You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
* TRANG 36 - SỐ <strong>3255</strong> - THỨ SÁU (Friday, July 3, <strong>2020</strong>)<br />
Tam Hiệp và giấc mơ trị thủy<br />
Phạm Đức Đồng Hùng<br />
Tin Tam Hiệp bị “biến dạng” từ<br />
tháng Bảy năm ngóai chưa nguôi<br />
ngoai, hiện tại dư luận Trung Quốc lại<br />
xôn xao với tin tức về “nguy cơ vỡ đập”<br />
trong cơn mưa như trút nước, suốt một<br />
tháng liền.<br />
Tam Hiệp là đập thủy điện lớn nhất<br />
thế giới, có công suất ngang ngửa 15 nhà<br />
máy điện hạt nhân, đã gây tranh cãi dữ<br />
dội ở Trung Quốc. Nó bị Tổ chức Sông<br />
ngòi quốc tế gọi là “mô hình của thảm<br />
hoạ”. Nó bị ngân hàng Thế giới (WB)<br />
cấm vận tài chính với lý do gây tác hại<br />
môi trường. Nó bị giới trí thức Trung<br />
Quốc phản đối vì tác hại môi trường xã<br />
hội và lịch sử, nhấn chìm nhiều địa điểm<br />
lịch sử và văn hóa, những di chỉ khảo cổ<br />
học giá trị rất cao cũng như các tác động<br />
tới môi trường.<br />
Bây giờ nó còn khiến dân chúng<br />
Trung Quốc hồi hộp vì lý do an ninh bởi<br />
trâu bò đánh nhau, trên 600 triệu dân<br />
sẽ chết, mất sạch gia sản. Trong phúc<br />
trình đưa ra trước Quốc hội vào tháng<br />
Sáu năm 2004, Bộ quốc phòng Mỹ cho<br />
rằng trong trường hợp xung đột, Đài<br />
Loan có thể tấn công vào các mục tiêu<br />
như đập Tam Hiệp để làm giảm bớt áp<br />
lự quân sự của Trung Quốc. Ngay sau đó<br />
tướng Lưu Nguyên (Liu Yuan, con trai<br />
Lưu Thiếu Kỳ), tuyên bố trên trên China<br />
Youth Daily rằng quân đội phải “nghiêm<br />
túc trong việc bảo vệ chống lại những đe<br />
dọa từ những kẻ khủng bố Đài Loan”.<br />
Sau đó, đến tháng 9 năm 2004 Nhân<br />
dân nhật báo Trung Quốc (China Daily)<br />
thông báo rằng một lực lượng vũ trang<br />
lớn đã được bố trí tại khu vực đập thủy<br />
điện này để ngăn ngừa các cuộc tấn công<br />
khủng bố có thể xảy ra.<br />
Bị phản đối dữ dội và cùng khắp, lại<br />
tiềm ẩn một mối nguy an ninh, con đập<br />
vẫn hình thành với phí tổn ít nhất 180 tỷ<br />
nhân dân tệ hay 22.5 tỷ Mỹ kim, vậy thì<br />
đập này có ý nghĩa gì?<br />
Giấc mơ trị thủy<br />
Không phải ngẫu nhiên mà những<br />
lãnh tụ cộng sản Trung Quốc ngày nay<br />
không ít người xuất thân là kỹ sư thủy<br />
điện như Lý Bằng, Hồ Cẩm Đào, trong<br />
khi Giang Trạch Dân, Chu Dung cơ lại<br />
là kỹ sư điện còn Ôn Gia Bảo là kỹ sư<br />
địa chất, toàn là những kỹ thuật dính<br />
dáng với việc đắp đập để làm điện.<br />
Lịch sử Trung Quốc gắn liền với<br />
thành tích “trị thủy” của các hoàng đế<br />
xưa, trong đó người khai sinh là Hạ<br />
Vũ, trị vì từ 2205 đến 2198 trước Công<br />
Nguyên (BC). Để mường tượng ra mốc<br />
thời gian này thì cần nhớ là theo truyền<br />
thuyết của Việt Nam, Vua Hùng thứ nhất<br />
lên ngôi vào năm 2879 BC.<br />
Hạ Vũ trị vì trong thời “tiền sử” của<br />
Trung Quốc, tức thời nước này chưa biết<br />
