />
mùi thơm phức ngọt bùi béo ngậy của mứt dừa-mứt bíthèo<br />
lèo-cứt chuột-nội địa của chà là-hồng khô-nhập<br />
cảng một-năm-mới-có-một-lần họp lại thành một thứ<br />
mùi... rất-chợ-tết... Cái hoạt cảnh cứ diển ra hàng năm<br />
mà mỗi năm cứ mỗi mới mỗi vui... người qua lại vội vã<br />
mua sắm, những sạp hàng bày vội chen lấn tràn ra mặt<br />
đường đã cấm xe từ sau ngày đưa ông táo, chưng dọn<br />
mớ trái cây bánh mứt, rượu tây, trà tàu... như cả năm<br />
chưa bao giờ được chưng dọn như vậy... những hình ảnh<br />
vụn vặt những âm thanh tứ tán đó bỗng chấp chới tụ về,<br />
chắp chắp nối nối... để ráp lại nguyên hình một mùa<br />
xuân trong quá khứ, một cái tết nhất định ở một nơi nhất<br />
định - một cái tết sẽ không đầy đủ nếu đâu đó trên cái<br />
bối cảnh hỗn tạp đó không có chấm phá mấy nét thiệt<br />
tiêu sơ ...<br />
74
... ở một góc rất khuất, khiêm nhường như chính cái mặt<br />
hàng được móc treo trên mấy sợi giây nhỏ xíu, những<br />
nét chấm phá ngang dọc dù có bay lượn rồng rắn cũng<br />
không làm vui hơn cái dáng điệu buồn rầu của ông hàng<br />
chữ cuối mùa... Người thuê viết nay đâu. Giấy đỏ buồn không<br />
thắm. Mực đọng trong nghiên sầu.<br />
Mãi về sau nữa, lâu lắm, dù đã ở một nơi rất trái<br />
mùa. Mỗi năm hoa đào nở. Sắt son như một lời hẹn. Câu<br />
thơ làm con én đưa tin. Người ta thấy lại bằng con mắt<br />
tâm linh ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ... Người ta ngửi lại<br />
mùi xuân bằng cái mũi hồi ức... Và rồi người ta đón tết,<br />
vơi vơi kỷ niệm...<br />
Ở một tỉnh nhỏ nằm chen giữa hai nhánh sông lớn của<br />
miền nam, trời mưa nắng hai mùa, mỗi năm không có<br />
hoa đào nở mà chỉ có hoa mận, hoa bưởi, hoa cam... chỉ<br />
có hoa mai mà lại còn phải lặt lá từ rằm tháng chạp...<br />
Trời đất đâu có gởi tới một dấu hiệu riêng nào ngoài<br />
một chút gió bấc làm lạnh se da những buổi sáng thức<br />
sớm theo cha ra tỉa kiểng. Thành ra lớn lên đi học rồi cứ<br />
theo ông đồ của Vũ Ðình Liên mà đón tết. Bài học đâu từ<br />
cái thời tiểu học vậy mà làm nhớ dai nhớ dẳng. Lớn lên<br />
rồi trèo lên trung học đại học vẫn còn nhớ hoài nhớ hũy<br />
cái hình ảnh gợi tết rất ngậm ngùi đó. Mỗi năm, dù đang<br />
ở đâu, cứ vừa nghe trời đất rậm rật trở mình là câu thơ<br />
bật nhớ... mặc kệ những tất tả của tháng cuối năm. Mỗi<br />
năm hoa đào nở. Cứ vậy đó, mỗi năm, hằng năm, năm<br />
năm... theo cái nhịp quay rất đều tay của thời gian lại<br />
75
thấy ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ trên phố đông người qua...<br />
để cho tết đến. Rồi năm nào như năm nấy cũng thấy lại...<br />
y nguyên cái dãy phố tàu chưng dọn se sua một cách lộn<br />
xộn như... phố tàu, nhà lồng chợ cũ kỷ được che thêm<br />
trại dựng thêm rạp làm đã vốn luộm thuộm càng thêm<br />
lộn xộn, bạn hàng đi đi lại lại chộn rộn ra vẻ còn chộn<br />
rộn hơn trong năm, cái bến nước nằm kề khu chợ cá<br />
bỗng dưng tấp nập ghe xuồng, chúc mũi đổ lên bờ<br />
những người khách xa đâu từ những thôn ấp hẻo lánh rủ<br />
nhau đi chợ tết. Chợ tưng bừng sinh khí mới. Và vẫn<br />
vậy...<br />
... vẫn vậy... ở một góc phố khiêm nhường nhất, cũng lại<br />
cái hình ảnh lặng lẽ nhất mà lại mang lòng nguyên đán<br />
nhất lại nhẫn nại xuất hiện, chậm rãi trải chiếu trải khăn,<br />
khoan thai mài mực tàu trịnh trọng phơi giấy đỏ... rồi vén<br />
áo gò lưng ngạo nghễ phóng tay phác những nét<br />
phượng múa rồng bay mặc kệ cái dửng dưng vô tình<br />
nhất của người thiên hạ... ngoài trời mưa bụi bay...Rồi là<br />
những chữ thảo chữ triện chữ chân phương thi nhau xổ<br />
móc tung hoành, những lời chúc lời cầu lời xin thi nhau<br />
bay lượn. Ba cái chữ phước- lộc-thọ thì tròn trịa như<br />
chính sự sung mãn, những câu thơ chữ quen thuộc nămnào-như-năm-nấy-từ-đã-mấy-ngàn-năm.<br />
Thiên tăng tuế<br />
nguyệt, nhân tăng thọ. Xuân mãn càn khôn, phúc mãn<br />
gia... đọc lên nghe rổn rảng cứ y như là phường tuồng.<br />
Vậy mà vui lắm. Mà chí tình lắm. Ðủ để người ta nghe<br />
hớn hở nghe náo nức nghe rộn ràng nghe hy vọng dù<br />
có đang chạy chết để lo ba bữa tết... Vậy chớ mùa xuân<br />
76
không phải là mùa hy vọng sao, tết không phải là hy<br />
vọng sao. Cho nên bỏ ra vài đồng bạc để mua về tấm<br />
giấy đỏ treo nhà cũng được, mà không mua cũng không<br />
sao, lời chúc lành đã bay đầy trời đó.... ai cũng được<br />
hưởng phước lây...<br />
Rõ ràng là ăn-tết ăn gì cũng được, nem bì bánh tét bánh<br />
ít thịt kho dưa giá xà-bần bánh phồng tôm bánh phồngmì-va-ni-nước-cốt-dừa-đường-cát-<br />
trắng... gì gì cũng<br />
được. Nhưng cái không thiếu được là mấy tấm giấy đỏ<br />
chữ đen mang một lời chúc lành không biết có ứng kịp<br />
hay không trong năm. Mà điều ứng hay không lại là<br />
chuyện khác. Chuyện ở đây là cái vẻ tết mà ông đồ và<br />
mớ giấy đỏ của ông đã tạo nên trong sinh hoạt dân<br />
gian. Làm như cả hai, ông đồ và ngày tết, đã được gắn<br />
liền vào nhau bất khả phân ly. Nói như vậy không có<br />
nghĩa là phụ bạc cái công đóng góp rất khoái khẩu của<br />
dưa hấu của hột dưa (ôi cái miệng cắn hột dưa kêu lách<br />
tách còn trây trét lại trên môi dấu đỏ xinh xắn như một<br />
vết răng cắn phạm! ) của hột sen của chuối ngào gừng<br />
của bánh mứt của la- de-tôm-khô-củ-kiệu... Nói như vậy<br />
chẳng qua là ngầm hảnh diện cái tánh trọng văn của<br />
người Việt. Bởi vì làm như ba cái thứ đồ ăn thức uống đó<br />
mới chỉ là da là thịt của tết. Còn chính mấy tấm liễn đỏ<br />
của ông đồ già mới là cái phần hồn làm nên phong vị. Dĩ<br />
nhiên cái nào có phần nấy, không có kỳ thị gì hết. Tuy<br />
nhiên mấy chục năm rồi, ở đâu đó trên mặt đất này,<br />
ngoại trừ cái chỗ chúng ta đã sinh ra và “ăn tết” trước khi<br />
bỏ trốn, những cái tết qua đi nếu không lãng nhách thì<br />
77
cũng lãng òm mặc dầu thì cũng thịt kho dưa giá khổ qua<br />
dồn thịt rượu tây rượu tàu ... chính là vì có còn cái phong<br />
vị đó đâu. Chẳng phải chỉ riêng cái đó làm nên tết đâu,<br />
mà là một tổng thể còn nhiều thứ khác nữa, nhưng thiếu<br />
gì thì thiếu mà thiếu cái hình ảnh lãng đãng của ông đồ<br />
già với mớ giấy điều phơ phất đó nên mọi cái khác có đó<br />
... mà như mất hồn !<br />
Người ở xa, xa tăm tắp quê hương, không những chỉ<br />
quan san ngoài sông núi, mà quan san ngay chính giữa<br />
lòng mình. Biển xanh thì cứ y nguyên dâu bể mà lòng<br />
người thì tang thương đã quá độ. Trí nhớ thì cứ như một<br />
người tình khó tánh, nay vầy mai khác, cái muốn nhớ thì<br />
quên, cái muốn quên thì lại nhớ. Ai đời đã xa ơi là xa trời<br />
đất đó, khí hậu đã lộn lạo, mùa màng đã sang đàng mà<br />
mỗi năm cứ gở tới tờ lịch Tam tông miếu cuối (ấn bản<br />
hải ngoại) là lòng cứ thấy băn khoăn rồi năm nay sẽ ăn<br />
tết ra sao. Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời thì đã sẵn đâu từ<br />
hồi mới bỏ xứ mà đi. Ở đây có tết đâu mà ăn. Mà có ăn<br />
thì cũng trệu trạo ba cái món cam-giang-nam-đemtrồng-qua-giang-bắc<br />
cũng chỉ thấy nhạt phèo. Chỉa đủa<br />
gắp miếng thịt đọng mở đục ngầu là cái bụng lại ớn<br />
ngược nhớ miếng thịt phay trụng nước sôi trong vắt.<br />
Nhai miếng dưa-cải-bọc-ny-lon-made-in-Thailand là cái<br />
răng tê tái nhớ miếng dưa-cải-má-muối-trong-khạpđậy-bằng-lá-chuối-sau-vườn...<br />
Còn ba cái hội xuân chợ<br />
tết cũng phải kéo nhau vào trốn lạnh trong những hội<br />
trường cửa nẻo kín bưng tới nỗi áo dài người xưa tha<br />
thướt đến vậy mà bây giờ hai vạt cũng đành buông<br />
78
thỏng ngây đơ đến tội tình. Ôi ! Áo màu không gió cũng<br />
thôi vàng. Trong ta còn lại đìu hiu vắng ...<br />
Nói vậy rồi ngẫm nghĩ lại mà thấy băn khoăn. Hóa ra cái<br />
ăn cái mặc của người ta coi vậy mà quan trọng hết sức.<br />
Người lưu vong ở xứ người ăn uống đủ thứ thập vật.<br />
Nhất là ở những xứ gọi là họp chủng đa văn hóa này,<br />
thực phẩm là cái món được chủ trương cho sống chung<br />
hòa bình nhất. Từ cái món cầm tay " to go " đơn giản<br />
nhất tới cái món nấu nướng cầu kỳ nhất, từ cái kiểu ngồi<br />
bệt ăn bốc ăn hốt đến cái kiểu ngồi thẳng lưng ăn ly tách<br />
dao nỉa lỉnh kỉnh nhất... phải nói là không thiếu cái chi.<br />
Thử, nếm, chấm, mút, ôi thôi tha hồ. Thiếu điều riết rồi<br />
có khi phải tự đặt cho mình những kỷ luật kiêng cữ còn<br />
nghiêm nhặt hơn kỷ luật nhà binh nữa. Vậy mà xét ra<br />
chưa đủ. Bởi vì như đã nói ăn gì thì ăn lang bang được<br />
mà ăn tết lạ chỗ thì không được. Ăn tết ở xứ người trăm<br />
phần không thấy ngon. Muốn ngon miệng phải về ăn tết<br />
tận quê tận nơi tận chỗ. Phải ăn tết với tất cả cái phụ<br />
tùng cần thiết của nó. Một nhánh mai, một cành đào,<br />
một chậu thủy tiên, một đòn bánh tét nấu đêm giao thừa<br />
bằng nồi đất chụm lửa củi, một miếng bánh phồng<br />
nướng lửa than ... một bao thơ đỏ, một tấm liễn hồng<br />
điều ... và nếu được đôi ba chùm pháo chuột lại càng vui<br />
như ... tết.<br />
Chẳng vậy mà mới nghe phong phanh tết đến đã không<br />
ít người vội vã chầu chực chạy chọt xin xỏ cho được cái<br />
visa (dù mình về quê mình) ăn tết. Tin trong một tờ báo<br />
79
ở đây năm nay có đâu khoảng 300.000 việt kiều hồi<br />
hương ăn tết. Nghe mà thương nhưng buồn. Hóa ra<br />
hằng năm dù ở đậu nhưng cũng ăn nhờ không biết bao<br />
nhiêu lễ lạc lớn nhỏ của người ta, từ tạ ơn đến giáng<br />
sinh, từ halloween đến tết tây... vẫn là chưa đủ. Lòng việt<br />
kiều vẫn muốn khều cành nam. Ðồng đô la xanh vẫn<br />
mạnh hơn đồng đô la vàng. Và nhờ đó tết nhứt lại có<br />
chiều nhứt dạ đế vương (không giương cũng uổng)<br />
Trách ai bây giờ. Người ta về quê ăn tết cũng là hợp với<br />
cái luận lý nước chảy về nguồn, dù cái nguồn đó có đôi<br />
khi làm người ta tá hỏa tam tinh như Từ Thức về trần. Thì<br />
thôi ăn tết ở đâu cũng vậy, ăn tết ở quê nhà ... nhà-nước<br />
cám ơn.<br />
Chỉ đáng đời cho cái đám thân đã quy Tào mà hồn còn<br />
Từ Thứ, bắt chước Bá Di với lại Thúc Tề, cứ ráng gồng<br />
mình chịu rét làm cái thân thông suông đuột đứng giữa<br />
trời mà kêu réo, đến ngày tư ngày tết trùm khăn trùm áo,<br />
mang ủng lội tuyết đi đón xuân ở một nơi chưa tới kỳ<br />
xuân, làm bộ ăn tết ở một chỗ không có gì là tết. Chừng<br />
không thấy tết ở đâu thì buồn mà khi có người dổ ngọt<br />
về quê thì dẩy nẩy như đạp phải đinh chong tẩm độc...<br />
Mà điều nói thì nói vậy, chớ ngó trước ngó sau rồi càng<br />
lúc càng thưa thớt những tấm lòng lạc điệu đó. Mỗi một<br />
năm một vắng... chẳng khác gì cái ông đồ già trong thơ<br />
Vũ Ðình Liên ... nhưng mỗi năm mỗi vắng...<br />
80
Ông đồ vẫn ngồi đây<br />
Qua đường không ai hay......<br />
* tựa và chữ nhỏ trích thơ của Vũ Ðình Liên<br />
81
thư tết<br />
Rồi tết đến rồi lòng em nhớ quá<br />
Nguyễ̃ n đình Toàn<br />
Em xa xôi,<br />
Trưa nay, mùng một tết, cái tết thứ hai mươi mốt của tôi<br />
ở xứ người. Trời đổ tuyết từ ban sáng. Mùa xuân đâu<br />
không thấy, chỉ thấy lạnh và buồn. Tôi chắc em cũng như<br />
82
nhiều người Việt khác đang mài miệt trong những xưởng<br />
thợ hay văn phòng ở đâu đó trên khắp cùng mặt đất, có<br />
thấy gì là tết đâu dù rằng trong lòng mình không thiếu<br />
một nụ xuân. Sao tôi thấy thương em, thương Lý, Lê,<br />
Trần, Nguyễn ... thương hết thảy những người Việt đang<br />
ngậm ngùi đón tết ở một nơi không phải chỗ của mình.<br />
Sao tự dưng tôi như thấy em đang ngẩn ngơ, thấy chị<br />
đang thờ thẩn, thấy anh đang nôn nao như chờ đợi nghe<br />
thấy lại một cái gì đã có lần rạo rực dấy lên tự lòng đất,<br />
loáng thoáng trong khói hương, chập chờn giữa trời<br />
rộng khi chúng ta còn ở đó, quê nhà. Nhớ không em cái<br />
lao xao của cây cỏ, cái náo nức của phố phường, cái lung<br />
linh của khuya im đêm trừ tịch. Tôi chắc mọi người đang<br />
thấp thỏm sống lại cái tình tự của một tết năm nào.<br />
Nhưng mà nhớ thì có nhớ nhưng gặp lại thì chắc không<br />
bởi vì mình có ở quê mình đâu. Mình đang ở xa quá, xa<br />
tới gần nửa thế kỷ, cái quê hương mù mịt cứ nghĩ tới là<br />
mũi lòng. Cho nên dù có bắt chước anh con trai trong<br />
một bài hát cũ hỏi lầm thầm ... xuân đã về chưa ... thì<br />
cũng chỉ thấy đọng lại một chút vị cay trên khóe mắt. Bởi<br />
vì xuân có kịp về đâu ở một cõi trời cõi đời quá lạ.<br />
Buổi sáng hôm nay, em thức dậy chắc cũng giống như<br />
nhiều buổi sáng khác khi trời còn mờ tối, ngoại ô còn<br />
ngái ngủ trong lớp áo đọng sương. Em dậy sớm hơn<br />
chồng con vì còn phải sửa soạn thức ăn cho mọi người<br />
đến trường sở. Vội vội vàng vàng em đâu thấy kịp mấy<br />
đốm sao thưa còn lấp ló ngoài cửa sổ. Em còn phải<br />
nhanh tay sửa soạn để kịp chuyến xe điện ngầm thứ<br />
83
nhất. Khi em ra khỏi nhà thì đốm sao đã buồn bã bỏ đi.<br />
Một mình em vừa đi vừa chạy, tay quấn vội cái khăn len<br />
quanh cổ, tay kéo sát cái áo ấm chùng kín tấm thân bé<br />
bỏng co ro. Mùa đông còn lạnh và dài lắm. Bầu trời<br />
nhem nhuốc và phố xá còn lấm lem cơn bão tuyết cuối<br />
tuần. Chung quanh em bắt đầu có thêm nhiều người<br />
khác, cũng đang vội vã chạy theo sau cái tia sáng đầu<br />
ngày. Và như vậy, em đi đến hảng tự nhiên như những<br />
buổi sáng bình thường khác. Một buổi sáng bình thường<br />
như trăm ngàn buổi sáng khác của em, của chồng con<br />
em, của bạn bè em, của những người đang sống một<br />
mùa xuân giả bộ. Cho nên tôi biết, sáng hôm nay ở<br />
trong sở , đầu óc và tay chân thì bận bịu với công việc<br />
mà lòng em thì buồn quá đỗi. Bởi vì giữa lòng em<br />
nguyên đán đã rộn rịp ngay từ nửa đêm hôm qua khi trời<br />
đất ở đây còn đương tối mịt.<br />
Từ một hai tuần trước mỗi lần ra chợ em đã cố tình mua<br />
sắm nhiều hơn lệ thường. Thịt cá, dưa kiệu, dưa chua,<br />
bánh mứt, cái gì cũng nhiều hơn chút chút. Bề gì cũng<br />
ngày tư ngày tết phải cho chồng con nếm chút hơi hướm<br />
quê nhà. Em còn cẩn thận dặn tiệm hoa đầu phố để<br />
dành cho em một chậu cúc vàng mặc dầu vẫn chép<br />
miệng than đắt loại hoa trái mùa. Em ân cần và chu đáo<br />
lắm. Em muốn tạo một không khí tết cho gia đình và cho<br />
riêng em. Mới chạng vạng, em đã thu dọn lại nhà cửa,<br />
sửa soạn chiếc bàn thờ tổ tiên và cũng đã bày mâm cơm<br />
cùng chồng con chờ cúng rước ông bà. Vậy mà giữa<br />
hương khói sao có lúc em như thấy cô đơn hơn ngày<br />
thường. Giữa lòng em như có gì trống trải. Nhìn quanh<br />
84
em sao như thiêu thiếu một cái gì. À thì ra, ở đây đất trời<br />
lạ lẫm làm em không bắt gặp lại được cái lung linh của<br />
tối giao mùa thuở trước, khi còn bao bọc chung quanh<br />
những tấm thân tình, và nhất là cả nước non đều mang<br />
chung một nỗi rạo rực như ngay chính lòng em đang rạo<br />
rực. Ở đó, mỗi lượt giao thừa, cỏ cây lay lắt như muốn<br />
chuyển mình, sông núi cũng động đậy bừng tỉnh, đừng<br />
nói gì con người, hết thảy đều như say say, thấy như vừa<br />
nếm một chút rượu nồng cất bằng thứ men cay của trời<br />
đất. Người ta như thấy có một cái gì thôi thúc, chộn rộn<br />
khiến ngồi đứng không yên, có một cái gì đó bãng lãng<br />
lao xao ngay trong không gian lắng đọng làm cho mọi<br />
thứ trở nên tươi tỉnh hơn và hơn nữa như xúi bẩy mọi<br />
người gần gũi nhau hơn. Ở khắp mọi nơi, người ta như<br />
nghe thấy từng nụ mầm đang lật bật trổi dậy, mới tinh,<br />
khỏe mạnh và nhất là như truyền nhiễm cái niềm vui<br />
trong lành lên từng xó xỉnh của đời sống. Bỗng nhiên<br />
người ta quên phứt những phiền toái, những rắc rối,<br />
những mắc mớ của phận người. Bỗng nhiên người ta đổi<br />
mới trong phút chốc. Em cũng vậy. Có nhớ không ? Em<br />
thấy em tươi như một nụ hàm tiếu. Em thấy em vui như<br />
một tiếng cười dòn. Và áo mới xúng xính. Và đồng tiền<br />
mừng tuổi. Rồi hoa đào hoa mai. Rồi bánh chưng bánh<br />
tét. Những năm em lớn lên, chiến cuộc dữ dằn quá,<br />
pháo bị cấm đốt. Nhưng có cần đâu, trong lòng em là cả<br />
một tràng pháo vô thanh nổ dòn dã, xác pháo đỏ vô<br />
hình rưới đầy tấm lòng em mới nguyên. Em mừng thêm<br />
một tuổi lớn, hồn mở rộng thênh thang, háo hức chờ đợi<br />
những bất ngờ ...<br />
85
Vậy đó mà tối hôm qua, trong ngôi nhà nhỏ rất ấm cúng<br />
mà vợ chồng đã tậu được sau nhiều năm cày cục, bên<br />
cạnh chồng con, ngay lúc em sắp sửa cúng giao thừa,<br />
bỗng dưng em cảm thấy như có một vẻ gì tẻ lạnh quá,<br />
cứ quạnh quẽ quanh đây. Nước mắt chực hờ nhưng rồi<br />
em cố giữ lại. Làm như em linh tính được mọi ước<br />
nguyện chân thành của em trong buổi tối thiêng liêng<br />
này rồi sẽ chìm mất vào một cõi lặng vô tình. Chậu bông<br />
cúc, vàng mấy đốm lẻ loi, không thắp nỗi một niềm vui<br />
lẻ mọn giữa cái màn ẩm đục và mốc thếch của khí trời bị<br />
đọng kín lâu ngày. Còn mấy dĩa đồ cúng nữa, dù em đã<br />
lo lắng nấu nướng sẵn từ ngày nghĩ cuối tuần trước, dọn<br />
ra rồi sao càng làm lộ thêm cái vẻ lạc lõng như bày ra<br />
không phải chỗ. Tội nghiệp em, em đâu có rảnh rổi. Ở<br />
sở về, em vừa đi vừa chạy, ghé qua rước con ở nhà trẻ,<br />
về tới nhà là chỉ kịp cởi vội khăn áo xùng xình rồi là lúi cúi<br />
xào nấu cho kịp bữa tối. Bởi vậy, em đã bắt chước mẹ<br />
kho sẵn một nồi thịt với lon nước dừa Đài Loan dù lạt lẽo<br />
vẫn cho ra vẻ đúng điệu, nấu một tô canh khổ qua dồn<br />
thịt với dĩa đồ xào hải sản. Em nhớ mẹ cũng đã làm<br />
giống như vậy. Bới thêm ba chén cơm trắng, dọn đủ<br />
muổng đủa sắp dài hai bên cạnh bàn. Em còn làm giống<br />
như ba, khui chai rượu quý rót đầy ba cái chung nhỏ, rót<br />
thêm một tách nước lạnh để ông bà súc miệng trước khi<br />
dùng cơm, rồi em thắp cháy lung linh hai ngọn đèn cầy.<br />
Mâm cơm cúng dòm qua cũng tươm tất giống như của<br />
ba mẹ em đã làm. Vậy mà sau khi đã sửa lại quần áo bộ<br />
điệu ngay ngắn, thắp nắm nhang sắp sửa van vái nhưng<br />
chỉ mới vừa lẩm nhẩm trong đầu mấy chữ “ đất nước<br />
86
ông bà cữu huyền thất tổ ” như ba đã dạy là tiếng khóc<br />
em bật ra, tức tưởi. Đứa con lẩm đẩm bên chân thấy mẹ<br />
khóc cũng mếu máo khóc theo. Ngó lại thì mắt chồng<br />
cũng rươm rướm. Tết đâu không thấy chỉ thấy cả nhà ôm<br />
nhau khóc mùi mẩn. Em khóc mà biết mình không nên<br />
khóc. Dường như em tủi thân, dường như em tiếc nuối.<br />
Em thấy như không có ông bà nào chịu khó cất công<br />
vượt ngàn trùng qua đây với em. Đường xá xa xôi quá<br />
mà ông bà thì quê mùa làm sao biết ngõ đi lối về. Còn<br />
đất nước, đất nước em thì bị kềm kẹp bởi lũ người vong<br />
bản thì làm sao thoát được mà dong ruổi. Cha mẹ và bầy<br />
em nhỏ thì đang lây lất đón cái tết nghèo đói chắc cũng<br />
đang nhớ em mà phải bấm bụng cho quên. Đêm vây<br />
chung quanh thì tối mịt, đặc quánh hơi lạnh mà lại trống<br />
hoang không một bóng người qua. Tết đó sao ? Đâu<br />
phải mùa xuân của em như em đã chờ đợi và đã gặp gỡ<br />
khi còn ở bên nhà. Cả một tuổi thiếu nữ em sống ở đó,<br />
mùa xuân dậy thì như bông búp thẹn thùng, em theo mẹ<br />
đi chùa hái lộc đêm giao thừa, lòng thấy hoang mang<br />
sung sướng mà không rõ vì sao. Mà có cần biết lý do<br />
đâu, em thấy mọi người chung quanh hớn hở thì lòng<br />
em cũng nở rộ đóa hạnh phúc. Trong hương trầm nghi<br />
ngút, mọi tấm lòng như mở ra cho tiêu vong hết mọi uẩn<br />
khúc và thay vào đó nỗi cảm thông bắt nhịp với người và<br />
với trời đất. Trong một tích tắc người ta như bắt gặp lại<br />
hồn thiêng sông núi, người ta thấy mình hòa tan vào cái<br />
thăm thẳm của vũ trụ không cùng. Phút giao thừa như<br />
sát na hội ngộ. Gặp lại lòng mình, gặp lại lòng người và<br />
87
còn tìm gặp lại cái nguồn cội sâu xa của chính đời mình<br />
nữa.<br />
Vậy mà ở đây em không cảm thấy gì hết. Em chỉ thấy<br />
lòng mình trống trải như một cõi không mà lại nặng nề<br />
như mộ địa. Cái gì chớ cái này thì chồng con em không<br />
an ủi được gì cho em hết. Tội nghiệp V. Nó cũng thẫn<br />
thờ như em vậy thôi. V đưa tay vỗ nhẹ vai em rồi ôm em<br />
và con siết chặt. Cặp mắt V sụp xuống như có cả núi<br />
sông đè lên đó. Phải rồi, từ lúc nãy chính V cũng thấy<br />
như thiêu thiếu một cái gì. Nó đã cẩn thận kiểm soát lại<br />
gian phòng, bàn ghế, chậu hoa, tấm lịch Tam Tông Miếu<br />
mua ở chợ tàu đã gỡ tới tờ lịch cuối cùng, bức hình gia<br />
đình ở quê chụp chung lúc lên mười tuổi đã vàng ố ... tất<br />
cả vẫn y nguyên vậy. Kể cả mâm cơm cúng mà em đã<br />
sửa soạn với hết lòng thành khẩn. Có thiếu gì đâu. Ba<br />
chén cơm với ba đôi đủa, mấy cái muổ̀ ng, mấy cái dĩa đồ<br />
ăn bốc khói, nhang đèn ... tất cả đều ở đó. Có thiếu gì<br />
đâu. Vậy mà sao V vẫn thấy thiếu. Cho đến khi nó thấy<br />
em bật khóc nó mới nhận ra cái thiếu sót đó, nằm ngay<br />
chính trong lòng mình, vả bây giờ phả ra váng vất trong<br />
không gian tù tùng của căn nhà đóng kín cửa. Có một sự<br />
vắng mặt lớn lắm mà dường như V đã mường tượng đâu<br />
từ chiều hôm qua khi lái xe về ngang con dốc ở đầu bên<br />
kia thành phố. Từ vị trí đó, V thấy cái xóm nhỏ của họ<br />
đạo Tin Lành với mấy chục căn nhà nằm xúm xít như úp<br />
mặt vào nhau dưới cái bóng núi đe dọa. Xa hơn một<br />
chút, con sông nhỏ chạy loanh quanh giữa cánh rừng<br />
thông tua tủa rồi bỏ đi mất hút đằng sau khúc ngoặt<br />
cuối đảo. Lúc đó chiều chưa tắt hẵn, đêm còn vung vẩy<br />
88
vạt áo choàng đen dùng dằng với chút nắng cuối ngày<br />
vừa kịp cho V thấy mấy làn khói mỏng vất vưởng bốc lên<br />
từ những mái nhà trắng tuyết. V đã dửng dưng qua lại<br />
nhiều lần đoạn đường đó, lúc mới tới có lần cũng đã<br />
thấy giông giống một góc cảnh xưa. Rồi thôi, rồi quên<br />
khuấy dưới lớp lớp lo toan của đời sống tất bật. Vậy mà<br />
buổi chiều hôm qua, ngay đúng lúc đang nhớ lại câu<br />
nhắc của người bạn về chuyện bên nhà lúc cuối năm thì<br />
xe vừa trờ tới đỉnh đồi ngó xuống khu nhà quen thuộc,<br />
sao bỗng dưng V nhận diện được rõ ràng cái quen thuộc<br />
ở đây đã từng quen thuộc lâu lắm, lâu đâu từ lúc còn ở<br />
quê nhà. Có một cái gì tiềm tiệm góc phố xưa, nơi V đã<br />
sống một tuổi ấu thơ êm đềm, với cha mẹ anh chị bạn<br />
bầy ... Chiều u tịch, khói bay từ một góc tối xa xăm, cộng<br />
thêm cái âm vang buồn bã của mấy chữ “ cuối năm ”<br />
làm lòng V quặn nhớ. Sao tự dưng V thấy như ai đó cắc<br />
cớ vừa bứng nguyên phố nhỏ quê mình đem sang dựng<br />
lại y hệt ở đây, ngay phút này, lúc buổi chiều một ngày<br />
cuối năm sắp tắt. Sao tự dưng nó thấy giống đến thê<br />
thiết cái xóm nhỏ ở một tỉnh vùng cao nguyên nước Việt,<br />
nơi nó đã được sanh ra và lớn lên giữa bao nhiêu là thân<br />
thích ruột rà. Thành phố với những con dốc mù sương đi<br />
về lẫn khuất, với lọn nắng sương mai màu hổ phách mà<br />
có lần nó đã ví von với tia nhìn trong vắt của người yêu<br />
dấu đầu đời. Thành phố mà V đã bỏ lại để đi xa dù có<br />
bao giờ thôi thương nhớ. Lây lất gần hai mươi năm ở xứ<br />
người tưởng đã quên lâu. Vậy mà không. Vậy mà chiều<br />
hôm qua V bỗng nhớ lại. Nhớ như mới bỏ đi đâu chừng<br />
mấy bữa. Nhớ như mới hôm nào cắt ruột bỏ đi. Nhưng<br />
89
sợ em buồn lây, nó giữ kín trong lòng. Rồi lu bu chuyện<br />
sở, rồi hấp tấp dọn dẹp cho kịp buổi cúng giao thừa, nó<br />
cứ nghĩ thấy bần thần là tại trời trở gió. Mãi đến khi thấy<br />
mấy giọt nước mắt tù̉i hờn của em, V mới bàng hoàng<br />
cảm lại nỗi hụt hẩng trong lòng mình. Chút lao đao<br />
trong lòng dìm lại từ hôm qua, bỗng chốc vực dậy, dựng<br />
lên hình ảnh cái xóm nhỏ đìu hiu từ độ bỏ đi, thoáng<br />
chốc rõ ràng như trước mặt. À thì ra, có quên được đâu,<br />
cái phố cũ buồn vui một thuở. Góc quê hương bị vùi<br />
nông dưới mấy lớp tâm tư, giấu mặt đằng sau tầng tầng<br />
ngày tháng, nép mình giả bộ như xác bướm khô bỏ<br />
quên giữa mấy trang sách ố vàng. Người ta cứ vô tình<br />
sống, làm ăn, vô tình đi tới lui loanh quanh trong cõi tạm<br />
mà không ngờ vẫn mang theo bên mình cái xác bướm<br />
xác xơ mà vẫn chực chờ hồi sinh. Để rồi, một khuya im<br />
trở mình bất chợt, một tiếng chim kêu lạc cuối chiều, một<br />
vệt nắng vàng sót quên trên ngõ lá, một bước chân lạc<br />
lỏng giữa chợ đời ... từng ấy thứ, tưởng chẳng ăn nhằm<br />
gì với cố hương đã xa mù xa mịt mà oái oăm lắm em,<br />
thứ tình cố thổ nó giăng nhện không ngờ. Nó níu, nó<br />
kéo, nó ép người ta ngoảnh lại, nhìn lui, từ một nét, một<br />
chấm, một góc, một cảnh đời đã thấy, đã sống, đã hạnh<br />
phúc, đã trầm luân ... từ một thưở nào, khi còn ở đó, quê<br />
nhà. Từ đó, những hình ảnh đã quên sâu, những kỷ niệm<br />
đã lặn chìm, những phần đời đã ngủ yên, những khuôn<br />
mặt vóc dáng, những con đường góc phố, những bờ bãi<br />
hàng lau, những bến nước cầu ao, nhịp mùa thời tiết ...<br />
mọi thứ mọi điều tưởng đã quên lâu nhưng rồi ra vẫn<br />
nhớ, nhớ hoài. Nó có thể nằm đó, im hơi lặng tiếng, vài<br />
90
a năm, mười mươi năm, có khi suốt cả đời không<br />
chừng. Để rồi có khi chỉ là một hơi gió nhẹ làm lung lay<br />
một ánh trăng khuya, một tiếng chim trời kêu lẻ bạn, hay<br />
có khi đơn giản hơn nữa, chỉ cần mấy tiếng “cuối năm” ai<br />
đó thốt ra giữa khi chiều đang rưng rưng sắp tắt mà<br />
chân đang bước lỡ một độ đường, bao nhiêu đó thôi<br />
cũng đủ lảm động đậy đôi cánh mỏng đang thúc thủ,<br />
chấp chới bay lên và xô dạt chao đảo cả những tâm hồn<br />
đã từng phen gió bụi. Cái tình quê cay như gừng như<br />
quế, mặn như muối nồng như ướp tiêu thấm sâu trong<br />
tận cùng xương tủy, óc não, tim gan ... có khi nó loảng ra<br />
nhẹ nhàng như sương như khói, bãng lãng như có như<br />
không, có khi quánh đặc như mạch nha kẹo dẻo nhùng<br />
nhằng nhủn nhẳn không chừng không đỗi, tưởng như<br />
dính không chặt mà lại bứt không rời ... Khổ một nỗi,<br />
người ta càng lơ là thì nó càng đeo đuổi trêu ghẹo, y<br />
như bóng chơi đuổi bắt với hình. Ngày qua ngày, tháng<br />
theo tháng, năm tàn năm, cái bóng quê hương lấp la lấp<br />
