You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 1<br />
<strong>The</strong><br />
<strong>Firmament</strong><br />
Literary Journal<br />
Th‰ H»u Væn ñàn<br />
January 2011
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 2<br />
Contents<br />
To <strong>The</strong> Reader 5<br />
Sóng Việt Ðàm Giang. Franz Kafka: Một Nhà Văn Khác Đời? 6<br />
Đàm Trung Pháp. Đọc Lại Truyện Kiều Để Yêu Thêm Tiếng Việt 15<br />
Phạm Trọng Lệ. Vì Em Sống Mãi Trong Tình Thơ Ta 22<br />
LệMai-Thanh Trà Tiên Tử. Chén Trà Thu Hay Nhàn Đàm Chữ Tín 26<br />
Dã Thảo. Trở Về Phố Học Quartier Latin 29<br />
Phí Minh Tâm. Bá Nha Tử Kỳ 33<br />
Guy de Maupassant. Marroca 37<br />
Minh Thu (tr.). Marroca 42<br />
Petrarch. Sonnets. A.S. Kline, Translator 46<br />
David Lý Lãng Nhân. (tr.). Tình Ca 46<br />
Sonnet 15 - Tình Ca 15 48<br />
Sonnet 18 - Tình Ca 18 49<br />
Sonnet 19 - Tình Ca 19 49<br />
Sonnet 20 - Tình Ca 20 50<br />
Sonnet 22 - Tình Ca 22 50<br />
Bính Hữu Phạm. Chi (Vietnamese Version) 52<br />
Franz Kafka. <strong>The</strong> Metamorphosis. David Wyllie, Translator 58<br />
David Lý Lãng Nhân (tr.). Hoá Thân, Phần I 85<br />
Sóng Việt Ðàm Giang. Du Thuyền Oasis of the Seas 94<br />
Guy de Maupassant. Une aventure parisienne 101<br />
Minh Thu. (tr.). Cuộc Phiêu Lưu Ở Paris 105<br />
Poetry Corner 110<br />
Minh Thu. Hai Vùng Trời Một Tâm Sự 110<br />
Minh Thu. Hải Đảo Buồn 111<br />
Minh Thu. Trăng Hải Đảo 111<br />
Robert Frost. Fire and Ice 112<br />
David Lý Lãng Nhân (tr.). Lửa Hồng Và Băng Giá 112<br />
William Blake. <strong>The</strong> Tyger 113<br />
David Lý Lãng Nhân (tr.). Con Hổ 114<br />
LệMai-Thanh Trà Tiên Tử. Tinh Sử Đoá Hoa Thu 115<br />
TMCS (tr.). An Autumn Love Story 116<br />
LệMai-Thanh Trà Tiên Tử. Tinh Là Huyễn Mộng 117<br />
Sóng Việt Ðàm Giang. Từ Lúc Xa 118<br />
Sóng Việt Ðàm Giang. Nhớ Không Anh/Em 119<br />
Dã Thảo. Trở Về Phố Học 120<br />
Nguyên Sa. Đợi Khách 122<br />
Diệp Trung Hà (tr.). Waiting for Customers 122<br />
Diệp Trung Hà. Nhớ Bạn Xưa 123<br />
Xuân-Linh Trần. Thôn Vĩ Dạ 124<br />
David Lý Lãng Nhân. <strong>The</strong> Man from the Plantation 125<br />
Haiku Poetry 128<br />
Kim Châu. Nhớ Miền Đông 128<br />
Kim Châu. Băng Tuyết 128<br />
Kim Châu. Hừng Đông 129
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 3<br />
Kim Châu. Tĩnh Lặng 129<br />
Kim Châu. Núi Non Bộ 130<br />
Kim Châu. Hương Trà 130<br />
Minh Thu. Giả Từ 131<br />
Minh Thu. Sầu Đông 131<br />
Diệp Trung Hà. A thought, once 132<br />
Diệp Trung Hà. Longing 132<br />
David Lý Lãng Nhân. Haiku Mùa Đông 133<br />
Chân Tịnh Nhãn – Nguyễn Văn Kỷ Cương. <strong>The</strong> Loving Hug 134<br />
Hoàng Tâm (tr.). <strong>The</strong> Loving Hug 134<br />
Sóng Việt Ðàm Giang. Thần Mercury-Thần Hermes 136<br />
Kim Châu. Chuyện Cổ Tich: Người Tiều Phu Hoá Nai 142<br />
David Lý Lãng Nhân. <strong>The</strong> Magic Dot 144<br />
Molière. Le Misanthrope (Actes I et II) 147<br />
Minh Thu (tr.). Kẻ Yếm Thế (Màn I và II) 185<br />
TMCS. Paris soir-Chiều Paris (Sheet Music) 206<br />
Guy de Maupassant. Réveil 207<br />
Minh Thu (tr.). Bừng Tỉnh 209<br />
Dã Thảo. Frédéric Chopin: Một Định Mệnh Siêu Phàm, Một Luồng Gió Lãng Mạn 213<br />
David Lý Lãng Nhân. <strong>The</strong> Seeds of Time 218<br />
Minh Thu. Án Mạng Thứ Bảy Mưa Dầm 219<br />
Minh Thu. Murder on a Wet Saturday 223<br />
Dã Thảo. Tinh Của Cỏ 228<br />
Cho Con 24 Tuổi 228<br />
Một Lần Sang Sông 229<br />
Æsop. Fables : 231<br />
<strong>The</strong> Fox and the Grapes 231<br />
<strong>The</strong> Goose that Laid the Golden Eggs 231<br />
<strong>The</strong> Cat and the Mice 231<br />
Thomas D. Le. Greek Tragedy:<strong>The</strong> Role of the House of <strong>The</strong>bes 232
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 4<br />
Gustave Moreau—Oedipus and the Sphinx
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 5<br />
To <strong>The</strong> Reader<br />
Dear Friend and Reader,<br />
When Gregor Samsa woke up in the morning, he found himself transformed into a monstrous<br />
vermin. Thus began a novella by Franz Kafka which, along with some of his other short novels, has<br />
added the term Kafkaesque to the language of literature. Sóng Việt Ðàm Giang shows you what some<br />
people think about <strong>The</strong> Metamorphosis, and David Lý Lãng Nhân gave a Vietnamese translation of<br />
Part I. You, of course, may interpret it any way you want, for the beauty of literature resides in the<br />
well-worn adage that a work of fiction is never finished as long as there are readers.<br />
A masterpiece of Vietnamese literature, Truyện Kiều by Nguyễn Du is cherished by everyone<br />
for the beauty of its language and its exposition of the conflict between talent and fate, which defines<br />
the human condition. Đàm Trung Pháp exhorts us to peruse this narrative to gain a deeper appreciation<br />
of the genius of the Vietnamese language.<br />
For those who like lyric poetry, Petrarch's sonnets still reverberate with charm, tenderness, and<br />
delicacy of feelings. In lieu of an analysis, David Lý Lãng Nhân makes a selection of these canzioneri<br />
that he hopes will enchant you in the coming months.<br />
Phạm Trọng Lệ studies the metaphors in the verses of poets across the centuries, and<br />
complements them with those that animate the contemporary poet Du Tử Lê, whose lyrics have been<br />
set to music.<br />
Our conteurs continue to amaze and delight: Bính Hữu Phạm with his Vietnamese version of<br />
Chi, Minh Thu with a murder story, David Lý Lãng Nhân with a heart-warming story of a violin, Kim<br />
Châu with a fairy tale, Hoàng Tâm with a story of a hug. Minh Thu adds French flavor to short fiction<br />
with her translations of the delightful vignettes of Guy de Maupassant.<br />
Dã Thảo peers into the love life of George Sand, this time with the romantic Frédéric Chopin,<br />
whose grave site at Père Lachaise Cemetery is perennially adorned with fresh flowers while that of her<br />
other lover Alfred de Musset languishes in obscurity near the graveyard's entrance. As a Parisian of<br />
long standing, she takes us on a brief tour through the Quartier Latin of her younger days. She wistfully<br />
sings of this effervescent district of learning in the heart of the city which she calls home.<br />
Our scholar of Chinese classics, Phí Minh Tâm recounts the famous tale of friendship of Bá<br />
Nha and Tử Kỳ while his colleague LệMai delves into the meaning of the term loyalty.<br />
For the first time, comedy enters the world of <strong>Firmament</strong>. Alceste is livid because his erstwhile<br />
friend Philinte does not even know the name of the man he has just showered with all manner of<br />
fawning professions of friendship. <strong>The</strong> unabashed Philinte ought to die of pure shame, Alceste decrees.<br />
And so you are embarked on an adventure you'll never forget. Trust Minh Thu to bring Molière's <strong>The</strong><br />
Misanthrope to life with her Vietnamese version, and to fill you with bittersweet laughter.<br />
Our Poetry Corner and Haiku space resound again with the works of Minh Thu, Dã Thảo, Sóng<br />
Việt Ðàm Giang, David Lý Lãng Nhân, Kim Châu, Xuân-Linh Trần, LệMai, and Diệp Trung Hà. Let<br />
your heart fill with feelings and nostalgia, for love and for bygone days.<br />
In keeping with the introduction of drama, Thomas Le discusses the House of <strong>The</strong>bes and its<br />
role in Greek legends and theater.<br />
At the dawn of the New Year, we wish you and our contributors prosperity, health, and<br />
happiness. And remember to distribute <strong>Firmament</strong> as a prized gift to all. ■<br />
Thomas D. Le<br />
January 2011<br />
To join Thế Hữu Vǎn Ðàn, please link to: http://groups.yahoo.com/group/thehuuvandan/join<br />
Thế Hữu Vǎn Ðàn's web site: http://thehuuvandan.org.<br />
Send comments and contributions to thomasle22@yahoo.com.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 6<br />
Franz Kafka: Mt Nhà Væn Khác ñ©i?<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
Franz Kafka (1883-1924) Nhà bảo tàng Franz Kafka tại Prague<br />
Trong dịp đi Đông Âu mùa hè 2010, người viết có dịp thăm viếng thành phố Prague, Tiệp, nơi sinh<br />
của nhà văn Franz Kafka và thăm viếng vài địa danh liên quan đến Kafka như di tích lịch sử viện bảo<br />
tàng Kafka, hình tượng ông do Jaroslay Rona điêu khắc.<br />
Văn phẩm trên thế giới viết về Kafka như là một hiện tượng lạ. Kafka được biết như một nhà<br />
văn viết tiếng Đức gốc người Tiệp với nhiều tác phẩm mà lúc ông còn sống không được xuất bản. Một<br />
số tác phẩm của Kafka, được phát hành ngoài ý nguyện của ông, chứa những tư tưởng lạ kỳ của một<br />
nguời đàn ông sinh vào thế kỷ 20. Kafka cũng thường đau ốm bệnh tật liên miên và nhiều khi bị suy<br />
sụp tinh thần nặng nề. Điều này có ảnh hưởng rõ rệt trong nhiều tác phẩm của ông. Một trong những<br />
tác phẩm được biết đến nhiều nhất "Die Verwandlung" (1915) và được dịch sang Anh ngữ là <strong>The</strong><br />
Metamorphosis.<br />
Franz Kafka là ai?<br />
Franz Kafka sinh trưởng ở thành phố Prague nay thuộc Cộng Hoà Tiệp, nhưng ngày trước là thuộc một<br />
phần của Austro-Hungarian Empire (sụp đổ 1918 và Prague trở thành thủ đô của Czechoslovakia độc<br />
lập). Bố mẹ của Kafka thuộc thành phần khá giả. Mẹ Kafka là một người trong dòng dõi Do thái nói<br />
tiếng Đức và ảnh hưởng văn hóa Đức ở Prague. <strong>The</strong>o một vài tài liệu, bố Kafka, Herman được mô tả<br />
như một người độc đoán thường có nhiều xung khắc với người con trai duy nhất. Kafka có ba người chị<br />
em gái đều sau này chết trong trại tập trung Đức quốc xã.<br />
Kafka lớn lên trong bầu không khí có nhiều bất hòa trong gia đình và sự ruồng bỏ của xã hội mà<br />
Kafka đã có kinh nghiệm vì thuộc thành phần thiểu số Do-thái ở Prague. Khi còn trẻ, thái độ của Kafka<br />
với nguồn gốc Do-thái rất mơ hồ và Kafka đã bày tỏ ý nghĩa trong cuốn nhật ký của ông rằng ông
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 7<br />
không có điểm nào chung với cộng đồng Do-thái. Kafka học trường học Đức từ nhỏ đến lớn. Trong<br />
thời gian làm việc cho hãng bảo hiểm, Kafka bắt đầu viết tường trình về tai nạn kỹ nghệ cùng nguy<br />
hiểm cho sức khoẻ trong lúc làm việc, cùng viết chuyện ngoài giờ làm việc. Hầu hết chuyện của Kafka<br />
đều có một kết cuộc nửa vời để người đọc tự suy ngẫm và kết luận.<br />
Kafka làm việc trong ngành bảo hiểm (1907-1923) bắt đầu từ vị trí nhân viên văn phòng ở chi<br />
nhánh Prague của một công ty của Ý và sau đó làm cho Viện Bảo hiểm tai nạn cho công nhân của<br />
thành phố Prague.<br />
Trong cuộc sống tình cảm, Kafka thay đổi nhiều bạn gái, có nhiều cuộc tình, ba lần đính hôn rồi<br />
lại hủy bỏ. Năm 1912 Kafka làm bạn với một người đàn bà 24 tuổi mang tên Felice Bauer, cuộc tình<br />