viết sử nên chỉ được đời sau nhắc nhở<br />
qua những câu chuyện truyền khẩu, sau<br />
được Tư Mã Thiên (145 - 86 BC), tập<br />
hợp lại trong bộ Sử ký. Vũ cùng hai vị<br />
tiền bối là Nghiêu, Thuấn được dựng<br />
thành hình mẫu tiêu biểu của những bậc<br />
minh quân thời kỳ đầu Thượng cổ của<br />
Trung Hoa.<br />
Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên thì<br />
cha của Vũ là Cổn, được vua Nghiêu<br />
giao trọng trách khắc chế lũ lụt nhưng<br />
thất bại. Mất đến 9 năm để xây dựng hệ<br />
thống đê điều và đập nước dọc theo bờ<br />
sông, Cổn vẫn không thể kiểm soát lũ lụt<br />
nên bị người kế tục vua Nghiêu là Thuấn<br />
xử tử. Kế tục công việc của cha, Vũ hiểu<br />
tại sao cha mình thất bại nên thay vì đắp<br />
đập ngăn sông, ông ta việc xây dựng một<br />
hệ thống kênh mương thoát nước, đưa<br />
nước lũ vào các cánh đồng cũng như nạo<br />
vét phù sa bồi đắp ở đáy sông để khơi<br />
thông dòng chảy.<br />
Công trình này kéo dài 13 năm và<br />
mang lại sự thịnh vượng của Trung<br />
Quốc trên vùng châu thổ sông Hoàng<br />
Hà, biến nó thành cái nôi của nền văn<br />
minh Trung Quốc. Trước kỳ tích này,<br />
Vua Thuấn đã chọn Vũ làm người nối<br />
ngôi và sau đó chính Vũ lập ra nhà Hạ,<br />
trở thành ông vua đầu tiên đặt ra lệ “cha<br />
truyền con nối”. Tên Vũ lưu truyền hậu<br />
thế, được lịch sử Trung Quốc gọi là Đại<br />
Vũ trị thủy.<br />
Nếu Hoàng Hà là con sông lớn thứ<br />
hai thì Dương Tử (Yangtze) hay Trường<br />
Giang mới là con sông lớn nhất Trung<br />
Quốc. Ai “trị” được con sông này, kẻ đó<br />
sẽ đi vào lịch sử Trung Quốc như một<br />
“Đại Vũ” thứ hai, thậm chí còn hơn cả<br />
“Đại Vũ trị thủy”.<br />
Vậy mới có Tam Hiệp.<br />
Tham vọng và tranh cãi<br />
Tham vọng đập Tam Hiệp nảy sinh<br />
từ năm 1919 dưới thời Trung Hoa Quốc<br />
Dân Đảng. Lúc đó Tôn Trung Sơn mơ<br />
làm một Đại Vũ thứ hai qua việc xây<br />
dựng một con đập 30 triệu mã lực trên<br />
sông Trường Giang. Tuy nhiên đó chỉ là<br />
mơ thôi vì Quốc Dân Đảng Trung Quốc<br />
đang có chiến tranh với Nhật và cả Đảng<br />
Cộng sản Trung Quốc. Mà giả sử không<br />
có chiến tranh thì lúc đó Trung Quốc<br />
cũng không có tiền, không có năng lực<br />
chuyên môn.<br />
Đến năm 1953 Mao Trạch Đông mới<br />
làm ra lệnh nghiên cứu tính khả thi. Hai<br />
năm sau dự án được thiết lập kế hoạch<br />
chi tiết và từ đây đã gây tranh cãi.<br />
Theo giới chuyên môn thì Trung<br />
Quốc cần phải xây dựng các đập nhỏ<br />
hơn trước cho đến khi có đủ năng lực tài<br />
chính và kỹ thuật với dự án tầm cỡ và<br />
đầy tốn kém này. Trong khi đó các giới<br />
chức tỉnh Tứ Xuyên thì chống lại việc<br />
xây dựng do Tứ Xuyên nằm ở thượng<br />
nguồn sẽ phải gánh chịu nhiều hậu quả<br />
trong khi tỉnh Hồ Bắc ở hạ nguồn sẽ<br />
nhận được nhiều lợi ích.<br />
Nhưng Mao thì nhắm đến mục tiêu<br />
chính trị: Đảng cộng sản đưa Trung<br />
