3273 06-11-2020
http://vietluan.com.au
http://vietluan.com.au
- No tags were found...
You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
* TRANG 50 - SỐ <strong>3273</strong> - THỨ SÁU (Friday, November 6, <strong>2020</strong>)<br />
Mùa dịch, đọc “Đi, Đọc và<br />
Viết” của Phạm Xuân Đài<br />
Lê Hữu<br />
“<br />
Đi đâu? Đọc gì? Viết gì?” người<br />
đọc chắc sẽ tự hỏi vậy khi cầm trên<br />
tay tác phẩm mới nhất của nhà văn Phạm<br />
Xuân Đài.<br />
Đi, Đọc và Viết (*), nghe như khẩu<br />
hiệu giục giã hay tiếng gọi lên đường.<br />
“Đi với tôi đến chốn trời xa!…”<br />
“Chốn trời xa” ấy là Paris, là Rome,<br />
là Tokyo, Amsterdam, Mạc Tư Khoa<br />
hay Bắc Kinh… những xứ sở, những<br />
địa danh nào nhà văn từng đặt chân tới.<br />
Trong tuyển tập này ông chỉ ghi xuống<br />
vài chuyến đi trong số ấy và chừng đó<br />
cũng đủ lấy hết một nửa bề dày cuốn<br />
sách ngót 400 trang. Tuyển tập gồm ba<br />
phần, ngoài phần đầu “Du Ký” ấy, hai<br />
phần còn lại là “Giới Thiệu Tác Phẩm –<br />
Tác Giả” và “Tạp Bút”.<br />
Trên hết, vẫn là “đi”. Chỉ vì “đọc”,<br />
trong một nghĩa nào đó cũng là “đi”,<br />
cũng là “những cuộc thám hiểm những<br />
cái mà mình chưa biết”, nói như tác giả<br />
trong “Lời nói đầu” sách này. “Đọc” là<br />
đi vào thế giới của tác phẩm, tác giả ấy.<br />
Nhà văn từng có những chuyến đi theo<br />
cách ấy, như đã từng “Theo chân Phạm<br />
Duy một đoạn đường” hay từng “Cùng<br />
Đinh Cường đi vào cõi tạo hình”, là<br />
những bài nhận định về âm nhạc và hội<br />
họa của ông (tác giả không đưa vào sách<br />
này). “Đi” hay “đọc”, cách nào thì cũng<br />
là đi. Những chuyến đi như thế được ông<br />
ghi xuống những trang sách, đặc biệt lôi<br />
cuốn theo cách kể của một người kể<br />
chuyện có duyên.<br />
Quê người quê nhà, phố cũ hè xưa<br />
Những du ký vẫn thường có sức thu<br />
hút, nhất là được viết từ tác giả Hà Nội<br />
Trong Mắt Tôi, từng được nhiều người<br />
đọc yêu thích. Tác phẩm ấy vừa là tùy<br />
bút vừa là du ký, hai thể loại văn học vốn<br />
là sở trường và thế mạnh của nhà văn.<br />
Du ký có lẽ vì vậy được tác giả đưa lên<br />
phần đầu sách với chuyến du hành đầu<br />
tiên là “Đi Tây”.<br />
Những ai đi Tây đều có quyền tự<br />
hào rằng mình đã từng… đi Tây, từng<br />
đặt chân đến kinh đô ánh sáng hay kinh<br />
thành hoa lệ của xứ sở văn minh, con<br />
người lịch lãm, chỉ vì theo quan niệm<br />
“truyền thống” của người Việt mình, như<br />
tác giả cho biết, đi nước ngoài thường<br />
được hiểu là đi Tây đi Tàu, tưởng như<br />
chỉ cần đặt chân được lên hai nước ấy là<br />
đủ để thỏa mãn giấc mộng hải hồ.<br />
“Lần đầu tiên đến đất Pháp,” tác giả<br />
viết, “tôi gặp Paris với một nỗi sung<br />
sướng trẻ thơ và lãng mạn. Với chuyến<br />
đi này, tôi bắt đầu cuộc hành trình vào<br />
niềm mơ ước có từ thời ngồi trên ghế<br />
nhà trường của tôi.”<br />
Thử đọc một, hai đoạn “Paris trong<br />
mắt tôi”:<br />
Paris đã bày ra trước mắt tôi hơn<br />
là những gì tôi tưởng tượng rất nhiều,<br />
uy nghi hơn, rực rỡ hơn và cũng thâm<br />
trầm hơn…Tôi đã sững sờ với kiến trúc<br />
của Paris. Đó là vẻ đẹp. Đó là hình ảnh<br />
của tư tưởng và tinh thần lớn lao, hoành<br />
tráng. Nhìn kiến trúc ấy mình thấy như<br />
đứng trước cái thăm thẳm của thời gian<br />
và lịch sử con người với các thành tựu<br />
