26.10.2012 Views

LỜI KẾT

LỜI KẾT

LỜI KẾT

SHOW MORE
SHOW LESS

You also want an ePaper? Increase the reach of your titles

YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP<br />

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI<br />

--------***--------<br />

PHẠM THỊ LINH NHÂM<br />

TÌM HIỂU VỀ HÔN ƯỚC VÀ<br />

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC Ở VIỆT NAM<br />

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP<br />

HÀ NỘI - 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP<br />

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI<br />

PHẠM THỊ LINH NHÂM<br />

DS31B<br />

TÌM HIỂU VỀ HÔN ƯỚC VÀ<br />

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC Ở VIỆT NAM<br />

Chuyên ngành: Luật hôn nhân và gia đình<br />

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP<br />

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan<br />

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC<br />

Mục lục trang<br />

<strong>LỜI</strong> MỞ ĐẦU 1<br />

Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA<br />

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH<br />

1.1. Hôn ước và các chế độ tài sản 3<br />

1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng 3<br />

1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước 4<br />

1.1.3. Đặc điểm của hôn ước 8<br />

1.2. Pháp luật Việt Nam với việc qui định về hôn ước 9<br />

1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc 10<br />

1.2.2. Hôn ước theo hệ thống pháp luật ở miền nam nước ta trước<br />

ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)<br />

1.2.3. Hôn ước trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta<br />

từ Cách mạng Tháng tám (1945) đến nay<br />

1.3. Hôn ước trong pháp luật một số nước trên thế giới 16<br />

1.3.1 Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp 16<br />

1.3.2 Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì 19<br />

1.3.3 Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản 21<br />

1.3.4 Hôn ước theo pháp luật của Thái Lan 22<br />

Chương 2 KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC<br />

TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI<br />

2.1 Hôn ước phổ biến và là xu hướng của thế giới 25<br />

2.1.1 Hôn ước trong tư pháp quốc tế 25<br />

2.1.2 Hôn ước được áp dụng tại nhiều quốc gia 27<br />

2.2. Hôn ước phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội Việt<br />

Nam hiện đại<br />

2.2.1. Sự thay đổi về yếu tố cá nhân và chức năng kinh tế trong gia đình 28<br />

2.2.2 Tình trạng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để đầu tư<br />

kinh doanh riêng.<br />

2.2.3 Tình trạng li hôn gia tăng kèm theo vấn đề chia tài sản khi li hôn 33<br />

12<br />

14<br />

28<br />

31


2.2.4 Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài trở nên phổ biến 34<br />

2.2.5 Dư luận xã hội 35<br />

2.2.6 Quan điểm của các nhà nghiên cứu luật 35<br />

2.3 Xu hướng tương thích của pháp luật Việt Nam với hôn ước 36<br />

2.3.1 Qui định về công nhận và cho thi hành bản án của tòa án<br />

nước ngoài<br />

2.3.2 Những qui định cho phép vợ chồng được thỏa thuận làm thay<br />

đổi về căn cứ xác lập tài sản<br />

2.4 Một số kiến nghị về việc áp dụng hôn ước tại Việt Nam 47<br />

2.4.1 Hoàn thiện các qui định về các vấn đề về tài sản vợ chồng mà<br />

vợ chồng được thỏa thuận và lộ trình áp dụng hôn ước<br />

2.4.2 Hình thức và nội dung của các qui định kiến nghị áp dụng 50<br />

<strong>LỜI</strong> <strong>KẾT</strong> 55<br />

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />

Phụ lục 1<br />

Phụ lục 2<br />

36<br />

39<br />

47


1<br />

<strong>LỜI</strong> MỞ ĐẦU<br />

Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữ là những người có tài sản<br />

riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn<br />

nhân, điều đó đã khác. Tất cả các vấn đề về tài sản của họ được điều chỉnh bởi<br />

một qui chế pháp lí có tên là “chế độ tài sản vợ chồng”. Theo một logic đơn<br />

thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từng cá nhân được tự do định đoạt tài sản của<br />

mình thì trong hôn nhân hai cá nhân đó cũng được thỏa thuận định đoạt chế độ tài<br />

sản vợ chồng. Có lẽ vì thế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới cho phép những<br />

người sắp kết hôn tự thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằng một văn bản có<br />

tên là “hôn ước”. Việt Nam thì không như vậy: chế độ tài sản vợ chồng chỉ do<br />

pháp luật qui định.<br />

Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, chế độ tài sản vợ chồng của<br />

Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, từ chỗ không chấp nhận bất cứ thỏa<br />

thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định trong Luật hôn nhân<br />

và gia đình năm 1959) đến chỗ cho phép vợ chồng được thỏa thuận về việc chia<br />

tài sản chung trong thời kì hôn nhân thậm chí thỏa thuận cả về hậu quả của việc<br />

chia tài sản này (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-<br />

CP). Sự thay đổi đó phải chăng đã khiến cho các qui định pháp luật tiến gần hơn<br />

tới chỗ chấp nhận hôn ước? Vì thế nghiên cứu về hôn ước là điều cần thiết để giải<br />

đáp câu hỏi này. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu<br />

tố nước ngoài ngày một nhiều, điều đó khiến chúng ta không thể thờ ơ trước vấn<br />

đề hôn ước bởi hôn ước được pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi<br />

nhận. Vì vậy, người viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp<br />

dụng hôn ước ở Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp.<br />

Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết mong muốn khái quát được<br />

nội hàm, đặc điểm của hôn ước và nêu ra xu hướng áp dụng hôn ước của xã hội<br />

Việt Nam hiện đại, người viết cũng mong muốn đề nghị một lộ trình phù hợp cho<br />

việc áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam.


2<br />

Ở nước ta, từ sau khi thống nhất (1975), hôn ước ít khi trở thành đối tượng<br />

chính của các công trình nghiên cứu khoa học. Dù khi đề cập đến chế độ tài sản<br />

vợ chồng hầu như các nghiên cứu khoa học đều có nói đến hôn ước; song theo<br />

người viết tìm hiểu thì hôn ước chỉ được coi là đối tượng nghiên cứu chính trong<br />

hai bài báo “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân<br />

và gia đình Việt Nam” của ThS Nguyễn Hồng Hải và “Chế độ tài sản theo thỏa<br />

thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam” của<br />

ThS Bùi Minh Hồng. Tuy nhiên với phạm vi của một bài báo khoa học, hai bài<br />

nghiên cứu này chưa thể đề cập một cách tổng quan và đầy đủ về hôn ước cũng<br />

như khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.<br />

mới sau đây:<br />

Vì vậy, khóa luận này, với đề tài đã chọn sẽ cố gắng đưa ra những điểm<br />

� nghiên cứu khái quát về hôn ước bao gồm lược sử, nội hàm và đặc điểm<br />

của hôn ước;<br />

� nghiên cứu và bình luận về hôn ước ở Việt Nam qua từng thời kì lịch sử;<br />

� tìm hiểu về hôn ước ở các nước có các đặc điểm hình thái xã hội và pháp<br />

luật khác nhau;<br />

� nghiên cứu về sự phù hợp của hôn ước với xu hướng phát triển của xã hội<br />

Việt Nam;<br />

� nghiên cứu một giải pháp phù hợp cho việc áp dụng hôn ước ở Việt Nam.<br />

Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp phương pháp<br />

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, phương pháp<br />

phân tích – tổng hợp, phương pháp Luật học so sánh và phương pháp thu thập<br />

thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.<br />

Về bố cục, khóa luận kết cấu thành hai chương như sau:<br />

Chương 1: Khái quát chung về hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản<br />

ước định.<br />

Chương 2: Khả năng áp dụng hôn ước trong xã hội Việt Nam hiện đại.


3<br />

Chương 1<br />

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN ƯỚC – ĐẶC TRƯNG CỦA<br />

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN ƯỚC ĐỊNH<br />

1.1. HÔN ƯỚC VÀ CÁC CHẾ ĐỘ TÀI SẢN<br />

1.1.1. Khái niệm hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng<br />

1.1.1.1. Chế độ tài sản vợ chồng<br />

Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà các vấn đề về quyền sở<br />

hữu đối với tài sản của vợ chồng không thể chỉ điều chỉnh bằng các qui định<br />

chung về sở hữu tài sản thông thường. Tất cả các quốc gia trên thế giới dù chế<br />

độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế khác nhau, điều kiện về phong<br />

tục tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau, tất cả các quốc gia đó dù đã qui<br />

định về quyền sở hữu tài sản thông thường nhưng ít hay nhiều cũng đều có qui<br />

định riêng về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng.<br />

“Tổng hợp các qui định của pháp luật về căn cứ xác lập tài sản, quyền và<br />

nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc phân<br />

chia tài sản vợ chồng là chế độ tài sản của vợ chồng” 1 . Nói đến chế độ tài sản<br />

vợ chồng là nói đến vấn đề sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản<br />

của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kì hôn nhân (từ khi kết hôn cho đến khi hôn<br />

nhân chấm dứt) và cũng do đó chế độ tài sản vợ chồng không bao gồm các vấn<br />

đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng của vợ chồng.<br />

1.1.1.2. Chế độ tài sản pháp định và chế độ tài sản ước định<br />

Về hình thức pháp lí, chế độ tài sản vợ chồng có thể được xác định theo<br />

căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định) hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng<br />

(chế độ tài sản ước định).<br />

Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu về<br />

căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng<br />

đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của vợ<br />

chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế<br />

giới dự liệu.<br />

1 TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp,<br />

2008, tr 8.


4<br />

Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định là chế độ tài<br />

sản mà trong đó căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa<br />

vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài<br />

sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận.<br />

1.1.1.3. Hôn ước<br />

Khi áp dụng chế độ tài sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận<br />

về chế độ tài sản trong thời kì hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó<br />

là hôn ước.<br />

Hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập trước khi kết hôn theo thể<br />

thức nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ<br />

chồng được áp dụng trong thời kì hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời<br />

kì hôn nhân.<br />

1.1.2. Sơ lược lịch sử hình thành của hôn ước<br />

Theo quan điểm thịnh hành của các luật gia Việt Nam, hôn ước ra đời do<br />

quan điểm của các nhà lập pháp phương Tây, theo họ hôn nhân thực chất chỉ là<br />

một loại hợp đồng dân sự chỉ khác ở sự trang trọng khi thiết lập và trong việc<br />

chấm dứt; bên cạnh đó, các nhà làm luật của phương Tây cũng đề cao quyền tự<br />

do cá nhân, quyền định đoạt tài sản của vợ chồng 2 . Tuy nhiên nếu tóm lược sự ra<br />

đời của hôn ước như vậy sẽ không phản ánh được hết nguyên nhân khách quan<br />

của sự tồn tại của hôn ước. Theo người viết, như các qui định khác, hôn ước có<br />

nguồn gốc lịch sử lâu đời, có quá trình phát triển.<br />

hồi môn”<br />

1.1.2.1. “Thỏa thuận hôn nhân” và “thỏa thuận về điều kiện của<br />

Có lẽ những hôn ước đầu tiên đã được xuất hiện từ thời La Mã cổ đại<br />

dưới hình thức thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit) 3 trong hôn nhân<br />

2 Dễ dàng tìm đọc quan điểm này tại các bài viết về chế độ tài sản vợ chồng. xin trích dẫn một vài tài liệu: Nguyễn<br />

Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật<br />

Hà Nội, 2002; TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,<br />

NXB Tư pháp, 2008; …<br />

3 Tiếng Latinh, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã (chủ biên<br />

ThS Nguyễn Minh Tuấn), NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2001


5<br />

không dưới quyền của người chồng (sine manu) 4 hoặc thỏa thuận về điều kiện<br />

của hồi môn (stipuliatio) 5 .<br />

� Thỏa thuận hôn nhân (nuptias consensus facit)<br />

Dưới thời La Mã vợ chồng không có tài sản chung bởi quyền gia trưởng<br />

của người chồng gần như tuyệt đối, đặc biệt trong hôn nhân dưới quyền của<br />

người chồng (cum manu 6 ), tất cả tài sản của gia đình đều bị coi là tài sản của<br />

người chồng, thậm chí vợ con cũng được coi là tài sản của chồng, người chồng<br />

có thể kiện đối với vợ theo hình thức kiện vật quyền (actio in rem). Hôn nhân<br />

sine manu được đánh giá là một hình thức giải phóng người phụ nữ khỏi quyền<br />

lực (manus) của người chồng. Sine manu được thiết lập trên cơ sở của nuptias<br />

consensus facit 7 . Nuptias consentus facit thực chất chỉ là một thỏa thuận ghi<br />

nhận và phân định khối tài sản riêng của người vợ có trước thời kì hôn nhân với<br />

các tài sản khác (khối tài sản này được coi là tài sản của người chồng), theo đó<br />

người vợ hoàn toàn được tự chủ trong quan hệ tài sản, người chồng chỉ có thể<br />

thực hiện quản lí tài sản riêng của vợ trên cơ sở hợp đồng ủy quyền quản lí của<br />

người vợ 8 . Nuptias consentus facit chỉ tồn tại trong hôn nhân sine manu và sine<br />

manu được áp dụng khi con gái của một nhà giàu kết hôn với người nghèo.<br />

� Thỏa thuận về điều kiện của hồi môn (stipuliatio)<br />

Vào cuối thời Cộng hòa, để ngăn ngừa việc cưới vợ nhằm lấy của hồi<br />

môn, sau đó li dị, luật La Mã đã qui định: trước khi kết hôn cho phép bố mẹ<br />

hoặc người chủ hộ (Pater familias) của cô dâu thỏa thuận điều kiện về của hồi<br />

môn nếu hai người li hôn hoặc người chồng chết trước thì của hồi môn được trả<br />

lại cho vợ 9 . Thỏa thuận đó được gọi là stipuliatio, thỏa thuận stipuliatio thường<br />

có nội dung sau:<br />

� của hồi môn sẽ thuộc về chồng hoặc nhà chồng nếu như vợ chết<br />

� hoặc của hồi môn sẽ được trả lại cho bố mẹ vợ nếu như vợ chết trước.<br />

4<br />

Hình thức hôn nhân này tồn tại trước thời hoàng đế Justinian, thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học<br />

Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.<br />

5<br />

Thỏa thuận này tồn tại vào cuối thời kì cộng hòa, khoảng thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, thuật ngữ tiếng Việt được<br />

lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd<br />

6<br />

Thuật ngữ tiếng Việt được lấy theo Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd.<br />

7<br />

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160<br />

8<br />

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 160<br />

9<br />

Có sự thay đổi thiên về phía bảo vệ quyền lợi cho người phụ này có lẽ bởi khi nhà nước La Mã mở rộng lãnh thổ,<br />

người đàn ông thường phải xa nhà đi chiến đầu và có thể không quay trở về, người phụ nữ buộc phải học cách quản<br />

lí gia đình và quyết định những việc mà trước kia người quyết định luôn là người đàn ông, chính vì vậy giá trị gia<br />

đình đã thay đổi phần nào.


6<br />

� trong trường hợp người chồng chết thì của hồi môn buộc phải trả lại<br />

cho bố đẻ hoặc pater familias của vợ 10 .<br />

� Nuptias consentus facit hay stiputliatio thực chất cũng chưa mang tất<br />

cả những đặc điểm của hôn ước nhưng cũng mang những yếu tố sơ khai ban đầu<br />

của hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản ước định.<br />

1.1.2.2. Hôn ước là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài<br />

Hôn ước ra đời từ quá trình đấu tranh và dung hòa của các truyền thống<br />

văn hóa, quyền lực nhà nước, quyền tự do của con người và tư tưởng tôn giáo (ở<br />

đây là ki tô giáo - tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất từ trước tới nay 11 ).<br />

Vào thời kì khởi thủy của Ki tô giáo, quan niệm về hôn nhân chịu ảnh<br />

hưởng của hai truyền thống: truyền thống Do Thái 12 và truyền thống Roma 13 .<br />

Theo truyền thống Do Thái, tôn giáo đóng vai trò rất quan trọng trong hôn nhân,<br />

nó được thể hiện thông qua các nghi lễ, các lời chúc tốt lành. Người Do Thái cử<br />

hành hôn nhân thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là lễ đính hôn việc cử<br />

hành lễ đính hôn bao gồm cả việc đọc kinh chúc phúc; giai đoạn hai là hôn lễ,<br />

cử hành khoảng một năm sau lễ đính hôn với những nghi lễ long trọng. Trong<br />

khi đó truyền thống Roma lại coi trọng sự thỏa thuận, chính quyền Roma không<br />

can thiệp vào sự cử hành các nghi lễ, họ tôn trọng các phong tục của các dân tộc<br />

sống trên đế quốc La Mã 14 tuy nhiên các luật gia La Mã lại sớm ấn định các yếu<br />

tố pháp lí phòng khi xảy ra các trường hợp kiện tụng 15 . Vì thế, ai muốn cử hành<br />

hôn lễ theo nghi thức nào cũng được nhưng bắt buộc phải có sự thỏa thuận, nếu<br />

như chưa có sự thỏa thuận công khai thì luật pháp coi như hai người chưa phải<br />

là vợ chồng của nhau. Thời kì đầu này có lẽ ki tô giáo chịu ảnh hưởng của<br />

truyền thống Do Thái nhiều hơn 16 nên Ki tô giáo không đề cập đến vấn đề thỏa<br />

thuận trong hôn nhân, theo kinh Tân ước: người chồng không được đối xử với<br />

10 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã, sđd, tr. 162<br />

11 Almanach những nên văn minh thế giới, NXB Văn hóa thông tin 1996, tr. 1043<br />

12 Bởi đạo ki tô phát sinh từ trong lòng đạo Do Thái.<br />

13 Đạo Ki tô ra đời tại vùng đất của đế chế La Mã đến năm 61 thì đạo ki tô trở nên phổ biến ở La Mã<br />

14 Khi đó đế quốc La Mã đã rất rộng lớn bao trùm phần lớn châu Âu hiện nay và có nhiều dân tộc sinh sống và các<br />

nghi lễ là vô cùng đa dạng, việc không thể thống nhất nghi lễ kết hôn là điều tất yếu.<br />

15 Kiện tụng có thể xảy ra bởi dưới thời La Mã một thời gian dài người vợ được coi là tài sản của người chồng, tính<br />

chất giống như tài sản của người vợ cũng được biểu hiện ở nghi lễ kết hôn: Ví dụ: nghi lễ Coemptio (nghi lễ này<br />

giống như một hình thức mua vợ), nghi lễ Usus (nghi lễ này có nội dung là hôn nhân xác lập trên thời hiệu kết hôn,<br />

người nam và người nữ theo nguyên tắc consensus chung sống với nhau một năm, chỉ khi trọn 1 năm chung sống thì<br />

mới dược coi là kết hôn và manus của người chồng mới được thiết lập)<br />

16 Bởi có lẽ lúc đó ki tô giáo chưa phát triển mạnh, nó chỉ ở trong phạm vi hạn hẹp của vùng Jerusalem và cũng chưa<br />

được chính quyền dùng đến nhiều


7<br />

người vợ như là một món đồ sở hữu theo quan điểm Roma, vợ chồng phải chung<br />

thủy với nhau, việc li hôn bị cấm.<br />

Thế kỉ thứ II trở đi lãnh thổ của La mã không những không được mở rộng<br />

thêm nữa mà còn luôn bị đe dọa. Giữa thế kỉ thứ IV các bộ lạc người Giéc<br />

Manh 17 đã tràn vào xâm lược La Mã, đến thể kỉ thứ V trên sự tan rã của đế quốc<br />

La Mã người Giéc manh đã thiết lập được một số đế quốc phong kiến ở Tây<br />

Âu 18 . Ở giai đoạn này các cơ cấu xã hội bị đảo lộn, quyền lực chuyển dần về tay<br />

giáo hội. Lúc này các giám mục không những chỉ phải giảng giải về đạo đức<br />

trong hôn nhân, không phải chỉ lo khuyên bảo, răn dạy cho các cặp đôi mà nhiều<br />

lần phải đảm đương vai trò của pháp luật. Thêm vào đó để dung hòa xung đột<br />

với dân truyền thống của dân Giecmanh, sự thỏa thuận trong hôn nhân đã được<br />

khẳng định rõ ràng trong giáo luật. Và để sự thỏa thuận này được thực hiện<br />

nghiêm túc, giáo luật cho rằng sự thỏa thuận cần diễn ra theo thể thức pháp định<br />

thì mới có giá trị.<br />

Sang thế kỉ 13, quan điểm của tôn giáo lại cho rằng sự thỏa thuận là<br />

nguyên nhân tác thành của hôn nhân nhưng nhưng bản chất của sự tác thành nên<br />

hôn nhân lại không phải là một sự thỏa thuận. Đối tượng của sự thỏa thuận<br />

chính là sự kết hợp của vợ chồng mang theo những nghĩa vụ và quyền lợi căn<br />

bản của hôn nhân, vì thế thỏa thuận này đã bao hàm cả những vấn đề quyền lợi<br />

và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, thời kì mà chỉ có điểm bắt đầu<br />

chứ không có điểm kết thúc nếu như một người không qua đời. Có lẽ từ đây mới<br />

xuất hiện một loại khế ước về quyền lợi và nghĩa vụ giữa vợ chồng (bao gồm cả<br />

vấn đề tài sản của vợ chồng) được lập trước khi kết hôn. Loại khế ước này đã<br />

mang đầy đủ hơn các yếu tố của một hôn ước. Giá trị pháp lí của hôn ước đã<br />

được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự đầu tiên trên thế giới – Bộ luật dân sự<br />

Napoleon 1804.<br />

Một nguyên do nữa mà theo người viết cũng là lí do khiến cho hôn ước<br />

trở nên phổ biến đối với những người theo công giáo, đó là theo quan niệm của<br />

công giáo thì hôn nhân là một vợ một chồng và bất khả phân li nên giáo hội<br />

không cho phép việc li hôn. Dưới thời trung cổ do giáo hội nắm quyền nên<br />

17 Lúc đó người Giec Manh vẫn chưa có nhà nước, sau khi xâm lược La Mã họ đã có bước nhảy vọt chuyển từ xã hội<br />

thị tộc sang xã hội phong kiến, không qua giai đoạn xã hội chủ nô.<br />

18 Vương quốc Vi di gôt gồm Tây Ba Nha và miền tây nam Gô lơ, Vương quốc Buyếc gông ở miền nam Gô lơ,<br />

Vương quốc Frăng ở Bắc Gô lơ, vương quốc Xắc xông ở Anh, vương quốc Ôxtorogot ở Italya…


8<br />

pháp luật các nước cũng không cho phép vợ chồng li hôn. Tuy nhiên trong đời<br />

sống chung vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn và nhiều trường<br />

hợp mâu thuẫn đó dẫn đến tình trạng vợ chồng không muốn chung sống hay<br />

không thể chung sống với nhau nữa. Lúc đó cần có một giải pháp để giải tỏa<br />

xung đột giữa vợ chồng và việc sống li thân cùng với sự biệt lập về tài sản là<br />

cần thiết. Vậy nên việc qui định trước về vấn đề tài sản của vợ chồng là cần<br />

thiết để đảm bảo tự do cho cá nhân.<br />

� Theo người viết, có nhìn nhận về sự ra đời của hôn ước như trên<br />

mới thấy được tính khách quan của sự tồn tại của hôn ước, của chế độ tài<br />

sản ước định.<br />

1.1.3. Đặc điểm của hôn ước<br />

� Về chủ thể: Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực giữa những người có<br />

quan hệ hôn nhân hợp pháp (có làm các thủ tục cần thiết để đăng kí kết hôn với<br />

cơ quan có thẩm quyền). Do hôn ước có tính hoạch định cao nên các cặp vợ<br />

chồng thuộc trường hợp hôn nhân thực tế, chung sống như vợ chồng dù được<br />

công nhận là hợp pháp cũng không được coi là chủ thể của hôn ước. Hôn nhân<br />

thực tế hay việc công nhận tính hợp pháp của các quan hệ chung sống như vợ<br />

chồng không phải là lạc hậu và chỉ tồn tại ở một số quốc gia đang phát triển.<br />

Hôn nhân thực tế (cohabition) được ghi nhận và thậm chí việc công nhận hôn<br />

nhân thực tế còn là xu hướng của pháp luật các quốc gia phương Tây đặc biệt là<br />

các quốc gia theo thông luật (common law).<br />

� Về mục đích: Hôn ước tạo điều kiện cho vợ chồng tự chủ hơn trong<br />

việc quản lí tài chính, hoạch định tương lai (thậm chí tương lai đó bao gồm cả<br />

việc li hôn). Mặc dù không hoàn toàn, nhưng hôn ước và cả chế độ tài sản ước<br />

định cũng xuất phát từ lợi ích chung của gia đình và có mục đích là góp phần<br />

vào sự vững bền của hạnh phúc gia đình.<br />

� Về hình thức: Hôn ước buộc phải được lập bằng văn bản có chữ kí<br />

của hai bên nam nữ sắp trở thành vợ chồng 19 . Pháp luật của nhiều nước thường<br />

qui định hôn ước phải được công chứng và cơ quan có thẩm quyền xác nhận tính<br />

19 Công ước Lahaye năm 1978 về lựa chọn luật áp dụng với chế độ tài sản vợ chồng chỉ yêu cầu hôn ước phải được<br />

lập bằng văn bản và có chữ kí của cả hai người, Đạo luật thống nhất về hôn ước của Hoa Kì (đã được chấp nhận ở đa<br />

số các bang của Hoa Kì) cũng qui định hôn ước chỉ cần được lập bằng văn bản và có chữ kí của hai bên và không<br />

cần thêm bất cứ một sự xác thực nào khác.