kéo dài năm năm. Thời gian này là thời gian Kafka viết chuyện <strong>The</strong> Metamorphosis (Die<br />
Verwandlung). Felice sau đó sang Mỹ sinh sống và chết năm 1960.<br />
Đại chiến thứ nhất đã làm Kafka ngưng viết chuyện ngắn và tiểu thuyết nhưng vẫn tiếp tục viết<br />
thư và nhật ký.<br />
Felice Bauer Julie<br />
Milena Dora<br />
Năm 1914 Kafka viết cuốn chuyện thứ hai Der Prozess (<strong>The</strong> Trial) và chuyện ngắn In der<br />
Strafkolonie, chuyện ngắn này là một trong những chuyện đã đuợc phát hành khi Kafka còn sống. <strong>The</strong><br />
Trial viết về sự xử án một nhân vật mang tên Josef K. dù K chẳng mang tội gì. Chuyện ngắn In der<br />
Strafkolonies nói sự thật là chức năng của dụng cụ tra tấn, một máy đã giết nạn nhân bằng cách viết<br />
bản cáo trạng lên thân thể nạn nhân.<br />
Cũng giống như chuyện <strong>The</strong> Metamorphosis ngay câu mở đầu cho hay một ngày thức giấc<br />
Gregor thấy mình biến thành con bọ thì trong <strong>The</strong> Trial Kafka cũng bắt đầu bằng một câu như Josep K
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 8<br />
bị bắt giữ một buổi sáng dù Josep K không làm chi sai trái.<br />
Năm 1917 Kafka khám phá ra mình bị bệnh lao phổi, trong thời gian chữa trị Kafka làm bạn với<br />
Milena Jesensk, một văn sĩ trẻ. Không lâu sau đó, Milena rời Kafka. Sau khi chia tay với Kafka, Milena<br />
hoạt động chính trị, trở nên một nữ anh hùng Kháng chiến và sau đó chết trong trại tập trung vào năm<br />
1944. Tài liệu cho rằng Kafka đã chia tay với Milena vì Kafka có vấn đề trong chuyện ân ái (sợ hãi tình<br />
dục).<br />
Sau khi Kafka chết, Milena đã viết một bài phúng điếu nói rằng Kafka là một người nhìn quá rõ,<br />
sống quá khôn, và quá yếu đuối để chống trả, ông đã bị kết tội phải nhìn thế giới qua một cái nhìn bưng<br />
bít rõ ràng mà ông ta không chịu nổi nữa đến nỗi phải tự hủy diệt đến chết.<br />
Sau khi cuộc tình với Milena tan vỡ, Kafka viết cuốn tiểu thuyết chót <strong>The</strong> Castle.<br />
Kafka về hưu năm 1922 và sống đạm bạc với tiền hưu trí và trợ giúp đôi khi của bố mẹ. Năm<br />
1923 Kafka gặp Dora Dymant một người đàn bà 25 tuổi, thuộc Do thái Cơ đốc làm việc trong bếp một<br />
trại lễ. Năm 1924 sức khoẻ và tài chính suy sụp, Kafka dọn đến nhà dưỡng Kierling ở ngoài thành<br />
Vienna và sống với Dora.<br />
Kafka chết ngày 3 tháng 6, 1924. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng viết dở dang được phát hành năm<br />
1927 với đề tựa America.<br />
Thành phố Prague tuyên dương và vinh danh Kafka với một tượng điêu khắc bằng đồng, đó là tượng<br />
một người đàn ông đang đi bộ không có đầu với Kafka ngồi trên vai. Tượng do Jarolav Rona sáng tạo<br />
phỏng theo ý của câu chuyện Description of a Struggle. Tượng được đặt ở một con viên nhỏ nằm giữa<br />
Spanish Synagogue và nhà thờ Holy Spirit. Tượng được bảo trợ bởi Franz Kafka Society, một hiệp hội<br />
đuợc thành lập sau sự sụp đổ của chế độ Cộng sản năm 1989 với mục đích cổ võ di tặng của Kafka và<br />
những nhà văn Do-thái và Đức ở Prague.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 9<br />
Franz Kafka sống tại the House at the Có thời gian Kafka sống ở căn nhà phía sau<br />
Minute, gần Old Town Square, từ 1889 đến 1896. Nhà thờ Our Lady of Tyn<br />
Tấm bảng đồng đen ghi dấu nơi Franz Kafka ra đời ngày 3 tháng 7, 1883 (phía trên nơi bán rượu<br />
Batalion Schapps nằm tại góc phố Maislova và Kaprova, Prague). Căn nhà này đã bị phá bỏ vào năm<br />
1897-98, chỉ còn lại mặt tiền cửa chính như trong hình. Hình dưới bên trái là cầu Charles (xây năm<br />
1357), một cầu đi bộ nối liền Old Town với Lesser Town, thường được Kafka nhắc đến trong chuyện,<br />
thư, nhật ký của ông.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 10<br />
Cầu Charles nhìn xuống sông Vltava và biển quảng cáo Museum Kafka.<br />
Niên đại ký (Chronology) cuộc đời Kafka.<br />
1883 Franz Kafka ra đời ở Prague ngày 3 July (Czechoslovakia)<br />
1889-1895 Học trường tiểu học Đức.<br />
1893-1901 <strong>The</strong>o học trường prep school German State Gymnasium. Bắt đầu viết văn.<br />
1901-1906. Bắt đầu nghiên cứu văn chương Đức và Luật tại Đại học Ferdinand Kart ở Prague<br />
1902. Quen với Max Brod<br />
1904-1905: Viết Description of a Struggle<br />
1905-1906. Làm việc ở toà án về Criminal và Civil Law tại Prague<br />
1907-1908: Viết Wedding Preparations in the Country<br />
1908: Làm việc với Công ty bảo hiểm Tai nạn cho nhân viên làm việc<br />
1909: xuất bản hai phần cuốn Description of a Struggle<br />
1910 : Bắt đầu viết nhật ký và viết sơ khởi Amerika cùng đi du lịch Berlin và Pháp.<br />
1911: Nghiên cứu văn hoá Do thái và du lịch Thụy sĩ, Italy, và Pháp với Max Brod.<br />
1912: Quen biết và bắt đầu viết thường xuyên cho Felice Bauer ở Đức. Kafka viết <strong>The</strong> Judgement, <strong>The</strong><br />
Metamorphosis, và 7 chương đầu của Amerika.<br />
1913: Xuất bản sách đầu tiên Meditation, và sau đó <strong>The</strong> Stocker và <strong>The</strong> Judgement. Kafka đi Berlin<br />
thăm Felice Bauer, và du lịch Vienna, và Italy.<br />
1914: Viết Memoirs of the Kalda Railroad, và In the Penal Colony. Bắt đầu viết <strong>The</strong> Trial. Kafka đính<br />
hôn và rồi huỷ bỏ đính hôn với Felice Bauer trong cùng một năm 1914. Sau đó Kafka rời nhà bố mẹ,<br />
gặp Grete Bloch, và đi du lịch Germany.<br />
1915: Hoà giải với Felice Bauer, tiếp tục viết <strong>The</strong> Trial, nhận giải Fontane cho cuốn <strong>The</strong> Stocker. <strong>The</strong><br />
Metamorphosis được cho xuất bản, Kafka viết <strong>The</strong> Village Schoolmaster. Greta Bloch viết chuyện kể<br />
rằng có sanh một con trai với Kafka mà Kafka không hề hay biết.<br />
1917: Kafka và Bauer đính hôn lần thứ hai, nhưng sau 5 tháng lại hủy bỏ. Sau khi biết là bị bệnh lao<br />
phổi, Kafka nghỉ làm, dọn về quê sống với cô em tên Ottla một thời gian và viết nhiều chuyện ngắn<br />
1918: viết <strong>The</strong> Bucket -Rider. Trở về Prague, làm bán thời gian cho hãng bảo hiểm. Kafka gặp Julie<br />
Wohryzek. Do sức khoẻ suy thoái, Kafka phải dọn vào nhà dưỡng bệnh nhiều lần.<br />
1919: Kafka đính hôn với July Wohryzek nhưng rồi lại hủy bỏ vào cuối năm 1919. Viết Letter to His<br />
father, In the Penal Colony, A Country Doctor.<br />
1920: Nghỉ làm việc, gặp và yêu Milena Jesenská-Pollak, một nhà văn người Tiệp. Bắt đầu viết nháp<br />
<strong>The</strong> Castle.<br />
1921: Làm việc trở lại và xuất bản <strong>The</strong> Bucket Rider.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 11<br />
1922: Về hưu hoàn toàn và yêu cầu Max Brod hủy bỏ những công trình sáng tạo của mình sau khi chết.<br />
Kafka tiếp tục hoàn tất <strong>The</strong> Castle, viết A Hunger Artist, Investigations of a Dog, và On Parables.<br />
Kafka cắt đứt liên hệ với Milena.<br />
1923 Kafka về Berlin sống với người bạn gái mới Dora Dymant. Kafka viết <strong>The</strong> Burrow và Josephine<br />
the Singer.<br />
1924: Kafka trở về Prague. Chết ngày 3 tháng Sáu tại nhà dưỡng bệnh Kierling gần Vienna. Mộ chôn<br />
ngày 11 June trong nghĩa địa Do Thái ở Prague. Cuốn chuyện ngắn A Hunger Artist đuợc xuất bản sau<br />
khi Kafka chết.<br />
Hóa Thân (<strong>The</strong> Metamorphosis)<br />
Franz Kafka<br />
Ngoài bìa cuốn sách <strong>The</strong> Metamorphosis xuất bản lần thứ nhất vào năm 1916 là một hình minh họa của<br />
Ottoman Starke. Khi Kafka nghe nói Starke sắp vẽ hình bìa cho cuốn sách Kafka đã có yêu cầu: “Con<br />
bọ này không thể được vẽ nên hình. Nó không thể hoàn toàn được phô nhìn, ngay cả dù nhìn từ phía<br />
xa”. Chính vì lời yêu cần này mà Starke đã vẽ hình một người đàn ông đứng trước cửa phòng của nhân<br />
vật đã biến dạng thành con bọ. Người đàn ông này là Herr, người bố của nhân vật chính trong chuyện.<br />
“Khi Gregor Samsa thức giấc sau một giấc ngủ với những giấc mơ xáo trộn hắn nhận ra mình<br />
đã biến dạng thành một con bọ quái dị đang nằm trên giường.”<br />
Nhân vật chính<br />
Gregor Samsa- Người cung cấp tài chính cho gia đình, nhưng một ngày thức giấc thấy mình biến thành<br />
một con bọ quái dị có nhiều chân, lưng cứng, bụng to màu nâu.<br />
Grete Samsa- Người em gái đã chăm sóc và lo thức ăn cho Gregor.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 12<br />
Herr Samsa- Người cha đã ném trái táo rớt lên lưng người thành bọ Gregor và trở lại làm việc sau khi<br />
mất nguồn lợi tức của người con.<br />
Frau Samsa- Người mẹ lo lắng cho thân phận đứa con Gregor người thành bọ nhưng bất lực không thể<br />
giúp được chi.<br />
Nhân vật phụ<br />
Người chủ công ty mà Gregor làm việc.<br />
Những kẻ ở thuê tại nhà của gia đình Samsa.<br />
Người đàn bà giúp việc khám phá ra Gregor người thành bọ đã chết.<br />
Bối cảnh<br />
Phòng của Gregor- Gregor sau biến thành con bọ thì bị nhốt trong phòng và không được phép rời<br />
phòng để ra ngoài.<br />
Phòng ăn là nơi cả gia đình thường tụ tập để nói chuyện và ăn uống.<br />
Cốt chuyện<br />
Câu chuyện bắt đầu với Gregor Samsa thức giấc và nhận thấy thân mình anh trở thành một loài bọ quái<br />
dị. Mặc dù nhận thức mình là một con bọ nhưng Gregor nghĩ mình vẫn có thể dậy đi làm. Tuy nhiên<br />
khi anh ta gặp khó khăn ra khỏi giường và mở cửa phòng thì anh ta biết là mình không thể đi làm đuợc.<br />
Vì Gregor không có mặt ở sở nên ông chủ đã đến tận nhà tìm anh ta và bỏ đi khi thấy tình trạng quái dị<br />
của anh ta. Cả gia đình trước đây sống từ nguồn tài chánh của Gregor nay phải xoay sở để sống. Gia<br />
đình tạm thời có thể sống với số tiền bố Gregor đã dành dụm, rối bố Gregor tìm được việc làm ở ngân<br />
hàng, mẹ Gregor, Hau làm việc ở xưởng dệt, em gái Gregor, Grete tìm được việc làm thư ký một tiệp<br />
tạp hóa. Mọi người đều bận rộn, Gregor bị nhốt trong phòng và chỉ có Grete còn vào thăm viếng<br />
Gregor ngày hai lần. Khi gia đình Samsa nhận cho ba người thuê phòng ở nhà họ thì trong một tối khi<br />
Gregor lẻn ra ngoài phòng ăn để nghe Grete chơi violin, làm ba người ở mướn nhìn thấy và vô cùng<br />
khiếp đảm. Gregor bị bố lùa về phòng và ba người ở trọ tuyên bố không trả tiền phòng nữa . Sáng hôm<br />
sau người dọn nhà đến dọn dẹp nhà và thấy Gregor đã chết. Bà ta báo cho cả nhà biết. Ông bố Herr yêu<br />
cầu ba người mướn phòng rời khỏi nhà họ. Cả gia đình viết thư xin phép chủ nhân của họ cho phép<br />
nghỉ một ngày để thư giãn. Cả nhà Samsa gồm Herr, Hau và Grete khởi hành một chuyến đi xe điện và<br />
bố mẹ Grete nhận thấy đã đến lúc Grete cần lấy chồng.<br />
Một chút bàn luận về chuyện <strong>The</strong> Metamorphosis<br />
Kafka là một hiện tượng, là một nhà văn có những tác phẩm dù không nhiều, đôi khi chưa hoàn tất<br />
nhưng đã để lại cho hậu thế những tư tưởng khác biệt về nhân sinh quan khiến mọi người phải suy nghĩ<br />
và bàn luận, đã bàn luận, đang bàn luận và sẽ còn bàn luận. Một chuyện được bàn luận nhiều nhất là<br />