lửng có đó mà như khuất mặt, chấp chới chực chờ bên<br />
cạnh một niềm vui, trong cuối một nỗi buồn và chắc<br />
chắn, trong một lúc không ngờ nhất, sẽ chường cái bộ<br />
mặt thảm sầu của nó ra trong một ngày cuối năm, một<br />
ngày đầu năm ... khi chân còn đang lỡ bước giữa một độ<br />
đường lữ thứ.<br />
Vậy đó em. Trong suốt con đường lưu lạc tìm đất sống<br />
hơn ngàn năm của nhân loại đã có bao nhiêu lần dòng<br />
đời đang bương chảy bỗng nhiên bị khựng lại, một giây,<br />
một phút, một thoáng ... chỉ vì bất chợt người ta nhận ra<br />
91
... dấu dạng một quê hương. Một thoáng thôi cũng đủ<br />
làm buồn một đỗi. Từng chút đó thôi nhưng sẽ làm<br />
người ta ray rứt hoài hoài. Tôi nhớ đã có lần kể em nghe<br />
chuyện của hai chàng du tử, mãi vui đường mà lạc cảnh<br />
tiên, tưởng sẽ sung sướng ở cõi đào nguyên, nhưng rồi<br />
ai đời lại cứ nhong nhóng đòi về trần. Cái trần gian của<br />
họ, thật ra cũng chẳng có ý nghĩa triết lý gì hết mà chỉ là<br />
quê nhà của họ đó thôi em. Cái cõi quê mùa luộm<br />
thuộm, người ngợm lôi thôi, nẻo đời trắc trở mới chính là<br />
quê hương đích thực của kiếp người. Người ta chỉ thấy<br />
an lòng ở giữa đồng loại. Cũng như chúng ta vậy thôi.<br />
Chúng ta cũng chỉ là mấy chàng Lưu Nguyễn lạc lối thiên<br />
thai nên lòng trần cứ bức rức, uống nước suối tiên trong<br />
vắt mà cứ thèm thuồng con nước đục phù sa, coi điệu<br />
múa nghê thường lại thấy lòng cứ vấn vương mấy câu<br />
hò thôn dã. Nhưng biết làm sao hơn khi túi nhau ta đã lỡ<br />
chôn dưới gốc một cội tre già thì cả đời ta sẽ mắc míu<br />
hoài với mấy nhịp cầu tre lắt lẻo. Chỉ chừng đó thôi cũng<br />
đủ làm lòng ta thắc thẻo rồi em. Mặc dầu ở xa, tôi cũng<br />
biết em buồn ra sao. Bởi vì nỗi buồn của em cũng chính<br />
là nỗi buồn của tôi, từ hơn mấy chục năm nay.<br />
Em biết đó có ai đếm được nỗi sầu đâu em. Vậy mà mấy<br />
ông thi sĩ vô danh hồi xưa cứ giả bộ như rành rọt lắm.<br />
Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu. Làm như mỗi<br />
một nhịp cầu là chừng ấy lần sầu. Làm như mình có thể<br />
hỏi thăm nhau một cách rạch ròi như vậy chớ bữa nay<br />
em sầu bao nhiêu nhịp. Vậy chớ mấy bữa nay em nhớ<br />
nhà dài bao nhiêu dặm. Khổ một nỗi là giữa chúng ta và<br />
92
quê hương có chiếc cầu nào đâu mà đo dài đo ngắn.<br />
Giữa chúng ta và quê nhà có khoảng cách nào đâu mà<br />
tính được thiên lý đây em. Bởi vì thật ra cái ngàn trùng<br />
đó nằm ngay chính trong lòng ta. Ôi tấm lòng xa cách<br />
lớn rộng hơn trời biển làm sao dang chân ra mà thâu<br />
ngắn lại đường dài.<br />
Mùng ba tết năm ngoái, ngồi trơ trọi một mình nhìn<br />
mâm cúng tất nấu dọn sơ sài sao tôi thấy buồn quá đỗi.<br />
Cho tới chừng nào chúng ta mới ăn được một cái tết vui<br />
vầy. Nhắp ngụm rượu thừa tôi viết mấy câu thơ, dẫu tết<br />
mà nghe cay đắng lắm em :<br />
Rồi tết qua đi, buồn ở lại<br />
Quê nhà xa huốt một đường bay<br />
Rượu xuân sao bốc mùi quan ải<br />
Để thấy xa thêm những dặm dài<br />
Vậy đó em. Mấy chuyến bay hình như vẫn bay qua bay<br />
lại nhưng đâu phải vậy mà nối được lòng ta với quê<br />
hương. Khoảng cách đâu còn là không gian nữa. Khoảng<br />
cách chính ở lòng ta đó. Đâu phải chúng ta ruồng bỏ<br />
một quê hương nghèo nàn, chúng ta chỉ không thể chấp<br />
nhận một chế độ bất nhân vô đạo. Làm gì mà mấy chục<br />
năm sau khi bức tử một quốc gia, cướp đoạt cả linh hồn<br />
một dân tộc, với tất cả oai quyền tột đỉnh sinh sát trong<br />
tay mà họ không dựng dậy được một quê hương đủ<br />
sánh vai cùng thiên hạ. Kẻ thù như họ đã rêu rao không<br />
còn một mống ở đó. Những kẻ-bị-chối-bỏ đã tống khứ<br />
ra biển dữ. Đất nước thâu về một mối nắm gọn trong<br />
93
tay. Bao nhiêu vốn liếng có sẵn trong nước cộng với bao<br />
nhiêu tiền bạc của đám con tha phương cầu thực bị bắt<br />
chẹt gởi về nuôi cha nuôi mẹ, rồi cả cái mớ đô-la muối<br />
mặt ngửa tay xin xỏ khắp cùng thế giới ... mà không cứu<br />
nỗi một đất mẹ tang thương. Đến lúc ngay cả những kẻ<br />
dễ dãi nhất hoặc khờ dại nhất ngoại trừ bọn đồng lỏa<br />
cấu kết cũng phải nghi ngờ sự lương thiện của mọi kẻ<br />
cầm quyền ở bên đó. Họ làm gì mà sau khi giết chóc tàn<br />
phá để cướp cho được trọn phần đất nước, mấy chục<br />
năm sau mà đất nước vẫn èo uột như con bệnh nan y<br />
bất trị, và con người, đại đa số con người ở đó vẫn gầy<br />
héo như từng niềm tuyệt vọng.<br />
Vậy đó em, chúng ta không trốn chạy một quê hương<br />
nghèo đói. Chúng ta chỉ không thể thỏa hiệp với một<br />
chế độ bất công, độc đoán, miệt thị giá trị con người và<br />
phỉ báng truyền thống nhân ái của dân tộc, và thêm nữa<br />
... bán nước đợ dân ...<br />
Vì vậy mà giờ này chúng ta không có một chỗ đề về,<br />
chúng ta phải đón thêm một cái tết trong dáng vẻ thờ ơ<br />
của người và trời đất quanh đây. Tôi biết em buồn lắm.<br />
Tôi biết em hờn em tủi. Tôi biết nhiều người Việt đã ứa<br />
nước mắt trong đêm qua, sáng hôm nay khi thấy mình<br />
thêm một lần lỡ hẹn với quê hương. Tuy nhiên chúng ta<br />
có làm khác được đâu em. Chúng ta đã chọn tự do làm<br />
lẽ sống thì chuyện sinh ly chỉ là một cách thế chẳng đặng<br />
đừng. Sự chọn lựa nào cũng có mất mát. Ăn miếng cơm<br />
nhờ chúng ta còn biết hổ thẹn thì làm sao chung đụng<br />
với những kẻ chỉ biết ăn chặn miếng cơm đói của người<br />
94
đồng chủng. Có khóc bữa hôm nay chúng ta vẫn còn<br />
may mắn hơn ngàn lần bạn bè chúng ta còn khóc hận<br />
từng ngày, ở đó. Bởi vậy hãy khóc cho nguôi đi em rồi<br />
lau khô nước mắt. Giọt lệ ly hương dẫu sao vẫn là giọt lệ<br />
chung tình. Chúng ta khóc nhớ vì chúng ta thương tiếc<br />
lắm. Chớ em thấy đó, còn rất nhiều kẻ sống ngay tại<br />
chính quê hương mình mà vẫn đành lòng ghét bỏ quê<br />
hương.<br />
Xin cho tôi được khóc cùng em những giọt nước mắt<br />
nghịch thường này<br />
95
tranh CAO HÀNH KIỆN
Thương nhớ<br />
huyền-trân<br />
Khi Huyền Trân gá thân lấy đất đâu biết mình vừa làm<br />
một cuộc hoán đổi quá sức dị thường. Sử không chép lại<br />
những cuộc thương-thuyết-mật-đàm ngã giá nhùng<br />
97
nhằng nhủng nhẳng ra sao. Chỉ biết sau khi nàng bước<br />
xuống thuyền hoa vào Đồ Bàn thì lãnh thổ Đại Việt rộng<br />
thêm vài ngàn dặm vuông về phía nam.<br />
Hai châu Ô Lý vuông ngàn dặm...<br />
Sử lại càng không nói gì hết đến cái đêm động phòng<br />
vương giả. Không biết nàng có được các cô cung nữ<br />
Chàm đua nhau tắm gội bụi cát đường xa bằng nước<br />
giếng ướp hoa lài hoa sứ, xông tẩm trầm hương quế<br />
mộc, chải tóc bằng lược ngà cài trâm bằng sừng tê giác<br />
hay không ? Và cái ông vua họ Chế sửa soạn mình mẩy<br />
ra sao. Sử không nói gì hết đến cái đêm giường loan<br />
chiếu phụng. Chỉ biết sau đó, trong dân gian nẩy ra tiếng<br />
chắc lưỡi nghe mà xót ruột.<br />
Tiếc thay cây quế giữa rừng.<br />
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.<br />
Đã sang đầu thiên niên kỷ thứ ba rồi, chúa đã rao giảng<br />
nhân ái đâu từ hơn hai ngàn năm nay, tuyên ngôn nhân<br />
quyền nhân bản đã được yết thị kêu rêu khắp hang cùng<br />
ngỏ hẻm thì cũng không dại gì mà đi nói đến cái chuyện<br />
có thể bị kết tội là kỳ thị chủng tộc. Mà điều không nói<br />
thì lại cứ thấy tưng tức làm sao.<br />
Thử nghỉ coi, tấm thân lá ngọc cành vàng, nếu không<br />
chim sa cá lặn thì chắc cũng nguyệt thẹn hoa nhường.<br />
Mà nếu chim hoa trăng cá không chịu thua thì những<br />
98
con tim son trẻ của các bậc vương tôn công tử, mấy tay<br />
phong lưu mã thượng, cái đám tài-tình-thiên-cỗ-lụy nơi<br />
đất thần kinh văn vật chắc cũng đã hơn một lần rụng rời<br />
thua thiệt. Ai đâu không biết chớ hỏi thử cái ông Thượng<br />
tướng Trần Khắc Chung thì chắc biết.<br />
Cái mối tình vừa tầm đúng cỡ đó không biết ráp lại từ lúc<br />
nào và trên những hành lang thăm thẳm của cấm cung<br />
đã có gì là kỷ niệm hay không nhưng chắc không ít thì<br />
nhiều cũng làm vừa lòng thế gian. Người quốc sắc phải<br />
gặp kẻ thiên tài. Vậy đó. Khỏi bàn cải lôi thôi. Khỏi hít hà<br />
tiếc rẻ.<br />
Vậy mà không. Chuyện đời lại tréo ngoe đến đỗi. Cái<br />
cuộc sinh tồn ăn nên làm ra của dân tộc Việt nó quan<br />
trọng đến nỗi phải đem so đo rừng quế Chiêm Thành<br />
trên gò đào gái Việt.<br />
Lấy thêm ngàn dặm đất mà không gãy một đầu thương<br />
mẻ một mũi kiếm chắc ai nấy đều bằng lòng. Tuy nhiên<br />
có ai nghe được tiếng kêu thương của da thịt kiêu sa<br />
trong cuộc chung chạ đó. Chiều chiều mây phủ Hải Vân. Chim<br />
kêu ghềnh đá gẩm thân em buồn. Đến bây giờ gẩm lại cũng<br />
còn buồn lây... Không phải buồn vì cái chuyện trai Hời<br />
gái Việt. Nếu đã yêu nhau thì nói chi đến màu da trắng<br />
đen vàng đỏ. Rồi còn ba cái thứ ngôn ngữ ông-nói-gàbà-nói-vịt<br />
thì có sá chi. Người ta còn thiếu gì cách để mò<br />
mẫm vào đời nhau sâu sát hơn nhiều. Buồn là buồn cái<br />
chuyện mưu mô đem tấm thân đàn bà con gái ra đánh<br />
đổi giang sơn. Cả nước từ vua quan đến sĩ thứ không<br />
biết nghĩ sao lại hè nhau dựa vào một tấm hường nhan<br />
99
mỏng dánh. Từ Chiêu Quân đến Huyền Trân cũng vẫn y<br />
tấn tuồng cũ. Có nghe ra không những giọt nước mắt tủi<br />
hờn.<br />
Hai tuần trước một người bạn về từ Đài Loan ghé thăm<br />
kể chuyện những nàng huyền-trân thời mới. Từ nhiều<br />
năm nay, những cuộc mua bán gái Việt sang làm vợ ( vợ<br />
bé, vợ lẻ, vợ nhỏ... ) cho những ông tàu góa bụa, những<br />
anh con-trời ế ẩm, tật nguyền... rất thịnh hành theo đúng<br />
truyền thống thê thiếp Trung Hoa. Nhất là những gái<br />
quê nghèo nàn dốt nát. Thịnh hành đến nỗi có cả những<br />
agence chuyên lo mai mối ăn công. Người bạn dường<br />
như xúc động lắm trước nỗi cay đắng ê chề khi thực tế<br />
đã xảy ra không đúng như lời rao bán và từ đó là mối<br />
sầu tha hương dằng dặc. Chiều chiều mây phủ Đài<br />
Loan... Cô gái quê thay cha thay mẹ gánh trả món nợ đời<br />
bằng cái vốn liếng xác thịt. Tệ hơn nữa đôi khi còn bị<br />
trao đổi như một món hàng thừa thãi. Từ lúc nào, ở Việt<br />
Nam, cái chuyện bán vợ đợ con trở thành thời thượng.<br />
Người đời sau nghe kể chuyện Huyền Trân với tấm lòng<br />
thương vay khóc mướn. Người đời nay nghe kể chuyện<br />
gái Việt sang Tàu có thêm một chút bứt rứt hổ thẹn.<br />
Nhưng thử hỏi có ai đau được cái đau của những tấm<br />
thân bị chiếm đoạt dẫu có thuận lòng với bất cứ lý do<br />
nào thì cũng không phải vì lý do tình yêu.<br />
Mấy tháng trước trên một số báo Văn có đăng một<br />
truyện ngắn của Phạm Thị Ngọc Liên, Đồi hoang, đọc<br />
100
xong mà muốn đổ mồ hôi hột. Truyện kể một người đàn<br />
ông tàu tàn tật, xấu xí và bị bất lực tình dục. Anh ta bỏ<br />
phế đời mình ở một xó núi hẻo lánh. Hay chính cuộc đời<br />
đã phế bỏ anh ta với tất cả sự khiếm khuyết bất hạnh đó.<br />
Cái khao khát duy nhất của người đàn ông cô độc là<br />
được biết một lần thế nào là hạnh-phúc-oà-vỡ trên mình<br />
một người đàn bà. Và cách thức duy nhất để thoả mản<br />
cơn ẩn ức tình dục đó (sau khi đã bị nước non làng xóm<br />
xung quanh chê cười tránh né) là mượn người em trai tốt<br />
mã giả dạng khách thương sang VN cưới (mua?) gái VN<br />
về làm vợ. Khung truyện là cái khoảng tối ẩm đục của<br />
sinh lý bị dồn nén và trên đó là số phận của cô gái cô thế<br />
bị đóng đinh trần truồng trên thập giá của một thời đại<br />
kỳ cục. Cô gái VN biến thành vật thí thân cho một kinh<br />
nghiệm dục tình nghe ra không phải là không tội nghiệp<br />
nhưng cũng không phải là không cay đắng.<br />
Dĩ nhiên không ai khờ dại đến nổi đi tin tiểu thuyết là<br />
hoàn toàn sự thật. Và cũng không ai ngây thơ đến độ<br />
nghĩ rằng tiểu thuyết là trăm phần hư cấu. Nhưng mà<br />
một phần trăm sự thật cũng đã là điều đáng suy nghĩ<br />
phải không ?<br />
Từ cái chuyện Huyền Trân đời Trần đến chuyện huyềntrân<br />
thời nầy có khác gì nhau đâu. Cũng vẫn là một cuộc<br />
đổi chác không fair play chút nào. Một đằng cầm chuôi<br />
một đằng nắm lưỡi. Trước sau gì người đàn bà vẫn chịu<br />
phần thua thiệt. Ai đời chỉ có một nhúm thanh xuân mà<br />
cũng phải đem ra hạ giá rao bán cho đành.<br />
101
Nói lòng vòng rồi bỗng nghĩ đến ta. Hơn hai mươi mấy<br />
năm bỏ nước đi ở đậu xứ người có thiếu gì những<br />
huyền-trân. Cả một đám lưu lạc có mấy ai chọn được<br />
cho mình nơi gá nghĩa chung thân phải đôi vừa lứa.<br />
Thiếu gì tay kiêu bạt đã bó mình lơ lơ láo láo giữa những<br />
xưởng thợ mênh mông. Thiếu gì người chữ nghĩa bề bề<br />
giả ngây giả dại đằng sau những kho hàng ám bụi. Còn<br />
biết bao nhiêu trang đài một thuở cũng đành bôi lấm<br />
tấm hồng nhan làm Mẹ mốc cho yên. Mớ tài hoa tài trí<br />
tài năng tài tình cầm bằng như hệ lụy bỏ-thì-thương-màvương-thì-tội<br />
thôi thì quên phức cho được việc cặp-rằng<br />
với lại phu thê... tiếc thay cây quế giữa rừng...<br />
Bạn xa<br />
Tháng rồi nghe bạn bị chủ Mỹ cho nghĩ việc sau gần hai<br />
mươi năm tận tụy phục vụ. Ở xa không rót được cho<br />
bạn ly rượu tống tiễn cái nghiệp ba-đấu-gạo của Đào<br />
Tiềm. Mà lại muốn ngửa mặt lên trời khóc ba tiếng rồi<br />
cười ba tiếng. Sao thấy bạn cũng lại là một thứ huyềntrân.<br />
Tài năng bạn, hào khí bạn... đem gá thân cho lũ chủ<br />
trọng tiền hơn nhân nghĩa, cho đám tư bản không biên<br />
giới thì có khác gì Huyền Trân vượt đèo Hải Vân rồi,<br />
chiều chiều nghe chim kêu ghềnh đá... lỡ mà ngó lại thân<br />
mình thế nào chẳng có lúc giựt mình mình lại thương<br />
mình xót xa.<br />
Tôi gọi em, huyền trân, đã mất uổng ngọc ngà trong<br />
cuộc sàng sẩy lừa lọc của định mạng.<br />
102
Huyền Trân ơi<br />
Huyền Trân ơi<br />
Mùa xuân rồi<br />
Giờ đây chín vạn bông trời nở<br />
Riêng có lòng ta<br />
khép lại thôi(*)<br />
(*) thơ Nguyễn Bính<br />
103
… trong số giấy tờ lụn vụn mà người thân hốt về bên nây<br />
trong chuyến về thăm nhà sau hơn hai mươi năm đi<br />
vắng, có sót mấy bài thơ ... đề năm 1968.<br />
… bữa đó, bất ngờ gặp lại tên bạn thân từ thời tiểu học,<br />
đang theo tiểu đoàn 35 BÐQ hành quân giải tỏa khu Phú<br />
Thọ Hòa, nhảy dù về chơi phố. Hai tên trạc tuổi, đứa<br />
thiếu úy, đứa hoản-dịch-vì-lý-do-học-vấn, kéo nhau vào<br />
một tiệm nước ở ngay Ngã Bảy Chợ Lớn, “bắt” chú-bachủ-tiệm<br />
chạy mua mấy lít rượu nếp than về nhậu với hai<br />
ba con khô mực và mấy trái cốc trái ổi ngâm nước cam<br />
thảo vàng lườm…<br />
… chiến tranh vào thành phố , làm màu tím bầm của<br />
rượu nếp than lảng lảng màu đỏ của rượu bồ đào rót<br />
trong chén dạ quang… khi tiếng tỳ bà đã dục người lên<br />
ngựa… làm hai đứa uống quên thôi…<br />
… say rồi làm thơ, rồi hứa sẽ chép gởi mày coi, rồi quên<br />
lửng chưa kịp gởi thì đã theo cô vợ mới cưới của nó đi<br />
nhận xác nó về…<br />
… sao hay lỡ một lời hẹn …<br />
104
ữa rượu<br />
thời chiến<br />
Gặp nhau chiều đã quá muộn màng<br />
Mời nhau bữa rượu thấy bâng khuâng<br />
Người ra tuyến trước chờ trận cuối<br />
Thân nhẹ hồ như nửa chéo khăn<br />
Ta rót vội vàng sợ nắng phai<br />
Người buồn chẳng hẹn được chiều mai<br />
Dằn ly nốc cạn cười vong mạng<br />
Rượu chảy như ngàn nổi đắng cay<br />
105
Trận đánh ngày mai chắc kéo dài<br />
Ðời vui rút ngắn nửa gang tay<br />
Áo xanh đi trận đành hanh cỏ<br />
Lòng có phân vân chuyện rủi may ?<br />
Ngày mai chết trận chửa biết chừng<br />
Uống đi chiêu niệm tuổi thanh xuân<br />
Gặp nhau rượu chợ rồi son phấn<br />
Có đáng gì đâu nhắn cố nhân<br />
Có lúc ngươi buồn đến ngẩn ngơ<br />
Nhắc chi nguời đan áo đợi chờ !<br />
Ngươi già mỗi bận nhìn xác lính<br />
Ta trẻ sao lòng chẳng mộng mơ<br />
106
Ta chẳng hẹn người đi chẳng hay<br />
Tình cờ gặp lại biết còn đây<br />
Quàng vai mà tưởng mình hạnh phúc<br />
Súng đạn cầm như mẫu chuyện dài.<br />
107
Thơ học trò<br />
thời chiến<br />
Lớp 11, 12 trường trung học Nguyễn Trung Trực ở Rạch<br />
Giá, những năm 72, 73, 74. Buổi sáng vào lớp nhiều lúc<br />
thấy những chỗ ngồi bỏ trống. Giở sổ điểm danh, lòng<br />
chợt buồn ngang khi đọc tới mấy cái tên vắng mặt. Học<br />
trò trai đứa tới tuổi bị gọi động viên, đứa về quê rồi ...<br />
mất tích ! Học trò gái ngồi lại đó, buồn xo.<br />
Em làm thơ ngại ngần đưa tôi đọc. Thơ buồn như khuê<br />
phụ oán. Đọc xong tôi cất lại, rồi quên.<br />
30 năm sau, thầy trò không gặp lại một lần. Hôm rồi tình<br />
cờ lục chồng sách cũ mà người nhà mang qua năm<br />
ngoái, bỗng thấy lọt ra một mảnh giấy ố vàng. Giấy vở<br />
học trò có những đường kẻ ô đã mờ và những giòng<br />
mực tím viết rất non tay. Chép lại mà không nhớ được<br />
tên cô học trò làm thơ năm đó.<br />
Năm nay em có còn làm thơ ? Nếu có làm chắc cũng<br />
không vui hơn năm trước !<br />
108
Tiếng đàn và người về bên bờ Cái Lớn<br />
Cũng như anh rồi một ngày bỏ phố<br />
Tôi sẽ về tìm uống giọt phù sa<br />
Hãy dành sẵn nghe anh, căn nhà nhỏ<br />
Nhìn ra dòng sông Cái lớn bao la<br />
Từ anh đi trường của mình vẫn đẹp<br />
Hoa ngày xưa thêm tím thẳ̉m ngậm ngùi<br />
Đời quanh quẩn triền miên như sóng vỗ<br />
Không gì buồ̀ n mà cũng chẳng gì vui<br />
Tôi lớn lên như anh ngày tháng cũ<br />
Bơ vơ trông ngày tháng vụt qua thềm<br />
Buồn tự hỏi rồi làm rong phiêu bạt<br />
Hay suốt đờ̀ i ngụ mãi bến bờ̀ êm<br />
109
Và anh ơi, sáng nay buồn thảm quá<br />
Tôi đứng nhìn ngơ ngác xác hoa phai<br />
Ôi sáng nay sao trùng dương lặng gió<br />
Không vọng về đây xóa tiếng bao người<br />
Tôi thèm ngủ dưới chân thềm rêu nhạt<br />
Ôm cuộc đời lạnh lẽo giữa buồng tim<br />
Không ai chắp cánh bằng lăng tan tác<br />
Hàn mất giùm tôi khe rỗng muộn phiền<br />
Hãy dành sẵn cho tôi bờ Cái lớn<br />
Với khóm lá xanh và tiếng đàn ngùi<br />
Ngày tôi về mong anh đừng han hỏi<br />
- Ngoài phố mình độ ấy có gì vui ?<br />
Em đâu đó đọc lại có thấy ngậm ngùi ?<br />
110
Trong khi chờ<br />
hoa xuyên tuyết …<br />
Mọi năm, từ giữa tháng ba trời đã dọ dẫm sang xuân.<br />
Ngày đã thôi co rút lại mà duổi dài ra theo độ dài của<br />
nắng, những tia nắng ấm láu lỉnh thụt ló như đứa bé<br />
thích chơi trò cút bắt. Tuyết trắng xóa, im ỉm trên nóc<br />
nhà, lặng lờ bên hè phố, hay lầm lì nơi bãi bờ từ tháng<br />
mười hai năm trước cũng rắp ranh chuyển động, mặt<br />
tuyết răn răn như xủi tăm rồi rỉ rả tan ra chảy lon ton<br />
xuống mái hiên, chảy rúc rích vào cống rảnh. Vài ba con<br />
én nhỏ, trốn chui trốn nhủi đâu đó mà mất biệt từ mấy<br />
111
tháng nay cũng háo hức bay ra, liệng qua liệng lại, chíp<br />
miệng kêu chíu chít đến sốt ruột. Mấy con sóc nâu to<br />
bằng nắm tay người lớn như giựt mình thức giấc, phát<br />
chạy lăng quăng trong mấy lùm cây, dòm ngó dáo dác,<br />
rồi chun chun cái mũi nhỏ xíu hít lấy hít để chút hương<br />
mùa mới, là lạ quen quen. Mọi thứ đều như có cái gì đó<br />
chộn rộn trong lòng, chỉ chực chờ cựa dậy.<br />
Vậy đó, rồi một buổi sáng, từ trong một kè đá, một hốc<br />
cây, giữa lớp tuyết trắng phau, mịn màng hay lạo xạo,<br />
bỗng thấy nhu nhú một đốm vàng, một đốm trắng hay<br />
một đốm gì tim tím, phơn phớt như giọt sương đêm hè<br />
và mỏng mảnh như một hơi thở gượng nhẹ. Ngày một<br />
ngày hai, giọt sương hay hơi thở mà lộ rõ hình ra đóa<br />
hoa sáu cánh, úp vào nhau như một quả chuông nhỏ, lắc<br />
lư theo ngọn gió vào xuân còn lành lạnh. Hoa nở ra,<br />
chấp chới như một nụ cười nào đó, mơ hồ …<br />
Hoa xuyên tuyết, ngủ yên trong cái búp bụ bẫm suốt<br />
mùa đông, thoắt chui ra khỏi mấy tầng đất đá đặc cứng,<br />
chòi lên mấy lớp tuyết lạnh tanh để báo tin xuân đã về,<br />
nắng đã ấm, ngày sẽ vui…<br />
Vậy mà mùa đông năm nay lại không phải vậy. Cuối<br />
tháng ba rồi đầu tháng tư mà bão tuyết vẫn liên miên,<br />
hết trận này đến trận khác. Tuyết rơi từ đầu mùa, rơi suốt<br />
giữa mùa, sang đến cuối tháng tư, trời vẫn lạnh và tuyết<br />
vẫn không ngừng rơi. Rơi hoài rơi hũy. Những lớp tuyết<br />
bám ghịt vào nhau, tràn bờ cửa sổ, bít cổng chặn ngõ,<br />
phủ chật sân trước vườn sau, nghẽn cứng cả lối vào ra<br />
quanh quẩn. Tháng tư rồi mà chỉ thấy tuyết chớ không<br />
112
thấy… đất. Và hoa xuyên tuyết, thứ hoa thường đúng<br />
hẹn, tháng tư năm nay cũng chẳng thấy nở nổi nụ đầu.<br />
Lật bật rồi hết tháng tư.<br />
Lại cái tháng tư !<br />
Lại nhớ Thanh Nam và Đất Khách.<br />
Một năm người có mười hai tháng<br />
Ta trọn năm dài một tháng tư<br />
Chấp nhận hai đời trong một kiếp<br />
Đành cho giông bão phũ phàng đưa (*)<br />
Thời gian như con chim gõ kiến, cứ lách cha lách chách<br />
vậy mà làm rơi rụng hết lớp này đến lớp khác, mớ ngày<br />
tháng trơ trơ. Ngày tháng thì lại cứ như cái lớp vỏ cây<br />
sần sùi, tróc lớp này thì mọc bồi lại lớp khác, lì lợm đến<br />
độ không làm ai để ý. Lâu lâu giựt mình ngó lại, thấy cây<br />
vẫn sừng sững … để ý hơn một chút, cây vẫn sừng sững<br />
nhưng ruột thì bắt đẫu rỗng hoang… Và chúng ta, trong<br />
cái phũ phàng sinh hóa đó !<br />
Bằng hữu qua đây dăm bảy đứa<br />
Đứa nuôi cừu hận đứa phong ba<br />
Đứa nằm yên phận trong êm ấm<br />
Đứa nhục nhằn nuôi kiếp sống thừa (*)<br />
Lâu rồi đọc lại thơ Thanh Nam thấy vậy mà dường như<br />
ông là một người hạnh phúc. Trong bước đầu của cuộc<br />
sống lưu vong, giữa cái mênh mông của đất trời Bắc Mỹ,<br />
113
dường như giữa hai tợp rượu ngất ngưởng, ông còn thấy<br />
quanh ông những « đứa », mà « đứa » nào « đứa » nấy<br />
nếu không giống ông hẵn thì cũng không khác ông mấy.<br />
Đứa-cừu-hận, đứa-yên-phận, đứa-sống-thừa. Nghĩ mà<br />
thương. Thương nhưng không buồn. Kiêu hảnh nữa là<br />
khác.. Trong những thái độ sống được kể ra đó, thái độ<br />
nào cũng biểu lộ một nhân cách, nhân cách của kẻ sĩ.<br />
Vậy rồi, ông Thanh Nam mất. Thanh Nam mất nhưng<br />
thơ của ông còn đây. Chỉ có điều những người mà<br />
Thanh Nam gọi một cách thân mật và ruột thịt, gần ba<br />
mươi năm sau, những “đứa” đó càng lúc càng hiếm dần<br />
chẳng khác những loài bị xếp vào thành phần sắp-bịdiệt-chủng<br />
(espèce menacé). Mà cái số không cừu hận<br />
hoặc không còn cừu hận, không yên phận mà đã thức<br />
thời, không nhục nhằn mà đổi đời hảnh tiến thì tăng lên<br />
quá độ. Cũng y như thuyết tiến hóa của Darwin, cái gì<br />
không dùng lâu ngày sẽ bị teo tóp lại rồi có khi biến mất<br />
luôn. Tay chân lông lá kể cả lương tri. Chẳng vậy mà 30<br />
năm sau ngày chạy thất điên bát đảo, chạy trối chết,<br />
chạy bất kể như mắc một lời thề độc, bỗng nhiên rồi hè<br />
nhau quày đầu chạy quay trở lại. Cũng bất kể như khi<br />
chạy đi, vội vã, hăm hở, hung hăng, hớt hãi như bỗng<br />
thấy bên kia biển lớn hừng lên một vùng Đất Hứa. Chạy<br />
như sợ không về kịp một dịp cứu rổi, hay vuột một lời<br />
chúc phúc vậy. Hồi trước xô đẩy nhau mà chạy xuống<br />
thuyền, bây giờ xô đẩy nhau mà leo lên cầu thang máy<br />
bay… bay về chính cái nơi… cái nơi mười mươi năm trước<br />
hẵn đã có lúc hậm hực… “phải chi có cánh cũng bay phứt<br />
đi cho rồi”<br />
114
Giai thoại kể rằng, sau năm 75, có một lần nào đó… ông<br />
Bùi Giáng vác một tảng đá thiệt to đi lang thang qua<br />
phố. Thấy lạ, có người theo hỏi, ông trả lời ( mà không<br />
cười!) rằng nếu bỏ tảng đá xuống, tôi sẽ bay đi khỏi đất<br />
nuớc này đấy (sic)<br />
Câu nói của một thi sĩ mà thi ca vốn đầy ẩn ngữ lại rõ<br />
ràng như không thể rõ ràng hơn nữa về tình trạng tuyệt<br />
vọng của một nơi chốn mà cách ăn ở không còn là cách<br />
ăn ở của … con người. Bởi vậy mà người ta bỏ đi. Trốn<br />
chui trốn nhủi mà bỏ đi. Bò lê bò lết bò càng mà bỏ đi.<br />
Dắt díu nhau mà bỏ đi. Lường gạt nhau mà bỏ đi. Mọi<br />
kiểu mọi cách. Cách nào cũng bỏ đi cho được. Kề cả tù<br />
đày, sóng to, biển dữ , cướp biển, mìn bẩy, hầm chông,<br />
đồn bót, quốc doanh, biên phòng, bê hai bê tư… gì gì<br />
cũng mặc, bỏ đi như chỉ còn cách bỏ đi là phương thế<br />
cứu rỗi độc nhất và sau cùng.<br />
Hơn nửa triệu người bỏ đi rồi bỏ mạng đâu đó trên sóng<br />
nước mênh mông của biển cả hay vùi xác đâu đó trên<br />
những lối mòn hiểm hóc của rừng già.<br />
Số còn lại, tới bờ tới bến, hú hồn hú vía như… chết đi<br />
sống lại!!!<br />
Ở đậu đâu đó trên xứ người, mười năm, hai mươi năm,<br />
ba mươi năm… Người làm thầy, người làm tớ, mà thầy<br />
hay tớ gì cũng chỉ là lớp vỏ mỏng phủ khoác bên ngoài<br />
để che đỡ cho cái hồn tính VN mang theo, tránh khỏi<br />
cảnh bị dày xéo như hồi ở cố quốc. Nếu không vậy thì<br />
sao lại bỏ đi. Nếu không vậy thì hóa ra cái chuyện tranh<br />
115
sống tranh chết bỏ đi đó chẳng qua chỉ vì ba miếng thịt<br />
thừa cơm cặn ở xứ người hay sao ?<br />
Mà nếu đã vậy thì sao bây giờ lại kéo về, về lại cái nơi đã<br />
bỏ đi vì bất cứ nguyên do nào thì đến nay những nguyên<br />
do đó vẫn còn đó, y nguyên, thậm chí còn trở thành một<br />
thứ lề thói, nếp sống, như một nết «văn hóa» đặc thù.<br />
Thử đọc lại đôi dòng trong một bài viết gần đây của ông<br />
Hà Sĩ Phu có tựa đề là “Tổ quốc trước cơn liệt-khùng<br />
nhân cách”:<br />
“ Sự liệt thường được hiểu là dịu đi, xỉu đi… nhưng sự liệt<br />
này lại kèm theo một hội chứng hung hăng đầy rẫy bạo<br />
lực : chưa bao giờ người Việt lại xài vũ lực với nhau hăng<br />
như bây giờ. Hành hạ, tra tấn, chém giết nhau như cơm<br />
bữa. Những cuộc “đấu tranh không khoan nhượng, một<br />
mất một còn” này, những cuộc “phê bình bằng vũ khí”<br />
này lại không phải là đấu tranh giai cấp như Mác-Lê mô<br />
tả, mà toàn là trận chiến trong gia đình, trong nhà mẫu<br />
giáo, giữa bạn bè, thầy trò, giữa công an với dân… trong<br />
hàng ngũ cách mạng với nhau cả. Cô giữ trẻ cấm trẻ<br />
khóc bằng cách bịt miệng cho đến… chết, công an bịt<br />
miệng bị cáo giữa tòa án nghiêm trang, trò nện thầy<br />
ngay trên bục giảng, cô giáo bắt học trò liếm ghế của<br />
mình, bà là mẹ liệt sĩ mà bị cháu đánh gãy xương nên<br />