9<br />

hợp pháp (bằng các hình thức công chứng và đăng kí hôn ước cùng với thời<br />

điểm đăng kí kết hôn).<br />

� Về nội dung: Trong hôn ước, vợ chồng tối thiểu phải thỏa thuận về<br />

phương thức hay qui định về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của mình.<br />

Những thỏa thuận trong hôn ước không được trái với trật tự công cộng và đạo<br />

đức xã hội. Trong hôn ước vợ chồng chỉ có thể thỏa thuận về vấn đề tài sản và<br />

không thể thỏa thuận hay làm khác đi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng hay<br />

các quan hệ nhân thân khác đã được pháp luật qui định.<br />

� Về hiệu lực: Hôn ước phải được lập trước khi kết hôn, để đảm bảo<br />

phát sinh hiệu lực, hôn ước phải được lập theo thể thức mà pháp luật nội địa<br />

(luật nơi vợ chồng cư trú và có quốc tịch) hoặc pháp luật nơi lập hôn ước qui<br />

định 20 . Hôn ước phát sinh hiệu lực kể từ khi hai bên nam nữ trở thành vợ chồng<br />

hợp pháp.<br />

� Về vấn đề sửa đổi, hủy bỏ: việc thay đổi hay chấm dứt hiệu lực của<br />

hôn ước phải theo một thể thức nhất định, việc thay đổi thường được tiến hành<br />

theo hình thức lập hôn ước. Trước đây hôn ước là bất di bất dịch tuy nhiên qui<br />

định này đã trở nên lỗi thời, hiện nay các quốc gia cho phép vợ chồng thay đổi<br />

hoặc hủy bỏ hôn ước nhưng thường đặt điều kiện về thời gian có hiệu lực của<br />

hôn ước trước hoặc điều kiện về hình thức, về sự phê chuẩn.<br />

1.2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI VIỆC QUI ĐỊNH VỀ HÔN ƯỚC<br />

Không giống như các chế định pháp luật khác, hôn ước “nhập cư”, “tồn<br />

tại” và bị “trục xuất” khỏi pháp luật Việt Nam một cách lặng lẽ, không dựa vào<br />

cơ sở xã hội nào 21 .<br />

Mặc dù trong xã hội phong kiến Việt Nam, các qui định về hôn nhân gia<br />

đình chiếm một vị trí quan trọng trong các văn bản pháp luật song tuyệt nhiên<br />

chế độ tài sản vợ chồng không được qui định như một chế định riêng rẽ và cụ<br />

thể 22 . Pháp luật thời kì phong kiến lại càng không hề biết đến một qui định mang<br />

20 Điều 12 Công ước Lahaye 1978, điều này cũng là nguyên tắc chung.<br />

21 Trên thực tế, hôn ước chưa từng được áp dụng ở Việt Nam và gần như tất cả các qui định trong pháp luật Việt<br />

Nam về hôn ước đều là sự sao chép. Vấn đề này sẽ được làm rõ trong phần 1.2.<br />

22 TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, sđd, tr. 50


10<br />

nội hàm như hôn ước đang nói tới ở đây 23 . Đến thời thực dân Pháp xâm lược,<br />

hôn ước mới cùng thiên chúa giáo lần đầu du nhập vào Việt Nam.<br />

1.2.1. Hôn ước trong pháp luật thời kì Pháp thuộc<br />

Trong thời kì Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp chia<br />

nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng<br />

để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.<br />

� Ở Bắc kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kì)<br />

� Ở Trung kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung kì)<br />

� Ở Nam kì cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (Dân luật<br />

giản yếu Nam kì)<br />

Hôn ước được ghi nhận trong Dân luật Bắc kì, Dân luật Trung kì, riêng<br />

tập Dân luật giản yếu Nam kì không có ghi nhận về hôn ước cũng như vấn đề tài<br />

sản vợ chồng 24 tuy nhiên án lệ ở Nam kì trong thời kì này lại “luôn luôn nhắc lại<br />

nguyên tắc tự do lập hôn ước mà các tòa án Pháp coi là lẽ đương nhiên được áp<br />

dụng trong khi không có luật viết” 25 .<br />

Điều 104 Tiết thứ IV thiên thứ V quyển thứ nhất Dân luật Bắc kì qui định<br />

rằng: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến toàn thể vợ chồng là khi<br />

nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng<br />

ấy không được trái với phong tục và trái với quyền lợi người chồng là người chủ<br />

trương trong đoàn thể”. Điều 105 lại qui định rằng: “Phàm tư ước về tài sản giá<br />

thú phải làm thành chứng thư tại trước mặt “no-te” 26 , hoặc do Lý trưởng thị<br />

thực, mà phải làm trước khi khai giá thú. Đã khai giá thú rồi thì không được<br />

thay đổi gì nữa. Hôn ước phải do các người có quyền ưng thuận trong việc giá<br />

thú ký nhận cho mới được. Phàm tư ước về tài sản giá thú, phải biện chú vào<br />

chứng thư giá thú thì mới có thể đem đối dụng với người ngoài được. Ai muốn<br />

xin trích lục chứng thư giá thú về khoản biên chú các tư ước ấy, thì sẽ do bộ lại<br />

cấp phát cho”. Có thể thấy hôn ước đã được thừa nhận trong Dân luật Bắc kì với<br />

23 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam (tập 1 Hôn sản – Tư sản), Sài Gòn tháng 2 năm 1960 tr. 39<br />

có đoạn viết: “Trong cổ luật của ta như luật Hồng Đức, không hề thấy nói đến hôn ước hay hôn khế: vợ chồng lấy<br />

nhau, đương nhiên theo chế độ hôn sản do tục lệ hay pháp luật ấn định và hình như trong thời kì hôn thú họ có thể<br />

làm giấy tờ để thỏa thuận hay ấn định lại sự quản trị của một vài thứ của. Nhưng luật cũ không biết đến hôn ước<br />

theo nghĩa chuyên môn của luật pháp hiện đại. Điều 94 luật Gia Long có nói đến hôn thư mà hai bên vợ và chồng<br />

trao đổi trước khi cưới, nhưng hôn thư không có liên lạc gì tới hôn ước hiện nay”.<br />

24 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 4 có đoạn viết: “riêng về tài sản trong gia đình tập<br />

Giản yếu không nói gì đến hôn sản, di sản và tự sản”.<br />

25 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr 39.<br />

26 Văn bản đã phiên tâm từ “notaire” trong tiếng Pháp có nghĩa là công chứng viên thành “no-te”.


11<br />

đầy đủ các đặc điểm, tiêu chí cần có của một hôn ước. Về hình thức, hôn ước<br />

dưới thời này cũng buộc phải lập bằng văn bản và được xác nhận bởi công<br />

chứng viên hoặc lí trưởng; hôn ước phải lập trước khi kết hôn và không thể thay<br />

đổi trong suốt thời kì hôn nhân. Về nội dung, hôn ước không được trái với<br />

phong tục tập quán và quyền lợi của người chồng, trong giai đoạn này, quyền<br />

gia trưởng của người chồng được coi là một thứ trật tự công cần được bảo vệ.<br />

Dân luật Trung kì cũng qui định về hôn ước, nhưng cách sắp xếp cũng<br />

như nội dung đã chép theo bộ Dân luật Bắc kì, cả những nét chính và những<br />

nguyên tắc vẫn được giữ nguyên. Điều 102 và 103 của Dân luật Trung kì có nội<br />

dung hệt như Điều 104 và 105 Dân luật Bắc kì, có chăng là chỉ khác nhau về<br />

ngôn từ và sự khác nhau này không ảnh hưởng gì đến nội dung của qui định 27 .<br />

� Mặc dù là qui định của pháp luật Việt Nam, nhưng những qui định này<br />

đã chép gần như nguyên văn điều 1387 dân luật Pháp. Hôn ước và nguyên tắc tự<br />

do lập hôn ước không hề xuất phát từ nhu cầu của xã hội Việt Nam thời bấy giờ<br />

mà được du nhập vào Việt Nam dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp. Sự cấy<br />

ghép pháp luật không có tính toán này đã khiến cho các qui định về hôn ước trở<br />

nên thừa và vô tác dụng. Hầu như dân chúng đều chưa biết gì đến qui định pháp<br />

lí mới mẻ này 28 . Hơn nữa, dưới chế độ phong kiến dẫu có quan tâm đến tài sản<br />

trong hôn nhân thì người ta cũng chỉ quan tâm đến sự môn đăng hộ đối của hai<br />

gia đình chứ không hề đề cập đến quyền lợi vật chất một cách quá rõ ràng và<br />

thiếu tinh thần giao hiếu như những gì qui định trong hôn ước.<br />

Mặt khác có lẽ cũng vì hôn ước không phù hợp với tình hình xã hội Việt<br />

Nam đương thời nên các nhà làm luật cũng chỉ qui định một cách “lấy lệ” khiến<br />

cho chúng ta dễ dàng thấy được tính không hoàn chỉnh, không chặt chẽ của qui<br />

định hôn ước khi xem xét toàn bộ các qui định về chế độ tài sản vợ chồng ở đây.<br />

Theo qui định thì khi sử dụng quyền tự do lập hôn ước, hai vợ chồng có thể tùy<br />

27 Điều 102: “Về đường tài sản của vợ chồng chỉ khi nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau thời<br />

pháp luật mới can thiệp đến; lời ước riêng ấy cốt không trái với phong hóa và không trái với quyền lợi của người<br />

chồng, là người chủ trong gia thất”; Điều 103: “Phàm lời ước riêng của vợ chồng phải làm bằng giấy trước khi<br />

khai, trước việc giá thú, giấy ấy phải do lý trưởng nhận thực, hoặc làm trước mặt viên quản lý thơ khế. Sau khi<br />

đã khai trước giá thú rồi, thời lời ước riêng ấy không thể thay đổi điều gì nữa. Phàm hôn khoản của vợ chồng<br />

phải có những người có quyền ưng thuận trong việc giá thú thuận y. Muốn cho điều khoản trong hôn khoản của<br />

vợ chồng đối với người ngoài có giá trị và muốn cho hôn khoản ấy lâm thời có thể viện ra mà chống cãi với<br />

người ngoài, thời trong chứng thơ giá thú phải minh chú rằng việc giá thú nầy có hôn khoán mà bản sao hôn<br />

khoán ấy lại phải đính theo chứng thư giá thú mới được. Ai muốn xin trích lục chứng thư giá thú và lời ước riêng<br />

ấy, thời hương bộ sẽ cấp phát cho”.<br />

28 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 40


12<br />

ý ấn định điều lệ mà sau này hai bên sẽ phải theo, song luật Việt Nam không nói<br />

rõ rằng: nếu không theo chế độ pháp định thì họ có thể chọn theo chế độ tài sản<br />

nào, mà tự bắt họ phải xây dựng toàn bộ qui định điều chỉnh tài sản của mình;<br />

thêm nữa là không hề có hướng dẫn thêm nào về hôn ước trong toàn bộ các qui<br />

định pháp luật thời đó. Trong khi bộ luật dân sự của Pháp thì có rất nhiều chế độ<br />

tài sản về nội dung cho vợ chồng lựa chọn nếu như vợ chồng lựa chọn chế độ tài<br />

sản ước định. Chỉ việc qui định bỏ lửng đó của pháp luật Việt Nam đã khiến cho<br />

hôn ước vốn đã chẳng phù hợp với xã hội Việt Nam lại càng trở thành một chế<br />

định bất khả thi trong hệ thống pháp luật.<br />

1.2.2. Hôn ước theo hệ thống pháp luật ở miền nam nước ta trước<br />

ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975)<br />

Trong thời gian cầm quyền ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Ngô<br />

Đình Diệm đã thông qua hai văn bản pháp luật mang tính pháp điển đó là Luật<br />

Gia đình năm 1959 và Bộ luật Dân sự năm 1972.<br />

� Luật Gia đình năm 1959<br />

Mặc dù trong phiên họp thông qua Luật Gia đình năm 1959, các nghị viên<br />

cũng đề cao tính mẫu mực của dân luật Pháp, song Luật Gia đình 1959 khác biệt<br />

đáng kể so với Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung Kì. Lần đầu tiên trong lịch sử<br />

Việt Nam có một văn bản pháp luật chỉ qui định riêng về Gia đình 29 và kết cấu<br />

cũng không hoàn toàn giống với dân luật Pháp.<br />

Điều 45 Luật Gia Đình 1959 qui định: “Luật lệ chỉ qui định phu phụ tài<br />

sản khi nào vợ chồng không có lập hôn ước mà họ muốn làm ra sao cũng được<br />

miễn là không trái với phong hóa, trật tự công và quyền lợi của con”. Nguyên<br />

tắc luật chỉ can thiệp vào chế độ tài sản vợ chồng khi vợ chồng không lập hôn<br />

ước đã được thể hiện ngay tại đây, đây cũng là một qui định tương đối tiến bộ<br />

bởi quyền gia trưởng của người chồng đã không còn là một trật tự công cần<br />

được bảo vệ 30 mà thay vào đó là quyền của con 31 .<br />

29 Thật ra cũng có những văn bản qui định riêng về gia đình nhưng nó không thông qua bởi Nghị viện và không có<br />

tầm vóc như Luật ví dụ Quy điều hộ tịch An Nam tại Bắc Kì cũng qui định riêng về vấn đề hộ tịch, liên quan tới gia<br />

đình, tuy nhiên đây chỉ là Nghị Định.<br />

30 Theo người viết, ngoài những tiến bộ do nguyên nhân khách quan thì việc không thừa nhận chế độ gia trưởng<br />

trong Luật Gia đình còn có nguyên nhân chủ quan khác nữa đó là dự án luật “Luật Gia đình” này do Trần Lệ Xuân<br />

– vợ Ngô Đình Nhu trình lên nghị viện (trong các biên bản thông qua sự án luật đã ghi rõ đây là dự án luật “Gia<br />

Đình” của bà dân biểu Ngô Đình Nhu).<br />

31 Luật dân sự Nhật Bản hiện nay cũng qui định là hôn ước không được trái với quyền lợi của người thừa kế hàng<br />

thứ nhất.


13<br />

Hôn ước trong Luật Gia Đình 1959 đã được qui định một cách tỉ mỉ hơn.<br />

Hôn ước phải được lập bằng văn bản trước khi kết hôn, được công chứng và<br />

phải được công bố. Điều 46 Luật Gia Đình qui định: “hôn ước phải làm bằng<br />

chứng thư trước mặt trưởng khế hay một viên chức có thẩm quyền thị thực”,<br />

việc thị thực ở đây thực chất là công chứng 32 . Hôn ước phải được lập trước khi<br />

kết hôn và phải được ghi vào trong giấy giá thú, vì như thế mới đảm bảo cho<br />

hôn ước có giá trị với người thứ ba. Riêng đối với những người buôn bán, thì<br />

hôn ước của họ phải được niêm yết tại tòa thương mại và chủ cước vào sổ<br />

thương mại do phòng lục sự tòa này giữ 33 . Luật Gia đình còn qui định cả về sự<br />

vô hiệu của hôn ước, hôn ước sẽ vô hiệu nếu như không đảm bảo các điều kiện<br />

về nội dung và hình thức; hôn ước không công bố thì không vô hiệu, nó chỉ<br />

không có hiệu lực với người thứ ba mà thôi; khi hôn ước vô hiệu thì chế độ tài<br />

sản của vợ chồng sẽ là chế độ tài sản pháp định (cộng đồng toàn sản); sự vô hiệu<br />

của hôn ước không ảnh hưởng tới việc kết hôn, nhưng ngược lại nếu việc kết<br />

hôn bị vô hiệu thì đương nhiên hôn ước cũng vô hiệu, Luật cũng qui định là hôn<br />

ước chỉ có hiệu lực trong thời kì hôn nhân. Trong suốt thời kì hôn nhân, hôn ước<br />

không thể được sửa đổi. Khác với Dân luật Trung kì và Bắc kì, Luật Gia đình<br />

1959 qui định tương đối kĩ về vấn đề li thân, Luật Gia đình 1959 cấm li hôn (chỉ<br />

được li hôn khi được sự chấp thuận của tổng thống) và qui định tương đối tỉ mỉ<br />

về chế định li thân cho nên có thể coi rằng hôn ước là một giải pháp để cho<br />

những cặp đôi sống li thân có điều kiện để tiếp tục sống thoải mái.<br />

� Bộ luật dân sự năm 1972<br />

Ngày 20/12/1972 chính quyền Việt Nam cộng hòa có ban hành Bộ luật<br />

Dân sự năm 1972 trong đó phần phu phụ tài sản cũng dành các Điều từ 144 đến<br />

149 để qui định về hôn ước với những qui định tương đối chung chung và không<br />

được tỉ mỉ như Luật Gia đình năm 1959. Bộ luật này cũng chỉ được áp dụng<br />

32 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 42 viết “thể thức thị thực khác với sự nhận thực<br />

chữ kí. Khi nhận thực chữ kí, cơ quan hành chánh hay cơ quan tư pháp chỉ chứng nhận rằng về phương diện vật<br />

chất chữ kí trên giấy tờ quả thật là chữ kí của người kí, giấy tờ có chữ kí được nhận thực là một tư chứng thư. Trái<br />

lại, khi thị thực một chứng thư, viên chức can thiệp vào việc lập chứng thư bằng cách đích thân ghi chép lời giao<br />

ước của đương sự hoặc bằng cách hỏi lại để biết đích rằng chứng thư nhận đúng lời giao ước của người kí. Chứng<br />

thư thị thực là một công chứng thư”.<br />

33 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 43


14<br />

trong thời gian rất ngắn. Hôn ước được qui định trong Bộ luật Dân sự 1972 với<br />

những nét cơ bản sau:<br />

lập hôn ước.<br />

� Luật pháp chỉ qui định chế độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không<br />

� Vợ chồng được tự do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn là không trái<br />

với trật tự công cộng và thuần phong mĩ tục.<br />

� Hôn ước phải được lập trước khi kết hôn và được công chứng<br />

� Hôn ước không thể thay đổi trong thời kì hôn nhân<br />

� Hôn ước có thể sửa đổi trước khi kết hôn nhưng bản sửa đổi cũng<br />

phải được công chứng<br />

� Hôn ước sẽ không có hiệu lực với người thứ ba nếu như không<br />

được ghi và giấy đăng kí kết hôn.<br />

1.2.3. Hôn ước trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta<br />

từ Cách mạng Tháng tám (1945) đến nay<br />

Như đã phân tích, những qui định về hôn ước trong Dân luật Bắc kì và<br />

Dân luật Trung kì vốn không hề được người dân biết đến, bởi thế mà có lẽ sự<br />

biến mất của nó khi thay đổi chế độ cũng là điều không được những người thời<br />

đó để ý.<br />

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà nước ta đã ban hành hai sắc<br />

lệnh đầu tiên qui định điều chỉnh một số quan hệ hôn nhân và gia đình: sắc lệnh<br />

159/SL ngày 17/11/1950 qui định về vấn đề li hôn, sắc lệnh 97/SL ngày<br />

22/5/1950 sửa đổi một số qui lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh số 97-SL là<br />

văn bản duy nhất điều chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân<br />

trước khi có luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Nói về quan hệ giữa vợ và<br />

chồng sắc lệnh chỉ có qui định tại Điều 5 “Chồng vợ có địa vị bình đẳng trong<br />

gia đình” và Điều 6 “Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ”. Sắc<br />

lệnh này không hề đề cập đến việc công nhận hay không công nhận hôn ước.<br />

Tuy nhiên Điều 1 Sắc lệnh qui định “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ<br />

khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân”, Điều 14 lại qui định<br />

“Tất cả những điều khoản trong dân pháp điển Bắc kì, dân pháp điển Trung kì,<br />

Pháp qui giản yếu 1883 (sắc lệnh ngày 3/10/1883) thi hành ở Nam kì, và những<br />

luật lệ theo sau, trái với những điều khoản ở trên này đều bị bãi bỏ.” Vậy nên


15<br />

nếu hôn ước được lập mà không trái với quyền lợi của người vợ, không trái với<br />

quyền lợi của người chồng thì vẫn được coi là không trái với quyền bình đẳng<br />

của vợ chồng và được công nhận là có hiệu lực. Vậy nên theo nguyên tắc, hôn<br />

ước vẫn có thể được coi là không bị xóa bỏ trong pháp luật xã hội chủ nghĩa từ<br />

năm 1945 tới năm 1959. Hoặc có thể nói rằng một chế định bất khả thi thì việc<br />

xóa bỏ hay không xóa bỏ cũng không ảnh hưởng gì, nhưng điều đó cũng có<br />

nghĩa là người ta không hề quan tâm đến sự tồn tại của hôn ước vốn có trong<br />

dân luật và nếu như vậy thì càng có nghĩa rằng sự tồn tại của hôn ước không hề<br />

mâu thuẫn với chế độ xã hội chủ nghĩa vì nếu nó mâu thuẫn về lí thuyết thì ngay<br />

lập tức người ta sẽ xóa bỏ nó.<br />

Từ khi có Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, pháp luật Việt Nam chỉ<br />

thừa nhận chế độ tài sản pháp định, qui định về hôn ước hoàn toàn không còn<br />

tồn tại trong pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều 15 Luật hôn nhân và gia<br />

đình năm 1959 qui định “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử<br />

dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” vậy là trong một<br />

khoảng thời gian hơn 25 năm (thời gian Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có<br />

hiệu lực), pháp luật Việt Nam không thừa nhận tài sản riêng của vợ chồng. Đến<br />

khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời, chế độ tài sản vợ chồng ở Việt<br />

Nam là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản thì tài sản riêng của vợ chồng mới<br />