chuyện Hoá Thân/Biến Dạng (<strong>The</strong> Metamorphosis).<br />
<strong>The</strong>o Royal Pascal: “Chuyện Hóa Thân được viết theo lối kể chuyện khách quan. Chính lối viết<br />
khách quan này đã giải tỏa được cái căng thẳng của câu chuyện cùng lúc mang lại cho người đọc<br />
những cảm giác mơ hồ kỳ lạ tuồng như chính họ cũng đã hiện diện trong cốt chuyện”. (Trong Haugen,<br />
2002, tr. 37). Trừ một số ngoại cảnh ở vài trang chót, độc giả biết đuợc câu chuyện qua tiềm thức của<br />
nhân vật Gregor Samsa. Người kể chuyện này tự nhận mình như chính là Gregor, từ cái nhìn, tai nghe,<br />
và bắt buộc chấp nhận sự thật mình chính là nạn nhân của câu chuyện. Người thuật chuyện đã dựng lên
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 13<br />
một bối cảnh, thêm vào dần dần từng chi tiết làm người đọc càng đọc càng căng thẳng càng hỏi đó chỉ<br />
là một giấc mơ hay sự thật. Sự kích thích dẫn đến một kết cuộc không phải tròn trịa, không phải đọc<br />
xong mà gấp trang sách lại mà là để suy ngẫm tự tìm một đáp số.<br />
Gregor có phải là một sinh vật ăn bám không?<br />
Nhân vật chính Gregor đang là một người có công việc làm bình thường, bỗng một sáng thức dậy thấy<br />
mình biến dạng hóa thân thành một con bọ quái dị, và từ đó phải sống bám vào gia đình. Sư hóa thân<br />
hiểu theo nghĩa bóng có phải chăng là một biến chuyển của sự xung đột nội tâm không có lối nào khác<br />
hơn để diễn tả. <strong>The</strong>o Thomas F. Barry (trong Haugen, 2002, tr. 45) thì: Kafka có một cuộc sống bị ảnh<br />
hưởng nặng nề từ một người cha độc đoán, là một người sống nhờ vào bố, và những người đàn bà làm<br />
bạn với Kafka hình như không thật sự có ảnh hưởng mà chỉ để Kafka có thể duy trì cuộc sống bằng<br />
xương bằng thịt và tâm linh. Với tiềm thức của người có suy nghĩ giam hãm trong một cơ thể con bọ<br />
dị hợm đáng ghét, Gregor đã đe dọa sự an ổn của cả gia đình. Sự hóa thân là dấu hiệu của sự xung khắc<br />
nội tâm không giải tỏa được và làm Gregor thấy mình là một ăn bám vô nghĩa không có lối thoát<br />
(không tìm đuợc thức ăn mình muốn). Phải chăng cái thức ăn mà Gregor mòn mỏi trông tìm chính là<br />
những tiếng nhạc của Grete, cô em gái trình diễn đàn violin cho ba người khách ở mướn nghe.<br />
Gregor đã dần dần bị bỏ quên, gia đình không ai muốn nhìn đến vì họ đều bận rộn mưu sinh,<br />
cuối cùng anh chết trong cô đơn tuyệt vọng như một con bọ đáng kinh tởm, người đàn bà giúp việc báo<br />
tin anh chết và cả nhà như trút đi một gánh nợ. Không ai biết người đàn bà giúp việc đã vứt bỏ con bọ<br />
ra sao, và chẳng ai quan tâm hỏi han hay thương xót. Và sau khi anh chết thì cuộc sống của gia đình trở<br />
lại bình thường nhanh chóng với những hy vọng hướng về tương lai và quan tâm đến cô em gái của<br />
Gregor.<br />
Chúng ta cũng thấy trong chuyện Hóa Thân là sự tự vong thân của Gregor đối với thế giới<br />
chung quanh, hay là sự xa cách đến độ lạ lùng của Kafka với xã hội ông sống. Sinh ra ở Tiệp, theo đuổi<br />
nền giáo dục Đức, nói tiếng Đức nhiều hơn nói tiếng Tiệp, sống trong môi trường nhiều áp lực của cha,<br />
lớn lên giữa hai nguồn văn hóa khác biệt đã làm Kafka có nhiều giằng xé, nhiều dằn vặt. Văn của ông<br />
như cho thấy ông luôn luôn đi tìm một thứ thức ăn, một thức ăn mà Kafka tìm hoài không thấy cho nên<br />
cả đời ông vẫn chỉ là một kẻ không căn cước, một kẻ mang bản án lưu đày. Nhân vật trong thế giới<br />
chuyện ngắn, nhật ký, thư của ông hầu như đều mang cá tính cô đơn, không danh tính, không diện mạo<br />
rõ rệt. Như trong Hóa Thân, Gregor biến dạng thành con bọ quái dị có nhiều chân, một con bọ lớn đủ<br />
để có thể cố gắng mở đuợc cánh cửa phòng, có thể nhỏ vừa lọt xuống gầm ghế sofa, bò trên tường và<br />
trần nhà, v.v…<br />
Kafka không hòa đồng với dân Tiệp vì ông theo học trường Đức, và quen thuộc với văn hóa<br />
Đức, nhưng với người Đức thì ông bị họ lạnh nhạt vì ông là ngưòi Do-thái.<br />
Và nói về phương diện tâm lý thì chuyện Hóa Thân mở cánh cửa cho thấy cảm tưởng của<br />
Kafka đối với người cha, với vấn đề xã hội và chính trị.<br />
Qua chuyện Hóa Thân, Kafka cho thấy cái nhìn hiện thực của ông về sự bế tắc của đời sống, về<br />
sự bủa vây không lối thoát của xã hội bao quanh, về sự thoái hóa của con người đương thời, về sự đói<br />
khát cho một thức ăn tinh thần đã tàn phá con ngưòi cho đến chết.<br />
Kafka có những ưu tư, đau khổ, dằn vặt, trắc trở về gia đình, bệnh tật, xã hội và chính trị. Chính<br />
vì thế mà văn của Kafka có một sắc thái riêng biệt và đặc biệt. Nếu Kafka đã có một thân thề cường<br />
tráng, một cuộc sống bình thường và một môi trường xã hội khác biệt liệu Kafka có thể có đuợc những<br />
tư tưởng khác biệt lưu truyền cho đến tận bây giờ không? Hỏi tức là có câu trả lời. Và đây là một điểm<br />
chúng ta có thể quả quyết là không sai.<br />
Vài câu nói của Kafka.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 14<br />
"To die would mean nothing else than to surrender a nothing to the nothing, but that would be<br />
impossible to conceive, for how could a person, even only as a nothing, consciously surrender himself<br />
to the nothing, and not merely to an empty nothing but rather to a roaring nothing whose nothingness<br />
consists only in its incomprehensibility." Franz Kafka - December 4, 1913. (Chết không có nghĩa gì<br />
hơn là đầu hàng một cái không đến một cái không, nhưng thật ra không thể nhận thức như thế, vì làm<br />
sao mà một người, dù chỉ là không, tự ý thức đầu hàng cho cái không, và không phải chỉ trút bỏ cái<br />
không trống rỗng, mà là một cái không ầm ĩ, một cái không gồm toàn những cái không thể hiểu nổi.)<br />
"By believing passionately in something that still does not exist, we create it." Franz Kafka.<br />
(Bởi tin tưởng một cách say mê vào một điều gì đó chưa hiện hữu, ta có thể sáng tạo ra nó.)<br />
"In science one tries to tell people, in such a way as to be understood by everyone, something<br />
that no one ever knew before. But in poetry, it's the exact opposite." (Trong khoa học người ta có thể<br />
báo cho mọi người một điều mà chưa ai từng biết với cách thức mà ai cũng có thể hiểu được. Nhưng<br />
trong thi văn, thì lại là một điều hoàn toàn trái ngược.)<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
11 November 2010<br />
Tài liệu tham khảo<br />
Alder, J. (2001). Franz Kafka. Woodstock & New York, NY: Overlook Press.<br />
Haugen, H. M. (ed). (2002). Reading on <strong>The</strong> Metamorphosis. San Diego, CA: Greenhaven Press, Inc.<br />
Neugrochel J. (trans) (2000). Franz Kafka. <strong>The</strong> Metamorphosis, In <strong>The</strong> PenalColony, and Other<br />
Stories. Simon & Schuster.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 15<br />
ñ†c Låi TruyŒn KiŠu<br />
ñ‹ Yêu Thêm Ti‰ng ViŒt<br />
ñàm Trung Pháp<br />
Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Tôi thường tự hỏi có phải trong thời điểm<br />
ấy Thượng Đế đã nổi hứng rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương<br />
xuất chúng chăng? Như Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước<br />
chúng ta, Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc.<br />
Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên DIE<br />
LEIDEN DES JUNGEN WERTHERS (Những nỗi ưu sầu của chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu<br />
sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với<br />
người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng<br />
làm cho một vài giai nhân đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện nhảy xuống hồ tự tử<br />
mà trong tay còn nắm chặt cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của<br />
trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết ATALA, một câu chuyện vừa buồn vừa<br />
mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà<br />
Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và<br />
Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Coleridge xuất bản<br />
tập thơ LYRICAL BALLADS, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong văn học quốc gia ấy.<br />
Wordsworth say mê thiên nhiên và có biệt tài dùng ngôn ngữ bình dị dễ hiểu để diễn tả những cảm xúc<br />
tràn bờ trước vẻ đẹp của rừng, của núi, của giai nhân. Tôi nhớ mãi những câu thơ sau đây của<br />
Wordsworth để tả một kiều nữ bí mật sống giữa thiên nhiên mang tên Lucy mà thi nhân ví như một<br />
bông hoa đổng thảo:<br />
A violet by a mossy stone<br />
Half-hidden from the eye<br />
Fair as a star, when only one<br />
Is shining in the sky<br />
Thế còn Nguyễn Du của chúng ta thì sao? Hãy nghe lời người ngoại quốc ca ngợi thi hào họ<br />
Nguyễn trước đã. Thi sĩ lẫy lừng người Ấn Độ chuyên làm thơ bằng tiếng Anh mang tên Rabindranath<br />
Tagore (giải Nobel văn chương 1913) khi viếng thăm Việt Nam năm 1929 đã coi Nguyễn Du là vị thi sĩ<br />
đứng thứ 3 trong hàng ngũ những thi sĩ muôn thuở, chỉ sau Lý Bạch và Victor Hugo (theo học giả Thái<br />
Văn Kiểm). Văn sĩ Pháp René Crayssac đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và cho rằng áng văn kiệt<br />
tác của Nguyễn Du có thể so sánh mà không sợ kém các văn chương kiệt tác, vô luận ở thời nào và ở<br />
xứ nào (theo học giả Đào Duy Anh). Như vậy thì thiên tài thi ca họ Nguyễn của chúng ta khi đứng<br />
cạnh những đại danh văn chương của nhân loại cũng ngang ngửa với họ, cũng đều “mười phân vẹn<br />
mười” cả, nhưng riêng đối với tôi thì đọc thơ Nguyễn Du thích thú gấp bội phần đọc các tác phẩm của<br />
các vị ngoại quốc kia, vì tôi là người cùng một ngôn ngữ và văn hóa với Nguyễn Du.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 16<br />
Nguyễn Du (ND) sinh năm 1765 trong một danh gia vọng tộc. Cha là hoàng giáp Nguyễn<br />
Nghiễm, người Hà Tĩnh, làm thủ tướng triều Lê. Mẹ là Trần Thị Tần, người Bắc Ninh, kém chồng 32<br />
tuổi. ND mồ côi cha năm 11 tuổi và mồ côi mẹ năm 13 tuổi. Anh cả là tiến sĩ Nguyễn Khản, thượng thư<br />
bộ Lại, anh thứ hai là Nguyễn Điều từng làm trấn thủ Sơn Tây. Năm 1783, lúc 18 tuổi, ND đậu tam<br />
trường (tú tài); cùng năm này, một người anh tên là Nguyễn Đề đậu thủ khoa kỳ thi hương (cử nhân).<br />
Tình hình chính trị lúc ấy thực bất ổn. Năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh; Nguyễn Huệ<br />
lên ngôi hoàng đế ở Huế. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Năm 1802 Gia Long diệt Tây<br />
Sơn, bắt đầu triều Nguyễn; ND làm tri huyện Phù Dung (thuộc Hưng Yên ngày nay), mấy tháng sau<br />
thăng tri phủ Thường Tín (thuộc Hà Tây ngày nay). Năm 1809 ND làm cai bạ ở Quảng Bình. Năm<br />
1813 ND thăng cần chánh điện học sĩ, chánh sứ sang nhà Thanh. Năm sau đi sứ về, thăng tham tri bộ<br />
Lễ. Năm 1820 Gia Long mất, Minh Mệnh nối ngôi. ND được cử chánh sứ sang Tàu báo tang và cầu<br />
phong, nhưng chưa kịp lên đường thì bị bệnh và qua đời, thọ 56 tuổi.<br />