cũng thành “liệt”… sĩ luôn, nhà trường giao học sinh cho<br />
công an dùng vũ lực dạy giúp, công an tống súng lục<br />
vào miệng học sinh để hỏi cung, công an tạt tai khách<br />
qua đường hoặc đánh cho lên bờ xuống ruộng chỉ vì<br />
quên không đội mũ hoặc đi ngược chiều …”<br />
116
Có lẽ sau hết mọi bất thường vẫn được mô tả về những<br />
dinh thự được sơn phết lại diêm dúa, những miếu đình<br />
được tu bổ lếu láo, những cầu cống được bắt qua sông<br />
chưa tới bờ đã sụp, những lễ hội rình rang ngớ ngẩn,<br />
những vụ án PMU 18… những nghị quyết chống tham<br />
nhũng bằng cách may bít miệng túi áo công an cán bộ<br />
(sic), những vụ cướp đất cướp nhà đưa đến dân-oankhiếu-kiện,<br />
những… và những … không chừng cái điều<br />
mà ông Hà Sĩ Phu vừa nói ở trên mới là những vấn nạn<br />
căn bản, tận cùng. Bởi vì hơn gì hết, sức mạnh của một<br />
dân tộc chẳng những cậy vào tiềm năng kinh tế, quốc<br />
phòng… mà còn cậy vào chính những giá trị tinh thần<br />
của dân tộc đó. Không còn thứ nhân-hòa đó thì làm gì<br />
còn thứ hội-nghị-Diên-Hồng vang vang lời thề sát đát!<br />
Qua sự miêu tả của ông Hà Sĩ Phu về những đối đãi giữa<br />
người và người, sau ba mươi năm tranh sống trong sự<br />
lừa dối, láo khoét, xảo quyệt và độc ác của một chế độ<br />
bất cận nhân tình, cái còn lại là gì trong sự liên đới giữa<br />
người và người, nếu không là những móng vuốt của bầy<br />
thú dữ!<br />
Con người mà hành xử đến cạn tàu ráo máng như vậy là<br />
do đâu nếu không phải là như ông Khổng Tử đã giải<br />
thích từ mấy ngàn năm trước. Thượng bất chánh, hạ tắc<br />
loạn !<br />
Bài viết của ông Hà Sĩ Phu nhằm một mục đích khác nên<br />
chỉ đề cập đến cái mặt nổi đình nổi đám nhất của giới ít<br />
nhiều thân cận với chính quyền. Nhưng chính điều đó lại<br />
117
làm người ta nhớ tới tình cảnh của đa-số-thầm-lặng<br />
khác, không đảng tịch cũng chẳng vây cánh, không chức<br />
vụ cũng chẳng bè phái, những người dân thường sống<br />
bên ngoài cái hệ thống bao-che-kín-mít đó, giữa cái thế<br />
giới hung bạo ráo cạn nhân tình như vậy, thử hỏi nếu<br />
còn chút thiện tâm rồi sống ra sao ? Hay là nên hỏi họ<br />
đang chết ra sao ! Rõ ràng, họ đang chết đó thôi.<br />
Chuyện kể về một người làm thơ từ thời trẻ, suốt mấy<br />
chục năm sau này thơ là những giọt máu riêng tây chảy<br />
ra từ một thương tích chung của lịch sử. Điều quan trọng<br />
nhất là thơ của anh rất… thơ. Hết mười người đọc đã có<br />
chín người rưỡi khen hay (còn lại nửa người có-vấn-đề là<br />
vì… mù chữ !). Cuối đời còn ít thơ, bạn bè thương thích<br />
muốn đem in lại làm kỷ niệm. Ờ thì theo thủ tục, bạn bè<br />
làm tày khôn ôm thơ đi xin giấy phép. Phép cho in với<br />
điều kiện sửa câu này vài chữ, trang kia vài câu… Ngặt<br />
hơn nữa bài thơ này phải viết lời trần tình, bài thơ kia<br />
phải viết lời minh định, bài thơ nọ phải viết lời chú thích…<br />
rằng-thì-là... Làm như máu cũng có máu đỏ máu xanh,<br />
ba mươi năm sau cũng không nên để máu xanh lộn máu<br />
đỏ. Làm như trong thơ cũng đầy ranh giới, thứ ranh giới<br />
dính be bét máu anh em.<br />
Thơ không đọc thì thôi, thơ có đâu đem ba cái chuyện<br />
tầm phào vào bắt bẻ !<br />
Tội nghiệp người làm thơ trong thời buổi sát nhân, thấy<br />
đứa con tinh thần của mình bị người ta đòi bẻ tay bẻ<br />
chân vặn đầu vặn cổ, thậm chí còn muốn gán thêm cho<br />
118
nó một chục ông cha nuôi vừa dốt vừa ngốc nên lặng lẽ<br />
gọi bạn… xin thôi. Thôi... để ít nữa còn giữ được liêm sĩ<br />
với chính mình.<br />
Họ không “đã chết” và “đang chết” đó chớ là gì !<br />
Nhắc lại chuyện thơ thẩn chẳng qua chỉ như thêm chút<br />
muối vào cái biển mặn đã quá mênh mông của oan ức.<br />
Chớ nợ văn chương thì có thấm vào đâu với triệu thứ nợ<br />
đời còn mãi trầm luân người ở cái chỗ Soljenitsyn đã gọi<br />
là tầng-đầu-địa-ngục.<br />
Từ đó cái việc người tị nạn ở nước ngoài kéo nhau về<br />
chơi, thơ thới như đi chợ phiên quả là một điều đáng hổ<br />
thẹn hơn bất cứ một điều vô ý thức nào khác. Lý giải<br />
bằng cách nào đi nữa, thì chuyện đi về qua lại trong lúc<br />
này vẫn phải coi là một thái độ mặc nhiên chấp nhận sự<br />
thắng thế của cái Ác trong lòng một xả hội vốn dĩ đã có<br />
thời rất hiền hòa. Dù muốn dù không, cũng phải nhận<br />
rằng, nếu trước đây thế giới đã ca tụng mỗi cuộc vượt<br />
biên là một cuộc bỏ phiếu bằng chân cho lý tưởng tự do<br />
thì mỗi bước trở về bây giờ sẽ không còn lời giải thích<br />
nào khác hơn là một bước dày xéo lên lương tâm của<br />
chính mình và của nhân loại bằng chính đôi chân đã có<br />
hồi giúp cho người ta đứng thẳng lên như … CON<br />
NGƯỜI !!!<br />
Vậy thì vui nỗi gì mà về !<br />
Vâng vui nỗi gì mà về !<br />
119
Về để đi nhởn nhơ dạo phố dạo phường mà có thấy ở<br />
đằng sau những phố phường ra vẻ nhởn nhơ đó là hằng<br />
hằng bao nhiêu uất ức của những người còn cố sống<br />
lương thiện ở đó nên phải khuất mày khuất mặt.<br />
Về để dẫm lên những tấm đan tâm còn bị vùi dập giữa<br />
một xả hội bất nhân như mớ hoa xuyên tuyết còn bị<br />
chôn vùi dưới mấy tầng tuyết kín bưng.<br />
Mùa cứ đổ tuyết thêm, làm sao cho hoa xuyên tuyết trồi<br />
lên mà báo được tin xuân !<br />
(*) thơ Thanh Nam<br />
viết thêm<br />
Từ khi viết bài, kể cũng đã vài ba năm trôi qua. Thời gian trôi qua<br />
đã không làm nhạt bớt chút nào cái vẻ tối mò trong bức tranh<br />
chính trị và xả hội ở bên đó. Mà ngược lại càng lúc càng tối mịt.<br />
Còn ở cái chỗ ngoài này, thì cũng vẫn y vậy. Y như sáng hôm nay,<br />
trời đã sang xuân được mấy bữa, mà tuyết vẫn ... rơi. Rơi hoài.<br />
120
tháng tư,<br />
tháng thầm<br />
...<br />
Ờ thì tôi muốn viết một điều gì đó cho em, khi tháng tư<br />
đang lật bật sắp hết và những hàng phố quanh đây<br />
121
đang háo hức bày bàn ghế ra vỉa hè. Rồi thì trên trời<br />
những đám mây xám thôi không còn dậm dật những hột<br />
tuyết cuối mùa. Hoa xuyên tuyết đã rút ngược vào lòng<br />
đất và những đóa uất-kim-hương nở sớm, bụ bẫm như<br />
gò má bầy con nít sỗ sữa. Rồi thì những tia nắng sẽ dài<br />
hơn, trong trẻo hơn và nồng nàn hơn trên những lọn tóc<br />
thả rối, nâu sẩm, vàng hoe hay ưng ửng đỏ... Rồi thì<br />
người ta sẽ thi nhau kéo ra đường, phơi trần những cánh<br />
tay, những bờ vai, những thuôn lưng mặc kệ những con<br />
mắt suồng sã... Những cặp tình nhân sẽ ríu rít như chim,<br />
thả lang thang hay ngồi lơ mơ quanh những bàn cà-phê<br />
để nói huyên thiên hay để không nói gì hết. (nói gì nữa<br />
khi người ta đang có nhau trong mắt trong tay và nhất là<br />
trong tấm lòng đang vui như mở hội )... Chiều qua tôi đã<br />
thấy cặp bồ câu trắng trở về đậu lại trên nóc nhà thờ đỏ<br />
ở cuối con dốc có hàng cây bạch dương đang nhú lá<br />
xanh non, phải là cặp bồ câu từ năm trước hay chỉ là một<br />
lứa đôi mới bạn bầy, rủ rỉ rỉa lông rỉa cánh cho nhau, như<br />
xuýt xoa lắm về cái mùa đông vừa hậm hực bỏ đi...<br />
Vậy thì còn điều gì để nói về cái tháng tư sắp sửa đi qua,<br />
khi lòng tôi lại cứ loay hoay với những hồi tưởng buồn<br />
bã...<br />
Ờ thì có nhiều điều muốn nói, rất nhiều điều, dù tôi biết<br />
có nói triệu điều cũng không thay đổi được gì nữa......<br />
(dù từ đầu xuân năm ngoái, trong cái chộn rộn của trời<br />
đất chuyển mùa, tôi đã hứa với em, như hứa với chính<br />
tôi, sẽ rất biết điều với mọi sự đổi thay )<br />
122
Vậy là tôi lại lần nữa thất hứa với em. Thì thôi có hề gì<br />
những lời hứa đâu em. Như chính cái tháng tư và những<br />
bội phản của nó.<br />
30-4-1975/ 30-4-2004<br />
hai mươi chín năm.<br />
Buổi sáng tháng tư này, sao bỗng nhiên tôi phát giận vu<br />
vơ. Ở bên kia đường, chỗ có một góc công viên nhỏ,<br />
những người làm vườn của thị xả đang hốt dọn rác rưới,<br />
gom quét lá mục, cắt tỉa nhánh khô, sửa sang mấy sợi<br />
giây đu cầu tuột. Họ làm một cách nhẩn nha, chậm rãi,<br />
vừa làm vừa hút thuốc, lơ đãng đến độ mấy con sóc nhỏ<br />
cũng chẳng thèm để ý tới, cứ thập thò nhảy nhót ra vào<br />
mấy lùm cây vạn niên thanh. Không khí gây gây mùi<br />
tuyết tan, lẫn trong mùi cỏ chết, mùi đất cũ dậy hơi ủ<br />
mốc lâu ngày cộng thêm mùi nhựa non hơ hớ như cứ<br />
chực trào ra khỏi kẽ lá. Vậy mà tôi phát giận vu vơ. Vu vơ<br />
đến nỗi không hẵn là cơn giận. Dường như là một nỗi<br />
cay đắng thì đúng hơn.<br />
Đêm hôm trước tôi mới nói chuyện với người anh ruột<br />
đã gần 70, nguyên là môt sĩ quan của quân đội miền<br />
nam, đã chiến đấu như một chiến-sĩ, tù tội như một kẻsĩ,<br />
và gần hai mươi năm nay, trên phần đất chạy chết<br />
ông đã sống như một nhà tu cấm phòng. Mọi thở than,<br />
trách móc, đổ thừa, biện giải, phân bua, đều không cần<br />
123
thiết... Trong đêm, ở bên kia đường giây viễn liên, ông đã<br />
đọc cho tôi nghe mấy câu thơ của Alfred de Vigny, giọng<br />
đã thầm nhưng tiếng còn đãi trọng từng chữ.<br />
À voir ce que l'on fait sur terre et ce qu'on laisse<br />
Seul le silence est grand; et tout le reste est faiblesse<br />
Seul le silence est grand. Chỉ có sự im lặng là lớn lao.<br />
Thì chính vì cái IM LẶNG LỚN đó, buổi sáng tháng tư<br />
này, tự nhiên tôi thấy mình bèo bọt đến phát giận.<br />
Không, chua xót thì đúng hơn. Anh em tôi, bạn bè tôi,<br />
những con chốt sang hà của cái bàn cờ thí.<br />
Tôi sẽ nói gì thêm với em, buổi sáng tháng tư này, trời<br />
xanh cao trong vút, chim chóc tung hê cánh lượn, cây cối<br />
hoa lá tung hê nhựa sống, đường phố quét dọn sạch<br />
trưng... và tôi, tôi thì thúc thủ như một tên du thủ hết<br />
thời ( đã có lúc tôi thèm hết sức được đập phá tung hê<br />
hoặc ít nữa được bắt chước một nhân vật của Kim Dung<br />
để ngửa mặt lên trời mà xắn xả ... lão-tặc-thiên ! ) Nhưng<br />
để làm gì em hả, những lời than van, cầu khẩn hay<br />
nguyền rủa...<br />
Có còn lại không, sau hết, cũng chỉ là tiếng kêu thống<br />
thiết trong cái im ỉm bí ẩn của kiếp người.<br />
Tôi sẽ nói gì thêm với em sau buổi nói chuyện sáng hôm<br />
nay với người bạn viết văn ở một thành phố nhỏ bên rìa<br />
Nữu ước. Từ nhiều năm nay, ở xứ người, ngay trong sự<br />
hạn chế đến tội nghiệp của sinh hoạt nghệ thuật lưu<br />
124
vong, anh vẫn tiếp tục xông pha giữa trường văn như<br />
con ngựa chứng của thời tuổi trẻ xông pha giữa trận<br />
mạc. Viết văn, làm thơ, in ấn... mặc kệ vó câu đã có triệu<br />
chứng chùn mỏi của một con ngựa già ở cuối những<br />
dặm hành. Mặc kệ cái đời sống cùn mằn quanh quẩn,<br />
ngày đêm sớm tối giữa phố xá ì ầm và tiếng đời ì xèo,<br />
giữa những tranh sống ti tiện và những tranh cãi chí<br />
chóe, anh vẫn cưởi hồn-thiên-lý-mã... Sao sáng hôm nay<br />
tự dưng tôi nghe ra đằng sau giọng cười khinh bạc đó,<br />
một chút gì đó, não nề. Tại có sự trùng hợp bất ngờ của<br />
ngày tháng ? Tại tôi tưởng đã quên mà vẫn nhớ ? Hay tại<br />
cái hình ảnh so sánh tình cờ mà sao hiện thực quá đổi?<br />
Ờ thì những con ngựa ! Những con ngựa đã tung vó câu<br />
mãi miết qua cánh đồng thanh xuân mình, bất kể. Những<br />
con ngựa đã nám mình qua vòng gai lửa, đã phỏng<br />
móng trên những bãi chiến ngút khói, đã bị tròng xiềng<br />
xích trong những chuồng giam hôi thối ...và đã hơn một<br />
lần, hất tung hai vó lên trời hí tiếng oan khiên.<br />
Em thấy không, còn cái hình ảnh nào bi tráng hơn, để<br />
nói về những người anh của tôi, những người bạn của<br />
tôi, trang lứa tôi trong buổi sáng tháng tư này ?<br />
Ở trong tận cùng niềm im lặng lớn đó, em có nghe<br />
chăng tiếng hí thảm thiết của bầy ngựa Hồ mỗi kỳ cơn<br />
bấc thổi.<br />
29 năm. Thời gian đã đủ lâu để xếp lại một trang sử, dù<br />
đó là trang oan ức nhất của suốt dòng lệ sử. Người ta đã<br />
kể với tôi về những mồ mã bị đào xới, những thương<br />
phế bị bạc đãi và hàng triệu điều oan ức khác, ở đó.<br />
125
Những chuyện nghe ra chỉ biết ngậm ngùi về giá trị của<br />
một chiến thắng !<br />
Ở đây, người ta đã kể, đã viết, đã phân tích, đã giải bày...<br />
chiến lược chiến thuật chính trị xả hội ... đủ thứ bởi-tạivì....<br />
Có triệu điều đã nói... nhưng có điều nào nói đến<br />
chưa cái niềm-im-lặng-trầm-thống của bầy ngựa già thất<br />
tán đang phóng mình vào những dặm chót của cuộc lữ<br />
đoạn trường.<br />
Ở đằng sau những vinh quang và tủi nhục, ở đằng sau<br />
những cái chết và những phế tật, ở đằng sau những con<br />
số thống kê cộng trừ nhân chia... còn bao nhiêu điều<br />
không đếm được. Sẽ không bao giờ đếm được những<br />
vết thương chưa từng chảy máu, những vết thương tâm<br />
linh còn đó, đã không lành.<br />
Những người lính Mỹ, sau hai cuộc chiến ngắn hạn ở<br />
vùng vịnh, trở về nước với vòng hoa chiến thắng đã hô<br />
hoán lên về những cơn ác-mộng-hậu-chiến. Thử nghĩ<br />
đến những người lính đã chiến đấu đến già đời trong<br />
một cuộc chiến nhùn nhằn, năm này sang năm khác, mọi<br />
phản ứng tâm sinh lý đã bị chiến-tranh-điều-kiện-hóa...<br />
cộng thêm với thời gian tù đày không bản án trong<br />
những trại giam khổ sai... cộng thêm cuộc sống vất<br />
vưởng khi trở về lại trong một xả hội đã đổi chủ... cộng<br />
thêm sự ngỡ ngàng khi tìm sang đất mới lúc tuổi đời<br />
không còn trẻ nữa, sức lực trí óc đã tàn phai. Thử nghĩ<br />
đến... thử nghĩ đến...<br />
126
Trong tác phẩm Exodus của Léon Uris, có một nhân vật...<br />
thằng bé Do Thái gốc Ba Lan lẩn trốn một mình dưới<br />
những cống rảnh của thành phố Varsovie sau khi chứng<br />
kiến tận mắt cảnh toàn thể cha mẹ anh em thân quyến<br />
bị bắt và đưa vào lò thiêu... một mình, mười mấy tuổi,<br />
đói, rét, xanh xao, gầy gò, lẩn lút như một con chuột ban<br />
ngày chui rúc trong những lỗ hang ẩm ướt hôi thối, ban<br />
đêm ló ra lục lọi thức ăn trên những bãi rác mênh mông<br />
của thành phố... vậy đó suốt cuộc chiếm đóng dằng<br />
dặc... bao nhiêu ngày ? bao nhiêu đêm?... rồi nó được<br />
giải cứu... khỏi cái nhà ngục kẻm gai và hầm hố nhưng<br />
không khỏi cái nhà ngục tâm linh. Nó mắc một chứng<br />
bệnh lạ... bệnh buồn. Mọi cố gắng chữa trị ( sinh lý, tâm<br />
lý ) đều vô hiệu... Bệnh buồn. Càng lúc nó càng chìm sâu<br />
vào một nỗi buồn kỳ lạ... Nỗi buồn như một rào chắn vô<br />
hình ngăn cách nó với thế giới chung quanh. Tệ hơn nữa,<br />
nó chỉ thấy an bình trong cái cõi quạnh hiu của riêng<br />
nó... Bệnh buồn.<br />
Tôi đã gặp những người lính già, buổi sáng buổi trưa<br />
buổi chiều buổi tối nơi những quán cà-phê lề đường,<br />
đâu đó giữa một góc phố lạ, ngồi một mình hay năm<br />
bảy, lơ đãng ngó trời đất hay chuyện trò nọ kia... mà làm<br />
gì đi nữa, từ trong con mắt lạc thần, vẫn còn nguyên<br />
đó... một nỗi buồn.<br />
Tôi đã gặp những người lính già, ban ngày thở dốc lê lết<br />
trong những xưởng thợ ám bụi, ban đêm gò mình trên<br />
127
những phiếm chữ gỏ lốc cốc những hoài niệm những<br />
vọng tưởng những thê thiết cũ những tha thiết mới... để<br />
gởi đi... gởi đi đâu...<br />
Buổi sáng tháng tư này em, những sợi giây tơ giữa lòng<br />
tôi bỗng chùng điệu oán.<br />
Không phải ai cũng muốn mang lấy cho mình nghiệp<br />
chướng. 29 năm chừng đủ chưa sau khi đã tự nhận lấy<br />
phần trách nhiệm của mình trong cơn đọa lạc chung. Imlặng<br />
hay lên-tiếng-ngay-thật cũng chỉ là sự chọn lựa<br />
cuối cùng rất trân trọng của kẻ sĩ trầm luân. Có điều<br />
đáng nói là giữa cái thế giới thờ ơ đến lạnh tanh đây đó,<br />
mọi sự xem như đã an bày đến đáng ghét. Những ngày<br />
những đêm đối lòng diện bích hay trải lòng nhỏ máu ra<br />
năm đầu ngón tay, anh em tôi bạn bè tôi càng lúc càng<br />
thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câm nín thì đã đành. Mà<br />
lên tiếng rồi cũng chỉ như nói giữa thinh không. Đã có<br />
mấy ai chạnh lòng thấm khô cho những giòng hãn mã.<br />
Ta sống sót nghĩ thương trời đất rộng. Giữa triều lên,<br />
giáp nước, quạnh hiu dầy. Ngó quanh quất, bỗng tuôn<br />
hàng lệ mỏng. Còn ai không, ngồi nhắc chuyện thề phai.<br />
Thật ra tôi có muốn làm buồn lây em đâu, em và cái tuổi<br />
lưng chừng, gạch nối giữa đám trẻ lớn lên thành đạt ở xứ<br />
người, xa lạ với chính cội nguồn của họ. Và đám cha chú<br />
đã đánh mất tuổi trẻ ở xứ mình, lại quá quen thuộc với<br />
những gì đã bỏ lại.<br />
128
Nhưng ít ra, ít ra em cũng có nghe được tiếng vó câu<br />
buồn bã đó, phải không?<br />
Thì cũng xin cám ơn em, buổi sáng tháng tư này.<br />
Hãy phóng nước đại tiếp đi những con chiến mã bất<br />
kham, mặc kệ cái nẻo hư vô chờn vờn trước mặt.<br />
30-4-1975<br />
30-4-2004…<br />
... 30-4-2008<br />
… thêm năm ba năm nữa…<br />
rồi bao nhiêu năm nữa…<br />
vẫn đi về<br />
lừng lững<br />
những chiếc bóng lẻ loi…<br />
............................................<br />
............................................<br />
... 30-4-2016.......................<br />
?????????<br />
!!!!!!!!!!!!<br />
...30-4-2017<br />
30-4-2018 .........<br />
?<br />
129
tháng năm<br />
ở Cali...<br />
Khi tôi tới Cali lần này mùa xuân đang hồi diễm lệ. Con<br />
đường One-O-One (gọi theo người ở đây) ngược lên<br />
hướng bắc chạy vắt qua những đồi cỏ mượt, leo những<br />
đoạn đèo loáng thoáng sương mù như thứ hơi thở váng<br />
vất của tình nhân đánh thức nhau buổi sớm. Cảnh vật<br />
lãng đãng màu tranh thủy mặc. Người qua đó lòng cũng<br />
130
nhẹ bâng. Ngày lên hay ngày xuống mà đời bỗng thôi<br />
huyên náo. Thử nghĩ trên một chót đỉnh cô phong, một<br />
cội tùng đã cỗi... Dưới xa những lũng thấp mở ra, ăm ấp<br />
lượng bao dung... Khí trời thong dong làm nhớ đến giấc<br />
mơ Tăng Nghi và lòng ràn rụa mối thâm ân trời đất.<br />
Những cơn mưa dầm của mùa-đông-mới-đó đã thay<br />
hẵn bộ mặt rám vàng của Cali trong trí tưởng. Mùa này,<br />
cây cỏ hoa lá mặc tình. Mùa này, phố xá đông vui.<br />
Ðất đai, phong thổ Cali hẵn đãi người rất hậu. Người Việt<br />
tụ về đó từ một ngẫu nhiên giờ an bài thành định mệnh.<br />
30 năm ăn nên làm ra, chợ búa phố xá mới tinh, hàng<br />
quán nhộn nhịp, xe cộ bóng lộn và người, người ngơ<br />
ngác từ cơn thất tán, người xác xơ từ cuộc bại vong, ra<br />
vô đi lại, hân hoan tự tín và tươi rói ... như vốn sanh ra và<br />
lớn lên trên một vùng đất chưa từng có thống khổ. 30<br />
năm kể ra đủ dài cho một cuộc sống yên phận thủ<br />
thường nhưng lại quá ngắn cho một cuộc đổi đời toàn<br />
diện. Lấy 30 năm làm thước đo cho đời một người bỏ<br />
chạy làm dân mất nước và một người chọn (bị) ở lại làm<br />
chủ (?) một đất nước có đầy đủ chủ quyền, đủ đề thấy sự<br />
dằng co ý thức hệ còn tới bây giờ ở đó là một hành<br />
động vừa bất trí vừa bất nhân. Sự thật đã rành rành ra<br />
đó. Cái khung chính trị để phát triển toàn diện đất nước<br />
và con người chỉ có thể là ý thức tự do chân chính. Mọi<br />
thứ giải thích lập lờ cong quẹo chỉ là ngụy biện. Và còn<br />
là một tội ác đối với nhân loại vì đã cố tình dìm chết mọi<br />
toan tính làm-người với đầy đủ phẩm tính con người.<br />
131
Ba mươi năm rồi, sự phồn vinh ở đây và ở đó cũng đã<br />
được thống kê bằng những con số. Tuy nhiên còn một<br />
thứ phồn vinh không thể cộng trừ nhơn chia, đó là thứ<br />
hạnh phúc hồn nhiên trong cái nhìn thẳng hay tiếng cười<br />
dòn, biểu hiện cho một đời sống an lành, sung mãn và<br />
tự tin vào dự phóng tương lai. Người Việt phồn vinh ở<br />
Cali khác người Việt phồn vinh (?) ở Việt Nam chính là ở<br />
chỗ đó. 30 năm đã chứng tỏ sự thật và dối trá cách biệt<br />
nhau như cái biển Thái Bình mênh mông nằm ở giữa.<br />
Mùa xuân này tôi đến Cali khi tháng tư vừa qua được<br />
mấy ngày. Trời Cali trong xanh, giữa trưa vàng hoe nắng,<br />
y như quê tôi những ngày trở hạ. Lòng thấy vui như về<br />
lại chỗ thân quen. Ghé chợ Bolsa, vào những hàng quà<br />
vặt, uống lại ly nước mía ngọt xớt, nhắp miếng bánh khọt<br />
béo ngậy, gọi tô phở với dĩa rau xanh mướt xum xuê và<br />
nhất là những lá rau cần gai cứ làm nhớ tô phở Hiền<br />
Vương những ngày sinh viên ăn phở thay cơm, húp chén<br />
nước xúp hủ tiếu Mỹ Tho dậy mùi tôm khô y như hủ tiếu<br />
lề đường Chợ Cũ những sớm mai ngai ngái mùi lá me<br />
mới rụng... Bỗng dưng thấy quê hương đầy mùi vị làm<br />
cảm động đến tần ngần.<br />
30 năm dựng lại góc quê nhà giữa một vùng đất trời lạ<br />
lẫm phải kể là một kỳ tích. Dù hàng cọ không lả lả ngọn<br />
như hàng dừa, dù bông magnolia không phơ phất như<br />
bông trang, dù kiến trúc phải thích ứng vào điều kiện<br />
phong thổ ... vẫn là một chỗ để đi đi về về của hàng<br />
triệu người Việt tha hương. Bởi vì thật ra nhà cửa phố xá<br />
132
chỉ là mặt nổi mà tâm thức Việt Nam mới chính là nỗi<br />
lòng.<br />
Little Saigon.<br />
Ðứng giữa Sài-gòn-nhỏ một buổi trưa tháng năm, bỗng<br />
giựt mình đến bàng hoàng nghe ra tiếng người gọi nhau<br />
rôm rả, rặt giọng lục tỉnh, trơn trớt một chút ngọng<br />
nghịu cứ y như buổi trưa nào đứng ăn đậu đỏ bánh lọt<br />
góc phía nam chợ Bến Thành, chỗ con đường Lê Thánh<br />
Tôn chạy qua. Chèn-ơi-đi-đâu-mà-như-ma-bắt-ông-vãidzậy-chị-năm-làm-tui-theo-muốn-hụt-hơi-hà.<br />
Ngoảnh<br />
lại, hai người đàn bà quần (lãnh?) đen bóng mướt, áo bà<br />
ba vải bông, và trên đầu, trên đầu... là hai cái nón-lá che<br />
khuất mặt vừa gọi nhau ơi ới vừa kéo nhau đi vội qua ...<br />
quá vội làm tôi không kịp nhìn rõ dưới chân có phải là<br />
hai đôi guốc dông... ?<br />
Ôi... Nắng Cali bỗng dưng mà chợt mát<br />
Bởi vì ai đội nón lá nghiêng nghiêng (1)<br />
Người Việt đến ở đâu cũng mang theo cái lối đi đỏng<br />
đảnh, cái lối nói xắn xả mà thân mật, cách giao tế lề mề<br />
nhưng ấm cúng... cùng với mớ hành ngò tỏi ớt húng lũi<br />
húng thơm tô phở chén cháo hội hè đình đám... nhưng<br />
chưa ở đâu bằng ở đây, với số lượng người đông đảo đã<br />
làm dậy lên được một thứ hơi hướm rặt Việt Nam. Ðứng<br />
ở đó, giữa trưa tháng năm Cali, thấy lại Việt Nam, lòng<br />
vui rồi chợt buồn khang.<br />
Trong một thoáng có ngón tay nào khều nhẹ vào miệng<br />
vết thương tưởng đã lành. Và bỗng chốc cái tháng tư<br />
vừa mới qua như muốn quày trở lại. Quày trở lại trên<br />
133
hàng lá cờ vàng ba sọc đỏ treo đầy hai bên những con<br />
đường chính. Người ở đây vừa mới kỷ niệm quốc hận<br />
ngày 30 tháng 4 tuần trước. Lễ lạc xong rồi. Một chút<br />
ngậm ngùi gói cất lại đợi năm sau. Những năm sau... và<br />
còn bao nhiêu năm sau nữa. Người ta phải trở lại với<br />
công ăn việc làm, bón mớm gia đình, chăm chút người<br />
yêu... Chỉ còn hàng cờ vàng bay lất phất trong gió trở<br />
chiều đã bắt đầu thấm lạnh.<br />
Vâng, thì cũng chỉ còn là những lá cờ kỷ niệm. Mà kỷ<br />
niệm nào thì không buồn nhất là thứ kỷ niệm dính đầy<br />
xương và máu. Máu của bạn và thù. Máu của niềm tin và<br />
của bội phản.<br />
Ban nãy, lần đầu tôi được viếng khu tượng đài chiến sĩ ở<br />
một góc phố Westminster..... Hai bức tượng đồng cao<br />
ngút, đường dao khắc tạc sắc lẻm, dựng thẳng đứng trên<br />
bệ cao như hai cổ tháp đen từ một bình yên phẳng nhoi<br />
lên xé toạt cái góc trời xanh ngát trong mắt người nhìn.<br />
Trưa im im. Tượng thì lừng lững bất động. Hai lá cờ thì<br />
cứ phần phật theo gió động đậy không ngừng. Sự đối<br />
nghịch hổ tương của hai thế "động" và "tĩnh" phá vở cái<br />
bố cục rất cân bằng của toàn cảnh để từ đó thoát đi cái<br />
hơi trầm uất của một giai đoạn lịch sử gần như muốn bị<br />
bỏ quên. Ngưởng mặt nhìn lên, hai bức tượng lung linh<br />
đằng sau ngọn lửa thiêng vẫn đang tiếp tục cháy trong<br />
chiếc đỉnh đồng kê chính giữa vọng đài bán nguyệt. Cả<br />
hai người lính trẻ, một Việt một Mỹ, dáng hăm hở quyết<br />
tâm, ngực ưởn như thách đố. Cả hai, trông thế đứng<br />
ngửa mặt, vai ngang, hai cặp mắt đăm đăm cùng nhìn về<br />
một hướng biểu lộ một sự đồng tình tuyệt hảo. Cả hai,<br />
134
mỗi người từ vị trí chiến đấu ở cấp thấp nhất của mình<br />
trong cuộc chiến thực sự 30 năm trước chắc cũng đã<br />
thực tâm nghĩ vậy về ý nghĩa keo sơn của tình liên kết<br />
minh thệ.<br />
Nhưng cuối cùng, lịch sử đã diễn ra trái hẵn với những lời<br />
rao giảng.<br />
Sau khi có gần sáu mươi ngàn quân lính tử trận, người<br />
Mỹ tìm mọi cách để rút chân ra khỏi cái mà họ gọi là<br />
vũng-lầy-việt-nam. Bằng mọi cách kể cả cách bán đứng<br />
những người lính đã từng cùng họ chiến đấu cho cái lý<br />
tưởng (!) mà cho tới giờ này họ vẫn còn tiếp tục tự nhận<br />
cái sứ mệnh đem truyền bá khắp nơi. Và bằng bất cứ lý<br />
do nào khi họ trả mọi giá nuôi dưởng cuộc chiến tranh<br />
đó (kể cả lý do VN chỉ là cái cớ để những đại cường<br />
thương thảo cho một cuộc xích lại gần nhau... ) thì lời<br />
nhận định sau đây của nhà văn Phan Nhật Nam trong<br />
bài viết " Ðồng Minh "không" tháo chạy" đăng trong Hợp<br />
Lưu số tân niên Bính Tuất phải kể là ráo cùng tình lý của<br />
hai chữ "đồng minh" ".... mối tương quan liên hệ giữa hai<br />
quốc gia bị so kè từng đồng bạc một. Việc so sánh 300<br />
triệu quân viện bổ sung của tháng 3, tháng 4/ 1975 đối<br />
với tồn tại của một quốc gia từng gọi là đồng minh với<br />
giá máu 58.000 mạng sống binh sĩ Mỹ ( và bao nhiêu<br />
mạng sống của người lính miền Nam? và dân miền Nam<br />
? * lời người viết thêm vào ) trong mười lăm năm chiến<br />
trận mang hình thức một lời nguyền rủa tàn tệ mà lịch sử<br />
hôm nay phải nhìn lại với mối trách cứ ngậm ngùi..."<br />
135
Ðứng ở đó, trưa tháng năm, dưới tượng đài hai người<br />
lính chết trận vô danh, ở một nơi cách biệt chiến trường<br />
cũ dài hơn độ dài của quên lãng, khi mùa xuân đang ở<br />
hồi diễm lệ, tôi tự hỏi sự hy sinh của họ (trong cái nghĩa<br />
chất phát nhất của hai chữ hy sinh) có ý nghĩa gì không...<br />
... khi mà cũng trong tháng năm này, tin tức về chuyến<br />
viếng thăm VN của nhà tỷ phú Bill Gate được đưa lên<br />
trang đầu của những tờ báo ở đó kể cả những tờ báo<br />
