. Một mệnh đề có thể xác minh được nếu theo kinh nghiệm, nó khả dĩ có thể xảy ra, hoặc nếu có thể cómột kinh nghiệm giác quan nào đó thích đáng với sự quyết định cái đúng hoặc cái sai của nó. Ðây làdạng yếu hơn.Ứng dụng của hai dạngNhững phát biểu khác dĩ nhiên cũng có ý nghĩa, nhưng Ayer chỉ quan tâm tới các phát biểu có "ý nghĩasự kiện" (factual meaning) – nói cách khác, nếu không có kinh nghiệm nào thích đáng với cái đúng hoặccái sai của một lời phát biểu, lúc đó lời phát biểu ấy không có ý nghĩa thật sự.Ông lập luận rằng mọi mệnh đề xác thực đều có khả năng không đúng thì sai, hoặc trùng phức – nóicách khác, đúng do bởi định nghĩa, hoặc do bởi giả thuyết có tính thực nghiệm, là cái khiến cho một lờituyên bố có thể xác minh được bằng kinh nghiệm. Vì lý do đó, toàn bộ siêu hình học bị đánh giá là vônghĩa vì những tuyên bố của nó khiến cho các phát biểu của nó vừa không đúng do bởi định nghĩa vừanằm ngoài sự xác minh thực nghiệm.Về dạng mạnh, ta có thể nêu một thí dụ. Khi tôi dưa ra lời phát biểu rằng "Có ba người đang ngồi trongphòng bên cạnh". Lời ấy có nghĩa rằng nếu bạn vào phòng kế bên, bạn sẽ thấy trong đó có ba ngườiđang ngồi.Dĩ nhiên không phải lúc nào cũng có thể kiểm tra dễ dàng các thông tin thuộc dạng mạnh. Khi không cósẵn bằng cớ, người ta cho rằng điều quan trọng là phải định rõ loại thông tin nào có lợi hoặc bất lợi cholời phát biểu.Về dạng yếu, ta có thể nêu một ví dụ. Khi tôi đưa ra lời phát biểu rằng "Trong vũ trụ, ngoài quả đất, cónhững hành tinh khác có sự sống". Lời ấy có nghĩa rằng nếu bạn có thể xem xét hết thảy các hành tinhtrong vũ trụ, bạn sẽ tìm thấy trên đó có sự sống. Dù cho tới nay, chúng ta không có khả năng phát hiệnsự sống dựa trên khí các-bon giống như sự sống ở quả đất này, nhưng một cuộc khám phá như thế cóthể cho thấy rằng lời phát biểu đó đúng. Vì thế, lời phát biểu đó "có ý nghĩa".Một lời phát biểu vô nghĩa nếu tựï thân nó không hàm chứa điều gì có gì có lợi hoặc bất lợi cho khả năngđúng hoặc sai của nó. Trên cơ sở ấy, có thể đưa phần lớn những lời đã được chấp nhận theo ngôn ngữtôn giáo hoặc thẩm mỹ hay đạo đức vào phạm trù "không có ý nghĩa", vì không lời nào có khả năng đượcxác định trong tương quan với các sự kiện cụ thể vốn có thể kiểm tra bằng quan sát. Ðây là cách giới hạný nghĩa của bất cứ lời phát biểu nào đối với phương thức khoa học và thực nghiệm trong việc khảo sátthế giới.Nếu chỉ những phát biểu dưới dạng mệnh đề thực nghiệm (empirical proposition) mới có ý nghĩa, thì quảthật chẳng còn gì để nói nữa. Ayer chấp nhận rằng đối với ông, có những phát biểu có ý nghĩa cảm xúcnhưng chúng không có ý nghĩa theo nghĩa đen, là cái được dùng làm cơ sở cho sự chắc chắn.Phê bình thuyết thực chứng luận lýChủ nghĩa thực chứng luận lý bị thách thức và nó phải đối đầu với hai vấn đề chính:1. Làm thế nào tôi biết rằng cái tôi thấy đang thật sự ở đó? Tôi có thể yêu cầu kẻ khác nhìn cái đó vàkiểm tra xem họ có thấy nó đúng như tôi thấy không. Nhưng có lẽ không bao giờ có thể thật sự chứngminh được rằng cái đó quả thật ở đó, vì người ta không thể nào vượt quá kinh nghiệm giác quan của chủtri để tới bản thân khách tri.2. Làm thế nào xác minh lời phát biểu rằng "Ýù nghĩa của lời phát biểu là phương pháp xác minh nó"? Lờiấy có tính tổng hợp chăng? Nếu là tổng hợp, cái gì làm bằng cớ cho nó? Loại bằng cớ nào có thể chốnglại nó? Hoặc lời ấy có tính phân tích chăng? Nếu là phân tích, thì về mặt luận lý học, từ ngữ "ý nghĩa"cũng như cụm từ "phương pháp xác minh nó" chẳng nói lên được điều gì.Tác dụng của Nguyên lý Xác minhViệc chứng minh một thuyết không nhất quán về luận lý là một cách để bác bỏ nó, nhưng cách đó chẳngmang lại lợi ích nào khác cho nó. Trong trường hợp thuyết thực chứng luận lý, cái quan trọng là thuyết
ấy biểu hiện một hình thức mạnh mẽ và đặc thù của chủ nghĩa duy nghiệm và một hình thức chật hẹp vàđặc thù của ngôn ngữ.Triết học góp phần vào việc biểu hiện đó bằng cách cho thấy phạm vi rất rộng rãi của các mệnh đề bịthuyết ấy đánh giá là "không có ý nghĩa". Và điều đó đòi hỏi các triết gia duyệt lại cùng mở rộng kiếnthức của họ về ngôn ngữ, để những lời phát biểu vô nghĩa bằng những từ ngữ "hình dung" và giản dị ấytiếp tục có ý nghĩa trong các phạm vi khác, như diễn tả cảm xúc, truyền mệnh lệnh, nói lên sở thích. Dođó, toàn bộ phạm vi này của ngữ học được dùng để minh họa tính chất uyển chuyển của sự truyền đạtvà nhu cầu đi tới quá bên kia chủ nghĩa duy nghiệm đơn giản (simple empiricism).Ðiều đó có nghĩa rằng Nguyên lý Xác minh là một kiểm tra vô giá để bảo đảm cho các lời phát biểu về sởthích hoặc mệnh lệnh cá nhân, vốn không tự cho thấy chúng như thể là những phát biểu về sự kiện, cótính thực nghiệm và rành mạch.Xét lại của AyerÐiều thú vị là tới cuối cuộc đời, như đã được minh họa ở một chương trước, trong cuộc phỏng vấn dànhcho tạp chí The Observer, Alfred J. Ayer thừa nhận rằng tư tưởng của ông chuyển dịch so với thời điểmxuất bản cuốn Language, Truth and Logic. Thí dụ, ông chấp nhận rằng ta có thể truyền đạt kinh nghiệmthẩm mỹ, thế nhưng theo ông, Nguyên lý Xác minh vẫn là định chuẩn quan trọng đối với cách thức cábiệt trong việc khảo sát triết học.Ngày nay, chỉ một ít người muốn tiếp nối những lời tuyên bố táo bạo trong thuyết thực chứng luận lý củaAyer về ý nghĩa và sự chắc chắn, vì nói chung, triết học đã nhận ra bản tính cực kỳ uyển chuyển củangôn ngữ và ý nghĩa của lời phát biểu. Tuy thế, do bởi Ayer đã tuyên bố những lời ấy từ bối cảnh củamột thời đại trong đó người ta xem khoa học và toán học là hai bộ môn cung cấp những hình ảnh thíchhợp cho sự sáng sủa và chính xác, nên chúng trở thành các kiểu mẫu tiếp cận mà ngôn ngữ bình thườngbị ép buộc phải tuân theo.Nhưng như thế thì chúng ta để vào đâu những lời phát biểu tổng quát về cách hiện hữu của thế giới?