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ là khi nào ND viết Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân<br />
Thanh) trước hay sau khi đi sứ sang Trung Quốc năm 1813. <strong>The</strong>o Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì<br />
Truyện Kiều (TK) bắt nguồn từ một tiểu thuyết Tàu của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân, văn chương tầm<br />
thường, về một người đàn bà tài sắc, có lòng trung, hiếu, tiết nghĩa, mà đời bị bèo giạt hoa trôi. ND bỏ<br />
bớt những chỗ rườm rà, thô lỗ, dơ bẩn. So với tiểu thuyết Tàu thì TK của ND thanh nhã và văn vẻ hơn<br />
nhiều. Hà Như Chi, khi so sánh TK với tiểu thuyết Tàu nguyên thủy, nhận định TK là một công trình<br />
nghệ thuật cân đối hoàn hảo, kết cấu chặt chẽ, tình ý đậm đà khéo léo, văn chương tươi đẹp, thắm<br />
đượm màu sắc Việt Nam và dẫy đầy thi vị.<br />
Vẫn theo Hà Như Chi, một nàng Kiều tài hoa duyên dáng như thế lại là nạn nhân của một số<br />
mệnh vô cùng khắt khe đã đánh mạnh vào tâm hồn ND và thúc giục cụ viết nên TK để hả hê những<br />
mối cảm tình đối với một người đã được cụ xem như đồng hội đồng thuyền với mình: ND phải quên<br />
nhà Lê mà ra làm quan với nhà Nguyễn thì có khác chi, vì chữ “mệnh” oái oăm, nàng Kiều phải bỏ<br />
Kim Trọng mà chịu bước giang hồ? Đúng là:<br />
Vui là vui gượng kẻo là,<br />
Ai tri âm đó mặn mà với ai?<br />
Nội dung TK gồm 3254 câu thơ lục-bát có thể chia làm 3 phần: (1) Thúy Kiều và Kim Trọng<br />
gặp gỡ và gắn bó với nhau; (2) Những nỗi khổ của Thúy Kiều trên bước đường luân lạc; và (3) Kim-<br />
Kiều tái ngộ. TK còn là một tác phẩm chứng minh cho định luật “tài mệnh tương đố”: Kiều là kẻ tài<br />
hoa nên phải mệnh bạc. Trong phần kết, may thay, ND cũng cho chúng ta tin tưởng rằng thiện tâm có<br />
thể cải hóa được số mệnh:<br />
Thiện căn ở tại lòng ta<br />
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài<br />
Những phân đoạn chính trong TK như sau: Phần (1): (a) Xác định thuyết tài mệnh tương đố ,<br />
(b) Kiều gặp Kim Trọng, (c) Kiều và Kim Trọng thề thốt gắn bó. Phần (2): (a) Gia biến nàng Kiều, (b)<br />
Mã Giám Sinh mua Kiều, (c) Kiều phó thác tâm sự cho
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 17<br />
em, (d) Mắc tay Tú Bà, (e) Đi trốn với Sở Khanh, (f) Kiều tiếp khách trong lầu xanh, (g) Kiều được<br />
Thúc Sinh chuộc ra, (h) Mắc tay Hoạn Thư, (i) Đi trốn, (j) Giác Duyên sợ liên lụy, gửi Kiều cho Bạc<br />
Bà, (k) Bạc Bà lừa dối, Kiều lại bị bán vào lầu xanh, (l) Được Từ Hải chuộc ra, (m) Kiều báo ân báo<br />
oán, (n) Mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, (o) Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường, (p) Giác<br />
Duyên vớt Kiều. Phần (3): (a) Kim Trọng trở lại vườn Thúy, (b) Lấy Thúy Vân, (c) Làm quan ở Lâm<br />
Tri , (d) Tìm Kiều ở Hàng Châu, (e) Giác Duyên đưa đến gặp Kiều, (f) Kim-Kiều xem nhau như bạn,<br />
(g) Kiều đánh đàn kết liễu đời bạc mệnh, (h) Kết thúc: Thiện tâm sửa được số mệnh.<br />
Chúng ta đã nghe người ngoại quốc ca tụng TK trên đây, và bây giờ chúng ta tìm hiểu xem các<br />
nhà phê bình văn chương người Việt nghĩ gì về tuyệt tác phẩm này của Nguyễn Du. Tôi xin đóng góp<br />
trong phần này này bằng cách tóm lược một số nhận định về giá trị TK của các nhà phê bình tên tuổi từ<br />
trước đến nay để chúng ta có một cái nhìn bao quát.<br />
PHẠM QUỲNH: Sau khi cho rằng TK của ND hay hơn cả văn chương của Khuất Nguyên bên<br />
Tàu và văn chương của Racine và Bossuet bên Tây, Phạm Quỳnh trong ngày giỗ ND năm 1924 tại Hà<br />
Nội đã thề trước anh linh thi hào họ Nguyễn rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta<br />
còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu lòng dốc chí cố gia công trau chuốt lấy<br />
tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc vận ngày một vẻ<br />
vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây” (Tạp<br />
chí Nam Phong, tháng 8, 1924). Vì những lời này mà Phạm Quỳnh bị hai cụ nghè Ngô Đức Kế và<br />
Huỳnh Thúc Kháng xỉ vả thậm tệ (tôi sẽ nói tiếp về vụ này ở một đoạn sau).<br />
NGUYỄN TƯỜNG TAM: Nhà văn thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn viết trong Tạp chí Nam<br />
Phong năm 1924: “Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra,<br />
thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng Truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá,<br />
nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga. Nhưng nói đến cái hay<br />
của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được... Tôi xin nói quyết một lời rằng MONG ĐƯỢC MỘT<br />
QUYỂN TRUYỆN NÀO HAY HƠN TRUYỆN KIỀU LÀ MỘNG TƯỞNG. Cái trình độ thơ quốc ngữ<br />
đến như thế là tuyệt đích rồi.” Nhận định về câu thơ thuộc loại văn hữu dư ba là câu “Lơ thơ tơ liễu<br />
buông mành,” Nguyễn Tường Tam thấy ba chữ “lơ thơ tơ” nghe rất êm tai, hay về phần tưởng tượng ít<br />
mà hay về phần âm điệu êm ái nhiều hơn. Và câu “Nách tường bông liễu bay ngang trước mành” ông<br />
thấy rất hay về cảnh sắc. Ông cũng thấy trong TK nhiều chỗ cảnh và người có liên lạc, đúng như:<br />
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu<br />
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ<br />
Như lúc Thúc Sinh trở về với Kiều, trông ra cảnh vật cũng hình như chia vui với mình:<br />
Long lanh đáy nước in trời<br />
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng<br />
Và khi Kiều và Kim gặp nhau lần đầu, lúc từ giã, cô Kiều còn trông theo, nhưng nào thấy gì đâu, chỉ<br />
thấy:
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 18<br />
Dưới cầu nước chảy trong veo<br />
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha<br />
Hai câu đệm ấy vào thật là tả rõ được cái buồn, cái nhớ của cô Kiều mà hình như cảnh vật cũng âu<br />
sầu!<br />
VŨ ĐÌNH LONG: Lấy âm nhạc làm ẩn dụ để lượng giá TK, phê bình gia Vũ Đình Long viết<br />
trong Tạp chí Nam Phong năm 1924 rằng “TK thực là một cây đàn tuyệt quý không phím không dây.<br />
Tác giả lấy đầu lưỡi mà nẩy lên tiếng, mỗi đoạn văn là một cung, mỗi câu văn là một điệu, mỗi chữ là<br />
một tay nỉ non thánh thót, réo rắt tiêu tao, đêm khuya canh tĩnh mà nghe người tốt giọng ngâm Kiều thì<br />
còn đàn nào hay bằng nữa ... Cụ ND không phải là nhà thi sĩ, cụ chính là THẦN THƠ vậy!” <strong>The</strong>o Vũ<br />
Đình Long, những câu Kiều nói với chàng Kim thật hay thật tình, như :<br />
Thưa rằng đừng lấy làm chơi<br />
Rẽ cho thưa hết một lời đã nao<br />
Chữ “rẽ” dùng có thần tình không? Ta thấy hình như nàng Kiều lấy tay gạt chàng Kim ra vậy! Năm lần<br />
láy chữ “còn” trong hai câu thơ sau đây là một tuyệt chiêu, như thể một lời thề nguyền vĩnh cửu:<br />
Còn non, còn nước, còn dài<br />
Còn về còn nhớ đến người hôm nay<br />
Tình nhân tương tư nhau là những cảnh não nùng mà ND tả rất khéo. Chàng Kim nỗi lòng canh cánh<br />
luôn nghĩ đến người đẹp đã gặp trong ngày hội Đạp Thanh:<br />
Sầu đong càng lắc càng đầy<br />
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!<br />
Đêm không ngủ được, vẩn vơ ngọn đèn tàn:<br />
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao<br />
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng<br />
Cậu đồ đã mang nặng gánh tương tư thì còn thiết gì đến sách, đến bút, đến đàn:<br />
Phòng văn hơi giá như đồng<br />
Trúc xe ngọn thỏ, tơ chùng phím loan<br />
Ngồi nghe tiếng gió đập vào mành cũng nhớ đến ai – vì nhớ nhung mà trà mất ngon, mùi hương kém<br />
ngát:<br />
Mành tương phân phất gió đàn<br />
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 19<br />
LƯU TRỌNG LƯ: Để đáp lễ lời cụ nghè Ngô Đức Kế cho rằng TK “chỉ là một thứ văn<br />
chương ngâm vịnh chơi bời, để lúc thanh nhàn mà đọc đôi câu cho tiêu khiển, chứ không phải là một<br />
thứ văn chương chính đại theo đường chính học, mà đem ra dạy đời được đâu” (báo Hữu Thanh, tháng<br />
9 năm 1924) và nhất là lời kết tội gay gắt của cụ nghè Huỳnh Thúc Kháng rằng “Truyện Kiều là một<br />
thứ dâm thư, rõ không ích mà có hại ... Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong,<br />
bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều gieo vào trong cõi tư tưởng không phải là ít...” (báo Tiếng Dân,<br />
tháng 9 năm 1930), Lưu Trọng Lư viết trong tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm vào cuối năm 1933: “Ai muốn<br />
làm thánh hiền thì đi đọc Ngũ Kinh, Tứ Thư. Hãy để Truyện Kiều lại cho bọn chúng tôi là hạng người<br />
trong những phút mệt nhọc, buồn rầu, chán nản, cần phải ngâm nga những câu như:<br />
Dưới cầu nước chảy trong veo<br />
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”<br />
ĐÀO DUY ANH: Để kết luận tập “Khảo Luận về Kim Vân Kiều” xuất bản năm 1943, học giả<br />
Đào Duy Anh khẳng định “Nguyễn Du đã gieo trong lòng ta một mối tin chắc chắn, một mối hy vọng<br />
dồi dào với tiếng nói của ta.” Cũng theo ông, ở thời Lê mạt, ta đã thấy có những tác phẩm có giá trị như<br />
Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Phan Trần Truyện, Hoa Tiên Ký ... viết bằng quốc âm,<br />
nhưng lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm,<br />
mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng,<br />
điêu luyện, đủ khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông<br />
để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức.<br />
TRẦN TRỌNG KIM: Trong cuốn “Truyện Thúy Kiều” do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu<br />
khảo xuất bản năm 1925, học giả Trần Trọng Kim viết: “ND khéo dùng lối hoạt họa, chọn cái hình<br />
dáng nào rõ thật nổi, rồi tìm một vài chữ thật đúng mà tả ra, hễ đọc qua là nhận ngay được chân tướng:<br />
Kim Trọng:<br />
Phong tư tài mạo tuyệt vời<br />
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa<br />
Mã Giám Sinh:<br />
Quá niên trạc ngoại tứ tuần<br />
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao<br />
Tú Bà:<br />
Thoắt trông nhờn nhợt màu da<br />
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao<br />
Sở Khanh:<br />
Một chàng vừa trạc thanh xuân<br />
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 20<br />
Từ Hải:<br />
Râu hùm hàm én mày ngài<br />
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”<br />
HOÀI THANH: <strong>The</strong>o bài viết “Quyền Sống Của Con Người Trong Truyện Kiều” của nhà phê<br />
bình Hoài Thanh năm 1949, nếu nói về mức độ say Truyện Kiều thì không ai bằng ông nghè Chu Mạnh<br />
Trinh (một con người hào hoa phong nhã kiểu Kim Trọng). Nhà thơ lãng mạn này không phải chỉ say<br />
văn chương Truyện Kiều mà lại còn say luôn cả nàng Kiều như say một giai nhân có thực, đến nỗi đã<br />
nói đến những chuyện si tình như thêu tên Kiều vào tay áo, mơ tưởng dựng một ngôi nhà vàng cho<br />
Kiều ở, mượn cỏ thơm gọi hồn Kiều về, và thấy như Kiều về thật! Chuyện lạ đời này cũng có thể hiểu<br />
được, vì theo Hoài Thanh, “ND có thể dạy cho ta biết ghét, biết yêu. Ghét những cái bất lương trong<br />