đang thúc giục cả nước tiến nhanh tiến mạnh lên xhch<br />
... cũng trong tháng năm, những chuyến đi đi về về từ Hà<br />
Nội qua Washington để tìm sự ủng hộ của Hoa Kỳ trong<br />
việc xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới của VN<br />
... vẫn trong tháng năm, có tin ông bộ trưởng quốc<br />
phòng Mỹ sẽ chính thức viếng thăm VN<br />
...<br />
...<br />
Giả sử như không có cuộc chiến tranh đó, mọi sự có<br />
tuần tự diển ra như thế đó không ?<br />
Giả sử như không có cuộc phản bội đó, có một Little<br />
Saigon khang trang và là niềm kiêu hảnh cho người dân<br />
Việt lưu vong không ?<br />
Và có cần không, niềm kiêu hảnh đó ?<br />
136
tháng bảy,<br />
và những ngôi<br />
trường cũ ...<br />
Tháng bảy. Tháng của bất chợt mưa đêm và lao chao<br />
cánh phượng. Tháng của trường đóng cửa và bàn ghế<br />
bỏ trống.<br />
Tháng bảy. Tháng của râm ran tiếng ve đến sốt ruột và<br />
của những trang lưu bút viết vội khi đầu óc còn bàng<br />
137
hoàng vì dư âm của khúc nhạc tạm biệt, bây giờ nghe ra<br />
ngu ngơ mà hồi đó sao xao xuyến chi lạ. Hôm nay đây<br />
còn vui trông thấy nhau. Bên tiếng ca tiếng đàn vượt trời<br />
cao...<br />
Không đâu mà bỗng dưng nhớ lại. Những mùa bãi<br />
trường tháng bảy... của một thời đã xa và ở một chỗ<br />
không còn gần nữa.<br />
Mới cuối tháng sáu, sách vở đã bị bỏ quên sau kỳ thi đệ<br />
nhị lục cá nguyệt mới vừa xong. Thầy cô còn lo chấm bài<br />
thì học trò không hẹn mà đã bắt đầu lơ là với chuyện<br />
học hành. Mà làm sao không lơ là cho được. Học trò còn<br />
bận bịu trăm ngàn chuyện khác, còn quan trọng và thiết<br />
thực hơn biết mấy cái mớ định lý với luận đề cùng những<br />
niên biểu với triều đại xa xôi như mấy cái cố sự mịt mù.<br />
Phải rồi ai mà dửng dưng cho được, khi trên trời xanh thì<br />
mây trắng cứ đong đưa, nắng thì cứ vàng hoe, ve sầu cứ<br />
kêu ra rả và lòng người ta thì chộn rộn như cái nắp vung<br />
đậy nồi xào bần ba ngày tết bị chụm lửa quá độ. Người<br />
ta đã bị o ép chín tháng trời mệt lả. Toán, lý hoá, văn<br />
chương, sử ký, địa lý... toàn là thứ cũ mèm khô hóc trong<br />
khi mấy cái món tươi roi rói kia thì cứ bị cấm đoán rầy la.<br />
Này mắt em-chưa-quen-đã-nhớ ngoài cửa lớp, này<br />
bóng anh-nhẳn-mặt-còn-lạ lấp ló cuối hành lang, này tờ<br />
thư làm bộ bỏ quên trong quyển sách mới-mượn-chiềuqua-đã-trả-lại-sáng-nay...<br />
- học trò còn mắc mớ với bao<br />
nhiêu là bận-bịu-chẳng-ai-xúi-biểu của cái thuở vậy-đóbỗng-nhiên-mà-họ-lớn...<br />
138
Tháng bảy là những ngày dài rong chơi, phố gần, chợ xa,<br />
vườn rẫy, núi non, sông nước... những góc vắng tụ năm<br />
tụ ba chia lén điếu thuốc đầu đời, những tối long nhong<br />
đạp xe qua nhà ai mắt cứ liếc ngang liếc dọc, có thấy gì<br />
được đâu họa may một cái bóng vô tình mà cũng về hí<br />
ha hí hửng chép thơ-nguyên-sa-gặp-một-bữa-anhmừng-một-bữa...<br />
Tháng bảy. Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết. Ðàn<br />
chim non hớn hở rủ nhau về. Chín mươi ngày nhảy nhót<br />
ở đồng quê. Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.(*)<br />
Cái mùa bãi trường tháng bảy... cái mùa xuân lộn chỗ đã<br />
làm hơn một kẻ luyến lưu... Có người còn coi đó là<br />
những kỷ niệm đẹp nhất của một đời người.<br />
Vậy mà rồi mất hết khi người ta phải bỏ đi, một ngày<br />
nào đó. Ở chỗ xa, không có phượng đỏ làm sao còn thấy<br />
rơi xuống lòng ta những giọt châu. Không có bạn bè làm<br />
sao mà yêu dấu. Không có tiếng trống thùng thình làm<br />
sao mà bồi hồi. Và nhất là không có ngôi trường cũ nóc<br />
dột đã mấy đời, những gốc me gốc còng cỗi đến không<br />
còn đếm được tuổi, những xe bánh lọt đậu đỏ ngọt<br />
ngây, những rổ cốc rổ ổi chua lét, và những mái tóc và<br />
những đôi mắt... thôi đã mờ như trầm tích, lấy gì mưa<br />
xuống cho những linh hồn đã khô...<br />
Vậy mà rồi mất hết... Người ta buồn bã bỏ đi. Mười năm.<br />
Mười lăm hai mươi năm. Buồn bã sống như loài ốc<br />
không hồn, bò lết trên những nhánh đời thất lạc...<br />
139
Từ vài năm nay, tháng bảy ở Mỹ châu, ở Âu châu, ở một<br />
thành phố xa lắc tuốt bên Úc, ở một thị trấn lưng chừng<br />
đâu đây, bỗng nghe một ngày họp mặt, một buổi gặp<br />
gỡ của những người tưởng đâu đã biệt tích, ngờ đâu đã<br />
trầm luân... Rồi bỗng trở về, bàng hoàng như từ cõi trăm<br />
năm... Họ gặp lại nhau, đuôi mắt đã đầy dấu chân chim,<br />
đầu tóc đã bào hao sương tuyết... Họ níu tay, vỗ vai, cười<br />
ha hả hay khóc sụt sùi. Họ ôm chầm lấy nhau, ngỡ<br />
ngàng ngó lại quá khứ mình, rưng rưng thấy lại tuổi trẻ<br />
mình... cái quá khứ cái tuổi trẻ đã chìm khuất theo quê<br />
hương biết bao nhiêu thương nhớ mà cũng biết bao<br />
nhiêu ruồng rẫy. Họ cười nói, chuyện trò, uống chung<br />
nhau ly rượu, ăn ké nửa miếng bánh như thuở còn sẻ<br />
nhau góc tư góc tám những sợi-tóc-cứ-vương-vướngchân-người.<br />
Em kể cùng ta những dặm đường. Những hồi ly biệt, nỗi<br />
tang thương. Những sông suối cạn, cồn quạnh quẽ.<br />
Những núi tang thương, biển đoạn trường.<br />
Chép lại một đoạn đã viết về một lần họp mặt đó.<br />
Vậy đó, mỗi người đều có một ngôi trường cũ tưởng khi<br />
vội vã ra đi đã bỏ sót lại. Tưởng đâu người ta đã cướp<br />
mất luôn cái nơi chốn thân yêu sau khi đã đuổi mình đi<br />
tan tác. Nhưng không, ngôi trường cũ của em đã không<br />
bị cướp mất mà còn được nhân lên mấy lần nhiều hơn<br />
nữa. Bởi vì cái xác trường thì còn kẹt lại đó, chớ cái hồn<br />
trường thì đã theo em và bạn bè đi lưu lạc tứ phương.<br />
140
Bằng chứng là lâu lâu lại nghe tin buổi hợp mặt học trò<br />
trường Nguyễn Trung Trực ở chổ này, mai mốt lại nghe<br />
hợp mặt ở chổ khác. Hóa ra cái trường Nguyễn Trung<br />
Trực đâu còn ở tận cái thị xả xa xôi đó nữa. Nó ở ngay<br />
đây, kề bên em đó. Nó ở giữa phố phường đông đúc<br />
vùng vịnh biển phía tây nước Mỹ, nó cũng ở tại vùng đồi<br />
núi cheo leo phía đông. Nó nằm trên vùng cực bắc lạnh<br />
lẽo mà nó cũng có giữa đồng cỏ miền trung tây mênh<br />
mông. Nó có ở châu Âu mà cũng có tuốt bên châu Úc.<br />
Nó đã hóa thân thành muôn vạn tấm lòng rải ra khắp<br />
cùng mặt đất. Ðến đổi chừng như nơi nào có đôi ba học<br />
trò cũ là có trường mới dựng lên, hồn nhiên và thành<br />
khẩn. Những người học trò cũ đã chắt chiu mang theo<br />
từng mảng vụn để rồi dựng lại thành những ngôi trường<br />
mới, những nơi chốn mới để cùng trở lại hành hương. Ở<br />
đó em gặp lại đủ hết, thầy cô cũ, bạn bè cũ. Có thể còn<br />
thiếu sót một số người. Nhưng có sao đâu em, họ đến<br />
trễ đó thôi, vẫn còn chổ để dành riêng cho họ. Ở đó em<br />
sẽ thở lại chút hương thời tuổi dại. Em sẽ thấy lại từng<br />
mặt người quen, dù sơ hay thân vẫn là cái tình người<br />
nồng ấm, cái tình người mà tôi chắc nếu em có bỏ công<br />
lặn lội ngàn ngàn cây số để trở về, đứng lại giữa khung<br />
lớp cũ em cũng không còn tìm thấy được nữa. Người ta<br />
đã thiêu hũy nó lâu rồi. Cái tinh thần tôn sư trọng đạo,<br />
cái ý chí của bậc đại nghĩa mà trường mang tên đâu còn<br />
chỗ ở đó nữa. Tên tuổi đó bây giờ chỉ là sự ngụy trá chớ<br />
còn hồn thiêng cũng đã phưởng phất theo bầy con cháu<br />
tha phương. Chính những ngôi trường mới mà đám học<br />
trò cũ bằng tinh thần xưa gầy dựng lên ở đâu đây, một<br />
141
hôm nào đó mới là cái nối tiếp liền lạc của nếp văn hóa<br />
đã thành truyền thống, mà chúng ta còn hảnh diện<br />
mang tên. Tôi vẫn tin rằng, ở nơi chốn cũ, bạn bè và thầy<br />
cô, những người đã mang chung cùng em kỷ niệm, dù<br />
có lao đao lận đận vẫn gởi lòng sang trong những buổi<br />
hợp mặt này. Tôi tin em cũng không quên họ. Em đến<br />
để gặp lại những người có mặt. Mà em cũng đến để gặp<br />
lại những người vắng mặt nữa. Phải không? Giữa bàn tay<br />
siết chặt, trong vòng ôm thân ái ở đây làm gì không có<br />
thấp thoáng một dấu vết xa xôi, một lời thăm hỏi ở đây<br />
làm gì không có ngậm ngùi một câu nhắn gởi thầm cho<br />
người còn ở lại đó. Tôi tin vậy lắm bởi vì chung thủy vẫn<br />
là đức tính của người-nguyễn-trung-trực và nghĩa nhân<br />
vẫn là bài học thuộc lòng mà chúng ta vì muốn nhớ nên<br />
đến nỗi phải bỏ đi. Ở ngôi trường mới đó còn bao nhiêu<br />
người em chưa hề thấy mặt nhưng tôi tin rồi em sẽ quen<br />
biết dễ dàng. Ở đó mọi cấp lớp đã bị xóa đi, mọi giờ<br />
khắc sẽ sắp trùng lại. Mọi người chỉ còn một thời dụng<br />
biểu duy nhất. Thực tập cái bài học tình thương bị bỏ dở<br />
nửa chừng. Những anh, những chị, những em sẽ không<br />
còn là những chủng tử lạc loài. Chúng ta đã có cơ may<br />
để nhập lại làm một. Một tấm lòng duy nhất. Chúng ta<br />
may mắn có ngôi trường cũ rộng mênh mông như biển<br />
đủ sức hút về hết mọi nhánh sông con. Giữa lượng biển<br />
hãi hà có giọt nước nào khác với giọt nước nào đâu, phải<br />
không em? Dường như có lần nhà thơ họ Vũ sau khi thấy<br />
hết cảnh núi lở sông bồi đã ngậm ngùi than rằng:"<br />
Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau". Vâng, đúng rồi em,<br />
chúng ta đã mất hết, nước non, tuổi trẻ, danh vọng, tiền<br />
142
tài... Cái chúng ta còn lại chỉ là một tấm lòng son sắt như<br />
chút "của tin" mà Thúy Kiều đã giữ suốt mười lăm năm<br />
đòi đoạn để trân trọng giao lại cho người tình. Ðoạn<br />
trường của chúng ta đã hơn hai mươi lăm năm, chúng ta<br />
còn gì để lại cho trường cũ nếu không là chút tình nghĩa<br />
tặng cho nhau trong cơn thất tán này.<br />
Và cũng chút xíu tình nghĩa đó thôi để mai kia mốt nọ có<br />
lỡ bước trên dặm đường lưu lạc vẫn còn biết có một nơi<br />
mà gởi gắm lòng về.<br />
Ðã đủ chưa để nói về một sinh hoạt mới của đám dân<br />
lưu lạc. Hai mươi lăm năm đã quá thừa cho một câm nín.<br />
Ðã đến lúc để nhắc nhở nhau về một nơi chốn đã bỏ đi,<br />
hâm nóng lại chén đời đã lạnh, mời nhau húp lại chút<br />
cặn thừa rất tình-xưa-nghĩa-cũ. Nhưng mà có gì nồng<br />
nàn và chân thành hơn mớ dây mơ rễ má bắt đầu từ<br />
ngôi trường cũ đó, lúc mà tuổi đời không quá non để<br />
còn khờ khệch mà cũng không quá cằn để đến nỗi chai<br />
lì. Bởi vì phải không, chính ở đó mà chúng ta đã lớn lên,<br />
học hỏi trong yêu thương và tin tưởng sáng lán nhất.<br />
Chính ở đó chúng ta đã có những thầy cô gần gũi và ân<br />
cần đã hé mở cho chúng ta dấu dạng của tương lai. Và<br />
cũng chính ở đó, chúng ta đã có những người bạn mà<br />
chân tình không dễ gì tìm lại được nữa.<br />
Tháng bảy năm nay tôi sẽ đi dự buổi họp mặt thầy cô và<br />
học trò cũ của ngôi trường tôi đã dạy. Chắc tôi sẽ gặp lại<br />
một số người quen biết cũ. Dù thân hay sơ, có thể họ đã<br />
143
già đi nhiều sau những năm lận đận, có thể họ sẽ tươi<br />
tắn hơn nhờ những thành đạt ở đây, tôi không biết tôi sẽ<br />
gặp ai, nhưng điều tôi biết chắc là tôi sẽ gặp lại những<br />
tấm lòng. Những tấm lòng dù nông sâu khác nhau đều<br />
đã được un đúc, nuôi dưỡng bằng chính tinh thần nhân<br />
ái vẫn là nền móng của những ngôi trường trung học cũ<br />
ở miền Nam trước năm 75. Cái tinh thần nhân ái đã chắp<br />
cho họ đôi cánh mỏng, giúp họ bay qua những vòm trời<br />
gió bão, và còn giúp họ bay tìm nhau sau cơn hoạn nạn<br />
chung.<br />
Chúng ta vẫn còn đó, những niềm tin, phải không ?<br />
144
tranh CAO HÀNH KIỆN
Tháng chín ,<br />
mùa thu ,<br />
... ở hai đầu nỗi nhớ<br />
Tháng chín. Tháng của rỉ rả mưa đêm, của lả chả cánh<br />
phượng và hiu hiu mùa chuyển.<br />
Tháng chín. Tháng của líu ríu chim sẻ rủ nhau bỏ đi và<br />
xôn xao học trò rủ rê nhau trở lại.<br />
Tháng chín ... khi lá ngoài đường rụng nhiều và trên<br />
không có những đám mây bàng bạc.<br />
Tháng chín bây giờ, xứ lạ đã thành quen và tháng chín<br />
hồi đó, rất quen mà như chừng đã lạ.<br />
146
Tháng chín ở một thành phố nhỏ, giữa miền Nam nắng<br />
cháy mưa lầy, nơi tôi đã sống lụy như tình nhân và tấm<br />
tức bỏ đi như người bị ruồng rẫy.<br />
Tháng chín ở đó với không biết bao nhiêu là kỷ niệm của<br />
những mùa thu giả tưởng. Phải rồi, làm gì có thu đến thu<br />
đi như mấy bài hát nghêu ngao làm người ta tưởng như<br />
mùa màng cũng theo chân mấy người tình tới tới lui lui<br />
mà thay hình đổi dạng. Thật ra có gì khác lạ đâu ở bên<br />
ngoài lòng người, chỉ là hai mùa mưa nắng. Vậy mà mỗi<br />
lượt nghe ai cất giọng rầu rĩ ... thu đi cho lá vàng rơi ... là<br />
lòng dạ cứ nao nao ... làm như nghe được tiếng chân thu<br />
đang chuyển dịch sẽ sàng. Chắc tại mình quá mơ mộng.<br />
Hay tại vì nhịp mùa có chuyển cũng chuyển từ trong tâm<br />
tưởng. Trời đất thay đổi rất vô tình. Tại mình kiếm<br />
chuyện mới có chuyện. Xứ sở đâu có bốn mùa vẫn cứ cố<br />
bày ra cho được. Trời miền Nam quanh năm suốt tháng<br />
nắng nướng đến dòn da mà cái đầu thì cứ mê muội bày<br />
đặt đủ thứ tứ thời bát tiết. Hết xuân-hồng-ta-muốn-cắn-vàongươi<br />
đến anh-vẫn-thấy-em-ngồi-đây-tóc-ngắn-mà-mùa-thudài-lắm-ở-chung-quanh...<br />
Mình lợi dụng trời đất vào tình<br />
riêng riết rồi lậm lúc nào không hay. Đến nỗi hể nghe<br />
xuân tới là rậm rật hy vọng mà hay tin thu về thì lại đâm<br />
ra buồn ngẩn buồn ngơ.<br />
Truy cho ra nguyên ủy chắc cũng đã xa lăm lắm, đâu từ<br />
đời Đường đời Tống ở bên tàu, có thể gần hơn một chút<br />
thì Lamartine với Chateaubriand ở bên tây. Gần hơn chút<br />
nữa thì cũng cỡ những năm hai mươi khi bà Tương Phố<br />
viết Giọt lệ thu buồn đến ngất ngư làm cái đám sinh sau<br />
147
đẻ muộn lỡ thuộc nằm lòng rồi cũng đâm ra sầu thu đến<br />
chảy nước mắt, từ đó. Ai biểu.<br />
Vài chục năm sau, ở một thành phố nằm ngay trên vĩ độ<br />
45 bắc, đột nhiên giữa một buổi chiều cuối tháng chín,<br />
tôi thấy mùa thu trở lại thật sự. Đúng ra, chắc cũng đã<br />
rục rịch từ mấy ngày trước mà không ai hay, từ bên kia<br />
dãy núi chắn ngang phía bắc thành phố. Ở đó rừng núi<br />
mênh mông, cây lá mênh mông, mặc tình cho trời đất<br />
xun xoe làm dáng. Ở đó trên những chỏm núi ngất<br />
ngưởng cao đã thấy quầng thâm những ngụm mây xam<br />
xám. Và chắc ở đó cây lá cũng đã len lén đổi màu từ khi<br />
mặt trời cứ bỏ đi ngủ sớm. Ở dưới này, giữa lòng phố,<br />
ngày đã ngắn lại đâu từ giữa tháng, mỗi ngày một chút.<br />
Và gió cũng đã đổi hướng, mỗi lúc một lạnh lùng. Lòng<br />
người ta bén nhạy còn hơn đài khí tượng, đánh hơi mùa<br />
ngay từ khi máy móc chưa kịp tính toán xong.<br />
Vậy đó, một buổi chiều cuối tháng chín, tôi bỗng thấy<br />
mùa thu trở lại, dù mùa hè còn vụt vặt chưa chịu bỏ đi.<br />
Bắt đầu là một cơn gió lạ. Cũng không biết từ đâu thổi<br />
tới. Chỉ biết khi tôi thấy thì nó đã ra tới giữa lòng đường.<br />
Lúc đó đâu khoảng giờ cơm nên lòng đường trống trơn,<br />
duổi dài như một cánh tay mệt mõi sau khi đã vật vã mệt<br />
nhoài với mớ xe cộ hối hả qua lại khi nãy lúc vừa tan sở.<br />
Mặt đường xám ngắt, mệt lì giữa hai hàng cây im sựng.<br />
Cơn gió lách tới bất ngờ, quợn qua quợn lại một chút rồi<br />
bốc thẳng lên, mang theo một chút bụi đường và một<br />
chiếc lá vàng đã nằm sẵn đó tự lúc nào, thổi ngược vào<br />
lề thả lá bay vất vưởng một đổi rồi bỏ đi bất chợt để lại<br />
148
chút gai gai lạnh trên cánh tay trần của người khách bộ<br />
hành vừa trờ tới. Một chút động đậy thôi trong một giờ<br />
chiều rất tịnh bỗng nhiên làm quậy lên lao xao một cái gì<br />
rất lạ. Một cái gì rất mơ hồ, nhẹ hửng, chẳng đâu ra đâu<br />
vậy mà như đủ sức khều dậy giữa lòng người một ý niệm<br />
hay đúng hơn, một ấn tượng ... Ngô đồng nhất diệp lạc.<br />
Thiên hạ cộng tri thu.<br />
Vậy đó rồi đâm ra buồn ngang, buồn ngửa, buồn ngất<br />
trên vai áo theo kiểu của thi sĩ du tử họ Lê.<br />
Mà buồn cái gì ? Mùa thu ở đây, ở vùng đông bắc này<br />
rồi sẽ đẹp gần chết mà buồn nỗi gì ! Trời hanh nắng,<br />
gió hiu hiu lạnh, khoác chiếc áo dạ len thả hở hàng nút,<br />
kéo cao cổ áo phủ ót, một tay đút túi, một tay quơ quơ<br />
hốt nắm sương la đà, chân thả lang thang coi trời đất<br />
làm duyên. Xanh vàng tím đỏ rồi xanh xanh vàng vàng<br />
tím tím đo đỏ có loạn thị cách mấy cũng phải chịu là<br />
đẹp. Vậy tại sao lại còn đòi buồn đòi tủi. Vâng thì đẹp.<br />
Mà điều cái đẹp là cái bây giờ, ở đây. Còn cái buồn là cái<br />
hồi đó, còn vận đến chừng này, trong tâm tưởng.<br />
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi, trời lắng u buồn mây hắt<br />
hiu ngừng trôi, nghe gió thoảng mơ hồ, trong mưa thu ai khóc ai<br />
than thở ...<br />
Đố ai đã từng nghe Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong<br />
một lần mà không thấy ngậm ngùi tới xót ruột. Nhất là ở<br />
cái thời mới lớn.<br />
149
Rồi dọc theo cái thời tập tành yêu-đương-phụ-tình-tìnhphụ<br />
đó là không biết bao nhiêu mùa thu nữa lãng đãng<br />
theo mấy nốt nhạc làm phông cho chàng tình nhân trẻ<br />
tuổi thả trái tim ba chìm bảy nổi theo mấy dòng tóc mây<br />
thu. Dĩ nhiên là chắc chìm nhiều hơn nổi cho nên rốt lại<br />
cứ nghe tới thu là đâm ra rầu miết.<br />
Đến khi Phạm Duy đem nhạc phổ thơ Appolinaire thì ôi<br />
thôi chắc mẻm thu ơi sao mà buồn lắm vậy !<br />
Em ngắt đi một cùm hoa thạch thảo. Em biết cho mùa thu đã chết<br />
rồi. Mùa thu đã chế́t ...<br />
Nhạc đã vậy, còn văn thơ thì khỏi nói. Trong một chục<br />
bài văn thu với thơ thu thì đã có tới chín mươi chín phẩy<br />
chín mươi chín phần trăm nói về thu buồn, thu nhớ, thu<br />
sầu, thu khổ ... nước mắt ngắn nước mắt dài ... đến nỗi<br />
mới nghe tới hơi thu là đã ngửi ngay mùi ẩm mốc, dẫu<br />
rằng có thiếu chi những ngày thu khô ráo !<br />
Thử nghe bà Tương Phố ở cái thời đàn bà chỉ biết có kim<br />
chỉ mà cũng đem thu ra than van thảm thiết về với anh<br />
mùa thu, tiễn đưa anh mùa thu, mấ́t anh cũng lại mùa thu, cho<br />
nên mỗi năm cứ đến độ thu sang thì em lại bồi hồi nhớ trước<br />
tưởng xưa mà lòng thu một tấm cũng ngây ngất sầu ... thì đến<br />
đá tảng khi đụng tới mùa thu cũng phải rụng rời nói chi<br />
trái tim thanh niên mềm như lá liễu.<br />
Tới ông Tản Đà thì thu quả nhiên buồn đến hết nói. Trận<br />
gió thu phong rụng lá hồng. Lá rơi tường bắc lá sang đông. Hồng<br />
bay mấy lá năm hồ̀ hết. Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không. Đâu mà<br />
150
toàn là chuyện trắc trở với lại phòng không chiết bóng.<br />
Nghe mà nhão cả người.<br />
Rồi Nguyễn Bính giang hồ rất mực ra bắc vào nam như<br />
ăn cơm bữa mà lại cũng chọn cho được mùa thu để ...<br />
thất tình. Tôi về gom hết ba thu lại. Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời.<br />
Thậm chí tới mấy cái chuyện cổ tích cũng vậy. Mới nứt<br />
mắt ra là ngốn không biết bao nhiêu chuyện tình oan<br />
trái. Mở đầu là câu chuyện anh chàng Ngưu Lang với cô<br />
nàng Chức Nữ . Yêu chi mà yêu khổ. Yêu chi mà mỗi<br />
năm chỉ cho gặp gỡ có một lần. Mà còn phải có đám<br />
chim ô thước thương tình bắt cầu cho qua sông Ngân tái<br />
ngộ. Đêm mùng bảy tháng bảy. Khóc mừng hay khóc tủi<br />
mà lụt lội thế gian. Nước mắt mùa thu khóc duyên phận người<br />
...<br />
Lớn lên chút nữa, mới học được đâu ba chữ u chữ tây mà<br />
lỡ nghe Yves Montant hát Les feuilles mortes rồi là không<br />
ít thì nhiều cũng sẽ lụy cái mùa thu có gió cuốn đi hàng<br />
đống lá vàng, mang theo cả mớ kỷ niệm và hối tiếc khi<br />
sóng biển đang xóa dần dấu chân trên cát của những<br />
cặp tình nhân một thưở đến lúc phải lìa nhau ....<br />
Kể ra thì cũng oan ức cho cái mùa thứ ba của trời đất.<br />
Mùa nào không lấy cứ đè mùa thu ra mà gán ép bao<br />
nhiêu oái ăm ngang trái tương tư thất tình phụ bạc anhđi-đường-anh-tôi-đường-tôi<br />
cho đành đoạn. Bộ yêu<br />
nhau rồi phụ nhau vào mùa xuân không được sao? Hay<br />
mùa hè? Hay mùa đông? Mà cũng lạ. Thiên hạ yêu nhau<br />
hồi nào đâu không biết mà hể tới hồi rẻ rúng là cứ kéo<br />
cho được mùa thu ra làm cảnh và làm chứng. Cả cái cô<br />
151
Thúy Kiều và ông thương gia Thúc Sinh cũng một điệu.<br />
Người lên ngựa, kẻ chia bào. Rừng phong thu đã nhuốm màu<br />
quan san. ... Riết rồi ai nấy cứ khăng khăng mùa thu là<br />
phải buồn dẫu là tôi-buồn-không-biết-vì-sao-tôi-buồn,<br />
là phải nhớ dẫu là nhớ vẩn nhớ vơ hay nhớ có nơi có<br />
chỗ, nhớ độc chiếc hay là nhớ song phương, nhớ tam<br />
giác hay ngũ lục giác gì cũng được. Miễn là có mùa thu<br />
cho ra cái điệu ... nhớ.<br />
Bởi vậy mà dầu muốn hay không, thì ở đây, nơi mùa thu<br />
được coi là mùa lộng lẫy nhất trong năm, người khách<br />
tha hương vẫn cảm thấy buồn buồn ngay khi mùa thu<br />
vừa trờ tới.<br />
Giữa khi trời đất vàng rực huy hoàng thì lòng người bỗng<br />
chùng xuống, tối mịt những kỷ niệm. Mà kỷ niệm thì<br />
không vui. Kỷ niệm chỉ co buồn thôi vì kỷ niệm là cái đã<br />
mất. Giống như mùa thu chỉ để buồn thôi vì mùa thu chỉ<br />
là sự gắng gượng làm vui của trời đất khi sắp lịm vào cơn<br />
mê thiếp. Cũng kỳ. Ở đậu xứ người mà không chịu vui<br />
với người. Người ta tổ chức hết lễ lá đến lễ màu. Mà lòng<br />
mình thì chỉ có mỗi một lễ duy nhất. Lễ nhớ. Mà hể nhớ<br />
thì buồn. Mà đã buồn thì lại nhớ. Tại cái mùa thu đó, nó<br />
gợi nhớ. Hay tại mình, mình không chịu quên.<br />
Không dưng mà lại nhớ đến một câu trong bài tùy bút<br />
của Đinh Hùng viết đâu từ vài chục năm trước về một<br />
mùa thu trở lại. Lâu quá đã quên gần hết chỉ còn loáng<br />
thoáng, hình như là ... nắng ở đây vẫn là nắng ấm ngày xưa và<br />
linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước.<br />
152
Ờ linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Năm não<br />
năm nào. Mà có cần xác định một thời điểm chính xác<br />
trong cái chuổi nhớ thương dằng dặc đó. Năm nào mà<br />
chẳng được. Khi đã là quá khứ thì ngày tháng cũng mù<br />
sương. Trí nhớ thì chập chùng mà kỷ niệm thì trùng điệp.<br />
Nhưng vẫn có đó. Đôi khi lộn trước lộn sau. Nhưng có<br />
cần không một thời biểu rõ ràng cho mớ hình sương<br />
bóng khói.<br />
Mùa thu. Mùa của năm học mới bắt đầu. Những buổi<br />
tựu trường. Tiếng trống giục giã. Áo trắng quần xanh.<br />
Tóc rẽ bảy ba. Sách vở, viết mực, hàng chữ nắn nót ... Rồi<br />
phấn trắng bảng đen, thi cử, ly cà phê trắng mắt, lá thư<br />
tình thứ nhất ...<br />
Mùa thu. Mùa của trăng đêm hò hẹn. Của giận hờn. Của<br />
xin lỗi. Của vụn dại dễ thương như lần đầu lầm lỡ.<br />
Mùa thu. Mùa của biệt ly. Của cửa sông đen ngòm. Của<br />
ngọn đuốc lập loè. Của bỏ cha bỏ mẹ, bỏ bầy bỏ bạn,<br />
bỏ nước bỏ quê.<br />
Mùa thu. Mùa của điêu tàn. Của nát tan. Của khúc ruột<br />
đứt lìa. Của ngón tay vuột mất.<br />
Ôi mùa thu thương khó từ trong tâm thức. Có nhớ có<br />
thương năm nay thì cũng chỉ là nối tiếp cái thói quen<br />
thương nhớ từ năm kia năm kìa. Mà sao cứ nhớ thương<br />
hoài vậy ? Rồi không chừng lại nhớ tiếp luôn tới năm sau,<br />
năm sau nữa ! Bộ khoảng giữa của hai đầu thương nhớ<br />
nó nhủn nhẳn nhùn nhằn như cao su vậy sao mà kéo dài<br />
tới chừng nào cũng được.<br />
153
Bộ chỉ có cái trí nhớ là đức tính cần thiết và dai dẳng<br />
nhất của con người sao ?<br />
Còn đến chừng nào thì lãng quên sẽ là đức tính cần thiết<br />
hơn nữa ... ?<br />
...............<br />
........................<br />
154
Tháng 10,<br />
ngày 23 năm 1956,<br />
ở Budapest …<br />
Tôi chưa bao giờ thích thơ tự do (hổng hiểu thì lấy gì mà<br />
thích) kể cả thơ của Thanh Tâm Tuyền, ngay khi ở tuổi 20<br />
155
vốn vẫn khoái cái trò nổi loạn với phá phách. Chậm tiến<br />
(?) hơn các bạn cùng lứa cứ thường hay cặp nách tập thơ<br />
Tôi không còn cô độc của ông như bằng chứng của một<br />
sự thách thức với những lề thói rề rà lệch bệch của xả hội<br />
miền Nam thuở đó. Ngay cả đến những năm 60 mà còn<br />
mê Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính hay những bài<br />
thơ-mới của những năm 30 như tôi thì quả nhiên là<br />
chậm tiến… thứ thiệt.<br />
Vậy mà có hai câu thơ của ông tôi thích vô cùng<br />
… hãy cho anh khóc bằng mắt em<br />
những cuộc tình duyên Budapest…<br />
Trong cái đầu rất hương-xa của tôi thuở đó, hai câu thơ…<br />
thơ đến tuyệt vời. Tuyệt vời không phải vì thơ nhắc đến<br />
Budapest, kinh thành cổ kính và hoa lệ của Âu châu thế<br />
kỷ 19, nằm soi bóng hai bên bờ con sông Danube sóng<br />
lanh chanh như vòng quay luân vũ, cũng không phải vì<br />
đó là nơi sinh trưởng của Liszt với dòng nhạc cổ điển<br />
mang đầy âm hưởng lãng mạn của một thời vàng son…<br />
Tôi thích vì hai câu thơ là một ẩn dụ trữ tình về một biến<br />
cố chính trị đẩm máu năm 1956, ở đó, những “tình nhân”<br />
của tự do đã khóc nhau vì một thất hẹn của định mạng<br />
Ðọc lại chứng từ của một người Pháp có mặt ở đó vào<br />
những ngày tháng 10, năm đó…<br />
156
“… ngày 23 tháng 10… tình hình vô cùng phức tạp.<br />
Những cuộc biểu tình của sinh viên diển ra khắp nơi.<br />
Người ta sống trong sự thắp thỏm chờ đợi một cái gì đó<br />
sẽ xảy ra…<br />
Những cuộc biểu tình biến thành những cuộc đụng độ<br />
thực sự. Sinh viên và thợ thuyền lao mình vào hàng rào<br />
cản của cảnh sát chính trị. Người ta nghe súng nổ khắp<br />
nơi. Chính quyền cộng sản ra lệnh cho quân đội với<br />
chiến xa kéo tới nhưng rồi chính binh sĩ lại tỏ ra thân<br />
thiện với đám biểu tình và quay lại dẫn đầu cho đoàn<br />
biểu tình tấn công đài phát thanh của chính quyền cộng<br />
sản. Ðường phố trở thành pháo đài dựng chống bằng đủ<br />
thứ gạch ngói, bàn ghế, đường rầy xe lửa mà tuổi trẻ<br />
khát vọng tự do đã đi tháo gở đem về.<br />
Sáng hôm sau, từ cửa sổ của khách sạn trên đảo Saint<br />
Maguerite, tôi thấy từng đoàn chiến xa Nga kéo qua với<br />
súng đạn tua tủa. Ít lâu sau, lính sô-viết Nga nổ súng tấn<br />
công khách sạn Astoria, trụ sở của những người khởi<br />
nghĩa. Nhóm nổi dậy chống trả kịch liệt dù ô hợp. Họ<br />
mai phục với súng ống cá nhân trong những dinh thự<br />
quanh đó bắn cản chận đường hy vọng làm chậm bước<br />
tiến của đoàn chiến xa hùng hổ.<br />