được thừa nhận. Luật cũng cho phép vợ chồng được chia tài sản chung trong<br />

thời kì hôn nhân (việc chia tài sản này phải có bản án của tòa án). Theo Luật<br />

Hôn nhân và gia đình năm 1986, vợ chồng cũng không được thỏa thuận bất cứ<br />

vấn đề gì về sở hữu tài sản trừ vấn đề nhập tài sản riêng có trước hoặc trong thời<br />

kì hôn nhân thành tài sản chung. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời<br />

kèm theo đó là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật Hôn<br />

nhân và gia đình (sau đây gọi là Nghị định 70) đã tạo ra một sự thay đổi cơ bản<br />

gây nhiều tranh cãi về chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì<br />

hôn nhân. Theo những qui định này vợ chồng có thể thỏa thuận về việc chia tài<br />

sản chung trong thời kì hôn nhân, thậm chí việc thỏa thuận chia tài sản này trong<br />

nhiều trường hợp chỉ cần lập bằng văn bản không có sự công chứng, chứng thực.<br />

Vợ chồng còn có thể thỏa thuận về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản này, nếu<br />

không thỏa thuận thì chế độ tài sản của vợ chồng dường như được đặt ở chế độ


16<br />

biệt sản 34 . Qui định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân theo Luật Hôn<br />

nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn qui định về các thỏa thuận<br />

trong vấn đề tài sản vợ chồng đã tạo nên một sự khác biệt đáng kể so với chế độ<br />

tài sản pháp định thuần túy vẫn thường thấy.<br />

1.3. HÔN ƯỚC TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI<br />

1.3.1. Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp<br />

Pháp là quốc gia đầu tiên thuộc hệ thống civil law chính thức ghi nhận giá<br />

trị pháp lí của hôn ước trong văn bản qui phạm pháp luật 35 , đó là bộ luật dân sự<br />

Pháp năm 1804 hay còn gọi là bộ luật Napoleon 36 . Là một sản phẩm của quá<br />

trình pháp điển hóa giữa những qui định mang tính chuẩn mực trong pháp luật<br />

La mã và một số tập quán đương thời, bộ luật dân sự Pháp thường được xem là<br />

khuôn vàng thước ngọc để các quốc gia khác học tập khi xây dựng dân luật. Cho<br />

đến ngày nay, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính mẫu mực của các qui định<br />

trong dân luật Pháp.<br />

Bộ luật dân sự Pháp dành riêng thiên V quyển thứ 3 để qui định về hôn<br />

ước và các chế độ tài sản vợ chồng. Thiên thứ V được mở đầu bằng Điều 1378:<br />

“pháp luật không điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng nếu giữa vợ<br />

chồng đã có thỏa thuận riêng mà vợ chồng cho là phù hợp và không trái với<br />

thuần phong mĩ tục hoặc với các qui định sau đây”. Vậy nên khi vợ chồng lập<br />

hôn ước, chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được điều chỉnh bằng hôn ước. Vợ<br />

chồng có thể tự do thỏa thuận về vấn đề tài sản nhưng nó phải tuân theo pháp<br />

luật cả về nội dung và thủ tục.<br />

� Về thủ tục:<br />

Việc lập ra, thay đổi, hủy bỏ hôn ước phải được tuân theo những thủ tục<br />

chặt chẽ để đảm bảo sự tự nguyện và việc thực hiện bản hôn ước đó.<br />

Lập hôn ước: Hôn ước phải do hai bên nam nữ thỏa thuận và phải được<br />

lập ra trước khi kết hôn 37 . Về hình thức, nó phải được lập bằng văn bản trước<br />

mặt công chứng viên với sự có mặt và thỏa thuận chung của cả hai bên hoặc<br />

34 TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, sđd, tr. 253 có<br />

đoạn viết: Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân thực chất là đã chấp nhận “chế<br />

độ biệt sản” giữa vợ chồng sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.<br />

35 Là một bộ phần của vương quốc phong kiến Frăng, hôn ước đã là một trong những điều được coi là hiển nhiên<br />

trong truyền thống của Pháp nên việc ghi nhận nó trong bộ luật dân sự đầu tiên cũng là đương nhiên.<br />

36 Hôn ước được ghi nhận tại thiên thứ 5 quyến thứ 3 bộ luật dân sự Pháp năm 1804, xem<br />

http://www.napoleonseries.org/research/government/code/book3/c_title05.html<br />

37 Xem Điều 1395 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp


17<br />

người được ủy quyền. Khi lập hôn ước công chứng viên cấp cho các bên giấy<br />

chứng nhận có ghi rõ họ tên, nơi cư trú của công chứng viên, tư cách và nơi ở<br />

của các bên kết hôn, ngày lập hôn ước, trong giấy chứng nhận cũng phải ghi rõ<br />

là phải nộp giấy này cho viên chức hộ tịch trước khi đăng kí kết hôn 38 . Để đảm<br />

bảo quyền lợi cho người thứ ba trong giao dịch với vợ chồng, việc lập hôn ước<br />

có thể được ghi trong giấy đăng kí kết hôn hoặc ghi rõ trong các văn bản giao<br />

dịch với người thứ ba nếu không thì với người thứ ba vợ chồng được coi như là<br />

kết hôn theo chế độ pháp lí chung 39 .<br />

Việc sửa đổi hôn ước: Sửa đổi trước khi kết hôn: việc sửa đổi thỏa thuận<br />

về tài sản vợ chồng trước khi kết hôn phải do hai người nam nữ thỏa thuận, việc<br />

thỏa thuận này phải có mặt của các bên tham gia hợp đồng và người được ủy<br />

quyền. Bản hôn ước đã sửa đổi cũng phải đảm bảo những yêu cầu về hình thức<br />

cũng như đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba như bản hôn ước đã lập ban<br />

đầu 40 . Sửa đổi sau khi kết hôn: sau khi kết hôn, hôn ước chỉ được sửa đổi sau 2<br />

năm áp dụng, việc thay đổi phải được công bố cho người các con đã thành niên<br />

và các chủ nợ, nếu những người được thông báo này phản đối thì việc sửa đổi<br />

hôn ước sẽ phải thông qua thể thức phê chuẩn của tòa án nơi vợ chồng cư trú 41 .<br />

38 Điều 1394 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp<br />

39 Điều 1394 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp<br />

40 Điều 1396 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp<br />

41 Điều 1397 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp (đã sửa đổi năm 2006): “Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản, vì lợi ích<br />

của gia đình, vợ chồng có thể thỏa thuận sửa đổi hoặc thậm chí thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản bằng chứng thư<br />

công chứng. Chứng thư thay đổi này phải bao gồm việc thanh toán chế độ tài sản bị thay đổi, nếu không sẽ bị vô<br />

hiệu, khi việc thanh toán đó là cần thiết; Các bên trong hôn ước bị sửa đổi và các con đã thành niên của mỗi bên vợ<br />

chồng được thông báo riêng về sự sửa đổi dự kiến. Mỗi người có thể phản đối sự thay đổi đó trong thời hạn ba<br />

tháng; Các chủ nợ được thông báo về sự thay đổi dự kiến bằng việc công bố trên tờ báo tiếp nhận những thông báo<br />

pháp lý trong huyện hoặc tỉnh nơi cư trú của vợ chồng. Họ có thể phản đối sự thay đổi trong thời hạn ba tháng kể từ<br />

khi công bố; Trong trường hợp có phản đối, chứng thư công chứng phải tuân theo thể thức phê chuẩn của tòa án nơi<br />

cư trú của vợ chồng. Yêu cầu và quyết định phê chuẩn được công bố theo những điều kiện và chế tài được dự liệu tại<br />

Bộ luật tố tụng dân sự; Nếu một bên vợ, chồng có con chưa thành niên, chứng thư thay đổi bắt buộc phải tuân theo<br />

thể thức phê chuẩn của tòa án nơi cư trú của vợ chồng; Sự thay đổi có hiệu lực đối với các bên kể từ ngày ra chứng<br />

thư hoặc ngày ra bản án và đối với người thứ ba thì sau ba tháng kể từ ngày sự thay đổi được ghi chú bên lề giấy<br />

chứng nhận kết hôn. Tuy nhiên, kể cả khi không có sự ghi chú, những thay đổi vẫn có hiệu lực đối với người thứ ba<br />

nếu trong những giao dịch với họ, vợ chồng đã tuyên bố về sự thay đổi chế độ tài sản của mình; Trong trường hợp<br />

vợ hoặc chồng đang trong quy chế được bảo trợ pháp lý theo những thể thức được quy định tại phần XI quyển I, sự<br />

sửa đổi hoặc thay đổi chế độ tài sản phải được sự cho phép trước của Thẩm phán về giám hộ hoặc của Hội đồng gia<br />

tộc nếu có; Phải ghi chú sự sửa đổi vào bản chính hôn ước bị sửa đổi; Các chủ nợ đã không phản đối, nếu thấy có sự<br />

gian lận đến quyền của mình, có thể chống lại sự thay đổi chế độ tài sảncủa vợ chồng theo những quy định của điều<br />

1167; Những thể thức áp dụng điều luật này được quy định trong sắc luật của Hội đồng nhà nước.” (Bản dịch từ văn<br />

bản tiếng Pháp của ThS. Bùi Minh Hồng, giảng viên khoa Luật dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội)


� Về nội dung:<br />

18<br />

Những chế độ tài sản vợ chồng có thể lựa chọn chế độ tài sản chung (có<br />

thể lựa chọn chế độ cộng đồng toàn sản hoặc chế độ cộng đồng động sản và tạo<br />

sản) và chế độ tài sản riêng (chế độ biệt sản, chế độ tài sản riêng tương đối). Có<br />

thể thấy, việc thỏa thuận lựa chọn trong hôn ước của pháp là lựa chọn chế độ tài<br />

sản, điều này sẽ làm mọi việc đỡ phức tạp và tiểu tiết hơn việc vợ chồng tự thỏa<br />

thuận đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng và sự chuyển hóa của các khối tài<br />

sản này như thế nào.<br />

Với chế độ tài sản chung: Chế độ cộng đồng toàn sản: nếu vợ chồng<br />

thỏa thuận chọn chế độ cộng đồng toàn sản: tất cả tài sản của vợ chồng sẽ có<br />

và hiện có (bao gồm cả tài sản của riêng vợ hoặc chồng trước thời kì hôn nhân)<br />

sẽ thuộc khối tài sản qui định tại Điều 1404 (đồ dùng, tư trang cá nhân…) Chế<br />

độ cộng đồng động sản và tạo sản: về cơ bản sẽ gần giống với chế độ tài sản<br />

pháp định nhưng cũng có một số điểm khác biệt, ví dụ như: vợ chồng có thể<br />

thỏa thuận về việc phân chia tài sản không đều nhau, về việc trích khấu tài sản<br />

có bồi thường 42 …<br />

Với chế độ tài sản riêng: Chế độ biệt sản: nếu lựa chọn chế độ tài sản<br />

này, vợ chồng không có tài sản cộng đồng, mỗi bên giữ quyền quản lí, hưởng<br />

dụng và định đoạt đối với khối tài sản thuộc về mình. Mỗi bên vợ, chồng chịu<br />

trách nhiệm về những khoản nợ riêng và có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu<br />

chung của gia đình. Việc thực hiện theo thoả thuận hoặc theo qui định của pháp<br />

luật. Trong quan hệ với người thứ ba vợ chồng có thể dùng mọi cách để chứng<br />

minh rằng mọi tài sản thuộc về mình 43 . Chế độ tài sản riêng tương đối: Đây<br />

được coi là một chế độ tài sản hỗn hợp: tách riêng tài sản trong thời kỳ hôn nhân<br />

và cộng đồng tài sản khi chấm dứt hôn nhân. Trong thời kì hôn nhân, vợ chồng<br />

thực hiện chế độ tách riêng tài sản, mỗi bên giữ một phần tài sản riêng và quyền<br />

quản lí, hưởng dụng và định đoạt. Vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện những<br />

nghĩa vụ riêng bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi chấm dứt hôn nhân,<br />

42 Xem mục IV và mục V chương 2 thiên thứ V bộ luật dân sự cộng hòa Pháp<br />

43 Điều 1538 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp


19<br />

mỗi bên được hưởng một nửa những tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân<br />

mà hiện còn.<br />

Ngoài những qui định chung về thủ tục và nội dung của hôn ước, hôn ước<br />

dành cho các cặp vợ chồng có một trong hai người hoặc cả hai người là thương<br />

nhân lại có những yêu cầu đòi hỏi khác do đặc thù của việc sản xuất kinh doanh 44 .<br />

Hôn ước ở Pháp được qui định rất chặt chẽ về cả nội dung và thủ tục để<br />

đảm bảo cho lợi ích của vợ chồng của người thứ ba và trật tự của xã hội. Nếu<br />

nghiên cứu pháp luật về hôn ước mà không tìm hiểu về chế định hôn ước tại<br />

Pháp thì là điều vô cùng thiếu sót.<br />

1.3.2. Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì<br />

Có thể nói rằng không có ở một quốc gia nào mà vấn đề lập hôn ước<br />

lại trở nên phổ biến như ở Hoa Kì. Ở Hoa Kì, những người có mức sống cao<br />

hoặc những người thừa kế giàu có thường gặp rất nhiều phiền toái với<br />

vợ/chồng cũ của mình cũng như luật sư của cô/anh ta trong suốt thời kì giải<br />

quyết việc li hôn. Thêm vào đó, những luật sư làm về luật gia đình đặc biệt<br />

là giải quyết các vụ li hôn thường có thu nhập rất cao, tổng phí phải chi trả<br />

cho một vụ li hôn thường không dưới 150.000 đô la Mỹ. Ngoài hôn ước<br />

(prenuptial agreement), Hoa Kì còn cho phép các cặp vợ chồng lập một thỏa<br />

thuận tương tự như hôn ước trong thời kì hôn nhân (postnuptial agreement<br />

tạm dịch là hậu hôn ước). Trong suốt thế kỉ 18 thì thông luật (common law)<br />

không cho phép vợ chồng lập hôn ước bởi vì họ cho rằng khi hai người kết<br />

hôn thì họ đã hòa làm một và không thể có giao dịch khi chỉ có một chủ thể,<br />

một lí do nữa là một người phụ nữ đã có chồng thì họ không được phép<br />

tham gia kí kết các hợp đồng trừ khi đã li thân 45 . Đến khoảng giữa thế kỉ 19<br />

thì một số án lệ ở Hoa Kì đã cho phép sự tồn tại của hôn ước, đến tháng 7<br />

năm 1983 một đạo luật về hôn ước (Uniform premarital agreement Act gọi<br />

44 Về vấn đề này, xem thêm tại Th.S Bùi Minh Hồng, Quan hệ về tài sản của vợ chồng trong hoạt động hợp tác sản<br />

xuất, kinh doanh theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, Đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng trong hoạt<br />

động sản xuất kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường ĐH Luật Hà Nội, năm 2008<br />

45 Ronald B. Standler (Copyright 2003), Prenuptial and Postnuptial contract Law in the USA, page 3<br />

www.rbs2.com/dcontract2.pdf


20<br />

tắt là UPAA 46 ) đã được ban hành dựa trên kết quả của các án lệ, UPAA được<br />

chấp nhận ở đa số các bang của Hoa Kì 47 , một số bang còn lại có những qui<br />

định khác hay đặc biệt hơn so với UPAA. Theo UPAA hôn ước ở Mĩ có một<br />

số đặc trưng sau:<br />

Về nội dung: Các bên thỏa thuận trong hôn ước với các nội dung sau<br />

� Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đổi với tài sản của một bên hoặc cả<br />

hai, phát sinh tại thời điểm trước hôn nhân và sau hôn nhân.<br />

� Quyền mua bán, sử dụng, chuyển nhượng, trao đổi, từ bỏ, cho thuê,<br />

tiêu dùng, dùng làm tài sản bảo đảm, thế chấp, cầm cố, tự định đoạt hay các<br />

quyền quản lí, kiểm soát khác đối với tài sản<br />

� Định đoạt tài sản khi li thân, li hôn, khi qua đời, hoặc sự biến hay<br />

bất kỳ sự kiện nào khác;<br />

� Sự thay đổi hay chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng<br />

� Lập chúc thư, uỷ thác, hay các biện pháp khác để thực hiện các nội<br />

dung của thoả thuận này;<br />

một người<br />

� Quyền sở hữu và chuyển nhượng từ tiền bảo hiểm tính mạng của<br />

� Vấn đề lựa chọn luật điều chỉnh<br />

� Các vấn đề khác bao gồm quyền và nghĩa vụ cá nhân nhưng không<br />

được trái với chính sách công và vi phạm pháp luật<br />

Quyền được chu cấp của con cái không thể bị ảnh hưởng theo chiều<br />

hướng bất lợi bởi hôn ước.<br />

Về hình thức: hôn ước phải được lập bằng văn bản và được hai bên kí vào<br />

và không cần thêm một sự xem xét nào với hôn ước.<br />

Về hiệu lực: hôn ước chỉ có hiệu lực trong thời kì hôn nhân. Sau khi kết<br />

hôn, hôn ước có thể được các bên sửa đổi bằng cách lập thêm một văn bản khác<br />

và kí tên vào đó, sự sửa đổi này không cần thêm một sự xem xét nào cả.<br />

Tuy nhiên theo luật một số bang, hôn ước còn có thể tự động hết hiệu lực<br />

sau 7 năm áp dụng hoặc sau khi đứa con đầu tiên ra đời, hay hôn ước chỉ được<br />

sửa đổi sau 1,5 năm áp dụng.<br />

46 Xem văn bản tại đây: http://www.law.upenn.edu/bll/archives/ulc/fnact99/1980s/upaa83.htm<br />

47 Mahar, Heather, Why Are There So Few Prenuptial Agreements?. Harvard Law School John M. Olin Center for<br />

Law, Economics and Business Discussion Paper Series. Paper 436, http://lsr.nellco.org/harvard_olin/436, page 3


21<br />

Mặc dù hôn ước ở Hoa Kì được qui định tương đối thoáng, nhưng trong<br />

thực tế các bên lập hôn ước lại chi trả khá nhiều tiền cho luật sư để có một hôn<br />

ước hợp pháp và chặt chẽ về thủ tục nhất.<br />

1.3.3. Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản<br />

Theo một cuộc khảo sát của tổ chức Master Card đã xếp loại tỉ lệ tiến bộ<br />

của phụ nữ trong 13 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên ý kiến của lực lượng lao<br />

động nữ xem họ đã được học qua bậc tiểu học hay chưa, có bao nhiêu người giữ<br />

các chức vụ quan trọng trong xã hội, và thu nhập trung bình của họ thế nào: với<br />

tỉ lệ 55,5%, phụ nữ Nhật Bản được coi là kém bình đẳng giới so với các nước<br />

khác, số phụ nữ Nhật là lao động chiếm 70,3%, số người giữ các chức vụ quan<br />

trọng của nhà nước chiếm 62,2%, những người có thu nhập trung bình 51,3% 48 .<br />

Nhật Bản là một quốc gia mang nặng nhiều biểu hiện phong kiến và bất bình<br />

đẳng giới. Hôn nhân một vợ một chồng của Nhật Bản mới được ghi nhận<br />

khoảng 100 năm trước vào đầu thời kì Minh Trị, ngay cả đến thời điểm hiện nay<br />

Nhật Bản cũng chỉ cho phép phụ nữ được tái giá sau 6 tháng kể từ ngày cuộc<br />

hôn nhân trước của họ chấm dứt 49 và người vợ khi kết hôn thì phải mang họ<br />

chồng 50 , luật dân sự ở Nhật Bản được coi là một trong những sản phẩm của cuộc<br />

cái cách Minh Trị 1868 51 . Hôn ước hay phần lớn những qui định trong bộ luật<br />

dân sự Nhật Bản thường do được học tập từ dân luật Đức hoặc Pháp, tuy nhiên<br />

đó là sự cấy ghép có chọn lọc chứ không phải là sự sao chép như trong dân luật<br />

Việt Nam thời kì Pháp thuộc, nó thể hiện ở những nét đặc trưng riêng trong qui<br />

định về hôn ước ở Nhật Bản.<br />

Về hình thức, không giống như pháp luật các quốc gia khác, Nhật Bản có<br />

riêng một văn bản pháp luật điều chỉnh về hình thức của hôn ước và vấn đề đăng<br />

kí hôn ước 52 (Mặc dù tên tiếng anh của văn bản này được dịch theo các cách<br />

khác nhau: “Family Registration Act” hay “Matrimonial property agreement<br />

Registration Act” nhưng toàn bộ nội dung của nó chỉ nói về việc đăng kí hôn<br />

ước và hình thức của hôn ước).<br />

48 Xem: Phụ nữ Nhật Bản tụt hậu về bình đẳng giới, www.tienphong.vn ngày 15/3/2005<br />

49 Điều 733 A Bộ luật dân sự Nhật Bản, Luật dân sự số 89 năm 1896 sửa đổi bằng luật số 78 năm 2006, tìm bản<br />

tiếng anh tại link sau: http://www.japaneselawtranslation.go.jp<br />

50 Điều 150 Bộ luật đân sự Nhật Bản,<br />

51 Trong cuộc cải cách này họ đã chủ trương từ bỏ những tập tục có hại để học hỏi những tiến bộ của phương Tây<br />

52 Tìm bản tiếng Nhật tại link sau: http://law.e-gov.go.jp (Luật này chưa được dịch chính thức sang tiếng Anh)


22<br />

Về nội dung, nội dung của của hôn ước được qui định trong bộ luật dân sự<br />

(Civil Code) Điều 755 Bộ luật dân sự Nhật Bản ghi nhận quyền được lập hôn<br />

ước của các cặp vợ chồng: các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng sẽ<br />

được tuân theo các qui định dưới đây nếu như vợ chồng không kí vào một hợp<br />

đồng qui định trước về tài sản của họ trước khi đăng kí kết hôn. Luật cũng qui<br />

định: Nếu vợ chồng có một thỏa thuận về tài sản mà trong đó qui định khác với<br />

chế độ tài sản pháp định thì hôn ước này không được chống lại người thừa kế<br />

hàng thứ nhất của vợ hoặc chồng hoặc người thứ ba trừ khi nó được đăng kí<br />

trước khi đăng kí kết hôn 53 .<br />

Việc thay đổi và hủy bỏ hôn ước: Hôn ước không thể thay đổi trong thời<br />

kì hôn nhân trừ khi vợ hoặc chồng là người quản lí tài sản mà có hành vi phá tán<br />

tài sản và để thay đổi hôn ước, các bên phải có đệ đơn lên tòa án 54 . Ở Nhật có<br />

một tòa án riêng biệt chuyên giải quyết các vấn đề về gia đình.<br />

1.3.4. Hôn ước theo pháp luật của Thái Lan<br />

Trong các quốc gia Đông Nam Á, có thể nói Thái Lan là quốc gia dễ tiếp<br />

nhận và thích nghi với những yếu tố được du nhập nhất. Việc hình thành pháp<br />

luật ở Thái Lan chủ yếu cũng là do tiếp thu từ pháp luật nước ngoài. Ban đầu,<br />

pháp luật Thái thực thụ được hình thành từ văn hóa và tập quán cổ truyền, đó là<br />

thời kì mẫu hệ và pháp luật phản ánh, phát sinh từ chính xác những nhu cầu xã<br />

hội thời bấy giờ, đến thời người Thái di cư vào Đông Dương thì pháp luật Thái<br />

lại tiếp nhận nhiều nét văn hóa của Ấn Độ, các bộ luật Thái cổ tiếp thu nhiều<br />