xã hội. Yêu những cảnh sống đáng yêu và nhân đó tránh cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt, cuộc sống của cỏ<br />
cây... Những cử chỉ uể oải, những câu nói thiếu lòng tin, những cái nhìn hời hợt, những tâm tư mệt<br />
nhọc hình như đương chờ đợi một cơn gió nào ... TK ngay giờ đây vẫn còn khả năng cải tử hoàn sinh,<br />
vẫn có thể gieo chất nồng say vào cuộc sống...”<br />
NGUYỄN LỘC: Trong cuốn sách “Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ 18” xuất bản năm<br />
1997 tại Hà Nội, nhà biên khảo Nguyễn Lộc có những nhận xét tinh tế về cách sử dụng ca dao, tục ngữ<br />
trong TK, mà tôi xin tóm lược trong những đoạn dưới đây: Có thể nói trong TK có hàng mấy chục câu<br />
thơ ND trực tiếp rút ra từ ca dao. Rất có thể hai câu:<br />
là rút ra từ câu ca dao:<br />
Vầng trăng ai xẻ làm đôi<br />
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường<br />
Tiễn đưa một chén rượu nồng<br />
Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi<br />
Ca dao trong TK được ND sử dụng như một thứ chất liệu nghệ thuật, chứ không như những trích dẫn.<br />
Không có câu nào ND dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều nhào nặn lại cho phù hợp với phong cách<br />
chung của nhà thơ trong tác phẩm. TK có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao, mà ai<br />
cũng nhận ra ảnh hưởng của ca dao, như :<br />
ND cũng dùng rất nhiều tục ngữ, như :<br />
Xót thay huyên cỗi xuân già<br />
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi<br />
Chốc đà mười mấy năm trời<br />
Còn ra khi đã da mồi tóc sương
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 21<br />
hoặc:<br />
Ra tuồng mèo mả gà đồng<br />
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào<br />
Bề ngoài thơn thớt nói cười<br />
Mà trong nham hiểm giết người không dao<br />
Ngôn ngữ TK vừa súc tích chính xác, đồng thời lại vừa giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. ND có thể bằng<br />
một vài câu thơ khắc họa lên sắc nét chân dung ngoại hình của một nhân vật, hay miêu tả một biến cố,<br />
một cảnh ngộ. Một học trò giỏi đi thi bị rớt có thể tự an ủi bằng cách lẩy hai câu thơ súc tích, hợp tình<br />
hợp cảnh của TK:<br />
Có tài mà cậy chi tài<br />
Chữ tài liền với chữ tai một vần<br />
Tả một chàng đẹp trai hào hoa phong nhã thì ta có thể mượn ngay hai câu ND tả Kim Trọng:<br />
Hai câu:<br />
Phong tư tài mạo tuyệt vời<br />
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa<br />
Gìn vàng giữ ngọc cho hay<br />
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời<br />
thực tuyệt đẹp và chí tình để một chàng trai thiết tha căn dặn người yêu khi giã từ. Và khi giấc mơ ấp ủ<br />
từ lâu nay mới thành sự thực, ta vội kêu lên:<br />
Đến bây giờ mới thấy đây<br />
Mà lòng đã chắc những ngày một hai<br />
Qua những nhận định kể trên của các văn nhân lỗi lạc ngoại quốc và Việt Nam về tuyệt tác<br />
phẩm TRUYỆN KIỀU thì thiên tài Nguyễn Du đã chứng minh một cách hùng hồn rằng tiếng Việt là<br />
một ngôn ngữ tuyệt vời cho thi ca. Chúng ta còn chờ đợi gì nữa mà không đọc lại Truyện Kiều thật kỹ<br />
càng để yêu thêm tiếng Việt của chúng ta? ■
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 22<br />
Vì em sÓng mãi trong tình thÖ ta:<br />
Vài nét vŠ Än dø trong thÖ Du Tº Lê<br />
[Bài nói chuyện trong đại hội “Thu DC và Kỷ Niệm” tại Ernst Community Cultural Center NOVA,<br />
Annandale Campus, 10/31/10, nhân dịp nhà thơ Du Tử Lê sang thăm miền Ðông]<br />
Phåm Tr†ng LŒ<br />
Thơ không những làm cái đẹp bất tử, mà còn gợi lại những kỷ niệm khó phai. Xin kể hầu quí vị một<br />
câu chuyện. Có một cô gái mơn mởn đào tơ, đang kén chồng. Có ba chàng trai cùng nhắm cô.<br />
Chàng thứ nhất ví rằng:<br />
Ước gì anh hóa kiến vàng,<br />
Bò lên bò xuống má nàng ngắm chơi.<br />
Cô suy nghĩ lung lắm: chọn con kiến, cần kiệm, có óc tổ chức, chăm chỉ, siêng năng, có thể đem<br />
lại cho mình một cuộc đời no ấm.<br />
Còn chàng trai ví mình như con kiến cũng khéo lắm: Còn có vị trí nào hấp dẫn hơn: anh đứng trên má<br />
nàng, nhìn đôi mắt nàng, gò má cao, sống mũi dọc dừa, làn môi mọng đỏ, chiếc cầm nhọn, mái tóc<br />
dài…Mà anh cũng khá can đảm: bò trên má nàng; rủi nàng thấy ngứa, bàn tay búp măng đập mạnh vào<br />
má, “Cái con kiến này, ở đâu mà dám leo lên tận đây đứng…?”<br />
Tình yêu làm người ta bạo dạn, liều lĩnh.<br />
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/thất bát giang cũng lội, tam thập lục đèo cũng qua.<br />
Trong lúc cô gái nghe và có vẻ xiêu lòng, thì anh thứ hai đọc:<br />
Ước anh hóa ra dơi,<br />
Bay lên đáp xuống giữa nơi nàng nằm.<br />
Con dơi tượng trưng sức mạnh. Dù không nhìn thấy gì trong đêm tối mà vì nó có một hệ thống<br />
ra-đa nên biết trước mặt có bức tường nào chắn không. Nó bay vào phòng riêng của nàng là nơi nàng<br />
thấy thoải mái nhất. Nó lại biết đậu dốc đầu xuống đất để nhìn thân hình kiều mị của nàng từ một góc<br />
cạnh đặc biệt như một nhà nhiếp ảnh nghệ thuật.<br />
Cô chọn chàng gymnast này chăng?<br />
Anh thứ ba ngâm rằng:<br />
Ước gì anh hóa ra tằm,<br />
Nhả tơ dệt lụa đêm nằm... mí em<br />
Quí vị, nếu có dịp ở nhà quê Bắc Việt, thì thấy bên ngoài đê có những cánh đồng dâu chạy dọc<br />
theo đê. Trồng dâu để nuôi tằm. Những con ngài kết hợp với nhau, rồi đẻ ra nhiều trứng. Trứng đó nở
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 23<br />
thành những con tằm nhỏ. Người trồng dâu phải rắc dâu thái nhỏ lên những cái nong, tằm ăn dâu rồi<br />
leo lên trên, người trồng dâu phải thay dâu mới (“ăn như tằm ăn rỗi”). Tằm lớn dần, người trồng dâu<br />
đem tằm ra những khung tre có rắc rơm để những con tằm bắt đầu kéo kén. Lúc đầu cái kén còn mỏng,<br />
sau dần dần dầy và có màu vàng óng. Người nuôi tằm nhặt những con kén bỏ vào rổ, đem thả vào nồi<br />
nước sôi, dùng đũa dài kéo sợi, và cuộn thành cuộn sợi lụa. Sau đó người dệt vải mới dệt lụa đó thành<br />
những tấm lụa để may áo, thứ tơ mỏng, mềm, mịn, và mượt. Thử tưởng tượng từ lúc tằm nhả tơ thành<br />
lụa dệt áo, may áo cho người con gái, người con gái mặc chiếc áo mỏng; thế thì có phải lúc đó chàng<br />
trai—hay nói đúng hơn là con tằm—đã nhả hết tơ để dệt thành lụa. Dù chết rồi mà vẫn còn được gần<br />
người đẹp, nghe tiếng tim nàng thổn thức….Nhà thơ cũng như con tằm nhả tơ. “Vắt não làm thơ cống<br />
hiến đời/Nhưng đời nào hiểu tưởng trò chơi.” (1)<br />
Cách đây hơn 400 năm có một thi sĩ cũng ví người đẹp trong một bài tình thi:<br />
Em có muốn ta ví em như mùa hạ chăng? Không, em đẹp và dịu hiền hơn nhiều. Những cơn gió<br />
mạnh tháng năm làm rung những nụ hoa đáng yêu. Và mùa hạ thì ngắn ngủi quá. Ðôi lúc mặt trời nóng<br />
quá, rồi bị mây che đi; và mọi vật xinh đẹp rồi cũng tàn vì rủi ro hay vì định mệnh thiên nhiên an bài.<br />
Nhưng vẻ thanh xuân của em không bao giờ phai nhạt. Em cũng chẳng bao giờ mất vẻ đẹp vĩnh cửu em<br />
có. Mà thần chết chẳng thể khoe khoang sẽ đưa em vào bóng tối của nó, vì những giòng thơ bất<br />
tử của ta sẽ làm em sống mãi. Ngày nào con người còn thở, mắt còn trông được, ngày nào bài thơ<br />
này còn thì ngày đó vẻ đẹp của em mà ta mô tả sẽ mãi mãi nằm trong đó và em sẽ sống mãi. Ðó<br />
là bài thứ 18 trong tập Sonnets 154 bài của nhà thơ Anh William Shakespeare. Tôi xin đọc hầu quí vị<br />
bài thơ đó và chuyển sang văn vần:<br />
Sonnet 18<br />
Shall I compare thee to a summer’s day?<br />
Thou art more lovely and more temperate:<br />
Rough winds do shake the darling buds of May,<br />
And summer’s lease hath all too short a date:<br />
Sometime too hot the eye of heaven shines<br />
And often is his gold complexion dimm’d;<br />
And every fair from fair sometimes declines,<br />
By chance or nature’s changing course untrimm’d;<br />
By thy eternal summer shall not fade,<br />
Nor lose possession of that fair thou ow’st;<br />
Nor shall Death brag thou wander’st in his shade,<br />
When in eternal lines to time thou grow’st:<br />
So long as men can breathe or eyes can see,<br />
So long lives this and this gives life to thee.<br />
Muốn ta ví em như ngày hạ?<br />
Vẻ xinh tươi óng ả khôn tầy.<br />
Gió ào rung nụ hây hây<br />
Ngày hè ngắn ngủi không đầy vốc tay.<br />
Cũng có buổi gặp ngày nắng gắt,<br />
Ánh nắng vàng mây hắt mờ đi<br />
Vẻ tươi nhưng cũng có thì,<br />
Vận trời thay đổi không di chẳng dời<br />
Nhưng mùa hạ nơi em bất diệt,<br />
Vẻ mĩ miều tuyệt đẹp tuyệt xinh.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 24<br />
Tử thần chắng dám dụ mình<br />
Vì em sống mãi trong tình thơ ta<br />
Còn người còn kẻ ngâm nga,<br />
Vần thơ trác tuyệt nét hoa ngàn đời.<br />
Khoảng năm 1969, hay 1970, có người con gái được mô tả trong bài Khúc Thuỵ Du của nhà thơ<br />
Du Tử Lê do Anh Bằng phổ nhạc, hay sau này trong bài Trên Ngọn Tình Sầu (mà tựa đề gốc là 67<br />
Khúc thêm cho Huyền Châu) do Từ Công Phụng phổ nhạc—qua 40 năm, bây giờ mỗi khi nghe lại,<br />
thính giả vẫn thấy nỗi da diết của một tình yêu không trọn vẹn. Như vậy, có thể qua những vần thơ,<br />
người con gái không già, sẽ sống mãi. Vì mỗi khi người đọc đọc lại vần thơ, nghe lại nhiều lần, hay—<br />
lát nữa đây—nghe ca sĩ Ý Lan hát bài nhạc, ta cảm thấy một khao khát, nỗi xúc động trong tâm trí như<br />
muốn sống lại kinh nghiệm thể xác và trí tuệ của câu thơ.<br />
Ẩn dụ:<br />
tôi là chim Bói Cá<br />
em là ánh trăng ngà<br />
chỉ cách một mặt hồ<br />
mà muôn trùng chia xa<br />
(Khúc Thuỵ Du—Anh Bằng phổ thơ DTL)<br />
Nhà nhạc sĩ dùng ý thơ của thi sĩ, cùng một lúc, tả hai hình ảnh: một hình ảnh động là chim Bói<br />
Cá, một hình ảnh tĩnh là ánh trăng ngà tương phản để cực tả sự xa cách tâm lý và vật lý của hai người.<br />
Chim Bói cá : Chim sống ở gần nước, mỏ dài, lông xanh cánh cam, ngực nâu, hay nhào xuống<br />
nước để bắt cá. (kingfisher)<br />
Ánh trăng ngà: mầu ngà, ngà voi; cổ tay em trắng như ngà / con mắt em liếc như là dao cau.<br />
Ðoạn kế phổ từ bài thơ 5 câu dùng 7 ẩn dụ.<br />
Tôi nghe hắt hiu từ mắt em ngát tạnh<br />
Con dế buồn tự tử giữa đêm sương<br />
Bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ<br />
Em ở đó bờ sông còn ấm cát<br />
Con sóng tình vỗ mãi một âm quên.<br />
(Trên ngọn tình sầu--Từ Công Phụng phổ thơ DTL)<br />
Hắt hiu, trong bài thơ gốc là hiu hắt: yếu ớt mong manh, mờ nhạt, buồn man mác, vắng lặng.<br />
Như trong câu «Ngọn đèn dầu hiu hắt giữa đêm khuya.» Nghe hai âm /h/ phát ra nhè nhẹ lập lại... ta có<br />
cảm giác gì? hắt hiu: 2 âm đầu lập lại alliteration; lặng lẽ, điệp âm đầu.<br />
Ngát tạnh: Ngát tả mùi thơm. Thơm ngát. Tạnh: Như trong khóm từ Trời quang mây tạnh.<br />
Tạnh: ngừng hoặc dứt hẳn<br />
Có gợi cho ta chữ lạnh ngắt? Ngát tạnh, chữ thứ nhất dùng dấu cao nhất (dấu sắc), chữ thứ hai<br />
dùng dấu nặng (dấu thấp nhất) có cho ngưòi đọc kinh nghiệm những phút sung sướng (điểm cao nhất)<br />
và nỗi chua sót (nốt thấp nhất)-- của tình yêu ? Người nhạc sĩ, và người ca sĩ diễn tả bao nhiêu ý trong<br />
bài thơ ? Có làm bài thơ dễ hiểu hơn không?