… chỉ riêng quanh đó đã có trăm người chết… và đạn đại<br />
bác của quân Nga sô-viết thì tiếp tục đổ xuống thành<br />
phố như mưa. Trận chiến càng lúc càng ác liệt, kéo dài<br />
qua suốt đêm…. Rồi chuyện phải đến đã đến, xe tăng<br />
157
ọc sắt với đại pháo cũng bắn sập được thành trì chống<br />
giữ không có gì ngoài những tay súng nhỏ và... những<br />
tấm lòng khao khát tự do …”<br />
Bài tường thuật ngưng lại ở đó.<br />
… Có điều, đằng sau những lời tường thuật nghe như<br />
thản nhiên đó, có bao nhiêu điều không nói hết.<br />
Thử tưởng đến những khuôn mặt sinh viên non dại mà<br />
tâm hồn thì lồng lộng khí tiết của bầy ngựa thảo nguyên,<br />
những nhà văn nhà thơ sức trói gà không chặt nhưng đủ<br />
sức để bứt tung những vòng xích đang chực chờ trói<br />
chặt linh hồn họ, chính họ, tuổi trẻ và trí thức tháng 10<br />
năm đó đã chứng tỏ một điều: người ta có thể bỏ tù<br />
một thân xác, nhưng không bao giờ người ta giam hãm<br />
được một tinh thần.<br />
Hãy hình dung những người tuổi trẻ của Budapest đã<br />
buồn rầu và thương tích vì sức công phá của đạn bom,<br />
và còn thứ thương tích không có bệnh trạng rõ ràng gây<br />
nên bởi sự áp đảo của súng đạn trên tay trơn, của ngụy<br />
tín trên chân lý, của bất nhân trên lương tâm, của độc tài<br />
trên tự do…<br />
Hãy nghĩ đến hàng tấn đạn bom sắt thép đổ lên đầu họ<br />
để bịt miệng, chẹn cổ dập tắt tiếng kêu gào của ý thức<br />
tự do.<br />
hãy cho anh khóc bằng mắt em<br />
158
những cuộc tình duyên Budapest<br />
Tháng 10 năm đó ở Budapest, có rất nhiều người đã<br />
chết, bị bắt bớ, bị tù đày và hàng trăm ngàn người phải<br />
bỏ xứ ra đi. Nhưng cũng từ những người đã chết ở đó, từ<br />
những người bị bắt bớ tù đày bỏ đi lưu lạc tháng 10 năm<br />
đó ở Budapest, mà mươi năm sau người ta lại được nghe<br />
cùng một tiếng kêu đòi ở Prague, mùa xuân năm 68. Y<br />
như cùng một khuôn mặt, một nhân dáng cũ hiện<br />
nguyên hình trong những hầm tối, trong những khuôn<br />
viên đại học, trên những con đường dẫn tới những<br />
quảng trường ở Tiệp Khắc. Và vẫn y nguyên một niềm<br />
khao khát cũ.<br />
Rồi cũng chính niềm khao khát đó lại một lần nữa tái<br />
hiện trên khuôn mặt người thanh niên mảnh khảnh và<br />
đơn độc, đứng dang tay như muốn chặn đứng cả đoàn<br />
chiến xa đang lầm lì băng qua Thiên an môn ở Bắc kinh,<br />
một đêm mùa xuân năm 89...<br />
………………………………………………………………………………………………<br />
………………………………………………………………………………………………<br />
Tháng 10 năm 1956 ở Budapest sẽ còn trở lại hoài hoài<br />
khi trên mặt đất này còn những trại giam không tên và<br />
những người tù không số hiệu.<br />
50 năm sau, ngày 23 tháng 10 năm 2006, cả thế giới kỷ<br />
niệm cuộc nổi dậy dũng cảm của những người tuổi trẻ<br />
159
Budapest. Sự thức tỉnh của họ là một điều tất yếu sau<br />
mươi năm bị tước bỏ quyền làm người. Không ai có thể<br />
bị ép nói trắng thành đen, bị buộc nói không thành có<br />
mãi mãi. Bạo lực có trói tay bịt miệng người ta cách nào<br />
đi nữa để che giấu tính phi nhân cũng không thể triệt bỏ<br />
được hoàn toàn lòng yêu chuộng sự thật. Cái sự thật đơn<br />
giản và căn bản như chính Lời mẹ dặn trong thơ Phùng<br />
Quán<br />
yêu ai cứ bảo là yêu<br />
ghét ai cứ bảo là ghét<br />
Có bấy nhiêu đó thôi để làm-người mà có lúc cả mấy<br />
phần nhân loại bị bắt buộc phải tráo trở kể từ khi cái chủ<br />
nghĩa không tưởng đến quái đản đó được thực hiện ở<br />
Nga sô năm 1917. Ðể từ đó bằng bạo lực và lừa dối áp<br />
đặt lên một số dân tộc không may khác, trong đó có dân<br />
tộc Việt Nam.<br />
50 năm nay, lịch sử đã quay lại theo cái vòng quay thuận<br />
chiều của nó. Mọi thứ quyền lực đi ngược lại với nguyện<br />
vọng chân chính của con người, dù có được hổ trợ bằng<br />
mọi thứ phù phép ma quỷ nào đi nữa cũng sẽ có lúc sụp<br />
đổ.<br />
Từ giữa đêm 9 rạng ngày 10 tháng 11 năm 1989, người<br />
dân Berlin đã giật đổ Bức tường ô nhục, chia rẻ thâm<br />
tình của một thành phố trên dưới 30 năm. Những bức<br />
tường thành vô hình nhưng có thật khác đã được dựng<br />
160
lên sau thế chiến thứ hai nhằm che đậy sự đày đọa con<br />
người ở phía đông châu Âu cũng đã lần lượt sập ngã.<br />
Những cuộc cách-mạng-nhung, cách-mạng-xanh, cáchmạng-vàng-cam…<br />
như những đợt sóng thủy triều buổi<br />
sáng kiên nhẩn vổ lên bờ, xóa sạch rác rưới trên những<br />
bãi cát đêm qua. Ðể con người ở đó hít thở lại cái không<br />
khí trong lành và hiền hòa của quê hương đích thực.<br />
Mừng cho họ ! Mừng cho nhân loại ! Và bao giờ thì đến<br />
lượt chúng ta !<br />
Ôi đất nước có còn vui kịp<br />
Một đời tôi héo úa từng giờ !<br />
161
Tháng<br />
mười một<br />
ở<br />
Dallas<br />
Khi viên đạn được bắn ra từ một góc khuất trên căn lầu<br />
bỏ trống của cái kho sách phế thải ở một góc<br />
đường Dallas năm đó, nó đã mang theo trong đường<br />
bay của nó định mạng của một người và một dân tộc. (<br />
162
giả sử có một hơi thở gấp làm ngón tay bấm cò khẻ run,<br />
một tia nắng chợt lóe qua làm chớp con mắt đang chăm<br />
chăm vào ống ngắm, chiếc công xa chạy nhanh hơn một<br />
chút, chậm hơn một chút … và viên đạn trệch đi một kẻ<br />
tóc … ờ có bao nhiêu giả sử trong đời như những phảichi<br />
vẫn mãi là những lời xin lỗi )<br />
Lúc đó, trong một góc vườn nằm xa hơn một chút về<br />
phía tây bắc, lá phong cũng đã đổi màu đỏ rực.<br />
Khi đó, xa hơn nữa, tận đáy cùng một lục địa da vàng tối<br />
tăm và buồn bã, người thiếu niên mới lớn là tôi như chợt<br />
thấy chính mình vừa tử thương. Trong trái tim nồng nàn<br />
của nó, thời đó, không chỉ có hoa và bướm, có thơ và<br />
mộng mà còn có thêm nữa những áp bức bất công,<br />
những chết chóc điêu tàn, những nghèo nàn ngu dốt…<br />
hậu quả của một chủ nghĩa thực dân khốc hại và đang<br />
trở thành một vùng môi sinh mầu mỡ cho chủ nghĩa<br />
cộng sản. Bộ mặt điêu tàn của một xả hội nhược tiểu<br />
càng trở nên thảm hại hơn nữa trong sự tranh chấp giữa<br />
những bạo quyền. Và cùng lúc càng lộ rõ vẻ trơ trẻn của<br />
những “thần tượng” trong cơn chạng vạng của niềm tin.<br />
Ngay lúc đó, sự xuất hiện của một người Mỹ trẻ tuổi connhà-giàu-học-giỏi-đẹp-trai<br />
đặc biệt với những ý tưởng<br />
cấp tiến đến độ gần như thách thức lại cả một lực lượng<br />
bảo thủ đã ăn rễ trăm năm trong xả hội (tư bản) Mỹ tự<br />
nhiên trở thành một niềm hy vọng cho hơn một người<br />
tuổi trẻ. Ðã có lúc thanh niên ở những nước kém mở<br />
mang, nô lệ nghèo đói và giặc gĩa, bỗng vui náo nức<br />
163
như vừa tìm được một người đồng minh thông cảm và<br />
tin cậy. Lứa tuổi của cách-mạng-lãng-mạn tìm được<br />
trong đôi mắt sáng, nụ cười ấm, và nhất là ý thức công<br />
bằng xả hội như một liều thuốc hồi sinh cho căn bệnh<br />
trầm kha của đất nước họ.<br />
Buổi sáng hôm đó cái chuyện không ai ngờ được đã xảy<br />
ra, viên đạn được nhắm bắn từ một độ cao năm tầng lầu<br />
đã đi đúng hướng và nổ tung làm văng mất một phần<br />
não bộ của vị Tổng Thống trẻ tuổi thứ 35 của Hoa Kỳ,<br />
niềm hy vọng của tuổi trẻ những năm 60, bỗng như nổ<br />
tung một lần nữa, giữa tim tôi.<br />
Mới vài năm trước, trong kỳ thi tú tài, tôi đã cắm cúi và<br />
hào hứng viết không kịp thở bài luận văn có đề tài rất<br />
thời thượng. “Anh hay chị nghĩ gì về câu nói của Tổng<br />
Thống J.F.Kennedy : đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn<br />
mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc” Bài thi văn có hệ<br />
số 3 và đã vớt tôi qua trót lọt kỳ thi dù rằng điểm toán<br />
nếu chẳng là zéro thì chắc cũng không khá hơn một.<br />
Câu nói được khéo léo đặt theo lối nghịch đảo và mệnh<br />
lệnh cách đủ gây ấn tượng mạnh và đột ngột đặt lại mối<br />
tương quan giữa con người và đất nước. Câu nói có thể<br />
là lời nhắn gởi riêng với thanh niên của xứ sở ông ta<br />
nhưng cũng đã gây tác động không ít đến thanh niên xứ<br />
khác. Dường như đã từ lâu lắm người ta mới thấy xuất<br />
hiện một lãnh tụ thông minh và khả ái như vậy.<br />
Giai nhân tự cỗ như danh tướng<br />
164
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu<br />
Tháng mười một năm nay tôi lại có dịp ghé qua Dallas.<br />
Ðúng dịp kỹ niệm 40 năm ngày thảm sát. Thành phố đã<br />
có chút dáng vẻ vào thu. Trời không còn nóng cháy và<br />
quanh tượng đài đã có lác đác lá vàng rơi. Bốn bức<br />
tường trắng vẫn đứng im ỉm như còn giữ nguyên niềm bí<br />
ẩn chưa được giải thích thỏa đáng.<br />
Xa hơn một chút, trong góc vườn cũ, những lá phong<br />
cũng đã bắt đầu ửng đỏ.<br />
40 năm. Lịch sử đã xóa đi và viết lại nhiều lần. Cuộc<br />
chiến ý thức hệ ở Việt Nam mới dây dưa vào thời kỳ ấy<br />
đã bộc phát dữ dội suốt mười năm sau và rồi cũng đã<br />
chấm dứt từ hơn hai mươi lăm năm nay. Người chết đã<br />
chết. Người còn sống, cay đắng, tật nguyền hoặc vui<br />
cười thỏa mãn. Và sự thật thì vẫn còn là nạn nhân đầu<br />
tiên và cuối cùng của bất kỳ một cuộc chiến tranh nào.<br />
Tháng mười một thơm như một tàu lá mới. Thành phố<br />
sạch bóng như vừa được lau chùi. Và lòng người thì cũng<br />
trơn lùi kỷ niệm. Người ta có nhớ lại thì cũng chỉ một<br />
chút ngậm ngùi. (để làm gì những ngậm ngùi !) Giữa mặt<br />
đường láng lẩy ngay chỗ viên đạn nổ tung một giấc<br />
mộng có đánh dấu chữ X. Người ta đánh dấu một tội ác<br />
hay đánh dấu một tiếc nuối. (và những tiếc nuối có phải<br />
là lời tạ lỗi vô thưởng vô phạt ?)<br />
165
Ðứng ở đó, dưới một bầu trời rất mới mà cũng rất cũ<br />
như đã y vậy tự bao giờ, lòng bỗng nhiên cảm khái như<br />
chuyện chỉ mới vừa xảy ra. Có một cái gì không phải cứ<br />
tiếp tục được lặp đi lặp lại. Con người có tự nhận là<br />
thượng đế của chính mình thì cũng chỉ là một cuộc đảo<br />
chánh vô vọng. Và, lịch sử rốt lại chỉ là một cuộc đánh<br />
tráo gian lận của định mạng. Vậy thôi. Trời đất bày vẻ đủ<br />
điều chỉ cốt để mà mắt con người và ... bi kịch, chính là ai<br />
nấy đều tưởng thật. Người ta sống với cái ảo tưởng về<br />
một quyền năng phù phiếm. Người ta ôm ấp những hoài<br />
bảo, nuôi nấng lý tưởng, năng nổ hành động như trăm<br />
năm là một khắc mà quên rằng sát na đã lố tận thiên<br />
thu. Cái phút-chốc có giá trị tiên tri của một lời sấm rủa.<br />
Và con người mãi mãi chỉ là một thứ đồ chơi rẻ tiền của<br />
tạo hóa.<br />
Tháng mười một rực rỡ như một vết thương mới kéo da<br />
non.<br />
Và… trong góc vườn thu cũ, lá phong cứ hực đỏ như một nỗi tiếc<br />
nuối bị ngậm nín lâu ngày.<br />
166
... và<br />
một chút xuân thì<br />
Nơi tôi ở, vẫn được gọi là thành phố có trăm nóc<br />
chuông nhà thờ, mùa xuân đang lấp ló trở lại.<br />
Nói là lấp ló vì từ trăm cái nóc chuông đang im ỉm đó<br />
bỗng dưng trở nên chộn rộn khác thường. Có một cái gì<br />
lít chít lao chao đang làm xao động cả những mái đá đã<br />
trăm năm.<br />
À bầy chim thành phố !<br />
Những con chim đã bỏ đi lâu lắm bỗng dưng rồi trở lại<br />
từ lúc nào, đang ríu rít gọi nhau như gởi gắm từng lời<br />
thăm hỏi. Rồi là cả một chuyển động không ngừng. Từ<br />
167
sớm mai đến chiều hôm, từng bầy chim cứ bay đi bay về,<br />
líu ríu lích rích, chao qua đảo lại giữa mấy ô cửa, kè đá,<br />
bệ tường, vòm tượng vắt vẻo trên ngàn tấm nóc rêu<br />
xanh. Líu lo, dáo dác, rỉa lông, gỏ mỏ rồi chíu chít gọi<br />
nhau, rồi bay ra bay vào, lăng xăng lít xít như để nhìn<br />
ngó lại cái góc nhỏ quen thuộc đã bỏ đi từ lúc những<br />
cơn gió đổi chiều bắt đầu thổi về từng hơi gió bấc. Khu<br />
phố cũ với những dãy nhà xám xịt và hàng cửa kín mít<br />
cũng làm như giựt mình thức giấc. Có một cái gì đang<br />
rục rịch sống dậy ngay giữa mớ gạch đá im lìm. Một cái<br />
gì đang trở mình thấp thỏm dưới mấy lớp tuyết kín<br />
bưng.<br />
Trời đâu đã thôi lạnh hẵn. Vậy mà coi bộ lũ chim đã rất<br />
vừa lòng, cứ lấp la lấp ló, ríu ra ríu rít cả ngày làm khách<br />
qua đường cũng thấy dạ vui lây. Ờ thì ra từ những nóc<br />
chuông cao vút đó, có một chút dáng xuân đang chờn<br />
vờn quẩy đập theo mấy cánh chim mà tụ hình, mà khều<br />
nhẹ vào từng nỗi ủ ê trong những tấm lòng còn khóa<br />
chặt.<br />
Thêm một chút xíu mặt trời ló ra, một chút xíu nồng nàn<br />
thôi là ai nấy như sống lại, rạo rực đến nỗi muốn ôm hôn<br />
bất cứ ai, mặc kệ người quen kẻ lạ.<br />
Coi vậy mà tin xuân quan trọng dữ.<br />
168
Tôi cũng có khác gì đâu.<br />
Hồn tôi không dưng mà thức dậy sau một mùa đông<br />
thiếp ngủ.<br />
Vậy đó, mùa xuân đang lấp ló trở lại, e dè nhưng quyết<br />
chắc nơi thành phố tôi đang ở. Hôm qua trên con đường<br />
về vắt ngang núi, tôi thấy mấy đóa hoa xuyên tuyết đã<br />
nhoi lên, loi choi điểm chút vàng chút tím giữa bãi tuyết<br />
trắng phau. Và cái mùi nhựa thông chổi dậy cứ hăng hắc<br />
theo gió mà bay xa, xa cùng khắp. Trời đất chộn rộn giao<br />
mùa làm lòng người ngây ngất cũng muốn say theo.<br />
Rồi bỗng dưng mà tôi nhớ lại cái truyện ngắn mới đọc<br />
đâu đó. Ông nhà văn gốc lính, sau khi đã ba chìm bảy<br />
nổi với nước non trở thành người sinh viên già , ôm sách<br />
vở đến trường làm lại đời mình. Ông đi học mà lòng cứ<br />
lấn cấn không nguôi với chuyện nhà chuyện nước. Bởi<br />
vậy mà ông ta buồn nhiều hơn vui. Thiệt ra có ai mà vui<br />
được với cái lịch sử quá sức bầm dập của dân tộc, nhất là<br />
có mình ở trỏng. Không viết lách thì thôi, hể viết là thế<br />
nào rồi cái buồn đó cũng vận vào thơ văn nên cứ nghe<br />
ra cay đắng. Mãi rồi đến khi ông ta gặp một cô sinh viên<br />
từ nước ngoài sang du học. Cô ta trẻ, đẹp và xinh tươi<br />
như một nụ tầm xuân. Hai người kết bạn trong một đêm<br />
cuối năm rồi đưa nhau đi đón giao thừa giữa lòng Nữu<br />
Ước. Đêm đó, đêm hết một năm, đêm bắt đầu một năm<br />
mới. Trời đất và con người hẵn cũng có niềm giao cảm.<br />
169
Không biết tại người bạn gái đó trẻ đẹp và mong manh<br />
như hình sương bóng khói hay tại ông lính già cảm thấy<br />
sự lung linh thay đổi của trời đất cũng làm lòng mình<br />
rưng rưng thay đổi theo mà tự dưng ông ta chợt băn<br />
khoăn khi sắp sửa thổ lộ nỗi buồn rầu của mình với cô<br />
gái. Ông ta băn khoăn rồi ngưng lại. Tuổi em không phải là<br />
tuổi tôi. Không thể mang nỗi buồn rầu của thế hệ tôi về thế hệ<br />
em.(*)<br />
Câu văn đó đã là đề tài nói chuyện một bữa tình cờ tôi<br />
gặp lại người học trò cũ. Gọi là học trò cũ cho oai chớ<br />
thật ra cô ta cũng đã trên dưới 40, đã chồng con đề huề,<br />
đã lao đao vì vận nước và lận đận vì đời sống xứ người.<br />
Nghĩa là đã có đủ điều kiện để nói chuyện ngang hàng<br />
với ông thầy cũ. Tuy nhiên vì truyền thống, cô ta vẫn một<br />
mực thầy trò khuôn phép lắm. Vậy mà lần đó, khi nghe<br />
tôi kêu ca về nỗi sầu lữ thứ kéo theo một mớ dây mơ rễ<br />
má sầu vong quốc sầu vong thân sầu vong tình ... hầm<br />
bà lằn xắn cấu sầu của thế-hệ-bất-hạnh-tôi đến nỗi cô<br />
ta phải duyên dáng mà nhẹ nhàng cản lại. Còn đang bất<br />
ngờ, cô ta đã đột nhiên hỏi vặn lại tôi vậy chớ sầu hoài<br />
không thấy khổ thân sao. Rồi lịch sự đề nghị hay là lần<br />
này người lớn thử nghe lại người nhỏ coi. Thay vì cứ đi lo<br />
truyền lại cái buồn rầu dẫu chính đáng của mình cho em<br />
út sao không bắt chước tuổi trẻ mà sống cho vui. Lớp trẻ<br />
đó có tội tình gì mà kéo vô gánh tiếp cái sầu bất tận của<br />
cha anh. Lớp lớn cũng có tội tình gì mà đeo đẳng mãi cái<br />
sầu vô cùng vô hạn. Mọi người phải sống chớ. Ai cũng<br />
còn một đời dài lắm chớ có ngắn ngủi gì đâu ... Hai con<br />
170
mắt lao đao đã thoáng chút gì phiền muộn, giọng nói<br />
nhẹ tênh mà không giấu được nỗi ân cần, giữa buổi<br />
chiều cuối năm nơi một vùng đất lạ chợt làm tôi giựt<br />
mình ...<br />
Câu khuyên lơn của cô học trò cũ cùng với tâm sự của<br />
ông nhà văn, trong cơn say đúng lúc của mùa xuân dậy<br />
thì bỗng như một luồng gió ấm thổi suốt cõi lòng tôi đã<br />
quá chừng ảm đạm. Bỗng chốc tôi thấy sương khói.<br />
Bỗng chốc như có tiếng vỗ về từ một bãi bờ nào xa tắp.<br />
Ờ quá khứ. Ờ hiện tại. Tại sao nhớ. Tại sao quên. Ờ mùa<br />
đông sắp hết. Mùa xuân đang lật bật trở về. Rồi hè. Rồi<br />
thu. Tôi nhỏ nhoi trong cái vòng quay bất tận của trời<br />
đất. Tôi bọt bèo trong cơn cuồng nộ của lịch sử. Tôi giữ<br />
gì cho tôi. Tôi để lại gì cho em. Bỗng chốc mọi sự rõ<br />
ràng như đã an bày từ một định mạng. Những hẹn thề.<br />
Những bội phản. Những được thua còn mất. Tự giam<br />
mình trong nhà giam của quá khứ có phải là một chọn<br />
lựa thích hợp khi cuộc đời vẫn thản nhiên quay trọn cái<br />
vòng quay của nó. Bỗng chốc tôi thấy mình như con<br />
chim trốn tuyết, mỗi mùa đông bỏ đi để rồi quày quả trở<br />
về, đều đặn như người tình chung thủy. Đường bay xa có<br />
dịu vợi nhưng làm sao thất lạc được cái gác chuông nhà<br />
thờ, nơi chốn đã sanh ra. Tôi bỗng thấy lòng mình mở ra,<br />
thênh thang. Cái thế giới trước mắt, trăm hướng. Và con<br />
người, con người cũng chỉ là sản phẩm của thời đại nó<br />
sống. Ai đã tạo ra cuộc đổ vỡ. Và tôi, tại sao tôi phải<br />
gánh hết nguồn cơn.<br />
Có đơn giản vậy mà sao tôi không biết.<br />
171
Phải rồi. Thiệt tình đơn giản như hết đông thì xuân tới.<br />
Những mùa lạnh thì buồn. Trời ấm sao mình lại không<br />
vui. Tuổi già hay tiếc nuối những mất mát. Tuổi trẻ có<br />
mất mát gì đâu sao bắt lại tiếc nuối với mình.<br />
Mùa xuân của trời đất còn đi đi lại lại. Mùa xuân của con<br />
người chỉ tới có một lần. Tuổi trẻ, yêu đương, hạnh phúc<br />
có những bước chân rất vội. Lỡ để vuột mất thì không<br />
còn lần thứ hai nào nữa.<br />
Nghĩ tới sự vội vã của xuân thì lại làm liên tưởng đến bức<br />
tranh đen trắng của Robert Doisneau chụp đâu từ những<br />
năm 50 một cặp tình nhân trẻ tuổi đang hôn nhau bất<br />
chợt ngay khi mùa xuân vừa lật bật trổi dậy ở Paris.<br />
Trích lại một đoạn viết đã lâu :<br />
“... Bức ảnh có tên là Nụ hôn trước tòa thị sảnh, được bày<br />
bán trong một quán sách dọc bờ sông Seine. Nụ hôn<br />
của tuổi trẻ đúng độ ngay giữa một thời tiết đúng mùa.<br />
Cả người cho và người nhận cùng có mặt đúng lúc. Cuộc<br />
hạnh ngộ với định mạng chỉ có một lần trong đời.<br />
Người ta đến kịp hay không. Rồi thôi, không có lần thứ<br />
hai nữa. Ôi nụ hôn tuổi trẻ say đắm không gợn một vết<br />
buồn phiền, hồn nhiên như mây thì bay và chim chóc thì<br />
ca hát khi xuân thì vừa chín tới. Cái hạnh phúc tuyệt vời<br />
đó lẫn lẫn đâu trong nhân gian mà bỗng bị sớt ngang và<br />
cắn ghịt giữa hai cặp môi ngon, thành ra như giữ cả<br />
thiên thu ở lại. Tóc người trai bay lồng theo gió sớm, mặt<br />
người gái ngửa lên, hiến dâng và tay buông thỏng, chấp<br />
172
nhận. Cả hai như đã bỏ quên thế giới này, lánh mặt vào<br />
thế giới của riêng họ, bất kể thiên hạ chung quanh mặc<br />
tình dòm ngó. Vũ trụ chắc không có ai, không còn ai<br />
nữa. Trong một thoáng hai người đã nhập làm một và nụ<br />
hôn của họ có vẻ kiêu kỳ của một cơn gió lạ, bất<br />
thường. Ôi có phải hạnh phúc là cái khoảnh-khắc-đãqua-đi-ngay-khi-đang-nói-tới<br />
đó không mà người chụp<br />
ảnh tài hoa may mắn bắt kịp vào âm bản. Và thanh xuân<br />
nữa, có phải là cái thời khắc hiếm hoi chỉ được nhận-rakhi-đã-mất<br />
đi, bây giờ được đóng khung lại để treo trên<br />
bức tường kỷ niệm ...”<br />
173
Em, tôi, bạn bè chúng ta, những người tuổi trẻ của<br />
những năm 70, đã có mấy ai chụp bắt kịp cái khoảnh<br />
khắc tuyệt vời đó đâu em, cái khoảnh khắc hiếm hoi đến<br />
gần như không có thật. Hằng hà số còn lại, trong đó có<br />
tôi và em, đã để lỡ. Không phải tôi muốn đổ lỗi cho mớ<br />
giáo điều đã vây khốn chúng ta nhưng mà nghĩ lại coi,<br />
cái thời buổi kỳ cục đó. Chúng ta có quá nhiều trách<br />
nhiệm phải chu toàn ngoại trừ cái trách nhiệm với chính<br />
mình. Chúng ta lớn lên và sống cho đủ thứ đòi hỏi chỉ trừ<br />
cái đòi hỏi được sống cho riêng ta ...<br />
Rồi còn giặc giã, rồi cơn ly tán. Ai trong chúng ta đã tới<br />
kịp giờ hẹn của đời mình ...! ”<br />
Hình ảnh của một khoảnh khắc hạnh phúc được đông<br />
đặc để còn lại mãi mãi có phải là cái ước mơ vĩnh cữu<br />
của con người, của tôi, của bạn về một hạnh phúc trần<br />
thế rất đỗi mong manh mà thế hệ chúng ta đã để cho<br />
vuột mất.<br />
Thế hệ chúng ta đã hy sinh hay đã bị hy sinh, điều đó ai<br />
cũng biết. Cũng đã đành. Thì hãy để cho thế hệ sau<br />
được sống đời của họ, yên lành và sung sướng như<br />
chúng ta đã mơ ước cho mình.<br />
Nỗi sầu của ta đã vậy. Thêm một người nữa cũng chẳng<br />
bớt sầu hơn. Mà thiếu đi một người không chừng cuộc<br />
đời này có đáng yêu thêm chăng<br />
Vâng, thiếu đi một người sầu không chừng mùa xuân sẽ<br />
dài thêm một chút. Thêm nhiều người thôi sầu nữa cho<br />
174
mùa xuân cứ dài mãi thêm ra. Cho đến lúc cả mặt đất<br />
này là một mùa xuân bất tận.<br />
Vâng, xuân chính là ở lòng ta đó.<br />
175
... tựu trường,<br />
xa xứ<br />
Khám phá được sự có mặt của một nhân vật tiểu thuyết<br />
trong đời thật vẫn là một điều thích thú thầm kín của<br />
người đọc dù rằng điều đó chẳng ăn nhập gì hết đến giá<br />
trị văn chương của tác giả hay tác phẩm. Một chút vui<br />
phụ trội vậy mà.<br />
Trong một truyện ngắn tôi đọc đã lâu, kể chuyện những<br />
ngày đầu tới Mỹ của một gia đình Việt Nam sau cuộc<br />
chạy chết năm 75. Người cha, người mẹ và đứa con trai<br />
độc nhất lên sáu tuổi. Chuyện người lớn chắc ai cũng<br />
giống nhau, không nhiều thì ít. Còn chuyện đám con nít<br />
?<br />
176
Hình dung trở lại những năm bảy mươi-tám mươi, đứa<br />
bé ba-bốn-năm- sáu ... tuổi, rúc trong mình cha mẹ nó<br />
dưới những khoan ghe tối đen như mực và nghẹt ứ hơi<br />
người ... Và mịt mù sóng gió. Và chực chờ hải tặc. Và<br />
những đảo hoang trôi lênh đênh giữa góc biển với chân<br />
trời. Rồi trại tạm cư trên bãi bờ hiu quạnh. Chiếc chòi lá<br />
giữa đêm mưa rừng nhiệt đới. Những hạt cơm khô trộn<br />
lẫn với cát sỏi... Rồi đất mới tạm dung. Rồi định cư vĩnh<br />
viễn. Rồi sau đó cũng chính nó chạy lúc thúc bên chân<br />
cha mẹ cho kịp cuộc đuổi bắt một đời sống mới, lạ từ<br />
miếng ăn thức uống, lạ từ tiếng hỏi câu chào ... Nó nghĩ<br />
gì trong đầu khi thấy cha mẹ, người lớn tất bật làm lụng,<br />
tính toán, rầu rĩ, lo buồn ... đến nỗi như muốn bỏ quên<br />
nó luôn ... dù mục đích của cuộc chạy chết một phần<br />
cũng vì tương lai của chính nó.<br />
Nó thấy gì trong những giọt nước mắt trên mặt mẹ khi<br />
trên tay còn cầm lá thư nhòe chữ được gởi đi từ một xứ<br />
đã xa. Nó nghĩ gì khi ngó cặp mắt đăm chiêu của cha khi<br />
nhắc tới người thân còn kẹt lại đâu đó ... Tội nghiệp đứa<br />
nhỏ đã mất tuổi thơ khi chưa kịp lớn ...<br />
Hình dung trở lại những ngày tháng đầu ở xứ người,<br />
trong căn chung cư hẹp té, tồi tàn, và chung quanh thì<br />
đầy những khuôn mặt lạ, lạ từng cọng tóc đến vóc dáng,<br />
nhất là thứ tiếng nói đa âm với những âm sắc lạ tai xoắn<br />
xuýt nhau như một xâu chuổi ... Nó ra vào chơi đùa một<br />
mình, mớ đồ chơi xin ở nhà thờ, chiếc máy ti-vi mua ở<br />
tiệm đồ cũ ... giữa bốn bức tường cũ xì, ẩm mốc và chiếc<br />
cửa khóa kín sau khi cha mẹ nó từ sáng sớm đã vội vã<br />
177
xách hộp đồ ăn mỗi người mỗi hướng nhảy lên những<br />
chuyến xe buýt đầu ngày chạy băng ngang thành phố ...<br />
Hình dung trở lại, nó một mình tới bữa trưa lục tủ lạnh<br />
tìm miếng xăng-quít mà mẹ đã làm từ tối qua. Hình<br />
dung trở lại, bữa ăn trưa một mình, đứa con nít năm sáu<br />
tuổi. Hình dung trở lại những buổi sáng buổi chiều buồn<br />
tênh sau khi đã chán chê mớ đồ chơi cũ kỷ nhàm chán,<br />
bắt ghế dựa đầu vào khung cửa kiếng, từ một căn chung<br />
cư cao ngất, nhìn ngó ngu ngơ xuống cái miệng vực<br />
thẳng đứng giữa hai bức vách lầu cao ngất và xám ngắt,<br />
dưới đó xe cộ người ta qua lại huyên náo để hy vọng bắt<br />
gặp một dáng vẻ thân quen ...<br />
Hình dung trở lại bữa tựu trường đầu tiên không có<br />
sương-thu-và-gió-lạnh. Nó cũng mang cặp sau lưng<br />
nhưng không có bức-tượng-trắng-trong-vườn-Lục-xâmbảo<br />
làm bạn như khi cha mẹ nó tựu trường ... Bởi vì nó<br />
bắt đầu đi học ở một nơi không phải là quê hương của<br />
nó nữa ... Nghĩa là nó đã bị bứng khỏi cái gốc ruột rà của<br />
nó, cái gốc phải có của một đứa-bé-việt-nam với chuồn<br />
chuồn châu chấu, với tiếng dế ngoài bờ cỏ, với cánh diều<br />
giữa đồng trống, với ngõ trúc quanh co, với cầu tre lắt<br />
lẻo ... Nghĩa là nó bắt đầu đi học làm người, người Mỹ,<br />
người Canada, người Pháp, người Úc .. mặc dầu cha mẹ<br />
nó vẫn muốn trước hết và sau cùng nó mãi là người Việt<br />
Nam ... Có khó cho nó lắm không ?<br />
Hình dung trở lại mọi nỗi khó khăn lúng túng của đứa<br />
nhỏ giữa sân trường, trong lớp học khi chung quanh từ<br />
ông thầy đến bạn học không ai giống nó, nó cũng<br />
178
không giống ai, cái màu tóc cái màu da và nhất là cái<br />
tiếng nói ...<br />
Nghĩa là còn nhỏ xíu nó đã phải chiến đấu giống y như<br />
cha mẹ nó đã chiến đấu, tả xung hữu đột, để tìm một<br />
chỗ đứng có chút ánh sáng giữa một thế giới đầy những<br />
nhà chọc trời đã che kín hết mặt trời.<br />
Vậy đó, thằng bé đó đã chiến đấu, rất cô đơn ... dù đi<br />
học một mình, dù tan trường một mình, dù khi về nhà<br />
phải lục dưới tấm thảm chùi chân tìm chiếc khóa rồi<br />
nhón gót lách ca lách cách trật vuột mở cho được chiếc<br />
khóa cửa hoen rỉ ...<br />
Vậy đó, thằng bé đó đã chiến đấu, thầm lặng như nhiều<br />
đứa-bé-việt-nam cùng trang lứa với nó, trong những<br />
năm tháng lao đao đó đã chiến đấu cũng cô đơn và<br />
thầm lặng như vậy ... ở đâu đó, trên những xứ sở lưu<br />
vong ...<br />
Tên lính nhỏ đó - cùng với rất nhiều tên lính nhỏ khác -<br />
đã chiến đấu thay cho cha, cho chú bác nó trên một mặt<br />