ảnh hưởng của pháp luật Ấn Độ. Từ triều đại Rama V trở đi, pháp luật Thái tiếp<br />

thu ảnh hưởng của Pháp luật phương Tây: ban đầu là tiếp nhận pháp luật Anh<br />

vào giải quyết từng vụ việc, sau đó là xây dựng bộ luật hình sự và dân sự đầu<br />

tiên theo kiểu Pháp, sau đó bộ luật dân sự và thương mại được xây dựng theo<br />

pháp luật Pháp còn bộ luật hình sự được phỏng theo pháp luật của Đức 55 .<br />

Mặc dù Thái Lan là một đất nước phương Đông, theo đạo phật, nhưng với<br />

khả năng dễ tiếp nhận và thích nghi thì hôn ước tồn tại trong pháp luật Thái Lan<br />

cũng không phải là điều khó hiểu. Hôn ước được qui định trong phần tài sản vợ<br />

53 Điều 756 Bộ luật dân sự Nhật Bản.<br />

54 Điều 761 Bộ luật dân sự Nhật Bản<br />

55 Xem thêm về phân kì lịch sử pháp luật của Thái Lan: Nguyễn Quế Thương, Suy nghĩ về phân kì lịch sử Thái Lan<br />

và phân kì lịch sử pháp luật Thái Lan, website Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Viện khoa học xã hội Việt Nam,<br />

http://www.iseas.org.vn/module/news/viewcontent.asp?ID=18&langid=2


23<br />

chồng trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan (các Điều từ 1465 đến<br />

1493). Điều 1465 của Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan qui định: “trong<br />

trường hợp vợ chồng trước khi kết hôn không có thỏa thuận đặc biệt về tài sản<br />

của họ (hôn ước) thì quan hệ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi những qui<br />

định chung của chương này. Hôn ước sẽ vô hiệu nếu có bất cứ điều khoản nào<br />

trái với trật tự công hoặc đạo đức xã hội hoặc qui định rằng quan hệ tài sản của<br />

họ sẽ được điều chỉnh bởi luật nước ngoài”. Như vậy về nội dung, ngoài những<br />

đặc điểm chung như hôn ước ở nhiều nước, hôn ước ở Thái Lan còn có thêm<br />

điều kiện về luật áp dụng điều chỉnh, trong đó ở một số quốc gia đã cho phép vợ<br />

chồng được chọn luật áp dụng là luật nước ngoài.<br />

Về hình thức, hôn ước ở Thái Lan phải được đăng kí cùng với thời điểm<br />

đăng kí kết hôn, phải được làm bằng văn bản và có ít nhất 2 người làm chứng,<br />

phải được nộp cùng thờ điểm đăng kí kết hôn 56 .<br />

Sửa đổi hôn ước: Điều 1467 qui định sau khi kết hôn hôn ước không thể<br />

sửa đổi trừ khi được sự chấp thuận của tòa án có thẩm quyền, và khi có quyết<br />

định cuối cùng về việc sửa đổi hay hủy bỏ hôn ước, tòa án phải thông báo với<br />

nơi đăng kí kết hôn về vấn đề đó. Mặc dù được sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi tòa án<br />

nhưng một số điều khoản của hôn ước sẽ không có hiệu lực với người thứ ba có<br />

thiện chí.<br />

Theo khảo sát thì hôn ước của các cặp vợ chồng Thái Lan thường hay bị<br />

tuyên vô hiệu và không được chấp thuận bởi mười lí do phổ biến sau 57 :<br />

� Các bên không lập hôn ước thành văn bản<br />

� Tài sản của các bên liệt kê trong hôn ước không được coi là hợp pháp<br />

� Có sự lừa dối: bị chồng (vợ) hoặc gia đình hoặc luật sư của chồng<br />

(vợ) lừa dối để kí vào hôn ước.<br />

� Chưa đọc hôn ước: sở dĩ có lí do này là bởi vì có thể xảy ra trường<br />

hợp vợ hoặc chồng được đề nghị kí rất nhiều giấy tờ trong đó có cả hôn ước mà<br />

họ lại không đọc nó.<br />

56 Điều 1466 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, năm 1925 sửa đổi năm 2009<br />

http://www.samuiforsale.com/Civil_Code_text_English_I.html<br />

57 Xem tại: http://thaiprenuptialagreement.com/thai-prenuptial-pointer.php


24<br />

� Các bên chưa có đủ thời gian để suy nghĩ về hôn ước: nếu như các<br />

bên chỉ đọc qua loa về hôn ước và kí vào đó thì rất có khả năng hôn ước sẽ bị<br />

vô hiệu.<br />

� Hôn ước có một số điều khoản bị cấm.<br />

� Các thông tin trong hôn ước bị sai lệch ví dụ thu nhập của các bên, tài<br />

sản, năng lực….<br />

� Các thông tin trong hôn ước chưa được hoàn thành hết, như chưa kê<br />

đầy đủ tài sản trước khi kết hôn…<br />

� Các bên không được độc lập về ý chí: khi một bên hoặc cả hai bên<br />

không được độc lập về ý chí mà phải phụ thuộc vào bên kia hoặc gia đình hoặc<br />

luật sư…<br />

� Hôn ước không phù hợp với đạo đức xã hội thông thường: một hôn<br />

ước quá thiên vị cho một bên ví dụ trong đó qui định rằng khi li hôn một bên sẽ<br />

được tất cả tài sản hoặc một bên sẽ chịu thanh toán tất cả các khoản nợ hoặc<br />

trong đó qui định miễn nghĩa vụ cấp dưỡng cho một bên… rất có khả năng bị<br />

tuyên vô hiệu.


25<br />

Chương 2<br />

KHẢ NĂNG ÁP DỤNG HÔN ƯỚC TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI<br />

2.1. HÔN ƯỚC PHỔ BIẾN VÀ LÀ XU HƯỚNG CỦA THẾ GIỚI<br />

2.1.1. Hôn ước trong tư pháp quốc tế<br />

Trước đây, quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, quan hệ tài sản vợ<br />

chồng nói riêng ít khi xuất hiện yếu tố nước ngoài và chẳng mấy khi xảy ra xung<br />

đột pháp luật. Lí do chủ yếu là khi phụ nữ lấy chồng người nước ngoài thì họ<br />

đương nhiên mất quốc tịch cũ và mang quốc tịch của người chồng. Ngày nay,<br />

những qui định như thế đã bị coi là lỗi thời, quan hệ pháp luật về tài sản vợ chồng<br />

đã xuất hiện xung đột pháp luật.<br />

Theo nguyên tắc của tư pháp quốc tế, khi có xung đột pháp luật cần lựa chọn<br />

các hệ thuộc pháp luật để áp dụng. Một số hệ thuộc cơ bản thường được áp dụng là<br />

hệ thuộc luật nhân thân (bao gồm hệ thuộc luật quốc tịch và hệ thuộc luật nơi cư<br />

trú), hệ thuộc luật nơi có tài sản (thường được áp dụng để giải quyết vấn đề về sở<br />

hữu tài sản có yếu tố nước ngoài), hệ thuộc luật do các bên kí kết hợp đồng lựa<br />

chọn, hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi (bao gồm luật nơi kí kết hợp đồng, luật<br />

nơi thực hiện nghĩa vụ, luật nơi thực hiện hành động), hệ thuộc luật tòa án…Tuy<br />

nhiên quan hệ tài sản vợ chồng thì lại được coi là quan hệ pháp luật nằm giữa biên<br />

giới của ba loại quan hệ: nhân thân, tài sản và hợp đồng, nó được coi là quan hệ<br />

phái sinh từ ba loại quan hệ kia 58 . Vì thế, việc lựa chọn hệ thuộc luật do các bên lựa<br />

chọn được coi là giải pháp hợp lí nhất. Thông thường, pháp luật nhiều quốc gia đều<br />

cho phép vợ chồng lựa chọn luật áp dụng với tài sản của mình. Khi vợ chồng không<br />

có sự lựa chọn nào về luật áp dụng với tài sản của họ thì phải áp dụng qui phạm<br />

xung đột để giải quyết quan hệ về tài sản vợ chồng. Các quốc gia theo thông luật<br />

(thuộc hệ thống common law) hầu như không có chế định quan hệ tài sản vợ<br />

chồng; do vậy, đối với quan hệ này, họ áp dụng luật điều chỉnh với quan hệ tài sản<br />

nói chung, tuy nhiên giải pháp này có nhược điểm là không bảo đảm sự điều chỉnh<br />

thống nhất đối với vợ và chồng khi hai vợ chồng có tài sản ở nhiều nước khác<br />

nhau. Các quốc gia theo hệ thống dân luật (civil law) áp dụng hệ thuộc luật quốc<br />

tịch chung của vợ chồng để điều chỉnh, giải pháp này có ưu điểm là cho phép áp<br />

58 Jean Derruppe’, Tư pháp quốc tế, Nhà pháp luật Việt Pháp, tr. 248


26<br />

dụng một hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh cả hệ quả nhân thân và hệ<br />

quả tài sản, song lại có nhược điểm là gây khó khăn cho việc áp dụng khi hai vợ<br />

chồng không có cùng quốc tịch 59 . Do vậy khi vợ chồng ấn định được luật áp dụng<br />

với quan hệ tài sản của họ thì sẽ đảm bảo được sự thống nhất cả về thời gian và<br />

không gian đối với các qui phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản vợ chồng.<br />

Cũng chính vì thế mà nguyên tắc trong tư pháp quốc tế thừa nhận rằng: xung đột<br />

pháp luật về quan hệ tài sản của vợ chồng trước hết sẽ áp dụng theo các qui định<br />

trong hôn ước, khi không có hôn ước mới áp dụng theo hệ thuộc luật nhân thân (khi<br />

các bên có cùng quốc tịch thì áp dụng luật nước mà vợ chồng có quốc tịch chung,<br />

khi không có quốc tịch chung thì áp dụng luật nơi cư trú chung), khi không áp dụng<br />

được hệ thuộc luật nhân thân (vợ chồng không có nơi cư trú chung cũng như quốc<br />

tịch chung) thì áp dụng hệ thuộc luật tòa án (áp dụng luật của nước mà có tòa án có<br />

thẩm quyền giải quyết vấn đề về tài sản của họ). Như vậy có thể thấy nguyên tắc tư<br />

pháp quốc tế luôn ưu tiên áp dụng hôn ước.<br />

Trong các điều ước quốc tế về chế độ tài sản vợ chồng, không thể không kể<br />

đến công ước Lahay về lựa chọn luật áp dụng với chế độ tài sản vợ chồng năm<br />

1978 60 (sau đây gọi là công ước Lahay năm 1978), công ước này thể hiện sự ưu<br />

tiên số một cho hôn ước trong việc lựa chọn luật áp dụng. Điều 3 Công ước ghi<br />

nhận rằng: “Chế độ tài sản vợ chồng được qui định bởi luật của quốc gia mà vợ<br />

chồng đã lựa chọn trước khi kết hôn”, Điều 11 Công ước lại ghi rằng: “Việc lựa<br />

chọn luật áp dụng phải được xác định một cách rõ ràng hoặc qui định trong các<br />

điều khoản của hôn ước”, sự lựa chọn này phải thể hiện dưới hình thức văn bản có<br />

chữ kí của các bên và ngày tháng năm lập văn bản 61 , nếu sự lựa chọn này thể hiện<br />

bằng hôn ước thì về hình thức hôn ước phải tuân theo qui định của quốc gia có luật<br />

được chọn để áp dụng cho chế độ tài sản vợ chồng hoặc luật hiện hành của quốc<br />

gia nơi lập hôn ước 62 . Ngay cả khi có sự thay đổi luật áp dụng thì hình thức thể<br />

hiện sự lựa chọn luật áp dụng mới cũng ưu tiên những qui định trong hôn ước bởi<br />

hình thức lựa chọn được xác định theo hôn ước.<br />

59 Jean Derruppe’, Tư pháp quốc tế, Nhà pháp luật Việt Pháp, tr. 249<br />

60 Số thành viên phê chuẩn công ước này chỉ đếm trên đầu ngón tay, tuy nhiên theo nhận xét chung thì ngay cả khi<br />

“không được phê chuẩn nhưng các Công ước này vẫn có ảnh hưởng đến các hệ thống pháp luật của các quốc gia<br />

thành viên lẫn các quốc gia chưa phải là thành viên”, xem Đặng Hoàng Oanh, Tổng quan về hội nghị Lahay về Tư<br />

pháp quốc tế, webside Bộ tư pháp www.moj.gov.vn ngày 04/04/2008.<br />

61 Điều 12 và Điều 13 Công ước Lahay 1978, http://hcch.e-vision.nl/index_en.php?act=conventions.text&cid=87<br />

62 Điều 12 Công ước Lahaye 1978


27<br />

2.1.2. Hôn ước được áp dụng tại nhiều quốc gia<br />

“Phần lớn pháp luật của các nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa<br />

thuận của vợ và chồng về chế độ tài sản, vì vậy, một mặt luật pháp dự liệu một chế<br />

độ tài sản của vợ chồng, mặt khác quy định những người kết hôn có quyền lập hôn<br />

ước. Chế độ tài sản do pháp luật dự liệu chỉ có hiệu lực áp dụng trong trường hợp<br />

vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước được lập ra nhưng vô hiệu do vi phạm<br />

những quy định của luật chung. Chỉ có một số nước trong hệ thống xã hội chủ<br />

nghĩa, như Liên xô, Bulgari, Hungari, Roumani, Tiệp khắc, Trung quốc, Việt Nam<br />

và ngoài ra còn có Arhentina và một số bang của Méhicô duy trì duy nhất một chế<br />

độ tài sản pháp định đối với vợ chồng” 63 .<br />

Hôn ước được qui định trong pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới. Có thể<br />

liệt kê theo châu lục các quốc gia qui định về hôn ước như sau. Ở châu Á: ngoài<br />

Nhật Bản, Thái Lan như đã giới thiệu, hôn ước được thừa nhận ở phần lớn các quốc<br />

gia trước kia là thuộc địa của Anh, Pháp, Mỹ. Thậm chí các vùng lãnh thổ như Đài<br />

Loan, Hồng Kông cũng áp dụng hôn ước như một qui chế pháp lí riêng sau khi<br />

được trả về Trung Quốc (luật Trung Quốc chưa có qui định về hôn ước). Ở Châu<br />

Âu: ngoài các quốc gia đã kí kết công ước Lahay năm 1978: Pháp, Lucxembua, Hà<br />

Lan (đã là thành viên chính thức) Áo và Bồ Đào Nha (cũng đã kí kết tuy nhiên<br />

chưa chính thức gia nhập công ước Lahay 1978), hôn ước còn được ghi nhận ở khá<br />

nhiều quốc gia châu Âu như: Anh và xứ Wales, Đức, Nauy, Tây Ba Nha, Bồ Đào<br />

Nha, Thổ Nhĩ Kì, Hi Lạp…tuy nhiên, phải nói rằng, ở châu Âu, hôn ước được qui<br />

định tương đối chặt chẽ chứ không quá thoáng như qui định về hôn ước ở Hoa Kì.<br />

Châu Phi: Hôn ước được ghi nhận ở Nam Phi. Ở châu Mĩ: hôn ước được ghi nhận<br />

khá rộng rãi và tương đối thoáng, hôn ước được ghi nhận ở hầu hết các quốc gia<br />

như: Bahamas, Jamaica, Dominica, Brazin, Canada, Venezuela, …Châu Đại<br />

Dương: là một châu lục có ít quốc gia song hôn ước đã tồn tại ở đây, hôn ước được<br />

thực thi ở Newzealand từ năm 1976 nhưng tại Úc hôn ước chỉ được ghi nhận khi có<br />

Luật Gia đình năm 2000.<br />

63 Th.S Bùi Minh Hồng, Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp<br />

luật Việt Nam, bài viết được đăng trên http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/01/05/4322-2/


28<br />

2.2. HÔN ƯỚC PHÙ HỢP VỚI XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI<br />

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI<br />

2.2.1. Sự thay đổi về yếu tố cá nhân và chức năng kinh tế trong gia đình<br />

Từ xưa đến nay, ở khắp nơi trên thế giới, quan niệm về gia đình hầu như<br />

luôn có điểm tương đồng. Gia đình, đó là nơi tập hợp những người có cùng chung<br />

quan hệ huyết thống và gắn bó với nhau.<br />

Trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia đình là một đơn vị cơ sở rất quan<br />

trọng trong đời sống của mỗi con người từ khi sinh ra, trưởng thành cho đến lúc<br />

qua đời. Khác với xã hội phương Tây, nơi mà gia đình kiểu mẫu bao giờ cũng chỉ<br />

duy nhất tồn tại một thế hệ chung sống với nhau, khi con cái đến tuổi trưởng thành<br />

thì việc ra ở riêng, tách khỏi cha, mẹ đã trở thành truyền thống, gia đình Việt Nam<br />

theo “chuẩn mực” truyền thống bao giờ cũng là gia đình “tam, tứ đại đồng đường”<br />

với nhiều thế hệ cùng tụ họp bên nhau. Đời sống kinh tế theo kiểu cùng làm, cùng<br />

hưởng, cùng sinh sống dưới một mái nhà. Hình ảnh gia đình tập trung nhiều thế hệ<br />

như thế có thể nói là một dấu ấn riêng, tạo nên bản sắc đặc trưng cho tinh thần cố<br />

kết cộng đồng và lối sống trọng tình, trọng nghĩa của người Việt, có nguồn gốc từ<br />

truyền thống nông nghiệp trồng lúa nước. Nghề nông trồng lúa theo thời vụ rất cần<br />

có sự đoàn kết giúp đỡ nhau nên con người sống rất gắn bó, gia đình nào đông<br />

người thì càng tăng thêm sức lao động, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc đồng áng để<br />

thu hoạch nhanh chóng 64 . Lúc đó chức năng kinh tế của gia đình chính là sản xuất,<br />

cả gia đình phải đoàn kết hợp sức lại thì mới có thể sản xuất ra của cải vật chất, một<br />

mình một cá nhân không bao giờ có thể tự lao động sản xuất trong thời đó. Chính<br />

vì không thể không đoàn kết, gắn bó để cả gia đình cùng lao động sản xuất mà yếu<br />

tố cá nhân trong gia đình Việt Nam xưa có phần mờ nhạt, lợi ích chung của gia<br />

đình luôn được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, thời xưa, khoa học - kĩ thuật chưa phát<br />

triển nên nghề nông phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Do đó, kinh nghiệm của những<br />

người lớn tuổi rất được xem trọng. Điều này cũng đã góp phần hình thành những<br />

quan niệm chuẩn mực trong xã hội bấy giờ - người già, những bậc cao niên bao giờ<br />

cũng được cả nể, kính trọng. Trong gia đình, cũng từ đó hình thành mối quan hệ<br />

theo kiểu tôn ti, thứ bậc - người sinh ra trước là bậc trên, người sinh ra sau là bậc<br />

dưới. Người đứng đầu gia đình là các cụ cao tuổi, có tiếng nói, quyết định mọi việc<br />

64 Lê Thảo, Gia đình Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, tạp chí cộng sản online<br />

http://www.tapchicongsan.org.vn ngày 23/2/2009.


29<br />

trong nhà và được con cháu nể trọng. Người lớn tuổi quyết định mọi việc do kinh<br />

nghiệm và người nhỏ tuổi phải tuân theo, vì thế mà tính dân chủ hay sự tự do cá<br />

nhân vốn là một khái niệm xa lạ trong gia đình Việt Nam xưa.<br />

Cùng với sự biến đổi của tình hình kinh tế, xã hội, xã hội Việt Nam<br />

nông nghiệp truyền thống thay da đổi thịt qua quá trình công nghiệp hóa, hiện<br />

đại hóa; quan niệm về gia đình và vấn đề sở hữu tài sản trong gia đình, về các<br />

mối quan hệ trong gia đình đã có nhiều biến đổi trong đó yếu tố cá nhân được<br />

đề cao nhiều hơn 65 .<br />

Ở thời điểm hiện tại, kiểu gia đình “tam, tứ đại đồng đường” hầu như đã trở<br />

nên rất hiếm hoi. Phổ biến ở các đô thị bây giờ là gia đình một hoặc hai thế hệ và<br />

hầu như xu hướng chung của các cặp vợ chồng là sinh rất ít con. Do đời sống hiện<br />

tại phát triển nhanh chóng, mọi người đều bị cuốn hút theo công việc để kiếm thêm<br />

thu nhập nên việc sinh ít con cũng là điều dễ hiểu. Một mặt, vừa có thời gian tập<br />

trung cho công việc, tìm nguồn thu nhập cao; mặt khác, lại có điều kiện kinh tế để<br />

chăm lo cho con cái tốt hơn. Trong một xã hội phát triển, đời sống của con người<br />

được cải thiện đáng kể, thu nhập tăng cao đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng<br />

sống cho con người, mỗi thành viên trong gia đình vì thế mà cũng có nhiều cơ hội<br />

để phát triển toàn diện bản thân.<br />

Vấn đề bình đẳng giới cũng được chú trọng và đề cao, người đàn ông -<br />

người cha trong gia đình không còn nắm độc quyền kinh tế mà người phụ nữ cũng<br />

đã bắt đầu bước ra xã hội để khẳng định vị trí của mình trong sự đóng góp vào<br />

nguồn thu nhập của cả gia đình. Nếp sống tôn ti, gia trưởng theo kiểu “cha mẹ đặt<br />

đâu con ngồi đó” của gia đình truyền thống dần dần bị xóa bỏ. Thay vào đó là tinh<br />

thần dân chủ trong hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt, thế hệ trẻ ngày càng có nhiều cơ<br />

hội, điều kiện để tiếp xúc với những tiến bộ của thời đại, khoa học - kĩ thuật và<br />

công nghệ, tiếp nhận những trào lưu, xu hướng văn hóa mới của thế giới… Do đó,<br />

trong họ cũng bắt đầu hình thành nếp suy nghĩ độc lập, dân chủ hơn, tự do nói lên ý<br />

nghĩ, tình cảm của mình về mọi vấn đề mà họ quan tâm. Những bậc cha mẹ thời<br />

hiện đại cũng đã quen thuộc với điều đó, chấp nhận cho con cái một “khoảng trời<br />

riêng”… Theo Báo cáo tóm tắt kết quả điều tra gia đình năm 2006 (công bố<br />

năm 2008) thì hoạt động sản xuất kinh doanh do gia đình như một đơn vị kinh tế<br />

65 Trịnh Hòa Bình, Sự biến đổi của khuôn mẫu gia đình Việt Nam hiện đại, Tạp chí hoạt động khoa học<br />

tháng 6/2006


30<br />

thực hiện có xu hướng giảm, hoạt động kinh tế do cá nhân thực hiện ngoài gia đình<br />

có xu hướng tăng lên. Sự thay đổi về kinh tế, xã hội và giao lưu văn hóa đã mang<br />

lại cho gia đình một luồng sinh khí mới: thu nhập, mức sống, mức hưởng thụ, trình<br />

độ tiêu dùng, đời sống vật chất và tinh thần, sự cập nhật thông tin, sự bình đẳng và<br />

dân chủ của hai vợ chồng ngày càng được nâng cao. Cả gia đình nói chung và vợ<br />

chồng nói riêng không cùng làm kinh tế như trước nữa, họ theo đuổi những con<br />