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 25<br />
Mỗi từ hay nhóm chữ dùng—mà ở đây có ít nhất 7 ẩn dụ---như một tảng mầu của một họa sĩ<br />
siêu thực. Nhà phê bình Ðỗ Quí Toàn nói: những từ ngữ «đứng một mình có một nghĩa thường dễ hiểu,<br />
khi để gần nhau cho người đọc một ý nghĩa khác, một ấn tượng khác, một cảm xúc khác. » Ông cũng<br />
hỏi « Ngát tạnh » là xúc giác hay thính giác?<br />
Em ở đó bờ sông còn ấm át<br />
Con sóng tình vỗ mãi một âm quên.<br />
Nhân vật nam muốn quên mà tình cũ còn khắc khoải chăng. Hay nhân vật nam hỏi nhân vật nữ<br />
có nhớ kỷ niệm hai chúng ta ngồi bên bờ sông...Mới đây thôi... cát còn ấm trong khi nỗi nhung nhớ của<br />
mối sầu tương tư cứ dào dạt dâng lên như những cơn sóng vỗ vào vách đá.<br />
con dế mèn: hát sẩm không tiền/nên nghèo xác xơ. Tuổi thơ không còn nữa. Tiếng dế kêu<br />
tượng trưng gì?<br />
Plato tả những nữ thi thần khi có những bài ca thì mê hát quên cả ăn bị đói lả mà chết; khi chết<br />
hồn thành nhũng con dế mèn. Họ đem những lời ca cho đời trước khi chết.<br />
5 câu thơ trên gợi những hình ảnh và âm thanh mà cảm xúc của thính giác, xúc giác và khứu<br />
giác làm sống lại ký ức của hai kẻ một thời yêu nhau.<br />
Tôi bắt đầu câu chuyện bằng ba chàng trai cùng yêu một người đẹp. Chàng nào sẽ được nàng<br />
chọn? Tôi thấy không cần biết. Chỉ biết theo lời thơ của bài tình thi, người thơ ngụ ý «vì em sống mãi<br />
trong tình thơ ta »-- in my poem you are immortal. Những lời bàn về ẩn dụ (metaphors)-- tôi thấy trở<br />
nên khô khan-- nhưng lát nữa đây, nhờ giọng ca của các ca sĩ hữu danh, quí vị sẽ thấy những lời thơ<br />
phổ nhạc thấm vào lòng mình nhanh hơn--dẫu rằng, lúc bình thường, dùng lý trí để phân tích bằng lời<br />
những ẩn dụ xem ra khó hiểu cũng là một việc cần thiết cho việc tìm hiểu bài thơ. ■<br />
PTL<br />
(1) Trong bài « Tâm Trạng Thi Nhân » của Tô Giang Tử, trong Tuyển Tập Thi Phẩm. McLean, VA,<br />
USA, 1989, p. 50.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 26<br />
Chén Trà Thu hay Nhàn ñàm Ch» Tín<br />
LŒMai - Thanh Trà Tiên Tº<br />
(Tặng một người bạn thân)<br />
Một chiều thu trước, dường nh ư cây lá trong Mộc Lan Viên còn đang lưu luyến tiễ n chân ngày.<br />
Hoàng hôn âu yếm rắc những ánh nửa vàng nửa tím lên lòa xòa những cành dương liễu. Gió đung đư a<br />
tinh nghịch rót tiếp những giọt nắng ấy qua k ẽ lá xuống một bàn trà. Thục Nhi nhấc bình nướ c nóng lên<br />
cao, rót nước vào chiếc ấm trà nh ỏ, miệng thì thầm: "Cao sơn trường thủy, trướ c tiên ta tráng trà". Nàng<br />
nhấc ấm trà lên chắt lọc đi lượt nước đầu. Sau đó, Thục Nhi nhấc bình nước nóng lên, lần này nàng hạ<br />
tay thấp rót vào ấm trà: "H ạ sơn nhập thủy". Nước đã đầy, nhưng Thục Nhi vẫn tiếp tục rót cho nhữ ng<br />
bọt trà trào ra ngoài miệng ấm. Lúc này, nước trong ấm rất trong và khiết. Những cánh trà t ừ t ừ n ở ra.<br />
Thục Nhi đậy nắp và tiếp tục rót nước đều lên ấm. Nàng lại nh ẹ nhàng gắp những chén trà ngâm nướ c<br />
nóng trong trà thuyền đặt lên khay. Cạnh nàng là một người đàn ông đứng tuổi, tóc mai chừng đ ã<br />
chớm hoa râm.<br />
-Mời cữu cữu dùng trà. Thục Nhi nâng hai khuỷu lên, tay trái đỡ tay phải, chụm ba ngón tay phả i<br />
tam long giá ngọc dâng trà.<br />
Người đàn ông đỡ ly trà, đưa lên nhấp, hồi lâu không nói. Thục Nhi rụt rè hỏi: -Cữu cữu, trà ngon không?<br />
-San Tuyết ướp Bạch Liên, ngon. Nhưng sao ta ch ỉ thấy được v ị thơm đậm chát của San Tuyế t,<br />
mà không hưởng được hương Bạch Liên?<br />
Thục Nhi đưa tay phải nhấc ly trà lên xoay vòng, tay trái ôm che tay phải. Nàng chầm chậm đư a<br />
ly trà ngang miệng “Du Sơn Lâm Thủy”, mắt nhìn theo ngắm sắc trà. Đoạn nàng nh ẹ khép mi thưở ng<br />
hương trà. Sau khi nhấp v ị trà, nàng kh ẽ nói:<br />
-San Tuyết Trà hái t ừ những cây trà c ổ th ụ trên núi cao, hấp th ụ tinh hoa của trời đất đã hàng thập k ỷ ,<br />
th ế k ỷ. Cữu cữu phong trần trải bao năm sương tuyết, cảm được v ị trà. Bạch Liên hươ ng thanh tao,<br />
phải tĩnh tâm, dùng thiền khí mới cảm nhận được. Chẳng hay hôm nay cữu cữu có tâm s ự chi?<br />
-Thục Nhi con quá hiểu lòng ta. Cữu cữu th ở dài, đoạn nói tiếp. - Ta làm c ố vấn văn hóa cho sở<br />
cánh sát tiểu bang đã nhiều năm. Bao công phu n ỗ lực, than ôi. Tây phương và Đông phương có lẽ
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 27<br />
không bao gi ờ hiểu được<br />
nhau!<br />
Cũng nh ư nhiều lần trước, cữu cữu chia s ẻ chút ưu t ư t ừ công việc với Thục Nhi. Lầ n này xem ra<br />
cữu cữu đang giải một v ụ án liên quan đến nhiều ch ủ hụi người Việt. Cảnh sát Tây phương thấ y vô<br />
cùng khó hiểu làm sao người Việt có th ể giao tiền nhận tiền không cần giấy t ờ hợp pháp.<br />
- Đó là ch ữ Tín, con hiểu không Thục Nhi. Ch ữ Tín đối với người Việt ta vô cùng quan trọ ng,<br />
mất ch ữ tín là mất quan h ệ, còn nói gì đến làm ăn thương mại. T ừ chiều đó, lời tâm s ự và ngụm trà thơm mà thiếu v ị Bạch Liên của cữu cữu c ứ làm Thụ c Nhi<br />
suy ngẫm mãi. Ch ữ Tín viết th ế nào và có nghĩa là gì?<br />
***<br />
Ch ữ Tín 信 được ghép t ừ b ộ th ủ nhân, ch ữ nhân đứng tức là ngườ i, và chữ ngôn 言 tức là nói, hay lời<br />
nói (ngôn từ). Chữ ngôn theo cách viết ngày nay 言 có th ể nhìn nh ư bốn dòng ch ữ ch ỉ những lờ i nói,<br />
phát ra t ừ ch ữ khẩ u 口 là miệng. Vậy ch ữ Tín là ngôn t ừ phát ra t ừ miệng con người, mới đ áng tin<br />
tưởng. Ch ữ nhân đứng là ch ủ đạo, đặt trước ch ữ ngôn, thành ch ữ Tín. Thiếu đi ch ữ Nhân thì ch ỉ còn là<br />
ch ữ ngôn, những lời nói (suông) mà thôi, không đáng tin! Trong Tu Thân của Khổng giáo, Tín là mộ t<br />
trong ng ũ thường: Nhân, Nghĩa, L ễ, Trí, Tín. Không T ử dạ y 人而無信, 不知其可也 - Nhân nhi vô tín,<br />
bất tri k ỳ kh ả dã. Nhân là người, nhi là h ư t ừ "mà", tri là biết, k ỳ là h ư t ừ " đó, ấy" tức là ngườ i mà<br />
không (trọng) tín, (thì) không biết người đó có th ể (kh ả năng) làm được gì nữa. Hơn nữa, là người, mộ t<br />
khi đã phát ra lời thì phải biết gi ữ lời nói của mình, có vậy mới gi ữ được ch ữ Tín. Nhất ngôn ký xuất tứ<br />
mã nan truy là do vậ y. Nhất s ự bất tín, vạn s ự bất tin cũng là vì th ế.<br />
Một lần Thục Nhi và một đồng nghiệp phải cùng làm một báo cáo gấp. Người này hứa s ẽ hoàn tấ t<br />
phần báo cáo của anh ta cho Thục Nhi để nàng ráp lại trong phần báo cáo chung. Đến hẹn đị nh mà<br />
chưa thấy tin tức, Thục Nhi lo lắng hỏi hai n ữ đồng nghiệp. Một người trách: "Trong công việc phả i<br />
luôn luôn gi ữ th ư t ừ làm bằng chứng, hẹn suông ch ỉ là lời nói gió bay." Người kia hỏi: "Ai hẹn vớ i<br />
muội?" Nghe xong, t ỷ ấy nói: "Ta biết người này, ch ỉ cần một lời nói của huynh ấy là muội c ứ yên<br />
tâm". Qu ả nhiên, chiều đó Thục Nhi nhận được phần báo cáo của anh ta. V ị s ư t ỷ người phương Tây đ ó<br />
phán xét việc này bắt đầu t ừ ch ữ nhân, xem ra không xa với ch ữ Tín của phương Đông.<br />
Trong kiếm hiệp võ lâm, thương mại, công việc hay trong đời sống hàng ngày, ch ữ Tín thậ t vô<br />
cùng quan trọng. C ứ xem trong th ế giới của Kim Dung, đâu cần phải soạn hợp đồng văn bản, ngườ i ta<br />
ch ỉ cần một lời nói của chính nhân quân t ử. Lời cam kết của Quách, Dương nh ị đại hiệp (cha củ a<br />
Quách Tĩnh, Dương Khang), lời giao hẹn của Giang Nam thất hiệp và Khưu X ứ C ơ, Lệnh H ồ Xung khi<br />
cận k ề cái chết cũng không chịu phản bội phái Hoa Sơn gia nhập Thiếu Lâm học Dịch Cân Kinh để cứ u<br />
mình, và còn biết bao anh hùng khiến chúng ta cảm kích nh ư th ế nữa. Nam<br />
t ử hán đại trượng phu, nhấ t<br />
ngôn cửu đỉnh, lời nói ngàn cân, coi thường tính mạng, gi ữ gìn ch ữ Tín, là vậy đó.<br />
Ngày nay, xã hội đề ra biết bao luật pháp, luật quốc t ế, luật thương mại, luật hôn nhân, luậ t hình<br />
s ự, biết bao là lĩnh vực của luật, lại thêm trăm ngàn nguyên tắc và vô vàn hãng luật soạn thảo văn bả n<br />
hợp đồng cho chặt ch ẽ, và t ư vấn kiện tụng cho thân ch ủ. Phầ n Ngôn 言 trong ch ữ Tín 信 dường như<br />
lấn át ch ữ Nhân vốn là phần ch ủ đạo - là b ộ th ủ đứng trước - là phần dẫn dắt ch ữ Tín.<br />
Khổng tiên sinh, chén trà này Thục Nhi hậu bối xin kính dâng tiền bối. Khấp, bất thành thanh!<br />
***<br />
Đêm rằm đầu tiên của mùa thu năm nay, Thục Nhi ngồi lặng l ẽ bên khay trà, lắng lòng nghe nhữ ng<br />
thanh âm khuya khoắt. Tiếng d ế, tiếng côn trùng r ỉ r ả, tiếng những cành dương liễu lao xao đ an nhau.<br />
Nghe đâu t ừ xa lắm lắm, vọng tới tiếng th ở dài của một tri âm tri k ỷ phương xa:<br />
- Cõi đời này, khó biết ai tốt ai không tốt, Người đáng tin hay K ẻ bất tín, thời gian s ẽ tr ả lời...! ■<br />
Minh Nguyệt D ạ, LệMai - Thanh Trà Tiên T ử cảm bút!
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 28<br />
Chú thích:<br />
* Cữu – cậu. ** Trà San Tuyết thường được gọi Trà Shan Tuyết. ***- Cõi đời này, khó biết ai tốt ai không tốt, Người đáng tin hay K ẻ bất tín, thời gian s ẽ tr ả lờ i...!<br />
phỏng dịch theo status của một người bạn đúng vào đêm rằm đầu tiên của mùa Thu năm nay.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 29<br />
Trª VŠ PhÓ H†c Quartier Latin<br />
Dã Thäo<br />
« Ôi muà thu Paris<br />
Lá vàng theo lối đi<br />
Đưa em về xóm học<br />
Nặng mãi khối tình si »<br />
Trưa hôm nay, nắng không hanh lắm, dường như ngọn gió thu đầu muà cũng chỉ vừa đủ hôn lên má<br />
thiếu nữ, phơn phớt làm se lạnh một chút thôi lên tim khách lãng du. . Dã-Thảo xin rủ các bạn hãy<br />
khoác nhẹ một chiếc áo lạnh, và đi cùng với Dã-Thảo đến viếng cái « phố học » nổi tiếng nhất Paris,<br />
còn được gọi là « Quartier Latin », mà bất cứ người khách lạ nào, khi đã đặt chân tới đây, cũng đều<br />
muốn được trầm mình trong cái bầu không khí vui nhộn và vô cùng lãng mạn nầy, ngớ ngẩn đi bộ, hoà<br />
mình theo làn sóng người tấp nập, và thả hồn<br />
để cảm nhận tất cả những rung cảm tuyệt vời<br />
theo những bước chân học trò của người….và<br />
của chính ta, một thời nào đó xa xưa….<br />
Thật sự ra, «Quartier Latin », trái tim<br />
của « Xóm học », không phải chỉ là một nơi<br />
dừng chân của các sinh viên thường lang<br />
thang để thưởng thức một bánh pizza rẻ tiền,<br />
mà chính thật, « Quartier Latin » đã ăn sâu<br />
trong sử học nhờ còn trông thấy được một<br />
cách rõ ràng những cảnh vật đa dạng của nó,<br />
với những vết tích còn được gìn giữ của<br />
Les <strong>The</strong>rmes de Cluny<br />
những thời đại « Galô-La Mã » (Gallo-romaine) và thời « Trung Cổ » (Moyen Âge), ví dụ « nhà tắm<br />
công cộng Cluny » (les thermes de Cluny). Rồi còn có Hôtel de<br />
Cluny, đựơc xây dựng lên trên nhà tắm công cộng của La Mã vào thế<br />
kỷ thứ ba. Những phòng to rộng đồ sộ, đã chứng dẫn cho chúng ta<br />
thấy tầm quan trọng của dân La Mã, đã gắn bó như thế nào với<br />
những sự chăm sóc thân thể của họ vào thời ấy.<br />
Hôtel de Cluny với kiến trúc gothique tỏa tia (style gothique<br />
rayonnant), rất phổ biến ở Châu Âu vào thế kỷ 12 – 16, được xây cất<br />
lại vào thế kỷ 15 cho Jacques d’Amboise. Công trình nầy là một<br />
trong những kiến trúc dân sự hiếm hoi còn sót lại theo phong cách<br />
trên, tại Paris. Nhà nầy đựơc dùng lúc khởi đầu, làm nơi nghỉ chân<br />
cho dân Paris và cho những giáo sĩ thuộc tu viện Bourgogne (Abbaye<br />
Bourguignonne de Cluny), từ đó mới có tên gọi.<br />
Hôtel de Cluny cũng bao gồm cạnh đó Bảo Tàng Viện thời<br />
Trung Đại (Musée du Moyen-Âge), cũng như nhà thờ Saint-Julienle-Pauvre<br />
(Eglise Saint-Julien-le-Pauvre), nhà thờ nhỏ nhất và cổ<br />
nhất Paris. Giáo đường nầy đã là nơi trú ẩn cho khách hành hương<br />
Eglise Saint-Julien-le-Pauvre
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 30<br />
cũng như những người đi đường, và được xử dụng cho những nghi lễ công giáo, theo nghi thức Hy<br />
Lạp.<br />
Sau đó, chúng ta hãy bước sang con đường Galande (la rue Galande), một con đường rất được<br />
nhiều họa sĩ lui tới, và đa số những căn nhà nơi đây đều thuộc thời Trung cổ. Từ con đường nầy, chúng<br />
ta hãy tiếp tục thả bộ sang con đường Saint-Jacques, một con đường rất dài, rất trù phú thương mại với<br />
những hiệu ăn, tiệm càphê , và đó cũng là con đường cổ nhất<br />
Paris. Ngày xưa, những người sắp đi hành hương về Saint-<br />
Jacques de Compostelle, thường mượn con đường nầy để khởi<br />
hành.<br />
Từ đường Saint Jacques, chúng ta hãy ghé qua thăm giáo<br />
đường Saint Séverin và công viên nhỏ của nó, (Eglise Saint Séverin<br />
et son square) . Nhà thờ nầy tập hợp lại những kiểu kiến trúc khác<br />
nhau và đã được xây cất vào năm 1230, để tưởng niệm thánh<br />
Séverin. Nhưng với sự tăng trưởng đều đặn về dân số, giáo đường<br />
đã được mở rộng ra cho đến thế kỷ thứ 15. <strong>The</strong>o dòng chảy của<br />
những thế kỷ đi qua, chúng ta có thể nhận thấy những đa dạng về<br />
các phong cách kiến trúc nầy càng làm tăng thêm tầm quan trọng<br />
của nhà thờ.. Cạnh bên giáo đường là một khu vườn trung cổ<br />
(jardin médiéval), được sáng tạo ra trước kia, vừa là nơi giải trí của<br />
Eglise Saint-Séverin<br />
những cư dân của Hôtel de Cluny, và cũng vưà để chu cấp cho họ thức ăn với khoảng vườn trồng rau,<br />
và cũng để chữa trị cho họ những lúc đau yếu với những dược thảo được trồng ngay đấy. Đến năm<br />
2000, một khu vườn kiểu thời trung đại đã được gợi ý từ đó để được tái tạo trở lại…<br />
Trước khi chúng ta rời khỏi khu Quartier Latin, Dã Thảo cũng xin mời các bạn hãy dừng bước<br />
tại trường Quốc Học Pháp (Collège de France) mà có<br />
lẽ ít ai đã biết đến. Trường Quốc Học nầy đã cất giữ<br />
dưới chân nó những nhà tắm công cộng của thời đại<br />
Galô-La Mã. Thể chế của trường nầy được sáng lập<br />
Collège de France<br />
vào năm 1530 bởi vua François 1 er . Ngày nay, trường<br />
Quốc Học trở thành một trung tâm nghiên cứu và<br />
giảng dạy, mở rộng ra cho mọi người với lối giáo dục<br />
tự do, không ràng buộc bởi cấp bằng. Ai thích khảo<br />
sát về một vấn đề nào đó (được ghi sẵn trong chương<br />
trình), đều có thể ghi tên vào nghe diễn thuyết.<br />
Tóm tắt lại, tất cả tính đa dạng kiến trúc của Quartier Latin đã tạo thành nét độc đáo đơn<br />
phương cho khu phố học nầy, và biến nó thành một nơi hoàn toàn khác dạng thông thường với những<br />
quận lân cận khác của Paris, để trở về sau, chúng ta sẽ không còn nhìn Quartier Latin với một cung<br />
cách hoặc dưới một lăng kính như trước đây nữa. Ôi, cái phố học muôn thuở trữ tình, hoa nắng mãi còn<br />
lung linh trong đôi mắt xanh biếc của em, những tiếng cười rộn ràng, những môi hôn vôi vã, những<br />
bước chân thoăn thoắt như đang rượt đuổi theo những chuyện tình chớp nhoáng, vụng dại của tuổi<br />
thanh xuân….