trận khác để chứng tỏ với thế giới rằng đó không phải là<br />
tàn dư của một đội quân bại trận.<br />
Tên lính nhỏ đó - cùng với rất nhiều tên lính nhỏ khác –<br />
đã chiến đấu thay cho mẹ, cô dì nó trong một cuộc<br />
kháng chiến khác để cưỡng chống lại sức hút cuồng lưu<br />
của một xả hội tân tiến, và giữ cho được nguyên tính của<br />
giọt-máu-việt-nam.<br />
............................................................<br />
179
Hình dung trở lại tấm bằng khen đầu tiên nó mang từ<br />
trường về. Mắt cha nó vụt sáng. Mắt mẹ nó bỗng rướm<br />
giọt trong veo ...<br />
Hình dung trở lại đêm đầu tiên nó xa nhà để đến trọ<br />
trong một campus đại học. Cha nó vui và lo lắng. Mẹ nó<br />
mừng và lo lắng.<br />
Hình dung trở lại những chồng bài vở cao ngất, xếp qua<br />
bên để chạy tới quán ăn đầu đường chùi rửa từng chồng<br />
dĩa chén cao ngất, để khuya về chong đèn ôn luyện có<br />
khi tới hửng sáng rồi lại ôm sách vở chạy vội tới giảng<br />
đường. Hình dung trở lại những chiếc bánh pizza cha nó<br />
chạy giao qua phố xá vắng tanh lúc nửa đêm về sáng,<br />
sau tám giờ làm chính thức trong nhà máy để cho nó<br />
thêm chút tiền túi, phòng khi... Hình dung trở lại những<br />
đống vải mẹ nó ôm về từ hảng may, rồi chui vào một<br />
góc khuất, may luôn tới khuya lơ khuya lắc để sắm thêm<br />
cho nó chiếc áo lạnh khi gió đông đang vội vã thổi về.<br />
Hình dung trở lại ... Hình dung trở lại ...<br />
Hình dung trở lại ngày tốt nghiệp. Áo thụng mão mủ.<br />
Cha nó quằn vai vì sức trì của những kiện hàng quá khổ.<br />
Mẹ nó hấp háy tia mắt lợn cợn bụi mù từ những xưởng<br />
may kín mít. Cả hai sao bỗng quên hết nhọc nhằn !<br />
...........................................................................<br />
Còn nhiều chuyện để nói lắm, những chuyện để đời.<br />
Những đứa-bé-việt-nam lớn lên ở một chỗ không phải<br />
Việt Nam.<br />
180
....................................<br />
Nhưng thôi. Đủ rồi.<br />
Vấn đề là tên lính nhỏ can trường đó, những tên lính nhỏ<br />
can trường đó, đã chiến thắng, từng trận nhỏ, rồi trận<br />
lớn .. Cấp bằng đại học. Vị trí khả dĩ trong một xả hội dị<br />
chủng. Những đóng góp ít nhiều cho đất nước đã đem<br />
lòng cưu mang sau khi tương lai nó đã bị hũy diệt ngay<br />
trên chính xứ sở của nó từ sau cuộc bại trận của cha ông.<br />
Sự thành công đó còn là dịp cho cha mẹ chú bác nó,<br />
người đã chết, kẻ lưu lạc, người tù tội ... được có lần<br />
minh chứng cho lý tưởng mà họ đã xả thân để bảo vệ,<br />
dù có phải thất bại : con người chỉ được phát triển toàn<br />
vẹn trong một xả hội tự do và nhân bản.<br />
Tháng tám nhiều năm sau, nhân vật đứa-nhỏ trong<br />
truyện đã nhảy ra khỏi cái khung truyện cũ chật hẹp để<br />
bắt đầu viết cho chính nó một cái truyện mới, khung<br />
truyện lần này chắc chắn sẽ rộng lớn hơn, thênh thang<br />
những chân trời ... Truyện của nó có thêm nhân vật mới,<br />
tình tiết mới, như loại feuilleton đăng báo mà mỗi ngày<br />
được đánh dấu bằng mấy chữ ngày-mai-đăng-tiếp như<br />
một hứa hẹn những khai mở bất ngờ đầy thú vị.<br />
( nó đang làm như cha mẹ nó, bạn bầy trang lứa nó, gầy<br />
dựng và tiếp tục gìn giữ chút di sản ông bà, ở phần đất<br />
mới, rất xa mảnh đất quê hương )<br />
Này chú-bé-nhân-vật mà tôi đã cảm mến khi đọc truyện,<br />
chú can trường lắm !<br />
181
viết thêm<br />
Tháng 9 năm nay, tôi lại có dịp ghé qua một buổi lễ tựu<br />
trường. Trường tiểu học, học trò mới cũ trai gái ồn ào và<br />
lộn xộn như một bầy ong vở tổ. Đám quen mặt tụ năm<br />
tụ ba ríu rít hỏi han kể lể. Mấy đứa bé vừa từ một nhà trẻ<br />
gởi sang, níu riết tay cha mẹ ông bà đi những bước chân<br />
líu ríu như bầy sẻ nhỏ.<br />
Bất ngờ, rất bất ngờ, tôi gặp lại cậu-bé-nhân-vật cũ của<br />
tôi. Bao nhiêu năm qua rồi, từ đó. Đã bao nhiêu con<br />
nước xa dòng. Cũng chẳng hơi sức đâu mà đếm nữa. Chỉ<br />
biết trước mặt tôi là một người đàn ông trẻ, chững chạc,<br />
quần áo thẳng thớm, lịch sự. Cạnh bên là một phụ nữ tây<br />
phương, cũng chừng tuổi, da trắng tóc nâu và mắt có<br />
màu xanh biếc. Giữa hai người là một đứa bé trai, có làn<br />
da trắng của mẹ và màu tóc đen của cha, vừa đi vừa<br />
nhún nhảy theo bước chân người lớn. À, cậu-bé-con,<br />
nhân vật trong cái truyện ngắn theo cha mẹ bỏ nước,<br />
vượt biển chết tìm đất sống của gần ba mươi năm trước,<br />
vừa đi học chữ mới vừa ngọng nghệu tập nói tiếng nước<br />
mình. Đến hôm nay, ngày đầu một năm học mới, dắt tay<br />
đưa đến trường, đứa con đầu lòng, kết tinh của một sự<br />
phối ngẫu kỳ diệu giữa hai dòng máu lạ chảy từ hai lục<br />
địa mênh mông xui đâu mà gặp gỡ. Lắm khi cũng chỉ từ<br />
những trái ngang của lịch sử. Vậy mà rồi, đôi lúc lại là<br />
những kết cuộc có hậu, đẹp và vui như bất cứ một câu<br />
chuyện cỗ tích nào được kể bằng hai tiếng ... ngày xưa !<br />
182
Buổi sáng hôm nay, trên khắp cùng mặt đất, sẽ có bao<br />
nhiêu đứa trẻ việt-nam-vàng-trắng-đen-đỏ lần đầu theo<br />
cha mẹ tới trường để học đọc học viết thứ chữ không<br />
phải ... chữ-việt-nam. Điều đó có đáng buồn hơn nếu<br />
còn kẹt lại bên đó để bị nhồi nhét vào đầu thứ chữ nghĩa<br />
câu cú đã bị biến thái một cách quái gỡ đến đỗi người đi<br />
xa mươi năm sẽ phải ngỡ ngàng như Từ Thức khi lỡ bước<br />
về trần.<br />
Đó là chưa kể đến những dụng tâm đầy hậu ý đã loại bỏ<br />
hết những bài Việt sử vốn dĩ đã là và phải là những bài<br />
học vỡ lòng của bao nhiêu thế hệ người Việt, làm thành<br />
chất keo sơn kết chặt họ với đất đai xứ sở quê hương tổ<br />
quốc. Vậy mà ...<br />
Nhất là gần đây lại nghe tin có kẻ ( bọn ! ) lại còn muốn<br />
thay đổi cả cách viết, đánh vần ... của chữ quốc ngữ, thứ<br />
phương tiện duy nhất để phổ biến, gìn giữ, lưu truyền cái<br />
vốn liếng văn hóa đã ngàn năm của dân tộc. Thứ chữ<br />
viết đó đã là chiếc cầu bắt qua tấm lòng của bao nhiêu<br />
thế hệ, là cái gạch-nối người đời sau với muôn đời trước,<br />
cũng như chính là vốn liếng còn lại sau bao nhiêu chắt<br />
lọc nghiệt ngã của cả một dòng lịch sử đã quá đỗi trầm<br />
luân. Thứ vốn liếng đầy ắp bao nhiêu lời ân cần dạy dỗ,<br />
dặn dò ... của người đi trước đã khuất mặt để lại cho<br />
người tới sau còn biết đâu là gốc tích của chính mình mà<br />
hãnh diện mà chiến đấu để bảo vệ tới kỳ cùng nền độc<br />
lập và quyền tự chủ của một mảnh giang san đã giành<br />
được bằng bao nhiêu máu xương của từng bao nhiêu<br />
183
thế hệ. Từ ngàn ngàn câu ca dao tục ngữ vốn chỉ là<br />
truyền khẩu đến những bản hùng văn với hằng hằng câu<br />
chữ như đã được trích máu từ đầu ngón tay ra mà viết,<br />
từ những vần thơ minh triết ẩn tàng dưới nóc am mây<br />
trắng đến uẩn khúc đoạn trường bi thiết qua hơn ba<br />
ngàn câu lục bát mà hơn ba trăm năm rồi không phai lợt<br />
chút sắt son ... Còn nữa, còn Nguyễn Trải với Bình Ngô<br />
đại cáo lấy chí nhân thay cường bạo, còn Bà huyện<br />
Thanh Quan với thơ Đường mà hồn thơ không vướng<br />
bận chút luật thơ, còn Hồ Xuân Hương tinh quái với mớ<br />
chữ nghĩa léo lắt, còn khúc ngâm Cung Oán đài các, còn<br />
khúc ngâm Chinh phụ ngọt ngào như nước suối trong<br />
veo, còn bao nhiêu công trình nghiên cứu lịch sử địa dư,<br />
dịch thuật khoa học tư tưởng từ túi khôn của nhân loại<br />
mà hằng hà sa số tài năng của dân tộc đã nặn tim vắt óc<br />
để lại cho đời sau.<br />
Cả cái gia tài vô giá đó rồi còn được tồn tại tới ngày nay<br />
để con cháu có dịp học lấy sự tinh khôn, thấm nhuần<br />
được tấm lòng nhân hậu của cha ông, nối tiếp được tính<br />
quật cường của tiền nhân là do đã được ghi chép lại<br />
trong những văn bản kể từ khi có chữ viết.<br />
( Có cần kể ra không những khổ công của cả một lớp<br />
tiền nhân những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã tìm<br />
tòi chăm chút uốn nắn để biến thứ chữ mới tượng hình<br />
mà mục đích chỉ nhằm rao giảng đạo chúa trở thành<br />
một phương tiện học hỏi và sáng tạo cho cả khối dân<br />
tộc kịp chân bước vào thời đại mới. Những Trương Vĩnh<br />
Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Bá<br />
184
Học, Nguyễn văn Vĩnh ... rồi Phạm Quỳnh với tạp chí<br />
Nam Phong, rồi Tản Đà ngoài bắc Hồ Biểu Chánh trong<br />
nam... rồi ... v.v... và v.v... Kế đó tiếp nối những khai phá<br />
của những Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng<br />
Phụng ... với phong trào Thơ mới như sự ngửng mặt của<br />
một hồn tính việt nam thức tỉnh sau cả ngàn năm lệ<br />
thuộc vào ý hệ phương bắc ... Chữ nghĩa một ngày một<br />
dồi dào, mỗi lúc mỗi hoa gấm. Xảy đến cuộc chia cắt đất<br />
nước năm 54, nhưng ở miền nam là cả một trời sáng tạo<br />
nhằm phá vở mọi thành trì cổ điển để tạo nên những cổ<br />
điển mới ... Những đột phá của Mai Thảo với nhóm Sáng<br />
Tạo, Nguyên Sa với Hiện Đại, Vũ Khắc Khoan với Vấn đề,<br />
Nguyễn Khắc Hoạch với Thế kỷ Hai Mươi, Viên Linh với<br />
Khởi Hành ... những Võ Phiến, Đinh Hùng, Bình Nguyên<br />
Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Đình Toàn, Tô Thùy Yên,<br />
Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy Vũ v.v ... và v.v...<br />
Làm sao kể hết ! Làm sao kể đủ ! Còn những người lính<br />
vừa đánh trận vừa viết truyện. Những anh học trò vừa<br />
học bài vừa làm thơ. Từ thành phố đến núi rừng, đâu<br />
đâu cũng rộn ràng những dòng chữ, những khám phá và<br />
những kết tinh. Thơ văn bay nhiều không thua lửa đạn.<br />
Còn nhiều nhiều lắm ! Làm sao kể hết ! Mà thật ra có kể<br />
hết được đâu nét tài hoa ngùn ngụt đó.<br />
Bây giờ tự dưng rồi đòi hủy bỏ thứ chữ viết ruột rà đó để<br />
thay bằng một loại qui ước mới chẳng hợp lý hợp tình<br />
mà cũng chẳng một mảy may cần thiết. Làm vậy chẳng<br />
khác gì thẳng tay chặt đứt chiếc cầu bắt qua triệu triệu<br />
185
tấm lòng dân Việt từ muôn đời trước đến ngần ấy đời<br />
sau.<br />
Lịch sử Việt đã trải qua hơn hai ngàn năm Bắc thuộc,<br />
trăm năm Pháp thuộc mà người Việt ở trong nước hay<br />
biệt xứ khắp cùng mặt đất, mà người Việt từ mấy ngàn<br />
năm trước đến người Việt của mấy ngàn năm sau còn<br />
hiểu được nhau, còn kết nối được nhau, còn có cơ liên<br />
lạc được nhau phải chăng chính là do thứ chữ Việt đã<br />
được sáng tạo, điểm xuyết và giảng dạy từ gần bốn trăm<br />
năm nay. Vậy hà cớ gì mà đòi đổi đòi thay. Vậy hà cớ gì<br />
mà muốn bứng cả gốc rể của một rừng đại thụ vốn toàn<br />
là gỗ quí.<br />
Nếu không vì thứ tự cao tự đại ngu xuẩn thì hẵn cũng vì<br />
một thứ mưu đồ đen tối nào đó.<br />
Dòng sinh mệnh của ngôn ngữ cũng y như của con<br />
người, cũng sinh diệt thăng trầm theo lẽ tự nhiên nhưng<br />
lẽ đâu không cố luyện cho tinh tuyền lại đem học-đòipha-trộn-chắp-vá-vay-mượn-quá-ư-ngu-xuẩn<br />
với thứ<br />
chữ của nước ngoài, nhất là thứ nước ngoài vốn dĩ đã là<br />
giặc trong từ hơn mấy ngàn năm lập nước và giữ nước<br />
của cha ông.<br />
v.v... và v. v...<br />
Còn điều gì để nói thêm, buổi hôm tựu trường trên một<br />
xứ sở tạm trú, cách xa nơi sanh đẻ hơn nửa vòng trái đất,<br />
nơi bên nây ngày lên thì bên kia đêm xuống, nơi có<br />
những đứa-trẻ-việt-nam từ sanh ra đã có cha mẹ ông bà<br />
186
cứ tha thiết móm cho nó ê a từng dấu giọng sắc-huyềnhỏi-ngã-nặng<br />
dù không phải không biết mai kia mốt nọ,<br />
thứ tiếng mẹ-đẻ-cha-đẻ đó cũng chỉ còn là những hoài<br />
vọng về một gốc gác đã mù. Nhất là trong một thế giới<br />
đang trên đà tiến bộ bằng những đôi-hia-bảy-dặm.<br />
Dẫu vậy, họ vẫn ru, vẫn ầu ơ ... từng khuya hôm, vẫn<br />
móm đút từng trưa sớm ... từng tiếng từng chữ ... dẫu<br />
biết rằng ... dẫu biết rằng ... !<br />
Vui thêm hay buồn thêm, buổi sáng tựu trường này, lần<br />
thứ bao nhiêu trong đời tôi, biệt xứ !<br />
187
tranh CAO HÀNH KIỆN
Lời trần tình<br />
của người thầy cũ<br />
trích ...<br />
...........<br />
1.<br />
Tại sao đến hôm nay tôi lại viết những dòng này ?<br />
Những dòng chữ lẽ ra phải được viết từ nhiều năm trước.<br />
Tại sao tôi đã giữ kín trong lòng hơn suốt hai mươi mấy<br />
189
năm nay những điều tôi sẽ nói bây giờ. Bởi vì tôi thấy nó<br />
tầm thường, quen thuộc đến nhàm chán. Nó hao hao<br />
giống với hàng trăm hàng ngàn câu chuyện đã được kể<br />
ra. Câu chuyện về một quê hương bị bức tử, của hai<br />
mươi lăm triệu người bị tước đoạt quyền sống một cách<br />
ngang nhiên, tức tưởi. Câu chuyện tôi kể có khác không ?<br />
Chắc là không ! Chỉ thay đổi một cái tên, một nhân dáng<br />
là có một câu chuyện đời thương tâm, quen thuộc đến<br />
độ cái thương tâm khó còn làm xúc động ai nữa. Tội<br />
nghiệp cho tôi, tội nghiệp anh, tội nghiệp em, những con<br />
người đã quen với cái bất hạnh đến thành dửng dưng,<br />
quen với cái tan nát đến độ chai lì. Tội nghiệp trái tim<br />
Việt Nam đã quá độ cằn cỗi.<br />
Vậy tại sao tôi còn viết. Tại sao trong cái buổi chiều nắng<br />
nhạt ở một thành phố ven biển miền tây nước Mỹ, bỗng<br />
nhiên tôi gặp lại em, người học trò cũ. Người thiếu phụ<br />
trên dưới 40, trong bộ âu phục lịch sự đã đến chào tôi<br />
bằng tiếng thầy vốn quá xa lạ từ hơn hai mươi năm nay,<br />
giữa một nơi lạ lẫm đến từng cọng cỏ ngọn cây, đã làm<br />
tôi thảng thốt đến độ sững sờ. Em đó sao, cô học trò<br />
ngày xưa rụt rè như thỏ con, cứ mỗi lần được gọi trả bài<br />
là mắt như rươm rướm, ngồi im như pho tượng nhỏ,<br />
thành khẩn và tin cậy, nghe tôi mở đầu bài giảng Chinh<br />
phụ bằng cái hình ảnh tuyệt vời của tiếng trống trận dập<br />
dồn làm lay động cả bóng trăng xưa. Cái cô học trò nhỏ<br />
vẫn thường tung tăng chiếc áo dài chưa-biết-sầu trong<br />
những quán bán quà vặt ngoài cổng trường, vẫn thường<br />
len lén cắm vội cánh hoa tươi lên bàn thầy như một lời<br />
190
cám ơn nhỏ nhẹ và kín đáo. Tại sao hôm đó, giữa những<br />
lời thăm hỏi nồng nàn hay dửng dưng, giữa nỗi ngậm<br />
ngùi của một thân quen gặp lại, nỗi hụt hẩng của một<br />
cái tên biệt tích, cái náo nức của một lời hẹn tái ngộ, em<br />
bỗng hỏi tôi một cách điềm đạm và ân cần, điềm đạm<br />
như cánh hoa dại ngắt vội bên đường và ân cần như<br />
ngón tay vụng lén cắm vội lên góc bàn viết, em đã hỏi<br />
tôi :<br />
-Vậy chớ thầy đã sống ra sao từ hai mươi mấy<br />
năm nay ?<br />
Câu hỏi bỗng làm tôi giựt mình. Tôi đã sống ra sao từ hai<br />
mươi lăm năm nay ? Có lần nào tôi đã hỏi mình như vậy<br />
? Cuộc sống như dòng sông phẩn nộ, cuốn phăng ta đi<br />
không-nghĩ-lại-qua-đêm ! Người xưa đã nghĩ vậy, bây<br />
giờ tôi thấy còn đúng hơn nữa. Con sông Việt Nam chảy<br />
tẻ thành triệu nhánh, có nhánh dài nhánh ngắn, nhưng<br />
nhánh nào cũng chảy miết xa nguồn. Có lần nào mỏi mê<br />
chèo chống ta ngó lại đời ta ? Bến nước nào bỏ lại ? Bãi<br />
bờ nào đành đoạn xa ? Những cầu sương điếm cỏ !<br />
Những quán khách dặm trường ! ... Có một lần nào ngồi<br />
lại ta tính toán đời ta chưa ? Những được thua còn mất !<br />
Những ân oán nợ nần ! Ta đã làm được gì đời ta ? Hai<br />
mươi lăm năm qua mãi miết như tên bại tướng lọt giữa<br />
vòng vây, tả xung hữu đột, đến lúc kiếm gãy cờ tan mà<br />
vòng thù còn trùng điệp, tự dưng sao thấy lòng ngao<br />
ngán chỉ muốn buông tay ngồi bệt xuống vệ đường, bật<br />
khóc. Bởi lẻ, trong phút giây, tất cả rồi ra sẽ nhạt nhòa<br />
như một cái gì không có thật.<br />
191
Tôi đã sống thế nào trong những năm qua ? Sao bỗng<br />
dưng tôi thèm được một lần tâm sự dù biết rằng ở giữa<br />
lòng ốc mượn, có nói gì cũng không hết tang thương.<br />
Hai mươi lăm năm có phải đã đủ khoảng cách và bình<br />
tĩnh để nhìn lại một chặng đường.<br />
Tôi, thằng sinh viên 19 tuổi năm 65 đến trường Văn Khoa<br />
để lang thang ngoài hành lang lộng gió thường hơn<br />
trong giảng đường chật nứt, đã ngồi ở quán cà-phê Văn<br />
lâu hơn ở thư viện, vẫn viết vội những câu thơ bất chợt<br />
lên góc mấy bao thuốc lá rồi bỏ quên đâu đó mất biệt,<br />
đã chảy nước mắt nghe Khánh Ly đi chân trần hát tôi-cóngười-yêu-chết-trận-Ba-gia<br />
... trên nền đất cũ cạnh<br />
đường Lê Thánh Tôn, đã đọc ngấu nghiến truyện Bắt trẻ<br />
đồng xanh của Salinger suốt một đêm thức trắng, đã đi<br />
trình diện vào trường Đại Học Sư Phạm với chiếc quần<br />
jean bạc thếch và đầu tóc dài ngổ ngáo, đã ngồi mò<br />
mẫm học nắn nót từng nét chữ tàu và cũng hay lang<br />
thang ngoài phố để nghe người nhạc sĩ già oằn người<br />
thổi bản Summertime lúc nửa đêm về sáng. Thằng thanh<br />
niên lạ lùng, tên giáo sư trẻ ra trường năm vừa hai mươi<br />
ba tuổi, lãng mạn như một bài thơ tình, đứng đắn -hay<br />
cố gắng đứng đắn- như một nhà giáo lão thành, với<br />
những mâu thuẩn trùng trùng đó đã sống thế nào từ hai<br />
mươi lăm năm nay ? Từ cuộc đổi đời năm ấy ?<br />
... Lệnh đầu hàng từ Sài Gòn loan ra trưa ngày 30 tháng<br />
4 năm 1975. Lời báo dữ như tiếng sấm trái mùa làm nổ<br />
192
tung giông bão đang giậm giựt giữa thinh không. Lòng<br />
người cũng giống thinh không buổi đó, ngầy ngật cơn<br />
nóng sốt thời cuộc, âm ỉ một niềm lo nghĩ không nguôi.<br />
Người ta chờ đợi một cái gì đó xảy ra, một cái gì mơ hồ<br />
không dám nghĩ tới vậy mà cứ lẩn quẩn trong đầu. Từ<br />
vài tháng gần đây, tin tức chiến sự và chính trị mỗi ngày<br />
mỗi tồi tệ. Mùa mưa sắp đến. Cộng quân chuẩn bị đánh<br />
lớn như mọi năm. Ở Sài Gòn thì năm phe bảy phái rình<br />
rập nhau tranh giành quyền hành. Rồi Cao Miên và Lào<br />
lần lượt thất thủ. Rồi miền Trung di tản. Cao nguyên bỏ<br />
ngỏ. Từ giữa tháng ba, những chiếc bè mỏng manh chở<br />
người lánh giặc từ vùng giới tuyến đã bắt đầu tấp vào bờ<br />
biển Phan Thiết, Vũng Tàu. Người ta xầm xì bàn tán về<br />
một giải pháp liên hiệp, những cắt đất chia ranh, hoặc tệ<br />
hơn nữa, một đảo Phú Quốc như trạm tự do cuối cùng<br />
cho đám người cùng khổ. Người ta lo lắng, nghi ngại, hy<br />
vọng rồi thất vọng, rồi lại tiếp tục lo lắng, nghi ngại ...<br />
Những người có tiền của, quyền thế thì chộn rộn sửa<br />
soạn cho một chuyến đi xa. Còn đa số tiếp tục sống<br />
trong nỗi hoang mang, trì trệ. Trường học vẫn còn mở<br />
cửa nhưng chỗ ngồi đã thưa trống dần. Sợ chờ đợi kéo<br />
lê ngày tháng một cách mệt nhọc.<br />
Cho đến buổi trưa ngày 30, trời đất bỗng như tan tành<br />
trong một giây một phút. Lệnh buông súng xắn xả như<br />
viên đạn bắn trúng ngay tim. Trong một chốc, cả miền<br />
Nam như ngừng thở. Người ta sửng sốt, bàng hoàng,<br />
ngây dại như tỉnh như mê. Người ta thử nghe đi nghe lại<br />
như cố nghĩ mình nghe lầm, như có một cái gì đó không<br />
193
thật. Mọi người chết điếng nhìn nhau, lẳng lặng, thất<br />
thần. Rồi bỗng như một cơn đau kích xúc mãnh liệt ùa<br />
tới, mọi người chợt hiểu. Cái không dám nghĩ tới đã tới.<br />
Tới thật. Đến lúc đó, nỗi sợ hãi như một cơn gió lạ thổi<br />
rút vào người, luồn theo mạch máu làm tê liệt châu thân,<br />
căng thẳng đầu óc, cổ khô, miệng đắng, chân tay rời rã.<br />
Người ta biết không phải chiêm bao, người ta biết mình<br />
đang ở giữa một sự thật, cái sự thật mạnh hơn cả đạn<br />
trái phá, nổ tung hết cả ước mơ của một đời người, giựt<br />
sập hết mọi niềm tin của bao thế hệ. Người ta cảm thấy<br />
chới với, hụt hẩng, ngơ ngác, bối rối ... Người ta đổ túa<br />
ra đường, chạy vội về nhà, nhốn nháo một cách vô ích<br />
như chỉ để có một cái gì đó để làm, như chỉ để lấp đầy<br />
cái khoảng trống khủng khiếp vừa hiện ra giữa đời sống,<br />
trong lòng người.<br />
Miền Nam chống giặc từ 30 năm không phân thắng bại,<br />
vậy mà tự dưng sụp đổ trong vòng 55 ngày. Dân theo<br />
quân kéo nhau chạy chết, dẫm đạp lên nhau, trong khi<br />
đạn thù xối xả đuổi sau lưng, xác bỏ sình thối bên vệ<br />
đường mù bụi hay trôi tấp theo sóng biển vật vờ.<br />
Địa ngục ở một chỗ rất gần và rất thật !<br />
Anh nghĩ gì, hởi người lính trẻ, khi anh kê súng tự bắn<br />
vào đầu, buổi sáng ngày 30 bên chân cầu xa lộ. Có phải<br />
cái hình ảnh cuộc tháo chạy thảm hại của cả một chế độ<br />
đã làm anh hổ thẹn ? Hay cái cao ngạo sừng sững của<br />
hồn thiêng sông núi đã không cho anh khuất nhục ? Cái<br />
194
chết của anh có phải là lời cảnh cáo hay chỉ là lời nhận<br />
lỗi của cả một thế hệ bị hy sinh ?<br />
Có ai còn nhớ không anh ?<br />
Vậy đó mà miền Nam mất.<br />
Vậy đó mà dâu bể tang thương.<br />
Người cộng sản vào thành phố với lời phủ dụ ngon ngọt<br />
không-đụng-tới-cây-kim-sợi-chỉ của người dân. Tuy<br />
nhiên thực tế khác xa cả trời cả vực. Ai cũng biết sẽ có<br />
nhiều thay đổi nhưng không ai ngờ sự thay đổi rốt ráo và<br />
tàn tệ tới vậy. Người ta bắt đầu một cuộc tàn phá mới<br />
sau 30 năm tàn phá đất nước và con người bằng súng<br />
đạn. Cuộc chiến tranh hũy diệt mới, ít ồn ào hơn, cũng<br />
không kém phần tàn độc. Bằng những âm mưu thâm<br />
hiểm và những tính toán xảo quyệt mà người ta đã tìm<br />
cách quân-bình-hóa hai miền nam-bắc, thay vì tìm cách<br />
nâng cao đời sống của miền Bắc, người ta lại kéo tụt đời<br />
sống của miền Nam xuống cho ngang tận mức kiệt<br />
cùng. Bằng cách nào thì cũng không che giấu được cái<br />
tâm lý hèn hạ nhỏ nhen vì ghen tức của đám lãnh tụ mất<br />
lương tri, sôi sụt ý muốn trả thù trước một miền Nam<br />
phồn thịnh dù vừa xây dựng vừa phải chống giặc. Song<br />
song với những cuộc đổi tiền- một hình thức phá giá<br />
đồng bạc- những cuộc cướp giựt tài sản của tư nhân<br />
được ngụy danh là cải tạo kinh tế xả hội, gom hết mọi tài<br />
lực, vật lực và nhân lực của đất nước vào trong tay một<br />
nhóm người vừa ngu dốt vừa cuồng tín, người cộng sản<br />
tổ chức một cuộc tráo đổi “ vĩ đại’’ và “ ngoạn mục ”.<br />
195
Hằng ngày, hằng đêm từng đoàn xe vận tải bít bùng,<br />
những chuyến xe lửa dài thậm thượt vội vội vàng vàng<br />
tháo gỡ máy móc, dụng cụ tân tiến cồng kềnh chở rầm<br />
rộ về Bắc, để rồi chở quay ngược vào Nam những đoàn<br />
bộ đội ngờ nghệch, những cán bộ xảo quyệt, những<br />
đám dân nghèo đói từ hai-mươi-năm-xả-hội-chủ-nghĩa,<br />
đổ xô vào những thành phố mới chiếm để tiếp tục cuộc<br />
vơ vét, xin xỏ, tráo trở, mua rẻ, hăm dọa ... đủ kiểu đủ<br />
cách gom góp từ cái chén, đôi đủa, cái đồng hồ, chíếc xe<br />
đạp, cái ti-vi ... đến căn nhà, dãy phố ... Cùng lúc, nhà tù<br />
được ngụy danh là trại cải tạo mọc lên như nấm dại,<br />
trong thành phố, ngoài đồng hoang, hay tít trên những<br />
vùng rừng sâu nước độc. Bằng thông báo chỉ thị mập<br />
mờ, nhà cầm quyền mới lừa gạt đưa vào tù hàng trăm<br />
ngàn quân nhân công chức của chế độ cũ trong khi<br />
hàng giờ hàng phút, từ miệng những chiếc loa treo mắc<br />
khắp hang cùng ngỏ hẻm ra rả những lời bao dung<br />
khoan hồng hòa họp hòa giải ... Sau những cuộc sàng<br />
lọc, kẻ nhốt trong Nam, người đày ra Bắc. Từng đoàn tù<br />
chất chồng trên những toa tàu chở súc vật chạy băng<br />
băng trong đêm tối kinh hoàng, từ Nam ra Bắc, đổ<br />
xuống và dẩn giải qua những xóm làng xa lạ và thù<br />
nghịch. Hai bên đường, dân chúng được tổ chức, xúi giục<br />
chửi rủa ném đá vào những xác người tả tơi thất thểu.<br />
Cuộc trừng phạt trả thù không kể ngày tháng, người tù<br />
không danh số, không bản án một khi bước vào trong<br />
cổng trại tự nhiên biến mất như chìm lẫn vào những<br />
rừng cây bạt ngàn, mất hút trong những đồi núi chập<br />
chùng, không còn lại chút dấu vết. Thế giới không hay<br />
196
iết -hay không muốn biết đến- dãy quần-đảo-ngục-tù<br />
nằm mênh mông ngay trong lòng đất nước như một vết<br />
chàm ô nhục. Ở đó người tù bị bỏ đói ngày này sang<br />
tháng khác đến độ phải ăn cả côn trùng, củ dại để sống<br />
sót, phải lượm mót từng bao cát mục nát để chắp vá che<br />
thân, phải lao động khổ sai bằng tay không và chân trần<br />
đến kiệt lực. Ở đó, bệnh hoạn không một viên thuốc, cô<br />
lập bít kín mọi tin tức bên ngoài, người tù còn phải chịu<br />
đựng một cuộc tra khảo tinh thần thường trực bằng<br />
những màn tự khai, tự thú, phản tỉnh ... Đã không ít<br />
người còn có dịp trở ra.<br />
Địa ngục trần gian có ở một nơi rất gần và rất thật.<br />
197
trích ......<br />
.........<br />
2.<br />
Và để chấm phá thêm cho đủ nét bi-hài của vở-tuồnggiải-phóng,<br />
tôi và một số đồng nghiệp cũng bị bắt đi tùcải-tạo<br />
với một tội danh hết sức ngộ nghĩnh : “ dạy học<br />
trò thi đậu tú tài để đi sĩ quan đánh phá cách mạng (sic)”.<br />
....................<br />
Nhiều đêm, nằm trằn trọc trên tấm tôn lạnh buốt, trong<br />
ngôi đình làng được biến thành trại tù, tôi bật cười khan<br />
khi nghĩ tới tội danh “ khôi hài ” đến chết người này. Hóa<br />
ra từ mấy năm nay dạy cho học trò lòng nhân ái, nghĩa<br />
yêu thương, tình bằng hữu, biết thưởng thức cái đẹp, tôn<br />
trọng sự chân thực ... là một cái tội. Tội chi mà tội lạ. Như<br />
vậy nếu theo đà lý luận này thì phải sát nhân, căm thù,<br />
phản trác, lật lọng mới là “ cách mạng ”. Nghĩ mà thương<br />
cho mớ chữ nghĩa của cha ông bị bóp méo vo tròn<br />
trong thời đại dối trá.<br />
....................<br />
Giữa đêm oan khuất mịt mờ âm khí của trại giam, tôi cứ<br />
thao thức, mắt mở trao tráo, lăn lộn với những thắc mắc<br />
không lời giải đáp. Tại sao cuộc chiến 30 năm ? Tại sao<br />
198
hòa bình ? Để làm gì đống xương vô định đó ? Chẳng lẻ<br />
để đánh đổi sự lệ thuộc này bằng sự lệ thuộc khác, tệ hại<br />
hơn cả vạn vạn lần ?<br />
....................<br />
Trong những lúc cùng quẩn nhất, sao tự nhiên tôi nhớ lại<br />
cặp mắt thất thần của người thi sĩ vô danh trong cuốn<br />
phim Docteur Djivago chiếu ở Sài Gòn mới vài năm<br />
trước. Trên chuyến xe lửa chở tù đi lưu đày xuyên Tâybá-lợi-á<br />
vào thời kỳ cộng sản cướp chính quyền ở nước<br />
Nga, chen chúc giữa đám tù nhân nằm ngồi la liệt như<br />
cá đóng hộp, anh cố nhoi mình chen sát kẽ vách nhìn<br />
cho được con trăng cô đơn trắng lạnh, treo ở một góc<br />