đường riêng và có những hoạt động kinh tế khác nhau. Vì vậy mà họ có thu nhập<br />

riêng, có tài khoản riêng, bên cạnh sự tiêu dùng chung cho gia đình thì việc tiêu<br />

dùng riêng cho cá nhân cũng là lẽ rất bình thường, họ không cùng sản xuất và quản<br />

lí chung một “nguồn ngân sách” như gia đình truyền thống. Nhưng, bởi vì các yếu<br />

tố truyền thống trong gia đình Việt Nam vốn không thể ngày một ngày hai đã bị<br />

phủ định hoàn toàn, tư duy “duy tình” chứ không phải “duy lí” vẫn là đặc trưng của<br />

văn hóa Việt Nam nên vấn đề tiền bạc nhiều khi lại được coi là một mối đe dọa đến<br />

hạnh phúc gia đình 66 . Theo lời khuyên của các chuyên gia thì để tránh sự đổ vỡ<br />

“không gì quan trọng bằng việc bàn bạc và chia sẻ mục tiêu một cách thẳng thắn.<br />

Một số người cứ hay nhạy cảm khi đề cập đến tiền bạc, bởi họ cho rằng đó là vấn<br />

đề cá nhân rất riêng tư. Nhưng nên nhớ, một khi quyết định tiến tới hôn nhân nghĩa<br />

là đôi bên đồng ý kết hợp hai cuộc đời lại với nhau, dựa trên căn bản của sự thành<br />

thật và có niềm tin. Trước khi kết hôn, các cặp đôi nên thảo luận về tình hình tài<br />

chính của cả hai. Nên đặt ra những câu hỏi khó để cùng nhau thương lượng và tìm<br />

cách giải quyết. Ví dụ như mức sống của chúng ra sẽ như thế nào? Trung bình một<br />

tháng nên đóng góp bao nhiêu tiền cho gia đình? Khi nào chúng ta sẽ có con? Ai sẽ<br />

là người chăm sóc con cái? Có kế hoạch cho chúng đi học nước ngoài hay<br />

không?...” 67 . Nhiều khi sự rõ ràng về tiền bạc có thể sẽ làm giảm đi sự lãng mạn<br />

của tình cảm vợ chồng song lại có thể khiến cho hôn nhân trở nên bền vững hơn,<br />

đảm bảo cho hạnh phúc gia đình, Szilagy Vilmos trong cuốn hôn nhân trong<br />

tương lai có viết rằng: “dù lạnh lùng đến thế nào tôi vẫn phải mạo muội khẳng<br />

định một điều thoạt đầu nghe có vẻ phi lí: Về lâu dài, một cuộc hôn nhân vì tình<br />

yêu khép kín chính ra lại chứa đựng những mối hiểm nguy lớn hơn cho sự phát<br />

triển nhân cách so với hôn nhân theo giao kèo vốn được thỏa thuận và kí kết bởi<br />

66 Xem: Tiền bạc: mối đe dọa hạnh phúc gia đình, www.netlife.com.vn ngày 9/8/2008<br />

67 Xem: Chi tiêu gia đình – mỗi nhà một kiểu, www.giadinh.net.vn ngày 31/3/2009


31<br />

hai phía mà không có ảo tưởng gì 68 ”. Vậy nên, nhu cầu được chủ động quản lí tiền<br />

bạc và tự do hoạch định về tài chính của các cặp vợ chồng có xu hướng tăng mà<br />

theo qui định của pháp luật thì những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao<br />

động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ<br />

chồng trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung 69 , điều này dễ khiến cho các kế<br />

hoạch về tài chính của vợ chồng trở nên không có cơ sở pháp lí và dễ dàng bị vô<br />

hiệu. Pháp luật cũng đã có qui định về thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng<br />

trong thời kì hôn nhân song qui định này lại thiếu tính chặt chẽ và chưa thể trở<br />

thành giải pháp tốt cho việc hoạch định tài chính của vợ chồng. Việc xây dựng<br />

những qui định phù hợp để tạo điều kiện cho vợ chồng tự do hoạch định vấn đề tài<br />

chính là điều cần thiết hiện nay.<br />

2.2.2. Tình trạng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để đầu tư<br />

kinh doanh riêng<br />

Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu và nó đang diễn ra ngày càng sâu rộng<br />

trên phạm vi toàn cầu. Biểu hiện dễ nhận thấy của nó là sự phát triển vượt bậc của<br />

nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự<br />

thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và<br />

nhiều tam giác phát triển khác cũng do toàn cầu hoá đem lại. Theo xu thế chung<br />

của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sự<br />

kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO khiến cho kinh tế Việt<br />

Nam ngày càng có nhiều dấu hiệu khởi sắc. Theo thống kê: đầu năm 2004, Việt<br />

Nam có 72.012 doanh nghiệp đang hoạt động, tính tới thời điểm ngày 31-12-2005<br />

số doanh nghiệp đang thực tế hoạt động trong cả nước là 113.352 70 vậy mà con số<br />

này chưa được bằng 2/3 tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn thành<br />

phố Hồ Chí Minh (175.297 doanh nghiệp) tính đến thời điểm ngày 18/4/2010 71 .<br />

Điều này cho thấy hoạt động đầu tư kinh doanh ngày một phát triển và mở rộng.<br />

Theo báo cáo sơ bộ về tình hình tài chính của thị trường chứng khoán năm 2009<br />

của ủy ban chứng khoán nhà nước tính đến tháng 10 năm 2009 số tài khoản đầu tư<br />

chứng khoán cá nhân là 763.578 tài khoản 72 . Như vậy có thể thấy không chỉ là hoạt<br />

68 Szilagy Vilmos, Hôn nhân trong tương lai (người dịch: Lê Thị Nguyệt), NXB Phụ nữ, tr. 215 - 216<br />

69 Xem Khoản 1, Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình (luật số 22/2000/QH10)<br />

70 Theo website Bộ tài chính www.mof.gov.vn ngày 7/12/2006<br />

71 Theo website Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hồ Chí Minh www.dpi.hochiminhcity.gov.vn<br />

72 Theo chuyên trang thông tin chứng khoán, tài chính, đâu tư www.stocknews.vn ngày 31/12/2009


32<br />

động đầu tư có qui mô (hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp) mà cả hoạt động<br />

đầu tư kinh doanh cá nhân cũng rất phổ biến. Hoạt động kinh tế phát triển thì “như<br />

một hệ quả đương nhiên, các mối quan hệ xã hội sẽ phức tạp hơn nhiều, trong đó<br />

có các mối quan hệ gia đình mà đặc biệt là quan hệ sở hữu tài sản vợ chồng, khi vợ<br />

chồng là các chủ thể của hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc là chủ thể liên quan<br />

trong các hoạt động sản xuất kinh doanh” 73 .<br />

Như đã phân tích, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ sản xuất sang<br />

tiêu dùng, vợ chồng có những hoạt động kinh tế khác nhau. Trong thực tế, hoạt<br />

động đầu tư kinh doanh thường chỉ thực hiện bởi một người vợ hoặc chồng, điều<br />

này dẫn đến logic là chỉ có một người vợ hoặc chồng nắm được và chịu trách<br />

nhiệm với hoạt động đầu tư kinh doanh, nhưng các hoạt động kinh tế này lại liên<br />

quan đến vấn đề tài sản chung của vợ chồng nên cần thiết phải có một cơ chế để<br />

giải quyết vấn đề này. Hệ thống văn bản pháp luật về hôn nhân gia đình hiện nay<br />

đã phần nào phân định được tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của mỗi bên<br />

vợ chồng và trách nhiệm của vợ chồng đối với tài sản. Tuy nhiên khi vợ chồng đã<br />

trở thành những chủ thể trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, vợ, chồng còn bị chi<br />

phối bởi hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó<br />

việc xác định tài sản chung, tài sản riêng và trách nhiệm về tài sản của vợ chồng<br />

trong trường hợp này trở nên khó khăn và phức tạp hơn bao giờ hết 74 . Bởi vậy<br />

nhiều cặp vợ chồng đã tìm đến giải pháp chia tài sản chung trong thời kì hôn<br />

nhân 75 . Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình có qui định: “Khi hôn nhân tồn tại,<br />

trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự<br />

riêng hoặc có lí do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản<br />

chung”. Hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng được qui định tại Điều<br />

30 Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 8 Nghị định 70 qui định chi tiết thi hành<br />

Luật Hôn nhân và Gia đình. Tuy nhiên qui định về chia tài sản chung trong thời kì<br />

hôn nhân còn chưa chặt chẽ, có nhiều điểm không rõ ràng đặc biệt là về hình thức<br />

73 TS. Nguyễn Thị Lan, Một số vấn đề về nguyên tắc xác định tài sản chung, tài sản riêng và trách nhiệm tài sản<br />

của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Bài viết trong Đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng<br />

trong hoạt động sản xuất kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường Đại học Luật Hà Nội,<br />

2008, tr. 57<br />

74 TS. Nguyễn Thị Lan, Một số vấn đề về nguyên tắc xác định tài sản chung, tài sản riêng và trách nhiệm tài sản<br />

của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tài liệu đã dẫn, tr. 57<br />

75 Chỉ tính riêng số lượng án phải giải quyết về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong cả nước<br />

đang có chiều hướng gia tăng: năm 2004 là 159 vụ, năm 2005 là 398 vụ, năm 2006 là 404 vụ, năm 2007 là 452 vụ<br />

(tài liệu từ Vụ Thống kê tổng hợp – Tòa án nhân dân tối cao)


33<br />

của thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân và hậu quả pháp lí của việc<br />

chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.<br />

Thực tế đó cho thấy, cần có một giải pháp pháp lí cho vấn đề tài sản của vợ<br />

chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.<br />

2.2.3. Tình trạng li hôn gia tăng kèm theo vấn đề chia tài sản khi li hôn<br />

Báo cáo kết quả điều tra gia đình Việt Nam 2006 (công bố năm 2008) số vụ<br />

li hôn ngày càng tăng: năm 2000 gần 52.000 vụ, năm 2001 có 54.000 vụ, đến năm<br />

2005 tăng lên 65.929 vụ. Tỉ lệ li hôn ngày một tăng có thể là do quan niệm về vấn<br />

đề li hôn không còn nặng nề như trước nữa.<br />

Trong hôn nhân người ta thường nói “của chồng công vợ”, tuy nhiên, khi<br />

đời sống vợ chồng không còn êm ấm, những tranh chấp tài sản trở thành đề tài<br />

nóng hổi trước tòa; lúc vợ chồng thuận hoà, người trong cuộc thường không nghĩ<br />

đến chuyện phân chia tài sản vì “của anh cũng như của em” và ngược lại, tuy nhiên,<br />

khi chia tay, tranh chấp quyền sở hữu tài sản là một vấn đề nóng bỏng. Việc phân<br />

định rạch ròi tài sản thuộc về ai là điều hết sức quan trọng đối với cuộc sống của<br />

hai người và cả con cái sau khi li hôn. Thế nhưng, việc phân định này không phải<br />

lúc nào cũng dễ dàng. Trên thực tế, đã có những trường hợp người phụ nữ hay đàn<br />

ông phải chạy theo những vụ kiện kéo dài vài năm, thậm chí nhiều hơn thế để đòi<br />

quyền lợi, phần tài sản chính đáng của mình. Có những vụ li hôn đầy cay đắng và<br />

nước mắt trong đó người vợ chỉ nhận được 1/20 khối tài sản đã chung tay tạo<br />

dựng 76 , có những vụ li hôn bạc tỉ đã khiến nhiều người tham dự phiên tòa phải kinh<br />

hãi vì mức độ kiệt nghĩa cạn tình 77 . Tất cả những hoàn cảnh bi đát đó cũng chỉ vì<br />

vấn đề chứng minh tài sản chung, tài sản riêng. Theo lời khuyên của các chuyên<br />

gia, để tránh những rắc rối về phân chia tài sản sau hôn nhân, tốt nhất cả hai vợ<br />

chồng nên ý thức được về việc sở hữu tài sản ngay từ đầu 78 . Trong thời đại ngày<br />

nay, đã xuất hiện nhiều gia đình có tài sản kếch xù và trong nhiều trường hợp khả<br />

năng tạo lập tài sản chỉ thuộc về một người. Nếu vợ chồng không có thỏa thuận gì<br />

khác và theo đúng qui định của pháp luật thì khối tài sản tạo lập được sẽ phải chia<br />

đôi, trong nhiều trường hợp điều này trở nên thiếu công bằng và bất hợp lí. Việc tạo<br />

một cơ sở pháp lí để bảo đảm quyền sở hữu của vợ chồng thật sự là cần thiết và là<br />

76<br />

Xem: Quảng Bình: nỗi cay đắng từ vụ li hôn của một gia đình tỉ phú, www.doisongphapluat.com.vn ngày<br />

10/7/2008<br />

77<br />

Xem: kinh hãi những vụ li hôn kiệt nghĩa, cạn tình, báo điện tử dân trí www.dantri.com ngày 22/1/2010<br />

78<br />

Xem: Li hôn: rắc rối chuyện riêng chung, http://giadinh.net.vn ngày 15/3/2009


34<br />

nhu cầu của thời đại ngày nay; không chỉ đơn thuần là để tránh các tranh chấp về<br />

tài sản của vợ chồng khi li hôn mà, nó còn bảo vệ quyền lợi hợp lí cho người đã bỏ<br />

rất nhiều công sức tạo lập nên tài sản.<br />

2.2.4. Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài trở nên phổ biến<br />

Trong xu thế hội nhập, kết hôn với người nước ngoài là quyền nhân thân của<br />

mỗi người trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, hạnh phúc và hiện đã<br />

không còn bị luật pháp cấm đoán. Theo các số liệu thống kê được đưa ra tại Hội<br />

thảo “Di cư và hôn nhân ở Việt Nam – Vấn đề và giải pháp” do Trung tâm nghiên<br />

cứu giới và phát triển (thuộc ĐH Khoa học XH & NV Hà Nội) phối hợp với Trung<br />

tâm Hợp tác châu Á-Thái Bình Dương của ĐH Kinh tế & Luật pháp Osaka, Nhật<br />

Bản vừa tổ chức, từ 1995-2007 có khoảng 180.000 người Việt Nam kết hôn với<br />

người của 60 nước, trong đó phụ nữ chiếm tới 80% 79 . Do hôn ước tương đối phổ<br />

biến ở nước ngoài, vậy nên khả năng một người Việt Nam kết hôn với một người<br />

nước ngoài và hai người có lập hôn ước là rất cao. Phù hợp với xu hướng đó, pháp<br />

luật Việt Nam cần qui định về hôn ước.<br />

Thậm chí, hiện nay, trên lí thuyết, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận hôn ước<br />

trong một số trường hợp. Theo người viết, pháp luật Việt Nam thừa nhận hôn ước<br />

trong một số trường hợp sau đây. Thứ nhất, trong trường hợp hai công dân Việt<br />

Nam định cư ở nước ngoài, kết hôn với nhau 80 và lập hôn ước, theo nguyên tắc của<br />

tư pháp quốc tế thì luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề kết hôn<br />

sẽ là luật của quốc gia nơi thực hiện nghi thức kết hôn; vì thế, mặc dù pháp luật<br />

Việt Nam không có qui định về hôn ước song khi đó hôn ước của hai công dân Việt<br />

Nam sẽ vẫn có hiệu lực. Thứ hai, Việt Nam mặc dù không có qui định cho phép lập<br />

hôn ước nhưng cũng không có qui định nào cấm lập hôn ước. Điều 18 Nghị định<br />

68/2002/NĐ-CP 81 về từ chối đăng kí kết hôn ở Việt Nam không có qui định nào về<br />

từ chối đăng kí kết hôn trong trường hợp vợ chồng có lập hôn ước; nếu hai bên nam<br />

nữ lập hôn ước ở Việt Nam thì chỉ gặp duy nhất một khó khăn để hôn ước có hiệu<br />

lực đối với pháp luật nước ngoài: đó là hôn ước không thể được công chứng chứng<br />

thực, tuy nhiên nếu công dân Việt Nam kết hôn với công dân Mĩ thì hôn ước này<br />

79 Xem: 180.000 người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, www.giadinh.net.vn ngày 5/2/2010<br />

80 Việc kết hôn này theo nghi thức đăng kí với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, không phải là đăng kí với cơ<br />

quan đại diện ngoại giao hay cơ quan lãnh sự của Việt Nam.<br />

81 Nghị định qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về hôn nhân có yếu tố nước ngoài


35<br />

chỉ cần lập bằng văn bản, có chữ kí của hai người để khi li hôn ở tòa án của Mĩ,<br />

hôn ước này được coi là đã lập và phát sinh hiệu lực ở Việt Nam.<br />

2.2.5. Dư luận xã hội<br />

Nhiều quan điểm cho rằng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện<br />

nay, mức sống của người dân được cải thiện và nhận thức được nâng cao thì trong<br />

hôn nhân dần dần sẽ xuất hiện bên cạnh bản đăng kí kết hôn những bản hôn ước 82 .<br />

Việc thừa nhận quyền tự do xác lập hôn ước của các bên trước khi kết hôn cũng<br />

phù hợp với xu thế chung và suy nghĩ, lựa chọn của các bên đương sự. Theo kết<br />

quả của một khảo sát được công bố trong đề tài tài sản của vợ chồng trong hoạt<br />

động sản xuất kinh doanh: có 279 người, chiếm tỉ lệ 62% số người được hỏi trả<br />

lời pháp luật nên qui định các bên nam nữ trước khi kết hôn có quyền tự do lập hôn<br />

ước, với lí do: việc thừa nhận đó là cần thiết vì phù hợp với xu thế phát triển kinh tế<br />

của đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập, đảm bảo quyền tự do, dân chủ và bình<br />

đẳng giữa vợ chồng, tạo cơ sỏ pháp lí cho việc xét xử…Bên cạnh đó cũng còn tồn<br />

tại suy nghĩ không nên quy định quyền lập hôn ước vì việc lập hôn ước có phần<br />

không phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, dễ gây ra tâm lí mặc<br />

cảm, mất đoàn kết hoặc dẫn đến việc coi trọng tài sản mà ảnh hưởng đến tình<br />

cảm…(chiếm tỷ lệ 38%) 83 . Điều đó cho thấy việc ghi nhận quyền lập hôn ước<br />

trong pháp luật là yêu cầu và xu hướng khách quan. Dư luận có xu hướng đồng tình<br />

và đón nhận sự tồn tại của hôn ước.<br />

2.2.6. Quan điểm của các nhà nghiên cứu luật<br />

Trong quá trình xây dựng pháp luật, ý kiến của dư luận nói chung và các nhà<br />

nghiên cứu luật nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Có thể nói ý kiến của các nhà<br />

nghiên cứu luật đóng vai trò quyết định trong việc soạn thảo văn bản pháp luật;<br />

trong luật quốc tế, quan điểm của các luật gia còn được coi là một nguồn bổ trợ<br />

pháp luật.<br />

Cùng với sự thay đổi của xã hội quan điểm của các nhà nghiên cứu luật cũng<br />

dần có những cái nhìn cởi mở hơn với hôn ước. Nếu như trước đây quan điểm phổ<br />

biến là hôn ước quá đề cáo tính cá nhân, đề cao cái tôi và việc đề cao lợi ích cá<br />

82<br />

Xem: TS. Hoàng Bá Thịnh, Nhân vụ li hôn 1.000 tỉ, nghĩ về thị trường hôn nhân ở Việt Nam, www.chungta.com<br />

ngày 30/3/2007<br />

83<br />

TS. Nguyễn Phương Lan, Tổng thuật đề tài, Bài viết trong Đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng<br />

trong hoạt động sản xuất kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường Đại học Luật Hà Nội,<br />

2008, tr. 36


36<br />

nhân sẽ dẫn đến việc xa cách về tình cảm trong gia đình và các quan hệ trong gia<br />

đình sẽ bị phá vỡ bởi các yếu tố vật chất 84 thì hiện nay do ảnh hưởng của kinh tế thị<br />

trường không chỉ dư luận xã hội đã thay đổi mà quan điểm của các nhà lập pháp<br />

cũng thay đổi, theo họ: Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, suy cho đến cùng, là<br />

một quyền dân sự gắn liền với bản thân vợ chồng. Xuất phát từ sự do, tự nguyện về<br />

ý chí, trên cơ sở là một quyền dân sự của cá nhân, hai bên nam nữ trước khi kết<br />

hôn hoàn toàn có quyền thỏa thuận về một chế độ tài sản mà theo họ là phù hợp,<br />

miễn là sự thỏa thuận đó không trái với thuần phong mĩ tục, với trật tự công cộng<br />

và quyền lợi của con cái. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng không làm<br />

phá vỡ tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân. Khi thỏa thuận về các vấn đề<br />

liên quan đến tài sản trong thời kì hôn nhân, điều tất yếu là các bên phải thỏa<br />

thuận về việc thực hiện những nghĩa vụ chung trong đời sống gia đình, không được<br />

vi phạm các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng phát sinh từ quan hệ hôn nhân cũng<br />

như quyền cha mẹ đối với con cái 85 . Cũng có quan điểm cho rằng nên chăng, luật<br />

nên dự liệu một số trường hợp ngoại lệ vẫn có thể cho phép vợ chồng tự lựa chọn<br />

một chế độ tài sản phù hợp, theo nguyên tắc tự thỏa thuận lựa chọn chế độ tài sản<br />

đó không trái với đạo đức xã hội, bảo đảm được lợi ích của gia đình, của các con 86 .<br />

HÔN ƯỚC<br />

2.3. XU HƯỚNG TƯƠNG THÍCH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI<br />

2.3.1. Qui định về công nhận và cho thi hành bản án của tòa án nước ngoài<br />

Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là<br />

việc tòa án của một nước thừa nhận sự giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước<br />

ngoài được ghi nhận trong các bản án, quyết định của tòa án nước khác là hợp pháp<br />

và thừa nhận quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ nội dung bản án, quyết<br />

định của tòa án nước ngoài ở mức độ như bản án của tòa án trong nước 87 .<br />

Về mặt nguyên tắc, bản án, quyết định của tòa án chỉ có hiệu lực trong phạm<br />

vi lãnh thổ quốc gia nơi tòa án đã đưa ra phán quyết. Điều này xuất phát từ nguyên<br />

tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia. Do vậy để bản án, quyết định dân sự của tòa án<br />

84<br />

Nguyễn Hồng Hải, Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, tạp<br />

chí luật học số 3 năm 1998, tr. 10-12<br />

85<br />

TS. Nguyễn Phương Lan, Tổng thuật kết quả nghiên cứu, Bài viết trong Đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của<br />

vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường Đại học Luật<br />

Hà Nội, 2008, tr 36<br />

86<br />

TS, Nguyễn Văn Cừ, Tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, sđd, tr. 253 - 254<br />

87<br />

Th.S Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, NXB ĐHQG tp. Hồ Chí Minh, 2007, tr. 164


37<br />

nước ngoài được thi hành trên lãnh thổ một nước trước hết phải có sự công nhận và<br />

cho phép thi hành bản án, quyết định đó từ phía cơ quan có thẩm quyền của nước<br />

nơi được yêu cầu. Vấn đề công nhận và thi hành bản án quyết định của tòa án nước<br />

ngoài được qui định trong các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia. Chế định<br />

công nhận và thi hành bản án quyết định của tòa án nước ngoài được hầu hết các<br />

nước thừa nhận là một nội dung quan trọng của tư pháp quốc tế 88 . Hiện nay, do các<br />

quan hệ dân sự trong đời sống quốc tế ngày càng phát triển, yêu cầu công nhận và<br />

thi hành bản án quyết định của tòa án nước ngoài càng trở nên cần thiết nhằm bảo<br />

đảm lợi ích chính đáng của các bên đương sự và để bảo đảm sự ổn định phát triển<br />

của giao lưu dân sự quốc tế.<br />

Việt Nam đã kí kết một số hiệp định tương trợ tư pháp với các nước, trong<br />

đó qui định việc các nước kí kết cùng nhau công nhận và thi hành các bản án quyết<br />