Quốc chiếm vị trí “nhất thế giới” trên<br />
nhiều mặt và ở đây là một “đập thủy<br />
điện lớn nhất thế giới”.<br />
Tuy nhiên lúc đó Mao chú ý đến sông<br />
Hoàng Hà hơn, là cái nôi của văn minh<br />
Trung Quốc như đã nói ở trên. Ngay sau<br />
khi trở về Bắc Kinh nắm quyền năm<br />
1949, Mao đã “phát động” chiến dịch<br />
chinh phục thiên nhiên bằng các đập<br />
thuỷ điện và cơ quan tuyên truyền của<br />
đảng đã nói về công cuộc trị thuỷ này<br />
như là trận đấu với Long vương ở đó các<br />
công trình kỹ thuật sẽ “đánh vảy, chặt<br />
vuốt và bẻ răng của con rồng độc ác<br />
hằng gây lũ lụt”.<br />
Thế rồi thảm họa kinh tế từ chương<br />
trình Đại nhảy vọt vào năm 1960 đã<br />
chấm dứt toàn bộ công việc chuẩn bị tại<br />
Tam Hiệp. Năm 1963 Bắc Kinh đưa ra<br />
chính sách hồi phục kinh tế bằng các xây<br />
dựng “mặt trận thứ ba” của kỹ nghệ tây<br />
nam Trung Quốc, do đó cần điện lực và<br />
cần đến Tam Hiệp. Nhưng Cách mạng<br />
văn hóa Trung Quốc nổ ra năm 1966<br />
khiến công việc này ngựng trệ.<br />
Cải cách kinh tế vào thập niên 1980<br />
dẫn đến nhu cầu điện tăng cao và năm<br />
1979 Quốc vụ viện đã phê chuẩn việc<br />
xây dựng năm 1979 để rồi bị chỉ trích<br />
dữ dội vì không tiến hành một nghiên<br />
cứu thấu đáo nào về tác động xã hội hay<br />
môi trường. Để xoa dịu, năm 1982 chính<br />
quyền tiến hành nghiên cứu “tiền khả<br />
thi” nhưng khi kết thúc vào năm 1983<br />
thì cũng bị tẩy chay, phản đối, nhiều<br />
khoa học gia không chịu ký viện lẽ đó là<br />
một báo cáo láo, đã trình bày sai sự thật<br />
về các lợi ích môi trường thu, đánh giá<br />
không đúng phạm vi ảnh hưởng tới môi<br />
trường cũng như thiếu các giải pháp cụ<br />
thể cho các lo ngại về môi trường.<br />
Năm 1991, giáo sư vật lý Tiền Vĩ<br />
Trường (Qian Weichang) đăng một bài<br />
báo cho biết, nguy hại khi đập Tam Hiệp<br />
bị vỡ sẽ làm 600 triệu người vùng hạ<br />
lưu bị tràn ngập nước, hàng trăm triệu<br />
người sẽ rơi vào đường cùng. Ông cũng<br />
cho rằng đập Tam Hiệp sẽ là mục tiêu<br />
hàng đầu nếu Trung Quốc có chiến tranh<br />
với kẻ thù bên ngoài. Với kỹ thuật hỏa<br />
tiễn hiện nay, việc phòng thủ đối với đập<br />
Tam Hiệp là điều không thể. Vì vậy ông<br />
đề nghị nhất định không được khởi công<br />
dự án Tam Hiệp, vì con đập này sẽ trở<br />
thành điểm yếu an ninh nguy hiểm.<br />
Nhưng đập vẫn cứ xây với “quyết<br />
tâm” của nguyên thủ tướng Lý Bằng,<br />
xuất thân là một kỷ sư thủy điện tốt<br />
nghiệp tại Nga.<br />
Phe bênh cho rằng dự án sẽ giúp kiểm<br />
soát lũ dọc hai bên sông Trường Giang,<br />
thúc đẩy thương mại nội địa và cung cấp<br />
phần lớn điện năng cho miền trung đại<br />
lục. Phe chống thì lo lắng nguy cơ vỡ<br />
đập và hậu quả khủng khiếp của nó, về<br />
việc khoảng 19 triệu dân sống dọc hai<br />
bên sông mất chỗ ở, hơn nữa việc tích tụ<br />
một lượng nước khổng lồ như thế sẽ gây<br />