trời. Cặp mắt mở trừng trừng mà như trống hoác, sâu<br />
thăm thẳm. Đôi con ngươi bất động như cố chụp bắt<br />
cho được con trăng đang chạy vun vút ngược đường tàu.<br />
Chắc anh nghĩ sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại vầng trăng<br />
lãng mạn đó nữa khi đất nước anh đã lọt vào bàn tay<br />
của lũ sát nhân. Sao tôi không quên được cặp mắt đó dù<br />
nhiều năm đã qua. Cặp mắt ngơ ngác, buồn rầu, bơ vơ<br />
đến tuyệt vọng. Tia nhìn như hai ngọn đèn hiu hắt chiếu<br />
rọi qua dặm trường thất lạc, như một thú nhận cho sự<br />
bất lực của những giá trị tinh thần trước cơn bạo hành<br />
của lịch sử. Cặp mắt như một hoi hóp của lương tri, báo<br />
hiệu cho thời đại suy tàn của con người. Sao cặp mắt cứ<br />
nhìn tôi chòng chọc ngay trong cơn mê mệt rã rời. Tôi<br />
thấy mình hấp hối như con cá mắc cạn, chờ chết. Và dân<br />
tộc tôi, dân tộc tôi cũng đang hấp hối chờ chết trong mẻ<br />
lưới khổng lồ đó.<br />
199
Những câu hỏi “ tại sao ” cứ tiếp tục dằn vật, làm khổ tôi<br />
trong cuộc sống tù đày vốn đã không có gì dễ chịu.<br />
Những ngày tù kéo dài lê thê nhùng nhằng một cách vô<br />
tội vạ. Đúng y theo chủ trương bắt-lầm-hơn-tha-lầm,<br />
những người cầm quyền mới không biết phải giải quyết<br />
ra sao số phận của chúng tôi sau khi đã bắt nhốt vào<br />
đây. Càng lúc tôi càng cảm thấy buồn bực chua chát. Có<br />
dịp tiếp xúc với những cán bộ chính trị và quân sự của<br />
họ, tôi càng thấy vô lý cuộc bại trận của miền Nam và<br />
càng thêm bi quan cho những ngày sắp tới. Mức độ học<br />
vấn ấu trỉ, trong khi ý thức chính trị vừa cuồng tín vừa<br />
nông cạn của họ sẽ đưa đất nước tới đâu ? Có lúc nghe<br />
họ nói chuyện, tôi có cảm tưởng đang đứng trước một<br />
đám người máy, lập đi lập lại y nguyên, không sai một<br />
dấu phẩy, không sót một dấu chấm những điều đã được<br />
cấy nhét vào bộ óc của họ, y như một con két nói líu lo<br />
mà không biết mình nói gì. Rồi ra chúng ta sẽ sống ( hay<br />
chết !) ra sao với những người chủ mới, cầm quyền với<br />
mớ kiến thức cạn sớt, lòng hẹp hòi đầy mặc cảm và nhất<br />
là đường lối chính trị lỗi thời ? Rõ ràng chúng ta đang<br />
sống vào một thời kỳ oái oăm của lịch sử, mới hết tang<br />
thương này đã vội sang đoạn trường khác. Những trái<br />
ngang đã liên tiếp xô đẩy bao nhiêu thế hệ người Việt<br />
vào cảnh chết chóc phân ly và bây giờ gọi là hòa bình,<br />
chúng ta vẫn tiếp tục phân ly thù hận. Chúng ta sẽ tiếp<br />
tục ly tán như vậy cho tới bao giờ. Cái cảnh một người<br />
học trò cũ, trước giấu mặt như một kẻ nằm vùng nay là<br />
một cán bộ thành danh, tình cờ đến gặp tôi, đứng trò<br />
chuyện bên kia hàng rào kẻm gai một buổi trưa giáp tết<br />
200
có phải là tiêu biểu cho nỗi oan trái đó không ? Đứa học<br />
trò mà tôi đã dạy liên tiếp ba năm từ lớp đệ tam đến đệ<br />
nhất. Đứa học trò đã cùng tôi tranh luận về những chủ<br />
nghĩa chính trị xã hội khi ngồi đón mặt trời mọc ở bãi Đá<br />
bàn một buổi sớm cắm trại ngoài hòn Sơn rái. Nó có<br />
một cái tên khá đặc biệt mà tư tưởng và hành động đã<br />
làm tôi nghi ngờ - không, tôi biết chắc là có liên hệ với<br />
phía bên kia. Tại sao tôi giữ kín trong lòng mối bí mật đó<br />
? Tại sao tôi không báo với nhà trường ? Với chính quyền<br />
? Tôi đồng ý với nó ? Chắc chắn là không. Thương nó ?<br />
Có thể có. Nhưng ở cương vị một người thầy, tôi có làm<br />
công việc điềm chỉ đó được không ? Điều tôi giữ kín có<br />
phải không ? Và như vậy tôi sẽ nói thế nào về người em<br />
họ, 19 tuổi, chuẩn úy vừa ra trường được 6 tháng, lãnh<br />
nguyên một tràng đạn AK trong đêm hưu chiến tết Mậu<br />
Thân, chết không kịp kêu lên một tiếng má ơi, chết mà<br />
chưa có được một người yêu để biết thương nhớ. Sự kín<br />
miệng của tôi có phải là một phản bội trắng trợn với<br />
những người bạn đồng lứa đã lặn lội ngày đêm trong<br />
những cánh rừng tranh dài bạt ngàn, những đầm lầy lún<br />
sâu tới ngực, cả tuổi thanh xuân nặng trình trịch ba-lô<br />
súng đạn, máu mồ hôi và nước mắt, ngày di hành tối<br />
nằm tiền đồn, để giữ an ninh cho một thành phố, một<br />
ngôi trường được yên lành học tập, một ngôi chợ được<br />
yên lành mua bán.<br />
Tôi sẽ nói gì về người vợ trẻ mà cuộc sống lứa đôi chỉ là<br />
ngày tháng đợi chờ, về người góa phụ mới hai mươi tuổi<br />
ẳm đứa con sơ sinh đi nhận xác chồng, về những người<br />
mẹ người cha suốt đêm van vái khi nghe xa tiếng đại bác<br />
201
vọng về, về viên đạn trái pháo bắn ngay vào trường lớp<br />
Cai Lậy, về những hầm chôn người tập thể ở Huế, về trái<br />
lựu đạn nổ ngay giữa phiên chợ đầu xuân ... và sẽ nói gì<br />
với người bạn tù đang oằn oại dưới đòn thù tàn độc<br />
trong các trại lán cheo leo. Tôi sẽ trả lời ra sao với người<br />
phế binh đang lê lết ăn xin ngoài phố chợ ?<br />
Có lời nào để biện hộ cho cái thái độ im lặng đó ?<br />
Câu hỏi quái ác như cái mỏ nhọn hoắc của loại dị điểu<br />
quặp cứng trái tim của tôi, rỉa rói để tìm cho được câu trả<br />
lời. Nhưng có câu trả lời nào đâu em ! Ai nói được cho<br />
tôi thái độ của người học trò cũ, người cán bộ của tỉnh<br />
ủy bây giờ, nếu đổi ngược vai trò, có sẽ giữ kín “ bí mật ’’<br />
của người thầy cũ dưới thời “ công an trị ”.<br />
Ai sẽ giải thích giùm tôi về thái độ cầu an, thờ ơ, thụ<br />
hưởng của người-dân-hậu-phương suốt cuộc chiến 30<br />
năm, cuộc chiến tranh gọi là toàn diện mà mỗi gốc cây<br />
là mìn bẩy, mỗi bãi cỏ che giấu một hầm chông tẩm độc,<br />
mỗi lời nói là một âm mưu, mỗi hình ảnh là một dàn<br />
dựng thâm hiểm ...<br />
Ai sẽ giải thích giùm tôi những trác táng của đêm Sài<br />
Gòn xa hoa, những nhớp nhúa của tối Chợ Lớn trụy lạc,<br />
những đồng bạc mua nửa miệng cười gái nhảy bằng cả<br />
tháng lương của anh binh nhì gạo sấy lương khô ngày<br />
này sang tháng khác ...<br />
Ai sẽ nói giùm tôi về ông tướng hối lộ, ông dân biểu<br />
buôn lậu, những ông trí thức ngồi xa-lông bàn chuyện<br />
quét dọn xã hội, những tuyệt- thực-tự-thiêu, những bãikhóa-xuống-đường,<br />
những ký-giả-bị-gậy-đi-ăn-mày,<br />
những phong-trào-đòi-quyền-sống v.v... và v.v... Ai sẽ<br />
202
chỉ rõ cái trách nhiệm của tôi, của anh, của chị, của<br />
chúng ta trong cơn đổ vở này?!<br />
Có ai không ? Hay chỉ là những im lặng đồng lõa, những<br />
nín thinh cam phận, những lãng tránh vu vơ, hay chỉ là<br />
những đổ thừa tệ bạc, những trốn chạy hèn nhát ... Và<br />
tôi, tôi đã đóng vai trò gì trong vở tuồng trường hận đó<br />
?!<br />
Cái trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta đến đâu,<br />
làm sao tính toán đo lường được. Chỉ thấy rõ một điều là<br />
ngày hôm đó, người học trò đứng bên kia hàng rào, phía<br />
kẻ chiến thắng, và tôi bên này, phía bại trận, người thầy<br />
đã từ chối làm một-việc-cần-làm. Hằng hà sa số côngviệc-cần-làm<br />
khác đã bị bỏ lỡ, bị từ chối, bị trốn tránh ...<br />
Và bây giờ cuộc tháo chạy, sự đổ vở, cảnh tù đày, nỗi<br />
tiếc hận có phải là cái giá của một nền đạo đức mà tôi<br />
đã được nuôi dạy, của một tình tự mà tôi đã nghe ru từ<br />
thuở nằm nôi. Cái nhân nghĩa mà người bên này đã chọn<br />
lựa, đã chiến đấu để bảo vệ cho dù đó là một trong<br />
những đầu mối của cuộc thất bại trong cuộc chiến<br />
trường kỳ giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai .<br />
Ai sẽ trả lời ? Và trả lời ra sao cho câu hỏi oái oăm đó ?<br />
Những ngày cuối năm, trời bỗng trở lạnh bất thường,<br />
lạnh như miền Nam chưa từng có. Tối tối đám tù tụ năm<br />
tụ bảy nhúm củi khô mót lượm từ chiều để sưởi ấm.<br />
Ngọn lửa rọi chập chờn từng mặt người ủ dột. Ai nấy<br />
buồn thắt dạ bởi không ai biết được ngày về. Cái lạnh kỳ<br />
cục chui rút vào xương tủy làm như để nhắc nhở con<br />
đường khổ nạn nằm ngay chính trong ta. Sân trại rộng<br />
203
mênh mông, rải rác vài đóm lửa hiu hắt, mập mờ mấy<br />
bóng người quấn khăn mền sùm sụp im lìm đi tới đi lui<br />
trông không khác gì cảnh âm ty mộ địa. Đó lại là lúc dễ<br />
chịu nhất trong ngày của một người tù, bóng tối trở<br />
thành người bạn thân thiết, đồng lõa, sẵn sàng che giấu<br />
giùm ta mọi điều thầm kín. Ban ngày, ngay cả những lúc<br />
cuốc đất đào mương dở rào phá cổng, những cặp mắt<br />
cú vọ của bọn vệ binh, quản giáo nhìn ta gườm gườm<br />
như đã thù nhau từ muôn kiếp. Mọi cử chỉ, mọi ý nghĩ<br />
đều phải thận trọng kềm giữ nếu muốn tránh khỏi bị<br />
cùm chân hay nhốt vào thùng sắt biệt giam. Đêm về, chỉ<br />
còn ta và bóng tối. Đêm về chỉ có ta và gió và mây và tất<br />
cả những gì mà chế độ mới cấm đoán. Và nhất là những<br />
câu thơ kêu gào trong đầu khi giấy bút đã bị tước đoạt,<br />
tự do đã bị cướp mất. Những ngày đó tôi làm từng câu<br />
thơ vụn vặt, rời rạc giữa hai nhát cuốc, giữa mấy gánh đá<br />
nặng còng lưng, lẩm nhẩm thầm trong đầu cho khỏi<br />
quên, đợi đến đêm về trong bóng tối chập choạng, tìm<br />
cách chắp nối gói ghém lại thành bài. Những bài thơ<br />
lóng lánh từng giọt mồ hôi và nước mắt nhục nhằn.<br />
Tôi ba mươi tuổi chết không mồ<br />
Giữa trái tim nồng nhát chém khô<br />
Đã khóc Khuất Nguyên thời trẻ dại<br />
Mắt giờ cay xé chuyện dời đô<br />
Tôi viết điếu khúc cho tôi, cho anh em, cho bạn bè tôi,<br />
cho một dân tộc vừa bị bức tử. Tôi viết điếu khúc cho<br />
người còn sống hay đã chết. Tôi viết luôn cho người<br />
204
chưa sanh ra, bởi vì đất nước mà tôi để lại cho em sẽ<br />
không còn là cái quê hương hiền lành với tình người rạt<br />
rào như sóng lúa và đậm đà như sông nước phù sa. Tôi<br />
đã khóc không thành nước mắt hay chính là nước mắt đã<br />
chảy ngược vào lòng, khô quắt. Vì đúng ra có giọt nước<br />
mắt nào đủ mặn cho cuộc tang thương này.<br />
Ôi vết thương sầu tận đáy tim<br />
Năm năm vật vã nỗi đau chìm<br />
Đêm đêm máu gọi trường thiên hận<br />
Dậy lúc tàn trăng lạnh bóng đêm<br />
Cái vết thương không bao giờ lành. Cái vết thương còn<br />
mưng mủ nhiều năm về sau nữa.<br />
205
trích .......<br />
.........<br />
3.<br />
Sau hơn một năm nhốt lên nhốt xuống và chuyển từ trại<br />
tù này sang trại tù khác tôi được thả ra khỏi cái nhà tù<br />
nhỏ để đẩy vào cái nhà tù lớn hơn ngoài xả hội, cũng vô<br />
cớ như khi bị bắt đi tù.<br />
Kể từ hôm đó, tôi sống lưu vong ngay trên chính đất<br />
nước tôi !<br />
..................................................<br />
............................................<br />
.....................................<br />
Không ! Người ta không còn quê hương khi không còn<br />
thấy liên hệ gì nữa với mảnh đất vườn rau, công viên phố<br />
xá ... nhất là với nếp tinh thần đang bị ép uổng theo một<br />
thứ chủ nghĩa vừa ngoại lai vừa quái đản. Cuộc sống từ<br />
đó bị hạ thấp xuống ngang hàng thú dữ.<br />
Từ đó, bị dồn vào đường cùng, người Việt miền Nam bắt<br />
đầu tìm lối bỏ nước ra đi, bằng đường bộ hay bằng<br />
đường biển thì cũng chỉ là tuyệt vọng hóa liều, một kiểu<br />
đi tìm cái sống trong cái chết. Đi mà không biết chừng<br />
206
nào đi. Đi được rồi không biết chừng nào tới. Nếu tới<br />
cũng không biết tới đâu. Chưa kể những bẫy gài, những<br />
gạt gẫm, những mìn chôn ở bìa rừng, những đồn bót<br />
hiểm hóc, những dãy đá ngầm khôn dò, những mùa<br />
chướng không chừng đổi, đám hải tặc chực chờ và sau<br />
hết biển cả như một người tình phản trắc. Ở lại để chết<br />
dần mòn hay bỏ đi để chết dấp dúi ở một bờ bãi nào<br />
đó, người ta chọn cách thứ hai với chút hy vọng mỏng<br />
còn hơn sợi chỉ mành treo chuông. Vậy mà người ta vẫn<br />
tìm đủ cách để ra đi, bán nhà bán cửa, trốn chui trốn<br />
nhủi, nhịn đói nhịn khát để ra đi. Những người Việt mà<br />
nếp sống ngàn đời dính liền với ngọn rau tấc đất, với mồ<br />
mả ông bà, những người Việt mà đạn bom mấy chục<br />
năm không tách rời họ ra được khỏi làng xóm, mà thiên<br />
tai bão lụt chỉ làm họ nặng lòng hơn nữa với quê hương,<br />
đến cùng cũng dứt bỏ ra đi. Quả nhiên câu chuyện “ Hà<br />
chính mãnh ư hổ ” đâu phải chỉ có trong sách xưa thôi<br />
đâu. Đến cuối thế kỷ 20 người ta vẫn không sợ gì hơn sợ<br />
chính trị hà khắc. Người dân Việt vốn quen cực khổ như<br />
đã ngàn năm cực khổ với quê mẹ nghèo nàn, vẫn bám<br />
vào mảnh đất cằn cỗi như gốc tre già bấu rễ trong lòng<br />
đất, có nghiêng ngã theo gió bão, nhưng vẫn ở đó, dẻo<br />
dai, bền bĩ, an nhiên tự tại. Có ai bỏ đi đâu, đời này sang<br />
đời khác, dính liền như núm ruột. Vậy mà lần này bỏ đi<br />
thiệt, cắt ruột mà đi.<br />
Tôi đã thấy những cơn đau cắt ruột đó. Có thật trong<br />
mắt bà mẹ dặn dò gởi gắm đứa con trai 10 tuổi cho<br />
người quen dắt trốn. Có thật trong cái siết vai vội vã của<br />
người chồng chia dẩn hai con đi trước để lại hai đứa cho<br />
207
vợ đợi chuyến sau. Có thật trong cái lạy tử biệt cha mẹ<br />
già. Có thật trong cái vuốt mắt cho đứa em kiệt sức giữa<br />
rừng. Có thật trên xác thân trần truồng của em gái bị<br />
luân phiên hãm hiếp ở đảo Ko-Kra. Có thật ... Mà đúng<br />
ra làm sao tôi thấy hết được hằng hà cơn đau cắt ruột đó<br />
? Hơn 10 năm, bao nhiêu người ra đi, bao nhiêu người tới<br />
được một bãi bờ nào đó, còn bao nhiêu người đi mà<br />
không tới, hay tới mà không kịp lên bờ vì thuyền lật chìm<br />
ngay nơi bãi đến !<br />
Ở đảo Bi-đông, trên một góc đồi ngó cheo leo ra biển<br />
cả có một nghĩa trang sơ sài và những nấm mộ không<br />
tên. Ở đó ngày đêm gió heo hút thổi, cây cỏ lần lữa<br />
vàng,<br />
Ở đó, trại đã đóng cửa, người ta đã bỏ đi hết, những<br />
núm đất chắc đã lạn mất, những mộng đời bỏ dỡ, giữa<br />
đường...<br />
Tôi cũng bỏ xứ ra đi năm 80. Thuyền ra bến khoảng 3giờ<br />
sáng. Đêm mịt mù như tấm lòng bỏ lại. Tiếng máy chạy<br />
rì rầm không át được tiếng sóng vổ ngược rập rền. Khi<br />
thuyền chui ngang Cầu đúc để ra biển, sao bỗng nhiên<br />
tôi nghe tim nhói đau. Có phải không, tôi đang chạy trốn<br />
lần nữa cái trách nhiệm của mình. Năm năm ở đó, dò la<br />
nghe ngóng, hy vọng rồi thất vọng, tôi chẳng làm được<br />
gì ngoài cái việc tự cứu mình. Đất nước của tôi, đất nước<br />
của em, chúng ta bỏ lại mặc dầu có ai không tiếc<br />
thương. Xứ sở bị kềm kẹp nghẹt thở, bên kia biển là tự<br />
do hy vọng. Mọi người bỏ đi là lối thoát cho mình.<br />
Nhưng còn đó nguyên vẹn một cơn đau, còn đó đầy ứ<br />
những uất nghẹn. Ai sẽ cởi ách giùm ta nếu không phải<br />
208
là ta ! Một vài nhen nhúm phản kháng bị dập tắt trong<br />
trứng nước. Rồi thôi, coi như một việc đã rồi, mọi sự đã<br />
an bày, mọi người đều yên phận. Gục đầu ở lại hay cúi<br />
đầu bỏ đi cũng chỉ là chấp nhận một tình trạng không<br />
chấp nhận được. Chắc tại ta bất tài thiếu đức. Hay tại ta<br />
không đủ niềm tin. Hay vì cuộc chiến đã kéo dài quá<br />
mức, dài hơn cả độ dài của những tấm lòng trung kiên<br />
nhất, đến lúc kể cả những cánh tay rắn chắc và dẻo dai<br />
nhất cũng đành bỏ mặc buông xuôi ... Nước mất, chúng<br />
ta đành làm kẻ thất phu bỏ trốn. Chúng ta lần lượt bỏ đi,<br />
kẻ trước người sau, bất kể nguy hiềm kề cận từng bước.<br />
Cả thế giới khâm phục nỗi nhục nhằn mà người ra đi đã<br />
gánh chịu. Tuy nhiên đi mà em thơ còn thiếu bầu sửa<br />
ngọt, đi mà cha mẹ già còn bữa cháo bữa rau, đi mà cả<br />
nước vẫn tiếp tục chìm đắm trong cảnh ngu dốt nghèo<br />
đói, vẫn tiếp tục sống trong sự đối đãi bất nhân ... thì<br />
quả thật có phải là đầu hàng thêm một lần thứ hai nữa ?<br />
Sao ngày trước có Việt Câu Tiễn nằm gai để đừng quên<br />
nỗi nhục mà nay kẻ sĩ ít người còn chịu nếm mật để nhớ<br />
hận xưa Có phải tại phần số dân ta không ? Hay chính vì<br />
tại chúng ta là một dân tộc quá mau quên, lại còn nhẹ<br />
dạ !<br />
Tôi cũng vậy, tôi đang bỏ đi xa đây, hởi quê<br />
hương khốn khổ !<br />
Bốn ngày sau, thuyền tới đảo Bi-dong. Con thuyền nhỏ<br />
và mỏng như chiếc lá khô đổ lên bãi 90 người mất hồn,<br />
209
mệt lã. Chân lảo đảo vì say sóng, đầu còn lao đao giữa<br />
mộng và thực, bỗng nhiên tôi ứa nước mắt khi nhìn thấy<br />
lá cờ cũ bay phần phật trên cổng trại giữa một ngày gió<br />
lớn. Màu vàng lợt lạt, vải tưa sút sổ như đã treo ở đó từ<br />
lâu lắm, chắc đâu từ ngày người tỵ nạn đầu tiên đặt chân<br />
lên đảo. Chỉ có ba lằn gạch đỏ là còn đậm nét, cuốn bay<br />
ngoằn ngoèo, vùng vằng như thể vẫn còn giận dữ. Cái<br />
màu vàng đã phai, mấy lằn gạch đỏ còn đậm sao bỗng<br />
làm tôi khóc. Có phải tại tôi nhìn thấy màu vàng xơ xác<br />
đó trên màu da của tôi, của những người bạn đồng<br />
thuyền đang bở ngở dắt dìu nhau lê lết lên bãi, của<br />
những người đồng cảnh đến trước đang nhốn nháo kéo<br />
đến hỏi han tìm kiếm, của hàng trăm ngàn người đồng<br />
tình đang lưu lạc lang thang trong các trại tỵ nạn, và của<br />
hàng triệu triệu đồng bào tôi còn đang oằn oại ở xứ<br />
ngục tù. Có phải tại tôi nhìn thấy mấy lằn đỏ đó như mấy<br />
vệt máu tươi trên xác anh xác chị nằm chết la liệt vì<br />
miểng đạn pháo dọc Đại lộ kinh hoàng, vì viên đạn bắn<br />
sẻ lẻ loi từ một gốc cao su bên đường 13, vì trái mìn bẫy<br />
hèn hạ và mù lòa không phân biệt được một quân xa<br />
hay một chiếc xe đò chở dân đi chợ sớm. Có phải tại tôi<br />
thấy màu đỏ đó giống như màu máu đang chảy mệt<br />
nhọc trong huyết quản tôi, cũng giống y như màu máu<br />
đã chảy lênh láng trên đất nước tôi suốt ba mươi năm<br />
qua một cách vô lý và vô ích. Có phải không chính màu<br />
cờ đó mà anh đã tập chào kính ngay từ tuổi mới đến<br />
trường, đã theo anh suốt những năm tháng dài đi giữ<br />
nước, đã gói ghém thi hài anh buổi đưa anh vào lòng<br />
đất, bây giờ đây lá cờ đó đang bay vật vờ trên một đảo<br />
210
hoang ở giữa chừng biển lạ. Sao tôi thấy có một cái gì<br />
thảm thiết lắm. Sao tôi thấy chừng như mình quá đỗi bội<br />
bạc. Những người đã chết không còn vui hay buồn.<br />
Nhưng những kẻ còn sống làm sao vui được !<br />
Tôi mang nặng cái tâm tình đó đi định cư ở một vùng<br />
đất lạnh. Ở đây có những tháng mùa đông dài như bất<br />
tận. Gió đồng không khô khốc thổi tuyết bay mù mịt.<br />
Trời xám ngắt làm thèm nhớ một giọt nắng tươi. Mỗi lần<br />
ra đường là áo khăn trùm quấn sùm sụp từ đầu đến<br />
chân, nhiều năm sau vẫn không quên được cái hơi nóng<br />
nồng nàn của trời đất cũ, đêm chiêm bao cứ thấy đi về<br />
ngồi quanh bếp lửa quê nhà. Nhưng riết rồi cũng quen,<br />
quen cả cái lạnh nứt da bỏng thịt, quen với mùa màng<br />
chộn rộn, quen với nếp sống tất bật đến nỗi không có<br />
thì giờ để buồn tủi. Ban ngày làm công cho một tiệm<br />
buôn của Tàu, tối chạy giao hàng cho tiệm ăn của Ý.<br />
Cuộc sống kể ra cũng tạm yên. Số tiền kiếm được nhín<br />
nhút cũng đủ cho mấy miệng ăn ở đây và một phần<br />
chăm đút cho cha mẹ còn kẹt ở đó. Nghĩ ra cũng đáng<br />
công băng sông vượt biển ! Mấy năm đầu qua mau như<br />
sợi giây đàn căng cứng, sống chẳng kịp đắn đo. Nhưng<br />
rồi càng sống càng thấy mình lệch lạc. Nhiều khuya một<br />
mình lái xe về qua mấy con phố vắng hoe, lòng bỗng<br />
nhiên chùng xuống như sợi giây đàn lỏng phiếm, có khảy<br />
lên cũng chẳng nghe được tiếng nào ra hồn. Chẳng lẻ<br />
trầy trật chạy chết thoát sang đây để suốt đời bương chải<br />
lo cho mấy cái miệng ăn, còn lời hẹn lớn ngày bỏ ra đi<br />
sao chẳng lo được cho trót. Theo đuổi lắm lần rồi cũng<br />
211
chỉ thấy còn lại toàn đắng cay. Những lời thề xưa nghe<br />
sao thơn thớt ở đầu môi. Bạn đồng tâm một ngày một<br />
vắng vẻ. Có lắm khi giữa buổi chuyện trò chợt lỡ lời nhắc<br />
chuyện ngày xưa cũng đủ làm đôi người khó chịu. Mấy<br />
năm lận đận gồng mình nuôi thân nuôi con và nuôi chí<br />
cả chỉ làm mình thành cô đơn hơn nữa. Dường như đã<br />
không ít người quyết tình quên phứt cho đỡ phiền toái.<br />
Thật ra nói mà không trách được ai. Cái nợ nước nặng<br />
bằng non bằng biển, có một thời hình như ai cũng nhớ<br />
cũng mang. Nhưng rồi chuyện quê hương mà có lúc<br />
đem rao bán, đổi chác làm sao cho khỏi chán chường.<br />
Người thiên hạ cũng giống như chim bị tên sợ ná, đôi lần<br />
đem tấm lòng son gởi gắm, việc lớn đã không thành thì<br />
chớ, lắm khi lại thấy cảnh xôi thịt tranh giành, thử hỏi làm<br />
sao giữ cho bền chí được. Chắc tại căn phần của đất<br />
nước ta. Hay như đã nói tại chính chúng ta, chúng ta là<br />
một dân tộc quá mau quên. Có phải không, hãy thử nghĩ<br />
lại coi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ cha bỏ mẹ đã xẻ thịt<br />
cho ta chào đời, đã vắt cạn bầu sửa lép cho ta kháu<br />
khỉnh, đã còng lưng cho ta đứng thẳng lên làm người,<br />
đến ta khôn lớn mẹ cha mòn mõi mắt mờ chân yếu ta lại<br />
bỏ mà đi. Bỏ quê hương chúng ta bỏ trời bỏ đất đã che<br />
chở cưu mang, đã cho ta hạt cơm ngon, mùi hương lạ,<br />
đã cho ta biết tình đầu ngây ngất, biết nghĩa nặng vợ<br />
chồng, đã cho ta bạn bè chung thủy, dạy ta biết buồn<br />
vui, nhớ thương, hờn giận ... và còn bao nhiêu thứ khác<br />
nữa mà ta sẽ không bao giờ tìm được ở một nơi không<br />
phải là quê hương. Vậy mà đến chừng đất nước hoạn<br />
nạn, ta lại bỏ xứ mà đi. Đi như vậy đâu phải như người<br />
212
Tàu ở Đài Sơn Phúc Kiến đi tìm miếng ăn manh áo, rồi<br />
đến lúc phú quý thì “áo gấm về làng”. Dĩ nhiên không ai<br />
chối cãi cái chén cơm ăn từng bữa, nhưng đánh đổi hết<br />
núi sông bằng miếng thịt cá, thì kể ra cũng đáng thẹn<br />
thùng. Quên lửng món nợ mà ta đã vay là không tròn<br />
chữ “tín”. Tay bắt mặt mừng với kẻ thù hôm qua là không<br />
tròn chữ “ nghĩa ”. Làm người không có “ tín nghĩa ” thì<br />
lấy gì mà ngẩng mặt lên đối đãi với đời !<br />
Rõ ràng từ 25 năm trước, chính chúng ta đã lên tiếng kêu<br />
gào vang dội bằng những cuộc vượt biên hãi hùng làm<br />
cả thế giới rúng động. Cuộc-bỏ-phiếu-bằng-chân như<br />
một trả lời dứt khoát ngay mặt lũ tuyên truyền láo khoét,<br />
mở toang cánh cửa khóa kín che đậy thực-tế-Việt-Nam<br />
cho nhân loại có dịp nhìn thấy mặt thật của cái-gọi-làlương-tâm-loài-người<br />
mà người cộng sản vẫn luôn<br />
miệng rêu rao. Nếu chúng ta đã không trực tiếp đánh<br />
đuổi được bạo quyền thì ít nữa chúng ta cũng đã gián<br />
tiếp làm một việc cần-làm, biểu lộ tối thiểu ý thức phản<br />
kháng của một dân tộc tự trọng. Ít nữa cha mẹ ta cũng<br />
đỡ phần tủi hổ, bạn bè ta cũng có chỗ gởi lòng và đất<br />
nước ta còn có cơ hy vọng. Rõ ràng thế giới đã mở cửa<br />
đón chúng ta như những người trốn chạy độc tài. Rõ<br />
ràng lòng hào hiệp đó là một vinh danh cho ý thức tự<br />
do. Chúng ta đến đệ tam quốc gia như những người tỵnạn-chính-trị.<br />
Sao không giữ lấy niềm hãnh diện đó dù là<br />
một hãnh diện rất tội nghiệp. Bởi vì dẫu sao đó là chút<br />
liêm sĩ còn sót lại của một dân tộc có lịch sử và văn hiến<br />
lâu đời.<br />
Vậy thì sao nay lại kéo nhau về ?<br />
213
Tại sao lại kéo nhau về khi tình thế vẫn giống y như ngày<br />
bỏ ra đi ? Làm như vậy có phải chính tay ta bôi lấm cái<br />
hình ảnh đầy cảm tính của người-thuyền-nhân trong<br />
lòng thế giới. Chúng ta có đang làm bẽ bàng những ủng<br />
hộ trước đây hoặc gây ngộ nhận đáng tiếc rằng mọi sự<br />
đã thay đổi tốt đẹp ở đó. Mỗi bước đi về hôm nay là một<br />
bước đi xa thêm cái ước vọng mà mỗi người ở bên này<br />
hay bên kia đã thắc thẻo trông ngóng từ một phần tư<br />
thế kỷ nay.<br />
Trở về như vậy có phải là đầu hàng thêm một<br />
lần thứ ba nữa !<br />
Em thấy đó người ta đang lũ lượt kéo nhau về, thản<br />
nhiên như mới bỏ đi hôm qua hôm kia. Thản nhiên như<br />
không có gì đã xảy ra ở giữa lòng ta hay ở bên kia biển<br />
lớn. Làm như những nấm mồ la liệt đã lạn mất dưới ba<br />
tấc cỏ, những trại tù đã hết sạch, những hờn oán đã tiêu<br />
tan. Làm như xác tàu nằm chơ vơ trên bờ bãi hoang vu là<br />
bộ xương cá mục, những trinh tiết rơi rớt trên đảo hoang<br />
mọi rợ là cái giá phải chăng, những xác chết trôi dập rã<br />
rời trên đầu sóng dữ chỉ có trong ác mộng. Làm như<br />
chuyến vượt biên bán sống bán chết là cuộc du ngoạn<br />
đồng tình và lý thú. Làm như cái chuyện anh em ta, bạn<br />
bè ta bị đày đọa đến bỏ xác trong các trại tập trung sau<br />
khi đã buông súng là hợp công lý, cái chuyện nhẫn tâm<br />
mua bán xua đuổi hàng triệu người ra biển dữ là thuận<br />
đạo trời, cái sách lược chèn ép kềm giữ con dân trong sự<br />
tối tăm ngu dốt là hợp lòng người !<br />
214
Tại sao lại hăm hở kéo nhau về khi mà mọi sự mọi việc<br />
mọi chuyện mọi thứ mọi lối mọi cách mọi kiểu mọi điều<br />
... vẫn ù lì trì trệ như nước ao tù hãm đã ù lì trì trệ từ<br />
ngàn ngàn năm xưa năm xửa. Thử bình tâm mà xét coi.<br />
Từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội vẫn rặt một bài<br />
bản cũ xì, mốc thếch, lỗi thời mà thiên hạ bốn phương<br />
đã đào huyệt chôn bỏ từ đời nào. Cái đau lòng là ngay<br />
tại đất mẹ của nó, người ta cũng đã sáng mắt phủi bỏ<br />
cái chủ nghĩa tàn hại bất nhân đó như phủi bỏ một loài<br />
sâu nhặng ghê tởm thì tại Việt Nam những đầu óc cầm<br />
quyền già nua tối ám vẫn khăng khăng cứng đầu cứng<br />
cổ nhắm mắt nhắm mủi quơ quào bám riết lấy, cương<br />
quyết theo đuôi như chưa bao giờ cương quyết đến vậy.<br />
Trong khi cả thế giới đang hào hứng lên đường cho kịp<br />
vận hội mới, thì tại Việt Nam họ vẫn bịt mắt bịt tai tiếp<br />
tục chằng giữ dòng sinh mệnh của dân tộc, tiếp tục trì<br />
kéo dân lành đi cho hết cuộc trầm luân. Những chiêu bài<br />
“ đổi mới ”, “ cởi trói ” chỉ là những giả vờ làm mà mắt kẻ<br />
ngây thơ, còn thật sự thì tiếng nói của lương tâm chỉ có<br />
thể cất lên đằng sau những chấn song tù ngục.<br />
Có ai nghĩ rằng về như vậy là mặc nhiên thỏa hiệp với<br />
độc tài, là tiếp tay bóp chết cái phôi dân chủ còn trong<br />
trứng nước. Tại sao lại rủ rê kéo nhau về, vô tư như một<br />
chuyến đi chơi xa. Làm như chốn đó là một nơi nào xa lạ<br />