định do tòa án mỗi nước kí kết tuyên. Việt Nam cũng đã ban hành một số văn bản<br />

pháp luật về thi hành bản án dân sự có yếu tố nước ngoài. Điều 2 của Luật Thi hành<br />

án dân sự đã khẳng định những bản án quyết định được thi hành theo Luật này bao<br />

gồm: “Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài<br />

nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam” 89 .<br />

Đặc biệt vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước<br />

ngoài được qui định trong phần thứ sáu của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm<br />

2004. Theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004: bản án quyết định dân sự của<br />

tòa án nước ngoài được công nhận tại Việt Nam nếu nó thuộc một trong các trường<br />

hợp sau:<br />

� Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia đã qui định về việc công<br />

nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài 90 . Cho đến nay,<br />

Việt Nam đã kí kết với 14 nước trong các hiệp định đều có qui định về việc công<br />

nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, ngoài ra còn<br />

tham gia một số điều ước quốc tế đa phương về công nhận và thi hành án dân sự.<br />

Tựu chung lại có 3 điều kiện chính: Thứ nhất, bản án, quyết định phải có hiệu lực<br />

pháp luật trên lãnh thổ nước tuyên bản án, quyết định đó; Thứ hai, bản án, quyết<br />

88 Th.S Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, sđd, tr. 165<br />

89 Điểm d Khoản 1 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự Việt Nam năm 2008<br />

90 Điểm a Khoản 1 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004


38<br />

định được cơ quan có thẩm quyền tuyên; Thứ ba, các thủ tục tố tụng (liên quan đến<br />

luật hình thức) phải được đảm bảo.<br />

� Pháp luật Việt Nam có qui định bản án quyết định đó được công nhận<br />

và thi hành tại Việt Nam 91 . Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài<br />

không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầu không công nhận<br />

thì đương nhiên được công nhận tại Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Việt Nam<br />

kí kết hoặc gia nhập 92 ; Toà án Việt Nam chỉ xem xét việc không công nhận bản án,<br />

quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam<br />

khi có đơn yêu cầu không công nhận 93 .<br />

có đi có lại 94 .<br />

� Bản án quyết định của Tòa án nước ngoài được công nhận trên cơ sở<br />

Bản án quyết định của tòa án nước ngoài đã đảm bảo các nguyên tắc trên chỉ<br />

không được công nhận ở Việt Nam nếu nó là bản án quyết định thuộc thẩm quyền<br />

xét xử riêng biệt của Tòa án Việt Nam 95 .<br />

Về nguyên tắc bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài chỉ được thi<br />

hành tại Việt Nam sau khi được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành 96 . Vì<br />

pháp luật của các quốc gia là khác nhau nên việc giải quyết các vụ việc cũng dân sự<br />

của các tòa án giữa các quốc gia là khác nhau. Để đảm bảo lợi ích của công dân của<br />

nước mình thông thường bản án quyết định của tòa án một nước tuyên muốn được<br />

thi hành ở nước khác thì phải được tòa án nước đó công nhận, Việt Nam không<br />

phải là ngoại lệ 97 .<br />

Như vậy xét một cách khách quan thì một bản án nước ngoài về việc chia tài<br />

sản chung của vợ chồng khi li hôn theo hôn ước và không có liên quan đến bất<br />

91 Điểm b Khoản 1 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004<br />

92 Khoản 5 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004<br />

93 Khoản 6 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004<br />

94 Khoản 3 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004<br />

95 Được qui định tại Điều 441 Bộ luật tố tụng dân sự bao gồm: Bản án quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của<br />

nước có tòa án ra bản án quyết định đó; Người phải thi hành án hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng<br />

mặt tại phiên tòa của tòa án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ; Vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử, giải quyết<br />

riêng biệt của tòa án Việt Nam; Về cùng vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đang có hiệu lực của pháp luật<br />

của Tòa án Việt Nam, hoặc của tòa án nước ngoài được Việt Nam công nhận; hoặc trước khi cơ quan xét xử của<br />

người ngoài thụ lí vụ việc, tòa án Việt Nam đã thụ lí và đang xem xét vụ việc đó; Việc công nhận bản án, quyết định<br />

của tòa án trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.<br />

96 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB CAND 2008, tr. 347<br />

97 TS. Nguyễn Công Bình (chủ biên), Luật thi hành án dân sự Việt Nam – những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB<br />

CAND, 2007, tr. 256


39<br />

động sản ở Việt Nam là hoàn toàn có thể. Trong trường hợp này, theo một cách<br />

gián tiếp Việt Nam thực sự đã thừa nhận hiệu lực của hôn ước.<br />

2.3.2. Những qui định cho phép vợ chồng được thỏa thuận làm thay đổi<br />

về căn cứ xác lập tài sản<br />

2.3.2.1. Thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân<br />

Vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân lần đầu tiên được qui định<br />

trong pháp luật Việt Nam tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Điều 18 Luật<br />

Hôn nhân và gia đình năm 1986 qui định: Khi hôn nhân tồn tại nếu một bên có yêu<br />

cầu và có lí do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo qui định<br />

tại Điều 42 của Luật này. Theo qui định này thì: tài sản chung của vợ chồng chỉ có<br />

thể được chia trong thời kì hôn nhân khi có lí do chính đáng và có yêu cầu của một<br />

bên hoặc cả hai bên; chỉ có một cách thức chia duy nhất là quyết định của tòa án<br />

đương nhiên việc đánh giá lí do chính đáng hoàn toàn phụ thuộc vào tòa án; nguyên<br />

tắc chia giống như chia tài sản trong một vụ li hôn 98 ; luật cũng không hề dự liệu<br />

hậu quả pháp lí về tài sản sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân; các văn<br />

bản dưới luật cũng không hướng dẫn vấn đề này. Qui định chia tài sản chung trong<br />

thời kì hôn nhân cũng hoàn toàn không được áp dụng trong suốt thời gian Luật hôn<br />

nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực 99 . Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tiếp<br />

tục qui định về vấn đề chia tài chung trong thời kì hôn nhân một cách hoàn thiện và<br />

toàn diện hơn sơ với luật hôn nhân và gia đình năm 1986 trong đó có cả qui định<br />

cho phép vợ chồng được thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.<br />

Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình qui định:<br />

1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,<br />

thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lí do chính đáng khác thì vợ chồng có thể<br />

thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu<br />

không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.<br />

2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ<br />

về tài sản không được pháp luật công nhận.<br />

98 Điều 42 có qui định về nguyên tắc chia tài sản khi li hôn.<br />

99 Theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hôn nhân và gia đình (thống kê theo báo cáo của các tòa sơ thẩm trong cả<br />

nước) thì trong thời gian từ năm 1987 đến hết quí 3 năm 2004 chưa hề có vụ án chia tài sản chung trong thời kì hôn<br />

nhân nào được thụ lí – số liệu từ Vụ Thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân tối cao.


40<br />

� Tài sản chia: Dễ dàng nhận thấy, tài sản được chia ở đây là tài sản<br />

chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,<br />

hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng<br />

trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng<br />

cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.<br />

� Điều kiện chia: Theo qui định của Luật hôn nhân và gia đình thì vợ<br />

chồng chỉ có thể chia tài sản chung khi có lí do chính đáng như đầu tư kinh doanh<br />

riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng…tuy nhiên khi vợ chồng tự thỏa thuận chia<br />

tài sản chung thì không có cơ chế nào kiểm soát được lí do chia tài sản chung của<br />

vợ chồng có là chính đáng hay không, mà chỉ có qui định về sự vô hiệu của bản<br />

thỏa thuận chia khi nó được lập ra nhằm để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về<br />

tài sản.<br />

� Cách thức chia: Khác với cách thức chia tài sản chung trong trường<br />

hợp vợ chồng yêu cầu tòa án chia, vợ chồng hoàn toàn tự do thỏa thuận về cách<br />

thức chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, thậm chí không hề có qui định nào<br />

không cho phép vợ chồng chia toàn bộ tài sản chung cho một người, hay chỉ chia<br />

một phần tài sản là tài sản riêng còn khối tài sản còn lại vẫn là tài sản chung. Việc<br />

cho phép vợ chồng được tự thỏa thuận về cách thức chia đã tạo kẽ hở cho việc lách<br />

luật để trốn thuế 100 hoặc dẫn đến việc vợ chồng chia toàn bộ tài sản khiến cho<br />

không bất cứ tài sản chung nào trong khi tiêu dùng cho gia đình lại là tiêu dùng<br />

chung.<br />

� Hình thức chia: Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì<br />

thỏa thuận của vợ chồng phải được lập thành văn bản. Yêu cầu bắt buộc của văn<br />

bản là phải ghi rõ các nội dung: lí do chia tài sản; phần tài sản chia (bao gồm bất<br />

động sản, động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được<br />

chia hoặc giá trị phần tài sản được chia; phần tài sản còn lại không chia (nếu có);<br />

thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập<br />

văn bản và phải có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản có thể có người làm chứng,<br />

100 Ví dụ: vợ (A) chồng (B) có tài sản chung là ngôi nhà, khi bán cho em trai của em rể của A thì vợ chồng sẽ phải<br />

nộp thuế thu nhập cá nhân, nhưng nếu thỏa thuận chia tài sản riêng cho vợ rồi vợ tặng cho em gái, em gái lại chia<br />

cho em rể, em rể lại tặng cho em trai của em rể thì sẽ không ai phải đóng thuế thu nhập cá nhân.


41<br />

hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo qui định<br />

của pháp luật 101 . Vậy nên việc chia tài sản của vợ chồng hiện tại không hề bắt buộc<br />

phải có người làm chứng, hay phải công chứng chứng thực, tuy nhiên với một số<br />

trường hợp để đảm bảo cơ sở pháp lí chắc chắn cho việc thực hiện các thủ tục pháp<br />

lí tiếp theo có liên quan đến tài sản chia thì bản thỏa thuận chia tài sản chung phải<br />

có công chứng, chứng thực ví dụ chia tài sản chung là quyền sử dụng đất, chia tài<br />

sản chung để tham gia giao dịch bảo đảm.<br />

� Thời điểm có hiệu lực: Thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận<br />

chia tài sản chung của vợ chồng phải được ghi rõ trong văn bản đó. Điều 7 Nghị<br />

định số 70 qui định về hiệu lực của văn bản thỏa thuận như sau:<br />

“1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng<br />

không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính<br />

từ ngày, tháng, năm lập văn bản.<br />

2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng<br />

được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được<br />

tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày<br />

có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng<br />

thực.<br />

3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng<br />

phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ<br />

ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực.”<br />

Dễ nhận thấy rằng thời điểm có hiệu lực được qui định là phải ghi trong văn<br />

bản nhưng nếu thiếu nó thì cũng không làm mất tính hợp pháp của văn bản (vì theo<br />

qui định của khoản 1, thời điểm có hiệu lực sẽ mặc định là thời điểm lập văn bản)<br />

và sự thỏa thuận của vợ chồng về thời điểm có hiệu lực trong trường hợp văn bản<br />

phải được công chứng chứng thực theo qui định của pháp luật sẽ không có giá trị<br />

101 Khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001: 1. Thoả thuận chia tài sản chung của vợ,<br />

chồng trong thời kỳ hôn nhân quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành văn<br />

bản và ghi rõ các nội dung sau đây: a) Lý do chia tài sản; b) Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản,<br />

các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia; c) Phần tài<br />

sản còn lại không chia, nếu có; d) Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung; đ) Các nội dung khác, nếu có.<br />

2. Văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký<br />

của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu<br />

của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.


42<br />

(vì theo khoản 3 thì thời điểm có hiệu lực luôn là thời điểm văn bản được công<br />

chứng chứng thực cho dù vợ chồng có thỏa thuận đó là thời điểm khác).<br />

� Hậu quả pháp lí: Hậu quả pháp lí về tài sản của việc chia tài sản<br />

chung trong thời kì hôn nhân chính là sự thay đổi của các khối tài sản. Theo qui<br />

định của điều 30 Luật Hôn nhân và Gia đình thì hậu quả pháp lí của việc chia tài<br />

sản chung trong thời kì hôn nhân là “hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được<br />

chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc<br />

sở hữu chung của vợ chồng”. Như vậy quyền sở hữu tài sản riêng của vợ chồng<br />

được mở rộng phạm vi đó là hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sẽ thuộc sở<br />

hữu riêng của vợ chồng, phần tài sản chung chưa chia vẫn thuộc sở hữu chung của<br />

vợ chồng. Nghị định 70 hướng dẫn chi tiết Luật Hôn nhân và Gia đình đã qui định<br />

thêm về hậu quả chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân như sau:<br />

“Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập<br />

hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ,<br />

chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác 102 ”.<br />

Tuy nhiên qui định trên thực tế đã làm thay đổi chế độ tài sản vợ chồng<br />

(ngay cả tên điều 9 của Nghị định cũng là “khôi phục chế độ tài sản chung của<br />

vợ chồng”). Theo qui định này thì chỉ có những tài sản được tặng cho, thừa kế<br />

chung, tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung và những hoa lợi lợi tức phát<br />

sinh từ tài sản chung mới thuộc khối tài sản chung, còn những tài sản là thu<br />

nhập hợp pháp của vợ chồng như lương, tài sản mà một người tạo ra trong thời<br />

kì hôn nhân thuộc khối tài sản riêng của vợ chồng…do đó nếu như vợ chồng<br />

quyết định chia tất cả tài sản chung thì khối tài sản chung sẽ gần như không còn<br />

có thể tồn tại nếu không được thừa kế chung, tặng cho chung hay vợ chồng<br />

không khôi phục lại chế độ tài sản chung. Có ý kiến cho rằng qui định này thực<br />

chất là đã chấp nhận chế độ biệt sản của vợ chồng 103 , có ý kiến cho rằng qui<br />

định này là trái luật và phải bị vô hiệu hóa 104 .<br />

� Theo người viết, về căn bản, qui định về thỏa thuận chia tài sản chung của<br />

vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã làm thay đổi một phần căn cứ xác lập tài sản<br />

của vợ chồng mà không kéo theo sự thay đổi về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng<br />

102 Khoản 2 điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.<br />

103 TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, sđd, tr. 253.<br />

104 TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lí luận về các phương pháp phân tích luật viết, NXB Tư<br />

pháp 2006, tr. 123.


43<br />

một cách phù hợp. Theo qui định về thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn<br />

nhân, chế độ biệt sản có thể được xác lập mà khi đó không hề có một qui định nào<br />

bảo vệ cho lợi ích chung của gia đình ngoại trừ qui định về trách nhiệm liên đới của<br />

vợ chồng với các giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng như cầu thiết yếu<br />

của gia đình 105 song các nhu cầu cần thiết không phải lúc nào cũng được xem là<br />

thiết yếu. Theo người viết, cần qui định thêm hệ quả về quyền và nghĩa vụ của vợ<br />

chồng khi căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng đã bị thay đổi.<br />

2.3.2.2. Thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung<br />

Qui định về nhập tài sản riêng của vợ chồng vào khối tài sản chung đã tồn<br />

tại trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình<br />

năm 1986 qui định “đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn, tài sản được<br />

thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kì hôn nhân thì người có tài sản đó có<br />

quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng” và việc nhập<br />

tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo qui định của<br />

Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động của công chứng<br />

nhà nước 106 .<br />

Theo Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình: Vợ, chồng có quyền nhập hoặc<br />

không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia<br />

đình: tài sản chung của vợ chồng gồm cả những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là<br />

tài sản chung; như vậy, theo những qui định này vợ chồng có quyền thỏa thuận<br />

nhập tài sản riêng thành tài sản chung của vợ chồng. Mặc dù vợ chồng có thể thỏa<br />

thuận miệng việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung và theo qui định của<br />

pháp luật hôn nhân và gia đình thì khối tài sản chung luôn có xu hướng hút khối tài<br />

sản riêng 107 nhưng để tránh những tranh chấp về tài sản sau này (bao gồm cả việc<br />

vợ chồng tranh chấp tài sản khi li hôn hay tranh chấp tài sản với người thứ ba khi<br />

vợ chồng lợi dụng qui định này để tẩu táng tài sản 108 ), Điều 13 Nghị định số 70 đã<br />

qui định:<br />

105 Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp<br />

pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”<br />

106 Điều 27 Nghị định số 45- HĐBT có qui định: “Công chứng viên chứng nhận tài sản mà vợ hoặc chồng có trước<br />

khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản đó được nhập vào<br />

khối tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở đơn của người có tài sản đó”<br />

107 Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình (tập 2), tr. 9<br />

108 Nếu không qui định bắt buộc phải lập bằng văn bản thì khi vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng<br />

vợ chồng có thể thông đồng để khẳng định rằng tài sản đó đã được nhập thành tài sản chung và đã chi dùng cho đời<br />

sống chung hoặc khi tài sản đó tồn tại thì chỉ một nửa giá trị tài sản đó phải thanh toán cho nghĩa vụ riêng.


44<br />

“1. Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá<br />

trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ<br />

chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được<br />

lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được công<br />

chứng hoặc chứng thực theo qui định của pháp luật.<br />

2. Việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung của vợ chồng<br />

nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên đó về tài sản thì vô hiệu theo<br />

qui định tại Điều 11 của Nghị định này”.<br />

Thực tế, thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung của<br />

vợ chồng chỉ có tác dụng chuyển các tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung<br />

mà không hề phát sinh hậu quả về căn cứ xác lập tài sản vợ chồng trong tương lai.<br />

2.3.2.3. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng<br />

Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng được qui định<br />

trong Nghị định 70 tại Điều 9: Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng 109 và<br />

Điều 10: Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung 110 . Về cơ<br />

bản có thể thấy rằng Nghị định 70 qui định thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản<br />

chung của vợ chồng với hình thức và hiệu lực tương đương với thỏa thuận chia tài<br />

sản chung của vợ chồng. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng<br />

cũng làm thay đổi căn cứ xác lập tài sản vợ chồng.<br />

Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng có những đặc trưng<br />

quan trọng về thời điểm và hậu quả pháp lí.<br />

� Chỉ có thể lập thỏa thuận khôi phục tài sản chung của vợ chồng sau<br />

đã chia tài sản chung của vợ chồng. Có thể nói rằng chỉ có việc chia tài sản chung<br />

của vợ chồng trong thời kì hôn nhân mới làm thay đổi chế độ tài sản của vợ chồng<br />

109 Điều 9: “1.Trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi phục chế độ tài sản chung, thì<br />

vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản có ghi rõ các nội dung sau đây:a) Lý do khôi phục chế độ tài sản chung;b)<br />

Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên;c) Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có;d) Thời điểm<br />

có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung;đ) Các nội dung khác, nếu có.2. Văn bản thoả thuận phải ghi rõ<br />

ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể có người làm chứng<br />

hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.”<br />

110 Điều 10: “1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng không xác định<br />

rõ thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn<br />

bản. 2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực<br />

theo yêu cầu của vợ chồng, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng phải được<br />

công chứng hoặc chứng thực và việc khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày xác định trong văn bản<br />

thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công<br />

chứng, chứng thực.3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng,<br />

chứng thực theo quy định của pháp luật, thì văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được<br />

công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày được công chứng, chứng thực.”


45<br />

nên việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ được đặt ra sau khi đã<br />

chia tài sản chung của vợ chồng.<br />

� Nếu như với thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân: tại<br />

thời điểm lập thỏa thuận vợ chồng buộc phải có tài sản chung, với thỏa thuận nhập<br />

tài sản riêng của vợ chồng thành tài sản chung: tại thời điểm lập thỏa thuận vợ hoặc<br />

chồng hoặc cả hai buộc phải có tài sản riêng, thì vợ chồng không cần có bất cứ một<br />

loại tài sản nào cũng vẫn được lập thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của<br />

vợ chồng. Sở dĩ như vậy là bởi điều quan trọng nhất của thỏa thuận này là đưa căn<br />

cứ xác lập tài sản của vợ chồng trở về nguyên vẹn như qui định của luật. Hậu quả<br />

pháp lí của thỏa thuận này là khôi phục lại căn cứ xác lập tài sản như pháp luật đã<br />

định (tài sản tạo ra thu nhập trong thời kì hôn nhân là tài sản chung, hoa lợi lợi tức<br />

phát sinh từ mọi loài tài sản là tài sản chung); trong khi hậu quả pháp lí của thỏa<br />

thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là làm thay đổi căn cứ xác lập tài<br />

sản (vợ chồng có thể thỏa thuận các tài sản tạo ra thu nhập được hay hoa lợi lợi tức<br />

phát sinh từ các loại tài sản (trừ tài sản chung không chia) sau khi chia là tài sản<br />

chung hay tài sản riêng) còn thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ chồng thành tài<br />

sản chung thì chẳng làm phát sinh hậu quả pháp lí nào đối với các tài sản vợ chồng<br />

tạo ra thu nhập hay hoa lợi lợi tức với các loại tài sản sau khi nhập.<br />

� Nhận xét chung về những qui định cho phép vợ chồng được thỏa<br />

thuận làm thay đổi về căn cứ xác lập tài sản<br />

Thứ nhất, các thỏa thuận này thực chất chỉ là thỏa thuận làm thay đổi về căn<br />

cứ xác lập tài sản vợ chồng (không bao gồm thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của<br />

vợ chồng với tài sản hay cách thức phân chia tài sản 111 ) đối với một số loại tài sản<br />

(không bao gồm tài sản được tặng cho, thừa kế).<br />

Thứ hai, pháp luật không hề hạn chế đối với việc lập các văn bản thỏa thuận<br />

kể trên: không hạn chế về số lần lập thỏa thuận, không hạn chế về số loại thỏa<br />

thuận được lập, chỉ cần thời gian lập thỏa thuận là trong thời kì hôn nhân (có thể là<br />

ngay sau khi kết hôn hay ngay trước khi li hôn) và điều kiện lập thỏa thuận chỉ là lí<br />

do chính đáng, không được lập để nhằm trốn tránh một số nghĩa vụ dân sự.<br />

Thứ ba, qua các văn bản thỏa thuận, vợ chồng hoàn toàn có thể tự thỏa thuận<br />

một cách tùy ý về hậu quả pháp lí đối với các tài sản sẽ phát sinh trong tương lai<br />

111 Thỏa thuận về căn cứ xác lập, quyền và nghĩa vụ và cách thức phân chia tài sản vợ chồng chính là thỏa thuận về<br />

toàn bộ chế độ tài sản vợ chồng.