to lớn cũng như các nỗi niềm mơ mộng<br />
của nó…<br />
Nước Pháp là một nước nghệ sĩ, và<br />
Paris là nơi kết tinh nghệ sĩ cao độ.<br />
Cả Paris như một ngôi đền thiêng thờ<br />
phụng từ cái đẹp rất thượng giới của tư<br />
tưởng sau các bức tường đại học đến cái<br />
đẹp trần thế của một cô gái đứng đường,<br />
từ các tác phẩm bất hủ cổ kim trong điện<br />
Louvre đến các bức vẽ của những nghệ<br />
sĩ vô danh bên bờ sông Seine.<br />
Tương tự, những Bắc Kinh hay Mạc<br />
Tư Khoa “trong mắt tôi” được ghi chép<br />
từ óc quan sát thật tinh tường, từ trực giác<br />
thật tinh tế và những cảm xúc dạt dào.<br />
Điều bất ngờ, đan xen vào những dòng<br />
bút ký ấy thỉnh thoảng lại hiện lên những<br />
địa danh Huế, Sài Gòn, Hà Nội và những<br />
góc phố, những tên đường quen thuộc.<br />
Đi giữa lòng phố xá Paris mà ngỡ<br />
như đang thả bộ trên những đường phố<br />
lớn Sài Gòn. Đứng giữa lòng cố đô<br />
Petersburg mà ngỡ như về lại với kinh<br />
thành Huế. Thật lạ, một chiều mưa dừng<br />
chân đốt thuốc ở một góc khuất bên hè<br />
phố bất chợt thấy mình đang đứng ở một<br />
nơi chốn nào rất quen thuộc. Quá khứ<br />
dội về như một ánh chớp trong màn mưa<br />
nhạt nhòa.<br />
Đây là “mưa Sài Gòn, mưa Paris”:<br />
Buổi chiều mưa hôm ấy tôi đã gặp lại<br />
Sài Gòn ở giữa Paris. Thì ra tôi cũng<br />
chưa mất hẳn Sài Gòn trên đời này. Tôi<br />
đã sống ở Sài Gòn bao nhiêu mùa mưa<br />
nhỉ? Chẳng còn nhớ là bao nhiêu, nhưng<br />
hình ảnh Sài Gòn dưới cơn mưa rạt rào<br />
thì ai đã sống ở Sài Gòn khó lòng quên<br />
được. Thời còn trọ học, trên căn gác học<br />
trò nhìn mưa rơi phơi phới trên những<br />
mái tôn, lòng dịu lại với không khí mát<br />
lạnh, nhớ xa xôi đến một khuôn mặt, một<br />
mái tóc… (Đi Tây)<br />
Còn đây là “mưa Sài Gòn, mưa Mạc<br />
Tư Khoa”, mưa dầm dề như “mưa trên<br />
phố Huế”, mưa lất phất như mưa trên núi<br />
đồi Đà Lạt.<br />
Tự nhiên tôi có cảm tưởng đây là một<br />
cảnh mình đã trải qua, lâu rồi. Ở đâu<br />
nhỉ, phải chăng tôi đã đứng dưới một<br />
mái hiên như thế này một ngày mưa dầm<br />
ở Huế khi còn ở tuổi học trò, hay trong<br />
cơn mưa rào rạt tại một tỉnh miền Tây,<br />
Cần Thơ hay Châu Đốc, và chắc chắn<br />
nhiều lần trước cửa cà phê Tùng ở Đà<br />
Lạt nhìn mưa bay mé đồi bên kia… (Đến<br />
Với Nước Nga).<br />
Nhà văn nhìn đâu đâu cũng thấy<br />
những phố cũ hè xưa, những nơi chốn<br />
thân quen, từ thành phố đến ngoại ô<br />
xa vắng. Những hình bóng xa xăm của<br />
đường xưa lối cũ nằm ở một góc khuất<br />
nào trong tiềm thức, chỉ chực chờ cơ hội<br />
là xuất đầu lộ diện.<br />
Nơi đây không những tôi bắt gặp Sài<br />
Gòn mà còn bắt gặp chính tôi, gã thiếu<br />
niên của cuối thập niên 50, chàng thanh<br />
niên của thập niên 60, trong một buổi<br />
chiều mưa, đứng giữa Sài Gòn, đã nhìn<br />
thấy hàng cây lá bên đường ướt nước,<br />
mặt nhựa tung bọt trắng, người qua lại<br />
trong lớp áo mưa, và bên kia đường,<br />
chỗ gần tòa Đô Chánh, có tiệm may Aux<br />
Ciseaux d’Art. Tôi của buổi chiều nay<br />
giữa Paris trong cơn xuất thần của tâm<br />
cảm đang về thăm lại Sài Gòn và nhìn<br />
thấy tôi của ba thập niên trước đang<br />
đứng trước quán La Pagode... (Đi Tây)<br />
Nhìn mưa phương này nhớ mưa<br />
phương nào. Những cơn mưa chiều nơi<br />
xứ lạ đánh thức những nhớ thương dịu<br />
dàng và những ngày vui mơ hồ trong trí<br />