lắm, chẳng có một chút liên hệ ruột rà. Làm như tai điếc<br />
mắt mù nên không thấy cái sinh hoạt “ ồn ào và náo<br />
nhiệt ” hiện nay chỉ là mặt nổi của một xả hội tuyệt vọng<br />
đến độ buông thả, cái kiểu ăn chơi “ chết bỏ ” chẳng cần<br />
215
iết đến ngày mai. Bên cạnh đó, đại đa số thì nghèo đến<br />
độ cũng thành ra buông thả, chạy ăn từng bữa nên cũng<br />
chẳng còn biết đến ngày mai. Bởi vì có một ngày mai<br />
nào đâu để lo, có một ngày mai nào đâu để chuẩn bị.<br />
Người ta sống qua ngày nào hay ngày nấy, không một<br />
mảy may hy vọng vào tương lai. Đó có phải là một trong<br />
những lý do mà chúng ta phải bỏ đi. Tại sao trước đó<br />
không chịu nỗi mà bây giờ trở về lại khứng chịu ? Hay tại<br />
cảnh tình lam lủ đó không có ta, chẳng dính dáng gì đến<br />
vợ con ta, nên mắt ta bàng quang, lòng ta thanh thản.<br />
Vậy chớ còn nỗi nhục của lần trốn chạy ? Nỗi căm hận<br />
cuộc bách hại cha ông ? Nỗi đớn đau thắt ngặt của<br />
nghèo đói và ngu dốt ? Chẳng lẻ 25 năm đã làm mòn trí<br />
nhớ để thấy thù là bạn. Hay thật sự ta chỉ là một đám<br />
cùng dân mòn đầu tha phương cầu thực, không ý thức<br />
chẳng lý tưởng, đến khi có đồng tiền rủng rỉnh thì tìm về<br />
khoe áo gấm, để thỏa mãn cái sở thích “ sadique ” chỉ<br />
khoái lạc khi thấy người chung quanh đau khổ.<br />
Dĩ nhiên ai cũng có cha mẹ già cần về phụng dưỡng, em<br />
út cần bảo bọc. Nhưng có cần thiết và hợp tình không đi<br />
thưởng lãm vịnh Hạ Long, lăng tẩm Huế, phố xá Sài Gòn<br />
... nhởn nhơ phè phỡn như một đoàn du lịch dư ăn dư<br />
mạc, khi hai bên đường sông núi vẫn xác xơ, cây cỏ còn<br />
buồn rầu và lòng người nặng nề uất hận. Anh hay chị có<br />
gặp không, dài theo tam cấp mấy ngôi đền, lấp ló sau<br />
mấy hàng cột, từng bầy trẻ nhỏ lang thang chờ đợi mấy<br />
đồng bạc bố thí của anh chị, mà lẻ ra giờ đó phải ngồi<br />
trong lớp học. Có một cái gì không ổn, có một cái gì trục<br />
trặc, phải không ? Anh hay chị có lần nào ăn uống linh<br />
216
đình trong một nhà hàng sang trọng mà trước cửa hàng<br />
chục đứa bé lem luốt đang chực chờ vét hột cơm thừa<br />
húp tô canh cặn của anh chị không ? Có một cái gì quá<br />
bất nhẫn, phải không ? Có khi nào anh chị thả dài nhởn<br />
nhơ trên bãi biển Vũng Tàu Nha Trang Phan Thiết để<br />
nhìn cái hoạt cảnh của những cô gái bán hàng rong và<br />
bán luôn cả thân xác. Có lần nào được nghe kể lại về<br />
những trò chơi của đám du khách Việt kiều trong các căn<br />
phòng khách sạn dành cho người nước ngoài chưa ?<br />
Những đồng đô-la được thảy ra để trả giá từng bộ phận<br />
trên tấm thân phụ nữ trần truồng giữa tiếng cười sặc sụa<br />
hơi rượu thịt. Ngay cả với một cô điếm thập thành, cái<br />
trò mua bán đó đã là một cái gì quá ư tàn nhẫn. Biết đâu<br />
cô gái đó đã không là nạn nhân của một chế độ mà<br />
chính chúng ta nhờ nhanh chân hơn, nhờ may mắn hơn<br />
đã chạy thoát. Đùa giỡn như vậy có phải là đùa giỡn trên<br />
chính sự tan nát của lòng ta không ? Dòm quanh coi có<br />
những lối rẽ nào cho những cuộc đời khốn khổ đó ? Vẫn<br />
những mặt người thờ thẫn, những cặp mắt u ám, những<br />
lưng còng tóc rối, những chân tay khẳng khiu, những xác<br />
thân gầy đét, những cuộc đời buồn hiu ... Xứ nào cũng<br />
có người nghèo đói, nhưng tại sao người nghèo đói ở xứ<br />
mình không có một chút may mắn nào để thoát ra. Dòm<br />
quanh coi những trường học, nhà thương, đường xá, cầu<br />
cống ... đã có gì là dấu hiệu của một sự phát triển đúng<br />
đắn có kế hoạch cho một tương lai lâu dài chưa ? Hay<br />
chỉ là những vá víu tạm thời, chụp giựt, những chương<br />
trình sớm thay chiều đổi hoặc là những bày biện vẽ vời<br />
cốt để trám cho đầy bảng thống kê, nhất là để trám cho<br />
217
đầy cái túi tham không đáy của bọn người man trá. Ngó<br />
suốt từ nam ra bắc có tìm ra được một dấu hiệu nào cho<br />
lòng thành khẩn, ân cần của kẻ cầm quyền lo cho con<br />
dân như những thời thịnh trị.<br />
Như vậy tại sao lại rầm rộ kéo về ?<br />
Có phải tại chúng ta là một dân tộc quá nhẹ dạ. Mới<br />
nghe giở cái giọng o bế đòi nối liền “ khúc ruột ngoài<br />
ngàn dặm ” là đã mũi lòng, mà không chịu nhớ đến<br />
hằng chục triệu “ ruột thịt ” khác vẫn còn đang tiếp tục bị<br />
chèn ép thắt buộc đến mức oằn oại ở trong nước. Tại<br />
sao họ không lo nối cho liền lạc những khúc đời tơi tả<br />
đó, mà lại phải tốn công vòng vo đi níu kéo những kẻ đã<br />
bỏ trốn, đã bị giáng cho cái tội phản quốc tày trời, đôi<br />
khi năm lần bảy lượt mới vượt thoát sau khi đã bị cướp<br />
hết từ vòng vàng đến nhà cửa, nhất là nhân phẩm của<br />
một con người. Hay là tại vì những kẻ đó đã “ hết ” phản<br />
quốc vì trong túi đã có chút đỉnh đô la sau nhiều năm<br />
cày cục ở xứ người. Và vì vậy, một sớm một chiều trở<br />
thành khúc “ ruột tượng ” của chế độ. Người ta nhân<br />
danh hai chữ dân tộc không ngượng miệng, kêu gào đến<br />
thảm thiết đám con dân đã bỏ trốn ở nước ngoài, vốn dĩ<br />
đã bị chèn ép xua đuổi không chút xót thương trở về để<br />
tiếp tế, hợp tác, xây dựng lại đất nước sau khi đã thẳng<br />
tay tàn phá và vẫn đang thẳng tay vơ vét, hưởng thụ trên<br />
đầu trên cổ của đám dân đen còn kẹt lại, những tài<br />
nguyên nhân vật lực đang có sẵn. Nghĩ ra thấy trân tráo,<br />
vô luân một cách thảm hại.Vậy mà vẫn có những chuyến<br />
trở về !!!<br />
Vâng, vẫn có những chuyến trở về.<br />
218
Người ta vẫn ngang nhiên đi về qua lại vui chơi, mua<br />
bán, làm ăn chẳng một chút bận lòng. Vẫn tiếp tục qua<br />
lại cửa quan với tờ giấy năm, mười đô-la kẹp giữa sổ<br />
thông hành, vẫn tiếp tục coi tờ giấy bạc như tấm danh<br />
thiếp “ passe-partout ”. Và như vậy, mặc nhiên tiếp tục<br />
thông đồng với nhà cầm quyền, phát triển và nuôi<br />
dưỡng một hệ thống tham nhũng hối lộ chằng chịt, tiếp<br />
tục nuôi béo cho những cánh tay bạo lực đang bóp cổ<br />
bịt miệng đám người thấp cổ bé miệng, tiếp tục nuôi<br />
béo cho những bàn chân bạo lực đang dẫm đạp lên<br />
những phận người vô tội – hay chính là thân phận của<br />
anh em bạn bè quyến thuộc của chính họ còn kẹt lại.<br />
Điều đáng nói là người ta coi việc làm đó như một<br />
chuyện đương nhiên, không thắc mắc, chẳng bận tâm.<br />
Một chuyện tầm thường như trăm ngàn chuyện tầm<br />
thường nhất. Nhưng mà có thấy không, cái bi đát là đến<br />
một lúc cái tầm thường đó nổi tiếng như một đặc-điểmviệt-nam<br />
. Chúng ta có thấy ray rứt gì không ?<br />
Hai mươi lăm năm đã qua, qua nhanh như một cơn lốc.<br />
Tôi đã già đi nhiều. Những mộng ước cũng theo tóc bạc<br />
dần. Chuyện nước non vẫn còn đó, nguyên vẹn. Mười<br />
lăm năm trước tôi đã kết thúc một bài thơ bằng cái hình<br />
ảnh tuy cay đắng nhưng nghe còn rạo rực :<br />
Ta lơ láo giữa bầy chim múa rối<br />
Làm sao về trổi kịp khúc hoan ca ?<br />
Mới gần đây tôi lại viết, nhưng sao chỉ thấy buồn hiu :<br />
219
Ôi đất nước có còn vui kịp<br />
Một đời tôi héo úa từng giờ !<br />
Thơ tôi cũng bắt đầu thấm mệt như đời tôi vậy. Hai mươi<br />
lăm mất nước. Hai mươi năm lưu lạc rồi còn gì. Chữ hiếu<br />
không tròn mà chữ trung cũng không trọn. Nghĩ lại còn<br />
thua kẻ thất phu ngậm than rửa hờn cho chủ cũ. Nhớ<br />
đến Bá Di Thúc Tề chẳng chịu ăn rau Chu mà thêm thẹn<br />
với đời.<br />
Chuyện lớn không làm được, chuyện nhỏ càng thêm vụn<br />
vặt. Ngó quanh quất chỉ thấy lệ cũ đã đóng khô, xếp xó<br />
trong từng góc bụi nhòa. Sợ mai kia mốt nọ, đám nhỏ<br />
lớn lên có khi tự hỏi sao mình ở đây, ở một nơi không<br />
phải chỗ mình ? Có ai không để bắt đầu câu chuyện kể :<br />
“ Ngày xưa, đã lâu lắm, có một lũ người bỏ xứ ra đi rồi ...<br />
không kiếm được đường về ... ”<br />
... Độ rày, trời sắp sửa vào thu.<br />
Ngày bỗng dưng ngắn lại và đêm, đêm thì cứ dài ra như<br />
không sáng nữa. Những cơn gió lạnh chiều chiều từ dãy<br />
núi xa ở bên kia con sông lớn đã bắt đầu thổi về thành<br />
phố mang theo cái mông quạnh của những đồng cỏ bạt<br />
ngàn ở mạn bắc, và đồng thời cũng mang đi mất bầy sẻ<br />
nhỏ thường làm vui góc phố quạnh hiu. Chỉ còn lại<br />
những dây thép đen xấu xí với hàng cột đèn trơ trụi.<br />
Công viên trước nhà vắng ngắt, bầy trẻ nhỏ đã rút vào<br />
nhà, bỏ trơ lại bãi cát vô hồn, chiếc cầu tuột xiêu vẹo và<br />
220
những dây xích đu im lìm. Cái không gian vốn dĩ rất lặng<br />
lẽ của một góc phố nhỏ với những căn nhà kín cửa<br />
quanh năm lại càng lạnh lùng hơn khi gió bấc trở mùa.<br />
Khu vườn sau nhà xao xác gió, lá rụng sớm hơn mọi<br />
năm. Những chiếc lá úa nằm rải rác trên sân cỏ, buồn<br />
hiu như xác giấy hoa của một đêm vui vừa tàn. Trời đất<br />
đang sửa soạn cho một cuộc thay đổi lớn, bất tận. Và<br />
con người, con người ở đâu trong cuộc tuần hoàn miên<br />
man của vũ trụ ?<br />
Sao bỗng nhiên tôi chùn tay, muốn ngừng viết. Có ích lợi<br />
gì không những điều tôi đã và sắp viết ra. Sao bỗng<br />
nhiên giọng văn của tôi trở nên sầu thẳm quá đỗi. Có<br />
phải tại đứa con trai út vừa đi nhập trường ở một thành<br />
phố xa, bỏ lại gian nhà đã trống lại còn trống hơn ? Tại<br />
nó mang đi mất một phần thân xác và tâm hồn tôi ? Hay<br />
tại vì cái khoảng trống lớn giữa đời tôi đã không lấp bớt<br />
được chút nào lại còn tiếp tục khơi rộng hơn nữa ? Có<br />
phải đó chỉ là sự tiếp tục bình thường của dòng đời miên<br />
viễn, chỉ là sự lập lại một lần nữa hàng triệu triệu biệt ly ?<br />
Đưa con đi xa lần này, suốt con đường trở về hơn bảy<br />
tiếng đồng hồ lái xe, sao tự nhiên tôi như thấy lại và hiểu<br />
rõ ràng hơn lúc nào hết tấm lòng của ba tôi buổi chiều<br />
xuân năm mậu thân, khi con đường quốc lộ số 4 bị cắt<br />
đứt, ba tôi phải đưa tôi ra bến tàu xin quá giang một<br />
đoàn tàu quân đội về Sài-gòn nhập học. Năm đó, nhà<br />
cháy, của cải tan hoang, ba tôi 58 tuổi, tóc sương phơ<br />
phất, bộ quần áo bà ba trắng quen thuộc sao như rộng<br />
hơn thường khi. Ông đứng đó không nói một lời nào, tay<br />
xách túi quần áo của tôi, lo lắng bồn chồn, cặp mắt vắng<br />
221
vẻ... Rồi tàu rời bến, mặt sông rộng mênh mông, gió lên<br />
và chiều xuống. Ông đứng đó, đằng sau lưng một mặt<br />
trời tẻ lạnh, bỗng nhiên tôi thấy ba tôi giống như một<br />
pho tượng, im lìm, chịu đựng, nhẫn nhục như suốt một<br />
đời đã nhẫn nhục nuôi lớn bầy con quá đông. Tàu xa<br />
dần, pho tượng vẫn im lìm, bất động. Và bỗng dưng, tôi<br />
như thấy một giọt nước mắt nào đó đọng mơ hồ trên<br />
khóe mắt ba tôi. Giọt nước mắt mà dường như ba tôi đã<br />
cố nén tự nãy giờ. Từ lâu lắm. Từ câu nói vói “ thôi con đi<br />
”. Từ lúc móc đưa cho tôi xấp tiền cuối. Từ lúc nhà cháy.<br />
Từ lúc dắt tôi đi thi tú tài. Từ lúc dắt tôi đi thi trung học,<br />
tiểu học. Từ lúc ẳm tôi đặt tôi vào nôi ... Ba tôi có nói gì<br />
đâu ? Trời đất có nói gì đâu mà dòng đời vẫn sinh sinh<br />
diệt diệt !<br />
Vậy tại sao tôi lại dài dòng kể lể ? Để làm gì ? Để em<br />
hiểu tôi hơn ? Để làm gì ? Có cần lắm không ?<br />
Tại sao tôi bỗng trở nên sầu thảm thái quá !<br />
Có cần thiết không em ? Người thiếu phụ đoan trang với<br />
gia đình gương mẫu, sau ít nhiều lận đận với vận nước<br />
nổi trôi, cũng đã vói được tới bờ hạnh phúc, thứ hạnh<br />
phúc bình thường, giản dị mà tôi vẫn thường cầu mong<br />
cho những người thân yêu của tôi, em có phải biết<br />
những điều tôi đã nói, những gì tôi đã sống ? Mà tại sao<br />
em phải biết ?<br />
Những dòng chữ này rồi sẽ có<br />
một dịp may nào đến với em hay sẽ được xếp lại và cất<br />
vào một hộc tủ, bỏ quên như hàng chồng bản thảo đã bị<br />
bỏ quên, đâu đó, quến bụi trong những xó xỉnh của đời<br />
222
tôi. Tuy nhiên, lần này, nếu có cái dịp may hãn hữu đó,<br />
xin em hãy đọc một cách từ tốn, điềm đạm, từng chữ<br />
từng dòng. Hết trang này, rồi trang khác. Hết tờ này lật<br />
sang tờ khác. Rồi cũng sẽ đến trang cuối cùng. Cũng<br />
giống như những trang giấy của cuộc đời. Giống như tôi,<br />
tôi cũng đang lật tiếp, không ngừng tay, những trang<br />
giấy của đời mình. Sẽ đến một lúc chỉ còn những trang<br />
giấy bỏ không, lở dở ...<br />
Nếu có đọc, hãy coi đây như<br />
tiếng kêu chót của loài thiên nga tuyệt vọng, một thứ<br />
trần tình của thế hệ đang tàn lụi dần, cái thế hệ của<br />
những người thầy sinh bất phùng thời. Cái thế hệ dở<br />
dang. Cái thế hệ oan trái. Tôi đã được hưởng rất nhiều<br />
ân huệ của người đi trước, nhưng không đáp đền lại<br />
được gì cho người đến sau như cái lý tưởng mà tôi đã<br />
được nuôi dạy. Mấy ngàn năm tình nặng nghĩa sâu của<br />
dân tộc đã un đúc tôi nên người, đã ru tôi bằng những<br />
vần ca dao trìu mến, đã âu yếm tôi bằng những điệu ầu<br />
ơ vỗ về, đã tắm mát tôi bằng dòng suối cỗ tích ngọt<br />
ngào và đã nuôi tôi khôn lớn bằng bầu sữa mầu mỡ của<br />
lịch sử. Tôi đã làm gì được với tất cả cái vốn liếng quí báu<br />
đó đâu em. Tôi mơ mộng năm 18 tuổi, tôi rong chơi năm<br />
25, tôi chững chạc năm 30 tuổi. Tất cả cái gia tài truyền<br />
thống đó, nét tài hoa ngùn ngụt đó, truyện Kiều với hơn<br />
ba ngàn câu thơ thăm thẳm, Chinh Phụ Ngâm là giọt lệ<br />
trong veo, Cung Oán đài các ngay trong hận tình uẩn<br />
khúc. Còn bao nhiêu câu ca dao tươi mát như rau cỏ<br />
ngoài vườn. Còn cuộc chiến cự Bắc phạt Tây, cuộc Nam<br />
tiến là thiên trường ca vô tận. Lịch sử máu xương đầy dẫy<br />
223
những nấm mồ vô danh, để cho ngọn tre già còn phơ<br />
phất tiếng ru trưa, để cho bụi lúa còn trổ đòng đòng<br />
tươm sửa, để bầy trẻ nhỏ ê a tiếng đánh vần, để mái<br />
đình còn thơm mùi hương khói. Những nấm mồ vô danh<br />
từ thuở Đống Đa, Ngọc Hồi. Những nấm mồ vô danh từ<br />
thuở Gia Định, Trấn Tây. Những nấm mồ vô danh ở<br />
Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Giả, An Lộc, Phước Long,<br />
Châu Đốc, đường số 9, quốc lộ 13 ... dấp dúi bên bờ cát<br />
duyên hải, dập vùi giữa rừng già cao nguyên, lạn chìm<br />
dưới bùn lầy châu thổ ...<br />
Tôi đã làm gì ? Thế hệ tôi đã làm được gì đâu em !<br />
Chúng tôi đã bỏ dở một cuộc chiến. Chúng tôi đã đầu<br />
hàng một kẻ thù. Và như vậy có xứng đáng để phàn nàn<br />
hay không ? Cái cơ hội được đóng góp vào cuộc chiến<br />
dựng nước và giữ nước của cha ông đã bị bỏ lỡ một<br />
cách ngây thơ vô tội vạ, cái hạnh phúc tuyệt vời của tự<br />
do đã bị xem thường khi có nó trong tay, thì khi bị tước<br />
đoạt, người ta còn có quyền tiếc rẻ hay không ? Hay chỉ<br />
nên lặng lẽ cúi đầu và ... câm nín. Mặc kệ những khuya<br />
khoắc trở trăn ! Những sớm hôm thắc thỏm!<br />
Tôi có nên viết tiếp hay không ? Có đáng để khượi lại<br />
một vết thương đã lành - hay tưởng như đã lành, gọi dậy<br />
một phần đời đã ngủ yên - hay tưởng đã ngủ yên, tiếp<br />
tục làm khó chịu, mệt mỏi thêm những cuộc đời đã quá<br />
sức mệt mỏi. Có đáng bắt mọi người phải nhớ lại, đau<br />
khổ, thương xót hoài hoài ngay khi cả chính mình cũng<br />
chỉ là một nỗi bất lực thảm hại. Dường như đã quá trễ<br />
nãi để nhắc nhở, đã đủ muộn màng để lãng quên ?!<br />
224
Vậy hãy coi đây như một điều rất đỗi riêng tư, một món<br />
nợ mà tôi chưa kịp trả. Món nợ tôi đã vay 25 năm trước<br />
mà 25 năm sau vẫn chưa quên, thì câu trả lời của tôi<br />
hôm đó quả có vô tình quá hay không –“ Thì tôi cũng đã<br />
sống như mọi người ”<br />
Tôi đã trả lời giống như khi trả lời với mọi người khác.<br />
Điều đó có phật ý em không ? Em đâu còn là cô học trò<br />
nhỏ, dịu dàng và tinh quái, để tôi là ông thầy có thể bắt<br />
nạt dễ dàng. Em đã là một người lớn, chững chạc, điềm<br />
đạm và ân cần. Giọng nói tuy nhẹ nhàng trong trẻo<br />
nhưng dường như đã vẩn đục ít nhiều gió bụi của thời<br />
gian. Và cặp mắt, tia nhìn sao tôi thấy lao đao những dấu<br />
hỏi xốn xang. Cặp mắt đó, dịu dàng nhưng quyết đoán,<br />
tra vấn tôi ngay khi em không nói lời nào, sao tôi thấy có<br />
một vẻ gì chừng như ái ngại. Có phải bằng trực giác em<br />
đã nghe được từ đâu đó nhịp điệu của những bước tàn<br />
phai. Tôi có chủ quan quá không ? Sao từ buổi chiều<br />
hôm đó, tôi cứ bị ám ảnh hoài về cái tia nhìn có một chút<br />
ngơ ngác, một chút phiền muộn, một chút trách móc,<br />
một chút hờn dỗi. Như tôi đã không nói thật. Như tôi đã<br />
giấu diếm một điều gì. Em có quyền nói chuyện ngang<br />
hàng vì em cũng đã có những ưu tư của người lớn. Có<br />
thể trong tấm lòng rất nhân ái của em, hình ảnh người<br />
thầy già cỗi đồng nghĩa với điêu tàn, cái bất ngờ bao<br />
hàm sự mất mát, sự tình cờ có nghĩa rất mong manh và<br />
cuộc tái ngộ chỉ là mặt trái của chia ly.<br />
Ôi biết thời gian có chịu ngừng<br />
225
Tôi đã viết một câu thơ như vậy, sau khi chia tay. Và<br />
thêm nữa, một hẹn hò<br />
Rủ nhau mai mốt về quê cũ<br />
Giảng nốt bài thơ bỏ nửa chừng<br />
Có phải chỉ là để tự an ủi mình trước vòng quay ác<br />
nghiệt của thời gian. Đâu còn một buổi học nào nữa.<br />
Làm sao em mặc lại áo lụa đến trường, tóc bay theo gió<br />
sớm và lòng mới nguyên như giấy trắng, đâu còn chiếc<br />
bàn học gỗ thô màu xám, viết mực tím và sách vở âu lo.<br />
Tôi đâu còn giờ trên bục giảng, với phấn trắng bảng<br />
đen, để cùng em mở cánh cửa đời vạn đại, đưa em vào<br />
thế giới gấm hoa của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh<br />
Quan, của Nguyễn Du, Phan Huy Vịnh ... tìm bắt lại cái<br />
nhịp lòng đằm thắm của lớp người đi trước, khơi lại cùng<br />
em nguồn suối nhân bản của dân tộc để em và các bạn<br />
lớn lên, vững chải như ngàn thu và tươi tắn như tầm<br />
xuân mới nụ, chân thành với mình và rộng lượng với<br />
người, tạo dựng cái thế quân bình tuyệt diệu của tâm<br />
hồn Á Đông trước sức cám dỗ của văn minh Tây<br />
Phương. Tôi muốn sửa soạn cho học trò của tôi cái sức<br />
mạnh dịu dàng của ngọn tre Việt Nam trước bão táp, để<br />
mai sau dù-có-bao-giờ các em vẫn là người Việt Nam<br />
trong cái nghĩa thuần túy nhất của nó. Tôi có lý tưởng<br />
quá không em ? Tôi có làm được việc đó chưa ?<br />
Công việc bị cắt ngang đột ngột. “ Bài thơ bỏ nửa chừng<br />
” có phải là niềm tiếc hận khôn nguôi về một lý tưởng bị<br />
phản bội, một trách nhiệm không chu toàn, một giấc mơ<br />
226
không trọn vẹn. Cái nhìn của em, nỗi quan hoài của em<br />
có phải là đoạn nối dài của bài thơ dang dở đó !<br />
Thôi thì, xin em hãy đọc ở đây như một cố gắng hết lòng<br />
của người thầy cũ để trả cho xong một món nợ tinh<br />
thần. Một lần rồi thôi. Món nợ mà tôi đã gây ra khi tạo<br />
cho các em niềm tín cẩn, lòng kính mến, sự cầu toàn ...<br />
trong những giờ giảng dạy trước đây. Nhưng mà tôi, tôi<br />
có làm được gì không ? Năm học đã chấm dứt một cách<br />
tức tưởi mà không chờ tiếng trống bãi trường.<br />
Tôi chưa nói hết được điều muốn nói. Em chưa học đủ<br />
điều cần học. Tôi và em đều có một cái gì đó lở dở chưa<br />
làm, một cái gì ngang ngửa chưa xong. Chắc vì vậy, mỗi<br />
người đều cảm thấy bất an, thấy thiêu thiếu, thấy hụt<br />
hẩng ... Có thể cái gì đó mong manh quá nên mỗi người<br />
đều như ray rứt khi nghĩ lại. Có thể cuộc đổi đời phủ<br />
phàng quá nên mỗi người đều cảm thấy ngỡ ngàng.<br />
Giống như cơn mưa bóng mây chưa đủ ướt mặt người<br />
đã dứt. Giống như cơn mơ nửa chừng bị đánh thức.<br />
Giống như cuốn tiểu thuyết bị xé mất trang sách cuối<br />
cùng. Người ta bở ngở, bực tức hay tiếc nuối. Cái chờ đã<br />
không đến. Sự mong mỏi không được đền đáp. Người ta<br />
thấy xốn xang như đánh mất một cái gì quí giá lắm.<br />
Người ta cảm thấy chới với như bước lỡ vào khoảng<br />
trống bất ngờ. Người ta cảm thấy bối rối như bỏ quên<br />
một cái gì thân thiết lắm mà lại quá đỗi mơ hồ.<br />
Tuy vậy cứ an tâm đi em. Cuộc đời tự nó rất giản dị. “Trời<br />
sẽ tối tiếc thương rồi sẽ hết. Và dấu giày mai sẽ lá sương<br />
che ” Từ nhiều năm trước tôi vẫn thích câu thơ của<br />
Nguyễn Đình Toàn. Em thấy đó, có gì rắc rối đâu, cái cõi<br />
227
quạnh hiu này. Ngày đến rồi ngày đi, đêm tới. Và bóng<br />
tối sẽ trùm lên tất cả. Những dấu yêu, những ghét bỏ.<br />
Những đợi chờ cũng như những lỗi hẹn. Những khuôn<br />
mặt thân quen, những bóng hình xa lạ. Mặt đất này vẫn<br />
là nơi để người ta đến rồi đi. Cuộc đời này vẫn là chốn<br />
để người ta tụ hợp rồi ly tán. Tất cả sẽ mòn phai dần dần<br />
như dấu giày đã qua đây một ngày nào, sương sẽ cuốn<br />
đi từng lớp mỏng và lá sẽ lấp lên từng chiếc một. Con<br />
đường trước mặt cũng chỉ là một dãy mây trôi, ngã rẽ là<br />
những khúc quanh vô định, lời hứa hẹn chỉ là cơn gió<br />
thoảng và ước mơ cũng chỉ là những an ủi ngậm ngùi.<br />
Tất cả sẽ biến mất kể cả sắt son tưởng là thắm thiết, kể<br />
cả đá vàng đã tưởng là bền chặt.<br />
Trời sẽ tối ! Có thời gian nào không trôi đâu em. Có dấu<br />
vết nào còn mãi đâu em. Những tiếc thương, đọng lại<br />
như vệt sương trên ngọn cỏ, cũng sẽ tan trong một phút<br />
một giây. Người ta náo nức gặp gỡ. Người ta rạo rực<br />
chia tay. Một tháng. Một năm. Rồi tất cả sẽ trở lại bình<br />
thường, rất bình thường. Cái mặt hồ im lìm chợt xao<br />
động vì một chiếc lá rơi sẽ trở lại im lìm như đã tự trăm<br />
năm. Mọi người sẽ trở lại với nếp sống thường nhật, với<br />
trách nhiệm bổn phận. Mọi người sẽ trở lại với văn<br />
phòng, với xưởng thợ, với tiệm buôn, với công việc của<br />
một người vợ, một người mẹ, một người chồng, một<br />
người cha. Người ta sẽ bận tíu tít với chợ búa, với đồng<br />
tiền kiếm được hay mất đi, với ngôi nhà mới tậu, với chức<br />
vụ mới thăng, với việc làm mới mất ...<br />
Vậy đó em, trái đất vẫn tiếp tục quay đều cái vòng quay<br />
của nó. Một năm mười hai tháng. Một tháng ba mươi<br />
228
ngày. Một ngày hai mươi bốn giờ. Mùa hè đã qua. Mùa<br />
thu đang tới. Và mùa đông sẽ chực chờ trước cửa.<br />
Những người sắp tới, sẽ tới. Những người sắp đi, sẽ bỏ<br />
đi.<br />
Tất cả cũng chỉ là những người khách vô tình trong cuộc<br />
tuần hành miên man của vũ trụ.<br />
Và chúng ta, chúng ta cũng chỉ là những sơ sẩy của một<br />
toan tính định mệnh.<br />
Vâng, những tiếc thương rồi sẽ hết.<br />
Em đừng khóc, đừng buồn đừng nhìn nữa<br />
Cứ cúi đầu, cứ thế rồi ra đi<br />
Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết<br />
Và dấu giày, mai sẽ lá sương che (*)<br />
Và tôi, và em, và dấu giày trở lại, mốt mai sẽ chỉ còn là<br />
một vết sương che . Bóng tối sẽ trùm lên tất cả.<br />
Những tiếc thương rồi sẽ hết.<br />
Những tiếc thương sẽ hết .<br />
*thơ Nguyễn Đình Toàn.<br />
tháng cuối năm 2000<br />
229
tranh CAO HÀNH KIỆN
Khuć đoaṇ trường<br />
...<br />
Rồi có còn lại gì không, cuộc chiến<br />
tranh thảm khốc và dai dẳng, dài hơn cả tuổi tôi.<br />
…<br />
Này viên đạn ghim giữa tim, vết nổ tan<br />
hoang lưng chừng trán.<br />
Này trận đánh suốt mùa mưa châu thổ,<br />
lấn rền sang cơn nắng hạn tây nguyên.<br />
Này quả bom nổ tung như cơn thịnh nộ<br />
không chừng.<br />
231
Này trái mìn nổ chậm như một lời rủa<br />
xả ầm ỉ.<br />
Này thịt xương tung toé hốt chưa đầy<br />
nắm tay.<br />
Này cái núm vú khô sữa của người mẹ<br />
chết tự bao giờ mà đứa con còn thòm thèm bú<br />
móm.<br />
Này đôi mắt của thanh xuân mộng mị,<br />
bàn chân của khởi hành rộn rã, ngón tay của tình<br />
thư vụng trộm... tất cả đã bỏ lại dập vùi đâu đó trên<br />
những xó đất nghèo nàn, tàn phế đến từng cọng cỏ<br />
ngọn câỵ<br />
Có nói ra được hết không, cái trò chơi kỳ cục đó?<br />
Người sinh ra ngoài Bắc, kẻ đẻ ở trong Nam, có hẹn<br />
hò không mà cùng kéo nhau đến chết rạp ở một<br />
ngọn đồi không tên, giữa dãy Trường sơn mịt mùng.<br />
Có lý giải nào không cho giọt nước mắt lặng lẽ của<br />
cha, giọt nước mắt<br />
não nề của mẹ và giọt nước mắt tủi hờn của người vợ<br />
trẻ vừa mới cưới hôm nào.<br />
Có nói được hết không, những người chồng vùi thây<br />
vợ bên đường<br />
chạy loạn, những người mẹ điên ôm xác con ru<br />
hoài điệu ầu ơ thê thiết ...<br />
232
... Căn nhà từ đường bốc cháy, ngôi trường loang lổ<br />
dấu đạn, chiếc cầu sắt gãy sụp, phường phố tan<br />
hoang, viên đạn đồng gởi đến từ một xứ xa xôi,<br />
người xã trưởng bị cắt cổ đêm qua, đứa bé trần<br />
truồng chạy ra từ một vòm lữa, lưỡi dao nhọn trui<br />
rèn trong lò thép anh em ... cuộc hội nghị tay ba<br />
tay tư, bản tuyên ngôn hoa mỹ, trò mặc cả trâng<br />
tráo, những thúc ép nghiệt ngã, còn lại gì không,<br />
thân phận anh, số kiếp chị, đoạn trường tôi...<br />
Có còn lại gì không…<br />
Rồi tất cả sẽ qua đi như không có gì đã xảy ra.<br />
Mọi trái tim sẽ rổng không như chưa từng có thống<br />
khổ.<br />
Không có chi . Không còn chi .<br />
Có còn không là chút vị đăńg chát cặn lại trong<br />
lòng chúng ta, mỗi khi nhớ lại !<br />
...<br />
-trích đoản văn viết<br />
những năm 70-<br />
233
ở một chỗ rất gần sao 5<br />
ải Nam Quan 15<br />
bonjour Việt Nam 29<br />
rồi ...như đá ngây ngô 48<br />
mỗi năm hoa đào nở 72<br />
thư tết 82<br />
thương nhớ huyền-trân 97<br />
bữa rượu thời chiến 105<br />
thơ học trò thời chiến 108<br />
trong khi chờ hoa xuyên tuyết 111<br />
tháng tư ... tháng thầm 121<br />
tháng năm ở Cali 130<br />
tháng bảy, ... và những ngôi trường cũ 137<br />
tháng chín, mùa thu ... ở hai đầu nỗi nhớ 146<br />
tháng 10 ngày 23 năm 1956, ở Buadapest 155<br />
tháng mười một ở Dallas 162<br />
... và một chút xuân thì 167<br />
tựu trường, xa xứ 176<br />
lời trần tình của người thầy cũ 189<br />
khúc đoạn trường 231
... do một đẩy đưa nào đó, rồi tập sách được in ra !<br />
Bỗng nhớ Nguyễn Bính có lần đã viết -thế nhân mắt trắng như ngân nhủ !<br />
Giọng khinh bạc mà tỏ dạ không vui.<br />
Bây giờ, cầm tập sách trên tay, làm sao không nói ngược !<br />
- Dẫu sao, dẫu sao, vẫn còn đó ...<br />
những con mắt xanh !<br />
xin cám ơn,<br />
cám ơn muôn vàn.
... mịt mù cố quận giờ xa ngải<br />
ai thiết tha mà ta tiếc thương !