46<br />

bao gồm hoa lợi lợi tức và thu nhập hợp pháp của vợ chồng (không bao gồm tài sản<br />

được tặng cho thừa kế có thể phát sinh trong tương lai).<br />

Thứ tư, qua các loại thỏa thuận đã nêu, một loại tài sản thuộc khối tài sản<br />

chung đều có thể chuyển thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng và ngược lại (như ở<br />

bảng dưới)<br />

Kí hiệu: N: Thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung;<br />

CÁC TÀI SẢN CỦA VỢ<br />

CHỒNG PHÂN LOẠI THEO<br />

NGUỒN GỐC<br />

Tài sản riêng mà vợ chồng<br />

có trước khi lập thỏa thuận<br />

Tài sản chung mà vợ chồng<br />

có trước khi lập thỏa thuận<br />

Tài sản tạo ra, thu nhập hợp<br />

pháp của vợ chồng trong thời<br />

kì hôn nhân<br />

Hoa lợi lợi tức phát sinh từ<br />

các loại tài sản của vợ chồng<br />

Tài sản được thừa kế riêng,<br />

tặng cho riêng<br />

Tài sản được thừa kế chung,<br />

tặng cho chung<br />

C: Thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân<br />

K: Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng<br />

KHÔNG CÓ<br />

THỎA THUẬN<br />

Thuộc khối tài<br />

sản<br />

DÙNG THỎA THUẬN<br />

Chuyển đổi sang<br />

khối tài sản khác<br />

Chuyển đổi về<br />

khối tài sản cũ<br />

Riêng N C<br />

Chung C K, N<br />

Chung C K, N<br />

Chung<br />

C<br />

Không thể thỏa thuận trước về loại tài sản này trong các<br />

văn bản thỏa thuận, nó mặc định là tài sản riêng<br />

Không thể thỏa thuận trước về loại tài sản này trong các<br />

văn bản thỏa thuận, nó mặc định là tài sản chung<br />

Cuối cùng, nếu xem xét một cách tổng thể có thể hoài nghi rằng: việc thỏa<br />

thuận trước nhằm mục đích làm thay đổi về căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng<br />

trong thời kì hôn nhân phải chăng đã được pháp luật Việt Nam gián tiếp thừa nhận?<br />

Theo người viết hoàn toàn có thể làm được điều này thông qua việc lập các bản<br />

thỏa thuận được cho phép. Có thể hình dung một cách đơn giản như sau: ngay sau<br />

khi kết hôn, vợ chồng thỏa thuận nhập tất cả tài sản hiện có vào khối tài sản chung,<br />

ngay sau khi việc nhập tài sản này có hiệu lực, vợ chồng lại thỏa thuận chia tài sản<br />

chung trong thời kì hôn nhân, với thỏa thuận này vợ chồng hoàn toàn có quyền<br />

phân định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng, hậu quả pháp lí đối với việc<br />

K


47<br />

chia tài sản này. Điều này cũng có nghĩa là vợ chồng được hoàn toàn định đoạt với<br />

các tài sản sẽ phát sinh trong tương lai (không bao gồm tài sản sẽ được thừa kế,<br />

tặng cho).<br />

2.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC ÁP DỤNG HÔN ƯỚC TẠI VIỆT NAM<br />

2.4.1. Hoàn thiện các qui định về các vấn đề về tài sản vợ chồng mà vợ<br />

chồng được thỏa thuận và lộ trình áp dụng hôn ước<br />

2.4.1.1. Hoàn thiện các qui định về các vấn đề về tài sản vợ chồng mà vợ<br />

chồng được thỏa thuận<br />

Phù hợp với quá trình phát triển của kinh tế xã hội, pháp luật về tài sản của<br />

vợ chồng cần được hoàn thiện dần theo các nguyên tắc:<br />

- Phải đảm bảo cho các yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường phát huy<br />

được tác động tích cực của nó.<br />

- Phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Quy định<br />

quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng không những chỉ tồn tại trong luật<br />

hôn nhân và gia đình mà còn cần được ghi nhận trong các luật chuyên ngành<br />

khác. Mặt khác, các văn bản dưới luật cần phù hợp với luật, không được<br />

mâu thuẫn và vượt qua luật.<br />

- Phải đảm bảo sự rõ ràng, cụ thể và tính khả thi của các qui phạm pháp luật.<br />

- Phải phù hợp với quan niệm và dư luận xã hội.<br />

� Sự cần thiết phải sửa đổi và hoàn thiện qui định về chia tài sản<br />

chung của vợ chồng<br />

Như đã phân tích, nhu cầu có một qui định cho phép vợ chồng thỏa thuận về<br />

các vấn đề tài sản là cần thiết. Hiện nay tuy đã có qui định cho phép vợ chồng thỏa<br />

thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân và nhập tài sản riêng thành tài sản<br />

chung, khôi phục chế độ tài sản chung nhưng những qui định này đã bộc lộ nhiều<br />

điểm hạn chế đặc biệt là thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.<br />

Về hình thức của thỏa thuận chia tài sản chung: thỏa thuận này không nhất<br />

thiết phải công chứng, chứng thực và không cần công bố. Việc công chứng chứng<br />

thực đảm bảo tính hiệu lực và phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra cho các chủ thể.<br />

Song trong trường hợp này và với tình hình của xã hội Việt Nam thì khả năng xảy<br />

ra rủi ro đối với nhà nước và với các bên thứ ba lớn hơn nhiều so với rủi ro xảy ra<br />

với một bên vợ chồng, bởi rất có thể vợ chồng sẽ lập văn bản chia tài sản chung và


48<br />

ghi thời điểm lập là thời điểm trong quá khứ để chuyển hết các động sản không cần<br />

đăng kí cho một người để trốn tránh các nghĩa vụ riêng với người còn lại. Vậy nên<br />

qui định về hình thức của thỏa thuận này một cách chặt chẽ hơn là điều cần thiết.<br />

Về hậu quả pháp lí: Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân có làm chấm<br />

dứt chế độ tài sản của vợ chồng hay không vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận.<br />

Bởi lẽ các qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không thể trả lời<br />

cho câu hỏi này, hơn nữa các qui định về hậu quả của chia tài sản chung trong thời<br />

kì hôn nhân trong Nghị định 70 lại bị cho rằng mâu thuẫn với Luật hôn nhân gia<br />

đình. Việc qui định rõ hơn hậu quả pháp lí của các thỏa thuận về tài sản của vợ<br />

chồng là điều cần thiết.<br />

Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân với những qui<br />

định chặt chẽ hơn là một giải pháp cần thiết và phù hợp với thời điểm hiện nay.<br />

� Thỏa thuận về căn cứ tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân<br />

Như đã đề cập ở trên thì thỏa thuận trước nhằm mục đích thay đổi về căn cứ<br />

xác lập tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã được pháp luật Việt Nam<br />

gián tiếp thừa nhận. Về bản chất, việc gián tiếp hay trực tiếp thừa nhận này hoàn<br />

toàn không phải là thừa nhận chế độ tài sản ước định mà chỉ là thừa nhận một phần<br />

thỏa thuận của vợ chồng về căn cứ xác lập tài sản dựa trên cơ sở của chế độ tài sản<br />

pháp định. Là một nước đang phát triển và đang xây dựng kinh tế thị trường xã hội<br />

chủ nghĩa, Việt Nam mang có những đặc thù riêng biệt về điều kiện kinh tế và quan<br />

niệm xã hội. Các quan niệm xã hội mới và cũ, truyền thống và được du nhập đan<br />

xen nhau vô cùng phức tạp. Thực tế đó khiến cho việc xây dựng pháp luật đặc biệt<br />

là việc nghiên cứu, so sánh, cấy ghép pháp luật trở nên khó khăn, nhất là trong lĩnh<br />

vực hôn nhân và gia đình.<br />

Trung Quốc là một quốc gia có nhiều điều kiện kinh tế, đặc điểm xã hội,<br />

quan niệm và truyền thống tương tự như Việt Nam, việc nghiên cứu so sánh pháp<br />

luật Trung Quốc là một trong những điều nên làm trong công tác xây dựng pháp<br />

luật. Quyền sở hữu của vợ chồng ở Trung Quốc được điều chỉnh theo phương thức<br />

qui ước của vợ chồng song song với những qui định của pháp luật:<br />

Theo qui định của điều 17 Luật Hôn nhân của Cộng hòa nhân dân Trung<br />

Hoa (sửa đổi năm 2001): “Trong thời gian còn duy trì quan hệ hôn nhân những tài<br />

sản dưới đây thuộc về sở hữu chung của hai vợ chồng


� Lương, tiền thưởng<br />

49<br />

� Lợi nhuận từ sản xuất và kinh doanh<br />

� Lợi nhuận từ quyền sở hữu tài sản trí thức<br />

� Tài sản có được nhờ thừa kế, hiến tặng nhưng ngoài quy định<br />

tại điều 18 chương 3 của luật này<br />

� Những tài sản khác mà cần thuộc về sở hữu chung.<br />

Đối với những tài sản thuộc sở hữu chung, hai vợ chồng bình đẳng về quyền xử lí”.<br />

Tuy nhiên Luật Hôn nhân (sửa đổi năm 2001) có qui định cho vợ chồng qui<br />

ước để những tài sản trên không còn là tài sản chung nữa. Theo điều 19:<br />

“Hai vợ chồng có thể qui ước những tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn<br />

nhân còn duy trì và những tài sản trước hôn nhân thuộc về sở hữu cá nhân, sở hữu<br />

chung hoặc sở hữu cá nhân bộ phận, sở hữu chung bộ phận. Qui ước được ghi lại<br />

bằng văn bản. Nếu không có qui ước hoặc qui ước không rõ ràng, áp dụng thích<br />

hợp theo qui định của Điều 17 và 18 luật này. Qui ước về những tài sản có được<br />

trong thời gian quan hệ hôn nhân đang được duy trì và những tài sản trước hôn<br />

nhân, có sức ràng buộc đối với cả hai phía”.<br />

Theo qui định đó thì vợ chồng hoàn toàn có thể thương lượng với nhau về<br />

vấn đề tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Việc qui ước này phải được lập<br />

thành văn bản, văn bản này có thể được công chứng. Nếu không có bản thỏa thuận<br />

này hoặc bản thỏa thuận này không rõ ràng thì mới áp dụng thích hợp theo điều 17<br />

và điều 18 (qui định về tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng).<br />

2.4.1.2. Lộ trình áp dụng hôn ước<br />

Hôn ước là một chế định hoàn toàn xa lạ với pháp luật Việt Nam xã hội chủ<br />

nghĩa, nó không đơn thuần chỉ là một văn bản thỏa thuận về căn cứ xác lập tài sản<br />

vợ chồng như thỏa thuận về tài sản vợ chồng và được lập trước khi kết hôn, nó là<br />

văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng (nó cho phép vợ chồng được thỏa<br />

thuận về cả quyền và nghĩa vụ về tài sản, cách thức phân chia tài sản), nó thuộc về<br />

chế độ tài sản ước định trong khi thỏa thuận về tài sản của vợ chồng lại thuộc chế<br />

độ tài sản pháp định, biểu hiện rõ nét nhất của điều đó là nó cho phép vợ chồng<br />

được thỏa thuận để lựa chọn luật áp dụng. Từ chỗ chỉ chấp nhận chế độ tài sản<br />

pháp định đến chỗ thừa nhận cả chế độ tài sản ước định là cả một quá trình cần có


50<br />

bước quá độ. Chính vì thế người viết cho rằng để hôn ước được áp dụng tại Việt<br />

Nam cần một lộ trình phù hợp.<br />

Bước đầu nên thừa nhận thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn<br />

nhân, thỏa thuận về tài sản vợ chồng nên được qui định chặt chẽ và được ghi nhận<br />

trong dự thảo luật hôn nhân và gia đình gần nhất.<br />

Sau một thời gian hợp lí áp dụng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng và dựa<br />

vào nhiều yếu tố mới trong sự thay đổi của điều kiện xã hội thì mới đưa qui định<br />

hôn ước vào pháp luật trong lần sửa đổi luật hôn nhân và gia đình tiếp theo.<br />

hôn nhân<br />

2.4.2. Hình thức và nội dung của các qui định kiến nghị áp dụng<br />

2.4.2.1. Thỏa thuận về căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng trong thời kì<br />

� Phác thảo<br />

Điều kiện được thỏa thuận: Sau khi kết hôn và có lí do chính đáng. Lí do<br />

chính đáng sẽ do cơ quan có thẩm quyền thẩm định. Theo người viết, hầu hết các<br />

trường hợp vợ chồng thỏa thuận về tài sản của mình trong thời kì hôn nhân đều<br />

xuất phát từ lí do chính đáng song cũng có thể có một số trường hợp được xem là lí<br />

do không chính đáng như: thỏa thuận tất cả các tài sản đều thuộc về một người để<br />

người kia phải phụ thuộc vì không tự tạo ra thu nhập.<br />

Các tài sản được thỏa thuận: Các tài sản được thỏa thuận chỉ bao gồm tài<br />

sản có sẵn trước khi thỏa thuận, tài sản do vợ chồng tạo ra, hoa lợi lợi tức phát<br />

sinh từ các loại tài sản trong thời kì hôn nhân và thu nhập trong thời kì hôn nhân.<br />

Các tài sản do vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung không thể thỏa<br />

thuận trước vì như thế có thể sẽ không đảm bảo cho ý chí của người tặng cho,<br />

người để lại di sản.<br />

Hình thức thỏa thuận: Thỏa thuận phải lập bằng văn bản có chữ kí của cả<br />

hai vợ chồng và được xác thực bởi tòa án nơi vợ chồng cư trú. Người viết cũng đề<br />

nghị về việc nên có một tòa án chuyên biệt thụ lí và giải quyết các vấn đề về gia<br />

đình: như đăng kí kết hôn (việc kết hôn nên được thực hiện bởi tòa án ở khu vực cư<br />

trú chứ không phải là ủy ban nhân dân bởi việc li hôn và kết hôn được thực hiện<br />

bởi hai loại cơ quan khác nhau này sẽ khiến cho việc cung cấp thông tin trở nên<br />

khó khăn hơn), li hôn, công nhận và cho thi hành bản án li hôn của vợ chồng có yếu<br />

tố nước ngoài, hủy hôn, chia tài sản vợ chồng, … hơn nữa tòa án nên được tổ chức


51<br />

theo khu vực chứ không phải theo đơn vị hành chính, đã có nhiều quan điểm cho<br />

rằng nên áp dụng theo mô hình này.<br />

Hậu quả pháp lí: Hậu quả pháp lí do vợ chồng thỏa thuận tuy nhiên phải bao<br />

gồm cả vấn đề quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình trong trường hợp<br />

khối tài sản chung không còn. Hậu quả pháp lí của việc thỏa thuận này phải được<br />

tòa án giải quyết các vấn đề về gia đình tại khu vực cư trú của vợ chồng xác nhận.<br />

Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba: thỏa thuận về tài sản của vợ chồng cần<br />

được công bố công khai tại trụ sở của tòa án khu vực cư trú. Pháp luật chuyên<br />

ngành cần có qui định: trong các giao dịch về tài sản của cá nhân phải có điều<br />

khoản về thỏa thuận về tài sản vợ chồng, nếu có một có sự thay đổi về tình trạng tài<br />

sản vợ chồng của cá nhân thì phải sửa đổi hợp đồng. Trong trường hợp có tranh<br />

chấp hợp đồng liên quan đến tài sản vợ chồng mà không có điều khoản về tài sản<br />

vợ chồng hoặc điều khoản về tài sản vợ chồng qui định không rõ thì bên có lỗi sẽ<br />

phải chịu trách nhiệm. Theo người viết nên có qui định như vậy bởi mỗi cá nhân<br />

cần phải tự có trách nhiệm với những giao dịch do mình thực hiện, hơn nữa qui<br />

định này sẽ khiến cho ít nhất một bên buộc phải biết về tình trạng tài sản và không<br />

được coi là ngay tình khi có thiệt hại xảy ra do tình trạng tài sản vợ chồng, như vậy<br />

ít nhất sẽ có một bên có lỗi và buộc phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra.<br />

Thay đổi, hủy bỏ thỏa thuận: để đảm bảo tính ổn định của chế độ tài sản vợ<br />

chồng, thỏa thuận về tài sản của vợ chồng chỉ có thể thay đổi, hủy bỏ sau một năm<br />

áp dụng, và việc thay đổi hủy bỏ này phải được tòa án giải quyết các vấn đề về gia<br />

đình tại khu vực cư trú của vợ chồng xác nhận và phải được công bố công khai tại<br />

trụ sở của tòa án đó.<br />

� Qui định pháp luật<br />

Lưu ý: Một số điều kiện tiên quyết:<br />

� Trong quá trình cải cách tư pháp, tòa án đã được phân theo khu vực<br />

xét xử chứ không phân theo đơn vị hành chính.<br />

� Đã hình thành tòa án chuyên giải quyết các vấn đề về gia đình, bao<br />

gồm kết hôn, li hôn, các tranh chấp tài sản….<br />

Điều x: Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng<br />

1. Trong thời kì hôn nhân vợ chồng có thể thỏa thuận những tài sản sau đây<br />

là tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ chồng.


nhân<br />

52<br />

a) Các tài sản hiện có là tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ chồng<br />

b) Thu nhập hợp pháp của vợ chồng<br />

c) Tài sản vợ chồng sẽ tạo ra trong thời kì hôn nhân<br />

d) Hoa lợi lợi tức sẽ thu được từ các tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn<br />

e) Các thu nhập hợp pháp khác không phát sinh từ tài sản được tặng cho,<br />

thừa kế sau khi lập thỏa thuận.<br />

2. Thỏa thuận phải được lập thành văn bản, có chữ kí của cả hai vợ chồng và<br />

được xác thực tại tòa án giải quyết các vấn đề gia đình tại nơi cư trú.<br />

3. Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải được công bố tại trụ sở của tòa<br />

án giải quyết các vấn đề gia đình. Điều khoản về tình trạng tài sản của vợ chồng<br />

phải được ghi trong các hợp đồng do vợ, chồng kí kết.<br />

Điều x: Sửa đổi, hủy bỏ thỏa thuận về tài sản vợ chồng<br />

Sau một năm áp dụng, vợ chồng có thể sửa đổi, hủy bỏ thỏa thuận về tài sản<br />

của vợ chồng. Việc sửa đổi phải được lập thành văn bản và được tòa án giải quyết<br />

các vấn đề gia đình tại nơi cư trú xác thực. Việc sửa đổi, hủy bỏ phải được công bố<br />

tại trụ sở của tòa án tại nơi cư trú.<br />

2.4.2.2. Hôn ước<br />

� Phác thảo<br />

Điều kiện lập hôn ước: Trước khi kết hôn, hai người nam nữ có thể lập hôn<br />

ước qui định về chế độ tài sản vợ chồng được áp dụng trong thời kì hôn nhân.<br />

Các vấn đề có thể thỏa thuận: Trong hôn ước, hai vợ chồng có thể thỏa về<br />

căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của<br />

vợ chồng với tài sản vợ chồng nhưng không được trái với các quyền nhân thân đã<br />

được pháp luật qui định. Ngoài ra với các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài,<br />

vợ chồng có thể thỏa thuận chọn luật của quốc gia nơi vợ chồng có quốc tịch hoặc<br />

nơi cư trú sau khi kết hôn mà có kí kết điều ước quốc tế với Việt Nam qui định về<br />

chế độ tài sản vợ chồng để điều chỉnh. Các vấn đề mà vợ chồng không thỏa thuận<br />

sẽ được áp dụng theo pháp luật của quốc gia mà vợ chồng đã lựa chọn để điều<br />

chỉnh vấn đề tài sản của mình, nếu không thỏa thuận về luật được áp dụng sẽ áp<br />

dụng luật của Việt Nam.


53<br />

Hình thức: Hôn ước phải được lập bằng văn bản và được công chứng trước<br />

khi kết hôn. Khi kết hôn, bản hôn ước đã được công chứng còn phải được xác thực<br />

tính hợp pháp của cơ quan đăng kí kết hôn. Hôn ước phải được công bố tại trụ sở<br />

của tòa án khu vực đăng kí kết hôn. Điều khoản về tình trạng tài sản vợ chồng phải<br />

được ghi trong các hợp đồng do vợ chồng kí kết, nếu phát sinh tranh chấp do điều<br />

khoản này thì bên có lỗi phải chịu trách nhiệm.<br />

Hiệu lực: Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kì hôn nhân.<br />

Sửa đổi, hủy bỏ: Sau một năm áp dụng, vợ chồng có thể sửa đổi hủy bỏ các<br />

nội dung của hôn ước. Việc sửa đổi, hủy bỏ này cũng phải được lập bằng văn bản,<br />

được công chứng và xác thực của tòa án nơi vợ chồng cư trú. Tòa án đã xác thực<br />

việc sửa đổi hủy bỏ hôn ước phải có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản đến<br />

tòa án nơi xác thực việc lập hôn ước về việc hôn nước đã được sửa đổi hủy bỏ.<br />

� Qui định pháp luật<br />

Điều x: Giải thích từ ngữ<br />

…<br />

x) Hôn ước: văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng do hai bên nam<br />

nữ lập trước khi kết hôn.<br />

…<br />

Điều x: Luật áp dụng với chế độ tài sản vợ chồng<br />

1.Pháp luật Việt Nam chỉ qui định về chế độ tài sản của vợ chồng khi vợ<br />

chồng không lập hôn ước hoặc khi vợ chồng có hôn ước mà hôn ước không giải<br />

quyết hết được các vấn đề về tài sản. Hôn ước được lập không được trái với đạo<br />

đức xã hội và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.<br />

2. Trong trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài, vợ chồng chỉ có thể lựa<br />

chọn luật áp dụng của quốc gia là nơi vợ chồng có quốc tịch hoặc nơi cư trú sau khi<br />

kết hôn mà có kí kết điều ước quốc tế với Việt Nam qui định về chế độ tài sản vợ<br />

chồng.<br />

…<br />

Điều x: Hôn ước<br />

1. Hôn ước phải được lập bằng văn bản trước khi kết hôn, có chữ kí của cả<br />

hai người nam nữ sắp kết hôn, được công chứng trước khi kết hôn.


54<br />

2. Hôn ước phải được tòa án nơi đăng kí kết hôn xác thực. Nguyên tắc xác<br />

thực do Chính phủ qui định.<br />

3. Hôn ước chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kì hôn nhân.<br />

4. Hôn ước phải được công bố công khai tại trụ sở tòa án nơi đăng kí kết<br />

hôn. Điều khoản về tình trạng tài sản của vợ chồng phải được ghi trong các hợp<br />

đồng do vợ, chồng kí kết.<br />

Điều x: Sửa đổi hủy bỏ hôn ước<br />

Sau một năm áp dụng, vợ chồng có thể sửa đổi, hủy bỏ hôn ước. Việc sửa<br />

đổi phải được lập thành văn bản và được tòa án giải quyết các vấn đề gia đình tại<br />

nơi cư trú xác thực. Việc sửa đổi, hủy bỏ phải được công bố tại trụ sở của tòa án tại<br />

nơi cư trú.