tưởng. Du ký của Phạm Xuân Đài mang<br />
một phong cách riêng, nhiều cảm xúc,<br />
nhiều thi vị của những hoài niệm đẹp và<br />
người đọc dễ chia sẻ cùng ông một mối<br />
cảm hoài.<br />
Tấm ảnh tác giả ngồi lặng lẽ nơi hàng<br />
hiên của một quán cà-phê vỉa hè ở Paris<br />
nhìn người qua lại trên đường phố với<br />
đôi mắt mơ màng như thả hồn về những<br />
phố cũ hè xưa là một ảnh đẹp.<br />
Không hẳn “chốn quê hương là đẹp<br />
hơn cả”, thế nhưng dẫu có đi khắp<br />
năm châu bốn bể, có phiêu bạt mãi tận<br />
phương trời nào thì cái tâm tình của<br />
nhà văn, người từng có bề dày kỷ niệm<br />
của biết bao năm với nơi chốn ấy, cũng<br />
không khác nào “Hạt bụi nghiêng mình<br />
nhớ đất quê” trong câu thơ Sơn Nam.<br />
Những đoạn hay nhất trong loạt du ký<br />
của Phạm Xuân Đài, theo nhận xét của<br />
riêng tôi, là những đoạn “tức cảnh sinh<br />
tình”. Những đoạn này mang phong vị<br />
văn chương riêng biệt tạo nhiều hứng<br />
thú, gieo vào lòng người đọc nhiều cảm<br />
xúc hơn hết và cũng định hình phong<br />
cách, tâm hồn con người nhà văn.<br />
Duới tàn cây cổ thụ trong cánh rừng<br />
thưa, tác giả đứng lặng yên bên nấm mộ<br />
của văn hào Léon Tolstoï. Nấm mộ thấp<br />
nhỏ, tầm thường, chỉ là “sè sè nấm đất<br />
bên đường”, cũng chẳng có tấm mộ bia<br />
nào ghi tên tuổi người nằm dưới lòng đất<br />
ấy. Tác giả viết:<br />
Đứng bên mộ Tolstoi tôi cảm thấy<br />
lòng thanh thản như đối diện với một<br />
cái gì lớn lao mà giản dị, như kiểu gần<br />
một vị chân tu. Dưới tàn cây gió thổi bên<br />
cạnh nấm đất mộc mạc, tôi như tiếp xúc<br />
được toàn bộ tính chất sâu xa, khoan<br />
dung, hồn hậu của Tolstoi cũng như bao<br />
tác giả Nga khác, họ đã sinh ra, viết<br />
lách trên mảnh đất này mà tác phẩm của<br />
họ gần gũi với cả nhân loại. Đó là một<br />
khoảnh khắc lạ lùng nhất trong đời tôi.<br />
Một khoảnh khắc thiên thu… (Đến Với<br />
Nước Nga)<br />
Biết bao người sẵn lòng đánh đổi tất<br />
cả để có được cái “khoảnh khắc thiên<br />
thu” ấy. Tolstoï, nhà văn lớn lao dường<br />
ấy mà còn mộc mạc, đơn sơ đến vậy há<br />
người phàm bé mọn, dung tục lại còn<br />
mải mê chuyện được mất, hơn thua.<br />
Một đoạn “tức cảnh sinh tình” khác,<br />
trong chuyến “Đi Tàu” nhà văn tìm đến<br />
ngôi cổ tự Hàn San ở Tô Châu chỉ vì<br />
cảm khái câu thơ nổi tiếng trong bài thơ<br />
“Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế,<br />
“Thuyền ai đậu bến Cô Tô / Nửa đêm<br />
nghe tiếng chuông chùa Hàn San”.<br />
Lạ lùng làm sao, một ngày đầu thế<br />
kỷ 21, tôi, một người Việt Nam đã đến<br />
đây, đã cung kính cầm cái chày vồ cũ<br />
kỹ giộng nên mấy tiếng chuông. Tiếng<br />
chuông tôi đánh giữa một buổi chiều<br />
trong cái thành phố Tô Châu đang tấp<br />
nập xe cộ và người buôn bán chắc sẽ<br />
chẳng vang đi xa, nhất là chẳng vào<br />
thẳng cõi lòng ai như tiếng chuông lúc<br />
nửa đêm bay đến chiếc thuyền đang neo<br />
ở bến Phong Kiều cách đây mười ba thế<br />
kỷ. Nhưng dù sao tôi cũng đã có duyên<br />
nghe nó, và hơn nữa, tạo nên nó, cũng<br />
như tôi đã có duyên đứng sau chùa nhìn<br />
ra con sông lững lờ trôi như vẫn trôi từ<br />
nghìn xưa đến giờ…<br />
Gióng lên tiếng chuông của ngày nay<br />
cũng là chỉ để nghe lại âm thanh của ngày<br />
xưa. Nhìn dòng sông, nhìn cây cầu cũng<br />
là để từ đó tưởng tượng ra hình bóng