ra động đất và sạt lở địa hình - những<br />
nguy cơ vốn tăng dần theo thời gian.<br />
Các luật gia về nhân quyền đã chỉ<br />
trích kế hoạch tái định cư. Các nhà khảo<br />
cổ học cũng e ngại do sự nhấn chìm của<br />
một lượng lớn các di tích lịch sử và mất<br />
đi của một trong những kỳ quan đẹp nhất<br />
thế giới. Bên ngoài, giới sinh thái quốc<br />
tế cũng phản đối gay gắt hơn.<br />
Trước áp lực này, tháng Ba năm 1980<br />
Quốc vụ viện tuyên bố gác lại kế hoạch<br />
trong 5 năm. Tuy nhiên, sự kiện Thiên<br />
An Môn từ tháng Tư đến tháng Sáu 1989<br />
làm thay đổi tất cả. Sau khi ra lệnh trấn<br />
áp sinh viên tại Thiên An Môn, nguyên<br />
Thủ tướng Lý Bằng - người chủ trương<br />
xây đập - ra lệnh trấn áp những kẻ phản<br />
đối Tam Hiệp, kết án họ thiển cận hay có<br />
ý đồ làm suy yếu chính quyền, tiếp tay<br />
các “thế lực thù địch, phản động”.<br />
Xem ra công trình này cũng gây tranh<br />
cãi tương tự dự án bauxit tại Việt Nam.<br />
Bằng tất cả mưu chước của mình, Lý<br />
Bằng đã xông xáo vận động và cuối cùng<br />
ngày 3.4.1992 Quốc hội Trung Quốc<br />
thông qua dự án với 1767 phiếu thuận,<br />
177 phiếu chống và 664 phiếu trắng.<br />
Đây là điều chưa từng xảy ra tại quốc<br />
hội các nước cộng sản, luôn có “truyền<br />
thống” ủng hộ các nghị quyết của đảng<br />
và nhà nước ít nhất 99%!<br />
Đáng chú ý hơn, trong lễ khởi công<br />
năm 1993, giới quan sát lưu ý rằng<br />
nguyên Chủ tịch Giang Trạch Dân - một<br />
kỹ sư cơ điện - đã không xuất hiện cùng<br />
Lý Bằng.<br />
Đến năm 20<strong>06</strong> thì đập hoàn tất.<br />
Tam Hiệp ngày nay<br />
Đập nằm ỏ phía tây thành phố Nghi<br />
Xương thuộc địa phận tỉnh Hồ Bắc..<br />
Đập này chắn ngang sông Dương Tử<br />
(Yangtze) hay Trường Giang là con sông<br />
dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế<br />
giới sau sông Ninle ở Châu Phi, sông<br />
Amazon ở Nam Mỹ.<br />
Trường Giang dài khoảng 6385<br />
km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc<br />
(Thanh Hải) và chảy về phía đông đổ ra<br />
Biển Hoa Đông. Sông này được coi như<br />
điểm phân chia giữa hai miền Hoa Bắc<br />
và Hoa Nam Trung Quốc và cùng với<br />
Hoàng Hà, Trường Giang là sông quan<br />
trọng nhất trong lịch sử, văn hóa, và kinh<br />
tế của Trung Quốc. Đồng bằng châu thổ<br />
Trường Giang màu mỡ tạo ra 20% GDP<br />
của Trung Quốc.<br />
Hồ chứa của đập nhấn chìm một khu<br />
vực trải dài đến 600km về phía thượng<br />
nguồn, cho phép tàu hàng tải trọng lớn<br />
di chuyển 2,250km từ biển Hoa Đông<br />
(cảng Thượng Hải) đến tận thành phố<br />
Trùng Khánh.<br />
Đập được làm từ bê tông và thép, có<br />
chiều dài 2355m và đỉnh đập cao 185<br />
mét trên mực nước biển. Công trình đã<br />
sử dụng 27.2 triệu mét khối bê tông (chủ<br />
yếu cho thành đập), 463,000 tấn thép (đủ<br />
xây 63 tháp Eiffel), đào 102.6 triệu mét<br />
khối đất. Thành đập cao 181 mét so với