55<br />

<strong>LỜI</strong> <strong>KẾT</strong><br />

Có lẽ việc lập kế hoạch hay hơn nữa là việc hoạch định tương lai vẫn chưa<br />

trở thành thói quen của người Việt, hoặc người Việt vẫn duy tình mà cho rằng lễ<br />

nghĩa và đạo lí vẫn còn giúp giữ yên ổn được gia đình của họ trong khi hội nhập,<br />

toàn cầu hóa, kinh tế thị trường… đang tạo thành một vòng xoáy cuốn theo tất cả<br />

các yếu tố xã hội. Dùng góc nhìn của động lực học * , chúng ta sẽ nhận ra rằng nếu<br />

như gia đình vẫn đứng im và không thay đổi thì nó sẽ dễ bị vòng xoáy kia phá vỡ,<br />

nhưng nếu nó biết vận động một cách phù hợp thì sẽ giữ được sự ổn định tương<br />

đối. Hôn ước là một yếu tố giúp cho gia đình có được một phần của sự vận động<br />

như vậy.<br />

Có lẽ nhiều người sẽ cho rằng vào thời điểm này đề cập tới hôn ước là<br />

chưa phù hợp, là còn quá sớm. Vào thời điểm soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999<br />

cũng vậy, người ta đã gạt đi vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân để rồi 10<br />

năm sau, giới luật gia tốn bao giấy mực để giải quyết Vedan – pháp nhân đã “bức<br />

tử” dòng sông Thị Vải. Vậy nên người viết cho rằng nghiên cứu và xây dựng một<br />

giải pháp pháp lí cho hôn ước là điều cần thiết.<br />

Đề tài “Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng hôn nước vào Việt<br />

Nam” đã hoàn thành với những nội dung chủ yếu sau:<br />

� khái quát về hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản ước định<br />

� phân tích và bình luận về hôn ước ở Việt Nam qua từng thời kì lịch sử;<br />

� khái quát được về hôn ước ở các nước có các đặc điểm hình thái xã hội và<br />

pháp luật khác nhau;<br />

� nghiên cứu xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam để thấy được sự phù<br />

hợp của hôn ước<br />

� phân tích các qui định của pháp luật để đề nghị một giải pháp phù hợp cho<br />

việc áp dụng hôn ước ở Việt Nam.<br />

* Động lực học được nói tới ở đây là một nguyên lí của vật lí cổ điển (vật lí Newton)


TIẾNG VIỆT<br />

56<br />

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />

1. Almanach những nên văn minh thế giới, NXB Văn hóa thông tin, 1996<br />

2. Báo cáo tóm tắt kết quả điều tra gia đình Việt Nam 2006 (công bố ngày<br />

26/6/2008), www.un.org.vn<br />

3. TS. Nguyễn Công Bình (chủ biên), Luật thi hành án dân sự Việt Nam –<br />

những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB CAND, 2007<br />

4. Trịnh Hòa Bình, Sự biến đổi của khuôn mẫu gia đình Việt Nam hiện<br />

đại, Tạp chí hoạt động khoa học tháng 6/2006<br />

5. Bộ Dân luật Bắc kì 1931<br />

6. Bộ Dân luật Trung kì 1936<br />

7. Bộ Dân luật (Công báo VNCH số 11 đặc biệt ngày 28/2/1973), Sài Gòn 1973<br />

8. Bộ luật Dân sự năm 2005 (Luật số 33/2005/QH11)<br />

9. Bộ luật Dân sự Pháp, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005<br />

10. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (Luật số 24/2004/QH11)<br />

11. Bộ Tư pháp (Vụ pháp luật Quốc tế), Pháp luật tương trợ tư pháp quốc tế<br />

(Tài liệu tham khảo xây dựng dự án luật tương trợ tư pháp), NXB Tư<br />

pháp, Hà Nội, 2006<br />

12. TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân<br />

và gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp, 2008<br />

13. ThS Nguyễn Văn Cừ, ThS Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lí luận và thực<br />

tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà<br />

Nội, 2003<br />

14. Nguyễn Ngọc Đào, Luật La mã, NXB Đại học Tổng hợp, 1994<br />

15. TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lí luận về các phương pháp<br />

phân tích luật viết, NXB Tư pháp 2006<br />

16. Th.S Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, NXB ĐHQG tp. Hồ Chí<br />

Minh, 2007<br />

17. Nguyễn Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và<br />

thực tiễn, luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật Hà Nội, 2002


57<br />

18. Nguyễn Hồng Hải, Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong pháp<br />

luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, tạp chí luật học số 3 năm 1998<br />

19. Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam (tập 1 Hôn sản – Tư<br />

sản), Sài Gòn tháng 2 năm 1960<br />

20. Th.S Bùi Minh Hồng, Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên hệ<br />

từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam, bài viết được đăng trên<br />

http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/01/05/4322-2/<br />

21. Th.S Bùi Minh Hồng, Quan hệ về tài sản của vợ chồng trong hoạt động<br />

hợp tác sản xuất, kinh doanh theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, Đề tài<br />

khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh<br />

doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường ĐH Luật Hà<br />

Nội, năm 2008<br />

22. Jean Derruppe’, Tư pháp quốc tế, Nhà pháp luật Việt Pháp<br />

23. Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình<br />

(tập 1), www.edu.net.vn<br />

24. Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình<br />

(tập 2), www.edu.net.vn<br />

25. TS. Nguyễn Phương Lan, Tổng thuật kết quả nghiên cứu, Bài viết trong Đề<br />

tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất<br />

kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường Đại học<br />

Luật Hà Nội<br />

26. ThS. Nguyễn Thị Lan, Một số vấn đề về nguyên tắc xác định tài sản chung,<br />

tài sản riêng và trách nhiệm tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất<br />

kinh doanh, Bài viết trong Đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ<br />

chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn<br />

Phương Lan), Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008<br />

27. Luật Doanh nghiệp năm 2005 (luật số 60/2005/QH11)<br />

28. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 (luật số 2/SL ban hành ngày<br />

29/12/1959)<br />

29. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 (luật số 21-LCT/HĐNN7)<br />

30. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (luật số 22/2000/QH10)<br />

31. Luật Thi hành án dân sự (Luật số 28/2008/QH12)


58<br />

32. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược giảng – Luật gia đình – quyển 1,<br />

tập 1, Sài Gòn, 1973<br />

33. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ<br />

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về<br />

quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài<br />

34. Nghị định của Chính phủ số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 Sửa đổi, bổ<br />

sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm<br />

2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn<br />

nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài<br />

35. Nghị định của Chính phủ số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 qui định chi<br />

tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình<br />

36. Nghị định của Hội đồng bộ trưởng số 45- HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ<br />

chức và hoạt động công chứng nhà nước<br />

37. Phạm Thị Linh Nhâm, Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ<br />

chồng trong thời kì hôn nhân, Đề tài tham dự cuộc thi sinh viên nghiên cứu<br />

khoa học năm 2008 (đọc bản PDF tại www.phamlinhnham.wordpress.com)<br />

38. Nội san Quốc hội khóa 1/58 Thảo luận và biểu quyết dự án Luật Gia đình,<br />

Sài Gòn, 1958<br />

39. Đặng Hoàng Oanh, Tổng quan về hội nghị Lahay về Tư pháp quốc tế,<br />

webside Bộ tư pháp www.moj.gov.vn ngày 04/04/2008.<br />

40. Szilagy Vilmos, Hôn nhân trong tương lai (người dịch: Lê Thị Nguyệt),<br />

NXB Phụ nữ<br />

41. Lê Thảo, Gia đình Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường,<br />

tạp chí cộng sản online http://www.tapchicongsan.org.vn ngày 23/2/2009.<br />

42. Nguyễn Quế Thương, Suy nghĩ về phân kì lịch sử Thái Lan và phân kì lịch<br />

sử pháp luật Thái Lan, website Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Viện khoa<br />

học xã hội Việt Nam, http://www.iseas.org.vn/<br />

43. Câu lạc bộ Luật Gia Trẻ, Tài liệu thảo luận chuyên đề Hợp đồng hôn nhân<br />

– xu hướng của thời đại, Nội san Luật Gia Trẻ ngày 25/10/2009 (đọc bản<br />

PDF tại www.luatgiatre.wordpress.com)<br />

44. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật<br />

thế giới, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2006


59<br />

45. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật La Mã (chủ biên ThS<br />

Nguyễn Minh Tuấn), NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2001<br />

46. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Công an<br />

nhân dân, Hà Nội, 2008<br />

47. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình (TS.<br />

Nguyễn Văn Cừ chủ biên), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2009<br />

48. www.doisongphapluat.com.vn (7/10/2008), Quảng Bình: nỗi cay đắng từ<br />

vụ li hôn của một gia đình tỉ phú<br />

49. www.chungta.com (30/3/2007), Nhân vụ li hôn 1.000 tỉ, nghĩ về thị trường<br />

hôn nhân ở Việt Nam<br />

50. www.dantri.com (21/1/2010), Kinh hãi những vụ li hôn kiệt nghĩa, cạn tình<br />

51. www.dpi.hochiminhcity.gov.vn (18/4/2010) Thống kê doanh nghiệp<br />

năm 2010<br />

52. www.giadinh.net.vn (15/3/2009), Li hôn: rắc rối chuyện riêng chung<br />

53. www.giadinh.net.vn (5/2/2010)180.000 người Việt Nam kết hôn với người<br />

nước ngoài<br />

54. www.mof.gov.vn (7/12/2006)<br />

55. www.netlife.com.vn (9/8/2009) Tiền bạc: mối đe dọa hạnh phúc gia đình<br />

56. www.tgphanoi.org (website của Tổng Giáo phận Hà Nội), các giáo lí về<br />

hôn nhân<br />

TIẾNG ANH<br />

57. Convention on the law applicable to matrimonial property regimes,<br />

http://hcch.e-vision.nl/index_en.php?act=conventions.text&cid=87 (Công<br />

ước Lahay về luật áp dụng với chế độ tài sản vợ chồng, xem bản lược dịch<br />

sang Tiếng Việt của người viết tại www.phamlinhnham.wordpress.com)<br />

58. Japanese Civil Code (part IV and part V)<br />

http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?printID=&ft=2&re=02<br />

&dn=1&yo=&x=14&y=25&al[]=C&ky=&page=13&vm=02<br />

59. Mahar Heather, Why Are There So Few Prenuptial Agreements?, Harvard<br />

Law School John M. Olin Center for Law, Economics and Business<br />

Discussion Paper Series. Paper 436, http://lsr.nellco.org/harvard_olin/436


60. Marriage Law of the People's Republic of China<br />

60<br />

http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2007-12/13/content_1384064.htm<br />

61. Notarization Law of the People's Republic of China<br />

http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2007-12/13/content_1384121.htm<br />

62. Ronald B. Standler (Copyright 2003), Prenuptial and Postnuptial contract<br />

Law in the USA, www.rbs2.com/dcontract2.pdf<br />

63. Thailand Civil and Commercil Code<br />

http://www.samuiforsale.com/Civil_Code_text_English_I.html<br />

64. The Code Napoleon 1804<br />

http://www.napoleonseries.org/research/government/code<br />

65. Uniform premarital agreement Act<br />

http://www.law.upenn.edu/bll/archives/ulc/fnact99/1980s/upaa83.htm<br />

(Đạo luật về hôn ước của Hoa Kì, xem bản lược dịch sang Tiếng Việt của<br />

người viết tại www.phamlinhnham.wordpress.com)<br />

66. http://thaiprenuptialagreement.com/thai-prenuptial-pointer.php


Phụ lục 1<br />

Mẫu văn bản thỏa thuận về căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng<br />

trong thời kì hôn nhân *<br />

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM<br />

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc<br />

----------------<br />

VĂN BẢN THỎA THUẬN VỀ CĂN CỨ XÁC LẬP TÀI SẢN<br />

CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN<br />

Tại ……………………………………. …, chúng tôi gồm:<br />

Ông:............ …………………Sinh ngày:…………..<br />

Chứng minh nhân dân số:………………………………………….<br />

Do công an ……………………..cấp ngày……………..<br />

Bà:……………………...Sinh ngày:………………..<br />

Chứng minh nhân dân số:………………………………………….<br />

Do công an ……………………..cấp ngày……………..<br />

Chúng tôi là vợ chồng theo giấy đăng kí kết hôn số ……….do Tòa án khu<br />

vực……………………cấp ngày …………..<br />

Vì lí do………………………………………..<br />

Chúng tôi thỏa thuận về tài sản của vợ chồng chúng tôi như sau:<br />

Điều 1: Thỏa thuận về các tài sản riêng đang tồn tại hiện hữu.<br />

Tài sản của vợ: (phải mô tả rõ về tài sản)<br />

……………………………………………………………………………………<br />

Tài sản của chồng: (phải mô tả rõ về tài sản)<br />

……………………………………………………………………………………<br />

Chúng tôi thỏa thuận<br />

(ghi rõ từng tài sản liệt kê ở trên thuộc khối tài sản chung hay thuộc tài sản<br />

riêng của ai)<br />

* Người viết lập dựa vào các mẫu văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng, văn bản thỏa thuận<br />

khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng, văn bản thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ<br />

chồng, văn bản cam kết về tài sản được ban hành kèm theo quyết định số 123/2005/QĐ-UBND ngày<br />

15/7/2005 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.<br />

- 1 -


……………………………………………………………………………………<br />

Điều 2: Thỏa thuận về các tài sản chung đang tồn tại hiện hữu.<br />

Tài sản chung của chúng tôi gồm có (phải mô tả rõ về tài sản, trường hợp tài<br />

sản có do được tặng cho chung, thừa kế chung phải khi gõ nguồn gốc là được<br />

tặng cho chung và thừa kế chung)<br />

Chúng tôi thỏa thuận<br />

……………………………………………………………………………………<br />

Điều 3: Thỏa thuận về các tài sản vợ chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp của vợ<br />

chồng sẽ phát sinh trong thời kì hôn nhân.<br />

ai)<br />

Chúng tôi thỏa thuận<br />

(ghi rõ phần thu nhập nào sẽ thuộc khối tài sản chung hay tài sản riêng của<br />

…………………………………………………………………………………………………<br />

…………………………………………………………………………………………………<br />

ai)<br />

Điều 4. Thỏa thuận riêng về hoa lợi lợi tức phát sinh<br />

Chúng tôi thỏa thuận<br />

(ghi rõ phần thu nhập nào sẽ thuộc khối tài sản chung hay tài sản riêng của<br />

…………………………………………………………………………………………………<br />

…………………………………………………………………………………………………<br />

Điều 5. Các thỏa thuận khác<br />

……………………………………………………………………………………<br />

Điều 6. Cam đoan của vợ chồng<br />

1. Việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng chúng tôi được thực hiện theo<br />

đúng ý chí của vợ chồng chúng tôi và không trái pháp luật;<br />

2. Tài sản mà chúng tôi đã thỏa thuận và tồn tại hiện hữu thuộc sở hữu hợp<br />

pháp của chúng tôi, không bị tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng, không<br />

bị xử lý bằng Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà chủ sở hữu<br />

chưa chấp hành. Những thông tin về tài sản trong thỏa thuận này là đúng sự thật;<br />

3. Việc thỏa thuận trên không nhằm trốn tránh bất kì nghĩa vụ tài sản nào<br />

của chúng tôi. Thỏa thuận này sẽ bị vô hiệu nếu có cơ sở xác định nó được lập ra<br />

là nhằm để trốn tránh nghĩa vụ tài sản;<br />

- 2 -


4. Những tài sản mà vợ chồng chúng tôi được tặng cho chung, thừa kế chung<br />

sau này (nếu có) sẽ thuộc khối tài sản chung. Những tài sản mà người vợ (chồng)<br />

được tặng cho riêng, thừa kế riêng sau này (nếu có) sẽ thuộc khôi tài sản riêng của<br />

người vợ (chồng);<br />

5. Trong trường hợp những tài sản của chung vợ chồng mà theo thỏa thuận<br />

này không xác định được là tài sản chung hay tài sản riêng thì là tài sản chung của<br />

vợ chồng;<br />

6. Thỏa thuận được lập hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc;<br />

7. Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung thỏa thuận nêu trên;<br />

8. Các cam đoan khác ...<br />

Điều 7. Điều khoản cuối cùng<br />

1. Chúng tôi công nhận đã hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của<br />

mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lí của việc thỏa thuận này;<br />

2. Hiệu lực của văn bản thỏa thuận này được tính ngay từ thời điểm được tòa<br />

án xác thực ............................... Văn bản trên chỉ bị thay đổi khi có văn bản khác<br />

thỏa thuận về căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân khác<br />

thay thế, hoặc văn bản hủy văn bản thỏa thuận này do các bên kí tên, và được xác<br />

thực theo đúng những điều kiện luật định<br />

3. Chúng tôi đã tự đọc, đã hiểu và đồng ý tất cả các điều khoản của văn bản<br />

thỏa thuận này và đã kí vào văn bản này trước sự chứng kiến của các nhân chứng.<br />

4. Văn bản thỏa thuận này được lập thành ............... bản chính (mỗi bản<br />

chính gồm ....... tờ, ....... trang), cấp cho:<br />

+ ........................... bản chính;<br />

+ ........................... bản chính;<br />

Lập 01 bản chính để nộp cho Tòa án khu vực………………………..<br />

Người vợ Người chồng<br />

- 3 -


(từng nhân chứng phải viết tay)<br />

<strong>LỜI</strong> CHỨNG CỦA NHÂN CHỨNG<br />

Văn bản thỏa thuận về căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng được lập giữa<br />

ông …………………..và bà……….….Ông ……..………bà………………… đã<br />

tự nguyện thỏa thuận về tài sản của mình và cam đoan chịu trách nhiệm trước<br />

pháp luật về nội dung thỏa thuận;<br />

Ông ……………………...............…, bà ……………………….......… đã<br />

đọc lại Văn bản thỏa thuận này, đã đồng ý toàn bộ nội dung và đã kí vào Văn bản<br />

trước sự có mặt của tôi<br />

Tại thời điểm lập bản thỏa thuận, ông…………….., bà……………….…<br />

đều không có những biểu hiện bất bình thường về năng lực nhận thức cũng như<br />

năng lực hành vi;<br />

XÁC THỰC CỦA TÒA ÁN<br />

- 4 -<br />

Kí tên<br />

Ngày…..tháng.….năm.…..(bằng chữ.…………………………)<br />

Tại tòa án khu vực………………………………………………..………...<br />

Tôi …………………………., chức vụ……………………………….<br />

Nhân danh………………………………………………<br />

Xác nhận:<br />

- Nội dung thỏa thuận phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội;<br />

- Ông ……………………...............…, bà ……………………….......… đã<br />

đọc lại bản thỏa thuận trước tòa;<br />

Người xác thực<br />

(Kí tên đóng dấu)


Phụ lục 2<br />

Mẫu hôn ước *<br />

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM<br />

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc<br />

----------------<br />

HÔN ƯỚC<br />

Tại Phòng (Văn phòng) công chứng…………………. …, chúng tôi gồm:<br />

Anh:............ …………………Sinh ngày:…………..<br />

Chứng minh nhân dân số:………………………………………….<br />

Do công an ……………………..cấp ngày……………..<br />

Chị:……………………...Sinh ngày:………………..<br />

Chứng minh nhân dân số:………………………………………….<br />

Do công an ……………………..cấp ngày……………..<br />

Tại đây, chúng tôi hoàn toàn tự nguyện và đồng ý thỏa thuận về quyền lợi và<br />

nghĩa vụ của chúng tôi về tài sản trong thời gian tồn tại quan hệ hôn nhân của<br />

chúng tôi.<br />

Trước khi lập bản hôn ước này chúng tôi đã thảo luận và suy nghĩ kĩ về<br />

những nội dung sẽ thỏa thuận sau đây<br />

Điều 1: Thỏa thuận về căn cứ xác lập tài sản trong thời kì hôn nhân.<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

Điều 2: Thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong thời<br />

kì hôn nhân.<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

* Người viết lập dựa vào các mẫu văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng, văn bản thỏa thuận<br />

khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng, văn bản thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ<br />

chồng, văn bản cam kết về tài sản được ban hành kèm theo quyết định số 123/2005/QĐ-UBND ngày<br />

15/7/2005 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và mẫu hôn ước được cung cấp trên website:<br />

http://www.expertlaw.com/<br />

- 1 -


hôn nhân.<br />

Điều 3: Thỏa thuận về việc chia tài sản chung và nhập tài sản trong thời kì<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

Điều 4. Các thỏa thuận khác<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

…………………………………………………………………………………….<br />

Điều 5. Cam đoan<br />

1. Việc thỏa thuận về tài sản của chúng tôi được thực hiện theo đúng ý chí<br />

của chúng tôi và không trái pháp luật;<br />

2. Trước khi lập bản thỏa thuận này chúng tôi đều đã được rõ về tình hình tài<br />

chính của nhau.<br />

3. Tài sản mà chúng tôi đã liệt kê tại đây (nếu có liệt kê tài sản riêng) và tồn<br />

tại hiện hữu thuộc sở hữu hợp pháp của chúng tôi, không bị tranh chấp về quyền<br />

sở hữu, quyền sử dụng, không bị xử lý bằng Quyết định của cơ quan Nhà nước có<br />

thẩm quyền mà chủ sở hữu chưa chấp hành. Những thông tin về tài sản trong hôn<br />

ước này là đúng sự thật;<br />

4. Những tài sản mà chúng tôi được tặng cho, thừa kế trong thời kì hôn nhân<br />

nếu không có thỏa thuận sau khi chúng tôi biết về việc chúng tôi hoặc 1 người<br />

trong chúng tôi được tặng cho hoặc thừa kế thì tài sản đó sẽ thuộc sở hữu của 1<br />

người trong chúng tôi hoặc chúng tôi theo đúng ý chí của người tặng cho, người<br />

để lại di sản.<br />

7. Chúng tôi hoàn toàn tự nguyện lập hôn ước này;<br />

8. Các cam đoan khác ...<br />

Điều 7. Điều khoản cuối cùng<br />

1. Chúng tôi công nhận đã được luật sư tư vấn và hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và<br />

lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lí của việc việc lập ra hôn<br />

ước này;<br />

hiệu lực;<br />

2. Hôn ước này sẽ có hiệu lực vào thời điểm việc kết hôn của chúng tôi có<br />

3. Chúng tôi đã tự đọc, đã hiểu và đồng ý tất cả các điều khoản của hôn ước<br />

này và đã kí vào văn bản này trước sự chứng kiến của các nhân chứng.<br />

- 2 -


4. Văn bản thỏa thuận này được lập thành ............... bản chính (mỗi bản<br />

chính gồm ....... tờ, ....... trang), cấp cho:<br />

……….<br />

+ ........................... bản chính;<br />

+ ........................... bản chính;<br />

Lập 01 bản chính để nộp cho Tòa án khu vực nơi đăng kí kết hôn<br />

Lưu tại phòng (văn phòng công chứng) 01 bản<br />

Vị hôn phu Vị hôn thê<br />

<strong>LỜI</strong> CHỨNG CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN<br />

Ngày…..tháng.….năm .…..(bằng chữ.……………………………………….....)<br />

Tại Phòng (Văn phòng) Công chứng………...<br />

Tôi …………………, Công chứng viên Phòng (Văn phòng) Công chứng<br />

Chứng nhận:<br />

- Anh ……..………chị………………… đã tự nguyện thỏa thuận các nội<br />

dung của hôn ước và cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thỏa<br />

thuận;<br />

- Tại thời điểm công chứng, anh…………….., chị……………….… đều có<br />

năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật;<br />

- Nội dung hôn ước phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội;<br />

- Anh ……………………...............…, chị ……………………….......… đã<br />

đọc lại hôn ước này, đã đồng ý toàn bộ nội dung và đã kí vào hôn ước trước sự có<br />

mặt của tôi;<br />

- Hôn ước này được lập thành ............... bản chính (mỗi bản chính gồm .......<br />

tờ, ....... trang), cấp cho:<br />

+ ........................... bản chính;<br />

+ ........................... bản chính;<br />

+ Giữ 01 bản để nộp khi đăng kí kết hôn<br />

- 3 -


+ Lưu tại Phòng Công chứng một bản chính.<br />

- Số công chứng……. , quyển số ...................................<br />

XÁC THỰC CỦA TÒA ÁN<br />

- 4 -<br />

Công chứng viên<br />

(Kí tên đóng dấu)<br />

Ngày…..tháng.….năm.…..(bằng chữ.…………………………)<br />

Tại tòa án khu vực………………………………………………..………...<br />

Tôi …………………………., chức vụ……………………………….<br />

Nhân danh………………………………………………<br />

Xác nhận:<br />

- Hôn ước được lập và công chứng trước khi đăng kí kết hôn<br />

- Hôn ước đã được nộp kèm khi đăng kí kết hôn.<br />

- Nội dung hôn ước phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội;<br />

- Anh ……………………...............…, chị ……………………….......… đã<br />

đọc lại hôn ước trước tòa khi đăng kí kết hôn;<br />

Người xác thực<br />

(Kí tên đóng dấu)

Hooray! Your file is uploaded and ready to be published.

Saved successfully!

Ooh no, something went wrong!