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 31<br />
Bây giờ, chúng ta hãy cố gắng tiếp tục chuyến viếng thăm của chúng ta, lấy métro từ Saint<br />
Michel để về Auber. Ra khỏi trạm nầy là chúng ta sẽ tới Place de l’Opéra. Còn một tháng nữa là đến<br />
Giáng Sinh, vùng nầy tấp nập những du khách bốn phương và dân bản xứ, đi xem và sắm sửa, vì nơi<br />
đây, tất cả các thương hiệu lớn và nổi tiếng nhất Paris đều tập trung vào đấy. Ắt hẳn ai cũng đều nghe<br />
và biết đến các cửa hàng lớn nhu Galeries Lafayette, Printemps, Monoprix…Max and Spencer, H &<br />
M… C&A….Còn nhiều và nhiều lắm…Chưa chi mà các loại đèn đuốc đã trang điểm sặc sỡ đường<br />
phố, cây cỏ, các tiệm tùng đã chưng bày rực rỡ những hàng hóa Giáng sinh, và đến đây, chúng ta cứ<br />
ngỡ như đang lạc lối về cõi thiên thai vô cùng diễm ảo nào đó….Nhưng chúng mình hãy tạm gác lại<br />
những thú vui trần cảnh nầy để đi vào Opéra, một di tích có một không hai trên thế giới, mà bỏ lở cơ<br />
hội độc đáo nầy thì thật vô cùng đáng tiếc.<br />
Opéra, còn được gọi là Lâu Đài Garnier (le Palais Garnier), là một kiệt tác của nghệ thuật. Khởi<br />
đầu, lâu đài Garnier là nơi<br />
biểu diễn Opéra thứ mười ba<br />
ở Paris, từ khi sáng lập thể<br />
chế nầy bởi vua Louis XIV<br />
năm 1669. Công trình xây<br />
dựng Palais Garnier nầy, được<br />
ra đời do ý muốn của<br />
Napoléon III, trong khuôn<br />
khổ canh tân lại các kiến trúc<br />
to lớn của thủ đô, dưới sự<br />
điều hành khéo léo của Nam<br />
tước Haussmann (Baron<br />
Haussmann), và theo chỉ thị<br />
của Napoléon III . Opéra<br />
được đưa ra để thi tuyển, và<br />
Charles Garnier, một kiến<br />
Le Palais Garnier (Opéra Garnier)-Le Grand Foyer<br />
trúc sư trẻ, vô danh, ba mươi lăm tuổi, đoạt giải qua sự thử nghiệm nầy. Công trình đã kéo dài suốt<br />
mười lăm năm, từ năm 1860 đến 1875 mới hoàn thành, bị ngưng lại nhiều lần bởi có nhiều đột biến đã<br />
xảy ra, như chiến tranh năm1870, sự sụp đổ của đế chế và Công Xã Pháp, (la guerre de 1870, la chute<br />
du régime impérial et la Commune). Palais Garnier đã được khai trương ngày mười lăm tháng Giêng<br />
năm 1875.<br />
Phải nhìn nhận rằng kiến trúc của Opéra rất chọn lọc, mà kiểu ba-rốc (style baroque), với phong<br />
cách rườm rà hoa mỹ của nửa sau thế kỷ 16 – 18 đã chiếm ưu thế., và vì có thần cảm với nhiều chiều<br />
hướng khác, đặc biệt trong số ấy là nhà hát lớn của Bordeaux (Grand Théâtre de Bordeaux) của Victor<br />
Louis, nên từ căn nguyên nầy, công trình xây dựng đều thể hiện toàn bộ theo phong cách Đế Chế thứ II<br />
(Second Empire).<br />
Tất cả những vật liệu rất khác biệt đã được mang ra để khai thác cái « điện thờ nghệ thuật »<br />
nầy, như : các loại đá, chất giả cẩm thạch, đá hoa, sắt, thạch cao…… Tính đa dạng về màu sắc của mặt<br />
ngoài, tương phản với lối đơn điệu buồn tẻ của kiểu kiến trúc Haussmannien chung quanh. Ở bên trong,<br />
dường như tất cả nghệ thuật được cô động lại để phô diễn cho thị giác trước khi chiêu đãi thính giác,<br />
như cái trần nhà nổi tiếng với bức họa trang trí trần của Chagall năm 1964, đã gây ra bao nhiêu chứng<br />
vẹo cổ (torticolis) cho du khách, khi phải nguấy đầu lên để thưởng thức.<br />
Rồi còn một giai thoại, cái truyền thuyết về một hồ bí mật dưới địa đạo Opéra, đã được duy trì<br />
bởi một trường thiên tiểu thuyết nổi tiếng của Gaston Deroux, mà ai ai cũng có lần nghe và đọc qua
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 32<br />
«Bóng ma của nhà hát Opéra » (le fantôme de l’Opéra). Thật sự ra, vẫn có sự hiện hữu của một cái bể<br />
chứa nước, được xây cất phía dưới công trình nầy, dùng để gia cố rắn chắc các nền móng, và cũng là hồ<br />
dự trữ nước để xử dụng trong các trường hợp có hỏa hoạn.<br />
Tóm tắt lại, mặt chính của Toà nhà Opéra đã được hoàn toàn tân trang lại vào năm 2000. Nó đã<br />
tìm lại được tính nhiều màu của thuở khởi thủy, với những mảnh vàng được quy định cho nó.<br />
Tới đây, Dã Thảo xin chia tay với các bạn. Mong rằng tình yêu với một thành phố là những âm<br />
thanh, tiếng thì thào của những con đường, những độ dốc của những mái nhà, màu sắc của những phiến<br />
đá….và còn những con người tốt, vui vẻ, hồn nhiên, niềm nở….trong số ấy, xin các bạn đừng quên là<br />
có Dã-Thảo, người « hướng dẫn viên » đang đưa các bạn thưởng ngoạn vài nơi tại thành phố Paris trữ<br />
tình nầy…. Ngoài những thứ ấy ra, nét quyến rũ của Paris vẫn là lối sống, cái tính chất vô cùng độc đáo<br />
của người dân Pháp, cái đám đông dân chúng ở ngoài, ở trên đường, những quán càphê, trên những bờ<br />
kè, không khí luôn luôn vui nhộn, hào hứng như lễ hội, mãi mãi có tính năng động nhưng không đánh<br />
mất linh hồn của nó….■<br />
Paris. Dã Thảo 28/11/2010<br />
(Riêng tặng anh Lê Duy Tâm, người bạn mà tâm hồn rất nặng tình với thành phố nhiều kỷ niệm nầy).
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 33<br />
Bá Nha Tº Kÿ<br />
Phí Minh Tâm<br />
子 期 遺 恨 身 先 去<br />
伯 牙 摔 琴 謝 知 音<br />
Tử Kỳ di hận thân tiên khứ<br />
Bá Nha suất cầm tạ tri âm<br />
Bá Nha và Tử Kỳ là hai người bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sách Lã Thị Xuân Thu có chép:<br />
“Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm”. Tử Kỳ còn khen tiếng đàn của Bá Nha lúc thì “nguy<br />
nguy hồ chí tại cao sơn", lúc thì "dương dương hồ chí tại lưu thủy”.<br />
Bá Nha, họ Du tên Thụy, là người nước Sở, nhưng làm quan Thượng Ðại Phu nước Tấn. Bá<br />
Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời và không bao giờ<br />
rời cây Dao cầm yêu quý của mình.<br />
Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, là một danh sĩ ẩn dật làm nghề đốn củi để báo hiếu cha mẹ tuổi già<br />
nua, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương.<br />
Phần I<br />
Năm đó, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở. Trên đường về, khi thuyền đến cửa sông Hán<br />
Dương, nhằm đêm Trung Thu sáng trăng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân<br />
núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha sai quân<br />
hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm, xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây<br />
vặn trục. Sau đó đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm. Chưa dứt<br />
bài, đàn bỗng đứt dây.<br />
Bá Nha giựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế này ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai<br />
quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lãnh lịnh lên bờ thì bỗng<br />
có người từ trên bờ lên tiếng:<br />
- Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn<br />
tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành!<br />
Bá Nha cười lớn bảo:<br />
- Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta?<br />
Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:<br />
- Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của<br />
người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ<br />
trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến... Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không<br />
người biết nghe đàn, thì cũng không nên khảy lên khúc đàn tuyệt diệu làm gì.<br />
Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, liền tiến sát đến<br />
mũi thuyền dịu giọng nói:
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 34<br />
rằng:<br />
- Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không?<br />
- Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời<br />
Khả tích Nhan Hồi mệnh tảo vong<br />
Giáo nhân tư tưởng mấn như sương<br />
Chỉ nhân lậu hạng đan biều lạc<br />
- Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu bốn là:<br />
Lưu đắc hiền danh vạn cổ dương.<br />
可惜顏回命早亡<br />
教人思想鬓如霜<br />
衹因陋巷簞瓢樂<br />
留得賢名萬古揚<br />
Tạm dịch thơ:<br />
Nhan Hồi mất sớm thật đau thương,<br />
Tư tưởng dạy người tóc bạc sương.<br />
Ngõ hẹp nước bầu cơm giỏ hẩm (1)<br />
<strong>Dan</strong>h hiền lưu mãi cỏi trần dương.<br />
(1) Nhan Hồi vui trong cảnh khốn khổ, sống trong ngõ hẹp chỉ với giỏ cơm và bầu nước.<br />
Phần II<br />
Tử Kỳ tinh thông nhạc lý, tinh tường Dao cầm, thấu rõ lòng Bá Nha qua tiếng đàn, lúc cao vòi vọi, chí<br />
tại non cao, lúc thì mênh mông trời nước bao la, ý như nước chảy. Bá Nha vô cùng bái phục và xin kết<br />
nghĩa anh em. Trước khi chia tay, hai người hẹn gặp lại năm sau cũng tại chốn này.<br />
Mùa thu năm sau, khi Bá Nha trở lại Mã Yên thì Tử Kỳ, vì bệnh, mới chết mộ còn chưa xanh<br />
cỏ. Chung lão, thân phụ của Tử Kỳ đưa Bá Nha đến mộ. Bên phần mộ Tử Kỳ, Bá Nha lạy và khóc nức<br />
nở rằng: Hiền đệ ơi, lúc sống anh tuấn tuyệt vời, nay chết, khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám<br />
cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt.<br />
Lạy xong, Bá Nha gọi đem Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất<br />
một cách nghiêm trang, so dây tấu khúc "Thiên thu trương hận", tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng.<br />
Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi<br />
lâu mới tan. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha<br />
nhìn Chung lão thưa:<br />
- Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để<br />
viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:<br />
憶昔去年秋<br />
江邊曾會君<br />
今日重來訪<br />
不見知音人<br />
但見一杯土<br />
慘然傷我心<br />
傷心傷心復<br />
Ức tích khứ niên thu<br />
Giang biên tằng hội quân<br />
Kim nhật trùng lai phỏng<br />
Bất kiến tri âm nhân<br />
Đãn kiến nhất bôi thổ<br />
Thảm nhiên thương ngã tâm<br />
Thương tâm thương tâm phục
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 35<br />
不忍淚紛紛<br />
來歡去何苦<br />
江畔起愁雲<br />
子期子期兮<br />
你我千金義<br />
曆儘天涯無足語<br />
此曲終兮不復彈<br />
三尺瑤琴為君死<br />
Dịch nghĩa:<br />
Nhớ đến mùa thu năm trước<br />
Từng gặp bạn bên bờ sông<br />
Hôm nay trở lại tìm<br />
Không thấy người tri âm<br />
Chỉ thấy một nấm mộ đất<br />
Thảm thiết đau thương lòng ta<br />
Ôi thương tâm! Lại thương tâm!<br />
Không cầm được nước mắt ròng ròng<br />
Vui đến rồi đi, còn lại đau khổ<br />
Mây sầu trổi lên bên ven sông<br />
Tử Kỳ hởi! Tử Kỳ ơi!<br />
Em và anh có nghĩa ngàn vàng<br />
Dù đến tận vô bến bờ cũng không nói hết lời<br />
Vậy khúc nhạc này cũng dứt không đàn nữa<br />
Dao cầm ba thước chết luôn theo em.<br />
Bất nhẫn lệ phân phân<br />
Lai hoan khứ hà khổ<br />
Giang bạn khởi sầu vân<br />
Tử kỳ tử kỳ hề<br />
Nhĩ ngã thiên kim nghĩa<br />
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ<br />
Thử khúc chung hề bất phúc đàn<br />
Tam xích dao cầm vị quân tử.<br />
Dịch thơ:<br />
Từ nhớ đến mùa thu năm trước<br />
Bến trường giang gặp bạn cố nhân<br />
Năm nay lại đến Giang Tân<br />
Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi<br />
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi<br />
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng<br />
Ôi thương tâm, ôi thương tâm<br />
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi<br />
Mây sầu thấp thoáng chân trời<br />
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau<br />
Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi<br />
Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can<br />
Thôi từ nay, thôi phím đàn<br />
Ngàn thu thôi hết mơ mòng cố nhân...<br />
Khuyết <strong>Dan</strong>h
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 36<br />
Phần III<br />
Lời thơ vừa dứt, Bá Nha vái cây Dao cầm một vái, tay nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng<br />
đá. Dao cầm vỡ tan nát tung từng mảnh, trụ ngọc, phím vàng rơi lả tả.<br />
Chung lão không kịp ngăn, hoảng kinh hỏi rằng:<br />
- Sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí giá này?<br />
Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:<br />
