2. TỔNG QUAN
2. TỔNG QUAN
2. TỔNG QUAN
Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
Khảo sát thành phần hóa học hạt cây móc mèo núi Caesalpinia bonducella Flem.<br />
Ở Vân Nam (Trung Quốc), hạt móc mèo núi có tác dụng bổ thận, dùng trị<br />
thận hư và vi hàn. Tại Philipin, hạt được dùng để chữa bệnh dạ dày và làm thuốc tẩy<br />
nhẹ, dùng dưới dạng bột, ngoài ra còn có tác dụng chữa sốt.<br />
Người dân Madras còn dùng hạt móc mèo núi chế thành cao xoa, bôi ngoài,<br />
chữa tràn dịch tinh mạc (hydrocele) và viêm tinh hoàn. Dầu chiết từ hạt có khả năng<br />
điều trị co giật, bại liệt.<br />
• Ở Thái Lan, lá móc mèo núi là thuốc gây trung tiện, chữa bệnh đầy hơi, tiểu<br />
tiện khó khăn. Người dân Indonesia còn dùng lá để tẩy giun sán và trị ho.Ở Papua<br />
New Guinea, nước sắc lá có khả năng chữa viêm xoang, chống trầm cảm và chữa<br />
rối loạn tâm thần. Ở Ấn Độ, lá và vỏ cây được dùng làm thuốc điều hòa kinh nguyệt<br />
và hạ sốt.<br />
• Tại đảo La Reunion và Madagasca, rễ được dùng để hạ sốt, trị giun và chữa<br />
bệnh lậu.<br />
Viên Bonducin đã được bác sỹ Isnard, người Pháp, dùng chữa sốt rét với liều<br />
0,1-0,2 g/ngày.<br />
<strong>2.</strong><strong>2.</strong>4. Những nghiên cứu mới về bài thuốc chữa bệnh bằng cây móc mèo núi<br />
[10-14]<br />
• Bệnh tiểu đường<br />
Caesalpinia bonducella Flem. là những cây bụi rộng mọc xung quanh vùng<br />
bờ biển Ấn Độ. Những người dân Ấn Độ đã thúc đẩy nghiên cứu chi tiết về họat<br />
tính giảm đường huyết của hạt cây này trên bệnh đái tháo đường cả type 1 và type 2<br />
ở chuột. Với liều 300 mg/kg, những ảnh hưởng hạ thấp đường máu đã được thấy<br />
trên mô hình type 2, đó là họat tính gây kích thích tiết ra insulin từ phần cô lập dịch<br />
nước và etanol của nhân hạt Caesalpinia bonducella.<br />
• Bệnh sốt và giảm đau<br />
Dịch trích từ eter dầu hỏa và etanol của hạt móc mèo núi được khẳng định là<br />
chứa flavonoid, terpenoid, đường tự do và glycoside. Chúng có tác dụng làm hạ sốt<br />
và giảm đau khi thí nghiêm trên chuột bạch trưởng thành lớn và nhỏ cùng giới tính<br />
với liều 30, 100 và 300 mg/kg (bằng đường miệng).<br />
Học viên cao học: Vũ Thị Thúy Dung -5- GVHD: TS. Nguyễn Trung Nhân