Suất toái dao cầm phượng vĩ hàn<br />
Tử Kỳ dĩ thệ hướng thùy đàn<br />
Đại thiên thế giới giai bằng hữu<br />
Dục mịch tri âm nan thượng nan!<br />
摔碎瑤琴鳳尾寒<br />
子期已逝向誰彈<br />
大千世界皆朋友<br />
欲覓知音難上難<br />
Tạm dịch thơ:<br />
Đập nát Dao cầm đau xót phượng (1)<br />
Tử Kỳ không có đàn cho ai<br />
Bốn phương trời đất bao bè bạn<br />
Tìm được tri âm khó lắm thay!<br />
Dao cầm được làm từ phần gổ tốt nhất của cây ngô đồng. Khi xưa vua Phục Hy thấy 5 vì sao rơi vào cây ngô đồng, rồi có<br />
chim phượng hoàng đến đậu. Biết là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Ðất, nên vua bảo thợ khéo lấy gổ chế làm nhạc khí<br />
gọi là Dao cầm, bắt chước nhạc khí ở Cung Dao Trì. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 37<br />
Marroca<br />
Par Guy de Maupassant<br />
Mon ami, tu m'as demandé de t'envoyer mes impressions, mes aventures, et surtout mes histoires<br />
d'amour sur cette terre d'Afrique qui m'attirait depuis si longtemps. Tu riais beaucoup, d'avance, de mes<br />
tendresses noires, comme tu disais; et, tu me voyais déjà revenir suivi d'une grande femme en ébène,<br />
coiffée d'un foulard jaune, et ballottante en des vêtements éclatants.<br />
Le tour des Mauricaudes viendra sans doute, car j'en ai vu déjà plusieurs qui m'ont donné<br />
quelque envie de me tremper en cette encre; mais je suis tombé pour mon début sur quelque chose de<br />
mieux et de singulièrement original.<br />
Tu m'as écrit, dans ta dernière lettre: «Quand je sais comment on aime dans un pays, je connais<br />
ce pays à le décrire, bien que ne l'ayant jamais vu.» Sache qu'ici on aime furieusement. On sent, dès les<br />
premiers jours, une sorte d'ardeur frémissante, un soulèvement, une brusque tension des désirs, un<br />
énervement courant au bout des doigts, qui surexcitent à les exaspérer nos puissances amoureuses et<br />
toutes nos facultés de sensation physique, depuis le simple contact des mains jusqu'à cet innommable<br />
besoin qui nous fait commettre tant de sottises.<br />
Entendons-nous bien. Je ne sais si ce que vous appelez l'amour du coeur, l'amour des âmes, si<br />
l'idéalisme sentimental, le platonisme enfin, peut exister sous ce ciel; j'en doute même. Mais l'autre<br />
amour, celui des sens, qui a, du bon, et beaucoup de bon, est véritablement terrible en ce climat. La<br />
chaleur, cette constante brûlure de l'air qui vous enfièvre, ces souffles suffocants du Sud, ces marées de<br />
feu venues du grand désert si proche, ce lourd siroco, plus ravageant, plus desséchant que la flamme, ce<br />
perpétuel incendie d'un continent tout entier brûlé jusqu'aux pierres par un énorme et dévorant soleil,<br />
embrasent le sang, affolent la chair, embestialisent.<br />
Mais j'arrive à mon histoire. Je ne te dis rien de mes premiers temps de séjour en Algérie. Après<br />
avoir visité Bône, Constantine, Biskra et Sétif, je suis venu à Bougie par les gorges du Chabet, et une<br />
incomparable route au milieu des forêts kabyles, qui suit la mer en la dominant de deux cents mètres, et<br />
serpente selon les testons de la haute montagne, jusqu'à ce merveilleux golfe de Bougie aussi beau que<br />
celui de Naples, que celui d'Ajaccio et que celui de Douarnenez, les plus admirables que je connaisse.<br />
J'excepte dans ma comparaison cette invraisemblable baie de Porto, ceinte de granit rouge, et habitée<br />
par les fantastiques et sanglants géants de pierre qu'on appelle les «Calanche» de Piana, sur les côtes<br />
Ouest de la Corse.<br />
De loin, de très loin, avant de contourner le grand bassin où dort l'eau pacifique, on aperçoit<br />
Bougie. Elle est bâtie sur les flancs rapides d'un mont très élevé et couronné par des bois. C'est une<br />
tache blanche dans cette pente verte; on dirait l'écume d'une cascade tombant à la mer.<br />
Dès que j'eus mis le pied dans cette toute petite et ravissante ville, je compris que j'allais y rester<br />
longtemps. De partout l'oeil embrasse un vaste cercle de sommets crochus, dentelés, cornus et bizarres,<br />
tellement formé qu'on découvre à peine la pleine mer, et que le golfe a l'air d'un lac. L'eau bleue, d'un<br />
bleu laiteux, est d'une transparence admirable; et le ciel d'azur, d'un azur épais, comme s'il avait reçu<br />
deux couches de couleur, étale au-dessus sa surprenante beauté. Ils semblent se mirer l'un dans l'autre et<br />
se renvoyer leurs reflets.<br />
Bougie est la ville des ruines. Sur le quai, en arrivant, on rencontre un débris si magnifique,<br />
qu'on le dirait d'opéra. C'est la vieille porte Sarrasine, envahie de lierre. Et dans les bois montueux<br />
autour de la cité, partout des ruines, des pans de murailles romaines, des morceaux de monuments<br />
sarrasins, des restes de constructions arabes.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 38<br />
J'avais loué dans la ville haute une petite maison mauresque. Tu connais ces demeures si<br />
souvent décrites. Elles ne possèdent point de fenêtres en dehors; mais une cour intérieure les éclaire du<br />
haut en bas. Elles ont, au premier, une grande salle fraîche où l'on passe les jours, et tout en haut une<br />
terrasse où l'on passe les nuits.<br />
Je me mis tout de suite aux coutumes des pays chauds, c'est-à-dire à faire la sieste après mon<br />
déjeuner. C'est l'heure étouffante d'Afrique, l'heure où l'on ne respire plus, l'heure où les rues, les<br />
plaines, les longues routes aveuglantes sont désertes, où tout le monde dort, essaye au moins de dormir,<br />
avec aussi peu de vêtements que possible.<br />
J'avais installé dans ma salle à colonnettes d'architecture arabe un grand divan moelleux,<br />
couvert de tapis du Djebel-Amour. Je m'étendais là-dessus à peu près dans le costume d'Assan, mais je<br />
n'y pouvais guère reposer, torturé par ma continence.<br />
Oh! mon ami, il est deux supplices de cette terre que je ne te souhaite pas de connaître: le<br />
manque d'eau et le manque de femmes. Lequel est le plus affreux? Je ne sais. <strong>Dan</strong>s le désert, on<br />
commettrait toutes les infamies pour un verre d'eau claire et froide. Que ne ferait-on pas en certaines<br />
villes du littoral pour une belle fille fraîche et saine? Car elles ne manquent pas, les filles, en Afrique!<br />
Elles foisonnent, au contraire; mais, pour continuer ma comparaison, elles y sont toutes aussi<br />
malfaisantes et pourries que le liquide fangeux des puits sahariens.<br />
Or, voici qu'un jour, plus énervé que de coutume, je tentai, mais en vain, de fermer les yeux.<br />
Mes jambes vibraient comme piquées en dedans; une angoisse inquiète me retournait à tout moment<br />
sur mes tapis. Enfin, n'y tenant plus, je me levai et je sortis.<br />
C'était en juillet, par une après-midi torride. Les pavés des rues étaient chauds à cuire du pain; la<br />
chemise, tout de suite trempée, collait au corps; et, par tout l'horizon, flottait une petite vapeur blanche,<br />
cette buée ardente du siroco, qui semble de la chaleur palpable.<br />
Je descendis près de la mer; et, contournant le port, je me mis à suivre la berge le long de la<br />
jolie baie où sont les bains. La montagne escarpée, couverte de taillis, de hautes plantes aromatiques<br />
aux senteurs puissantes, s'arrondit en cercle autour de cette crique où trempent, tout le long du bord, de<br />
gros rochers bruns.<br />
Personne dehors; rien ne remuait; pas un cri de bête, un vol d'oiseau, pas un bruit, pas même un<br />
clapotement, tant la mer immobile paraissait engourdie sous le soleil. Mais dans l'air cuisant, je croyais<br />
saisir une sorte de bourdonnement de feu.<br />
Soudain, derrière une de ces roches à demi noyées dans l'onde silencieuse, je devinai un léger<br />
mouvement; et, m'étant retourné, j'aperçus, prenant son bain, se croyant bien seule à cette heure<br />
brûlante, une grande fille nue, enfoncée jusqu'aux seins. Elle tournait la tête vers la pleine mer, et<br />
sautillait doucement sans me voir.<br />
Rien de plus étonnant que ce tableau: cette belle femme dans cette eau transparente comme un<br />
verre, sous cette lumière aveuglante. Car elle était belle merveilleusement, cette femme, grande,<br />
modelée en statue.<br />
Elle se retourna, poussa un cri, et, moitié nageant, moitié marchant, se cacha tout à fait derrière<br />
sa roche.<br />
Comme il fallait bien qu'elle sortît, je m'assis sur la berge et j'attendis. Alors elle montra tout<br />
doucement sa tête surchargée de cheveux noirs liés à la diable. Sa bouche était large, aux lèvres<br />
retroussées comme des bourrelets, ses yeux énormes, effrontés, et toute sa chair un peu brunie par le<br />
climat semblait une chair d'ivoire ancien, dure et douce, de belle race blanche teintée par le soleil des<br />
nègres.<br />
Elle me cria: «Allez-vous-en.» Et sa voix pleine, un peu forte comme toute sa personne, avait<br />
un accent guttural. Je ne bougeai point. Elle ajouta: «Ça n'est pas bien de rester là, monsieur.» Les r,<br />
dans sa bouche, roulaient comme des chariots. Je ne remuai pas davantage. La tête disparut.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 39<br />
Dix minutes s'écoulèrent; et les cheveux, puis le front, puis les yeux se remontrèrent avec<br />
lenteur et prudence, comme font les enfants qui jouent à cache-cache pour observer celui qui les<br />
cherche.<br />
Cette fois, elle eut l'air furieux; elle cria: «Vous allez me faire attraper mal. Je ne partirai pas<br />
tant que vous serez là.» Alors je me levai et m'en allai, non sans me retourner souvent. Quand elle me<br />
jugea assez loin, elle sortit de l'eau, à demi courbée, me tournant ses reins; et elle disparut dans un<br />
creux du roc, derrière une jupe suspendue à l'entrée.<br />
Je revins le lendemain. Elle était encore au bain, mais vêtue d'un costume entier. Elle se mit à<br />
rire en me montrant ses dents luisantes.<br />
Huit jours après, nous étions amis. Huit jours de plus, et nous le devenions encore davantage.<br />
Elle s'appelait Marroca, d'un surnom sans doute, et prononçait ce mot comme s'il eût contenu<br />
quinze r. Fille de colons espagnols, elle avait épousé un Français nommé Pontabèze. Son mari était<br />
employé de l'État. Je n'ai jamais su bien au juste quelles fonctions il remplissait. Je constatai qu'il était<br />
fort occupé, et je n'en demandai pas plus long.<br />
Alors, changeant l'heure de son bain, elle vint chaque jour après mon déjeuner faire la sieste en<br />
ma maison. Quelle sieste! Si c'est là se reposer!<br />
C'était vraiment une admirable fille, d'un type un peu bestial, mais superbe. Ses yeux semblaient<br />
toujours luisants de passion; sa bouche entr'ouverte, ses dents pointues, son sourire même avaient<br />
quelque chose de férocement sensuel; et ses seins étranges, allongés et droits, aigus comme des poires<br />
de chair, élastiques comme s'ils eussent renfermé des ressorts d'acier, donnaient à son corps quelque<br />
chose d'animal, faisaient d'elle une sorte d'être inférieur et magnifique, de créature destinée à l'amour<br />
désordonné, éveillaient en moi l'idée des obscènes divinités antiques dont les tendresses libres<br />
s'étalaient au milieu des herbes et des feuilles.<br />
Et jamais femme ne porta dans ses flancs de plus inapaisables désirs. Ses ardeurs acharnées et<br />
ses hurlantes étreintes, avec des grincements de dents, des convulsions et des morsures, étaient suivies<br />
presque aussitôt d'assoupissements profonds comme une mort. Mais elle se réveillait brusquement en<br />
mes bras, toute prête à des enlacements nouveaux, la gorge gonflée de baisers.<br />
Son esprit, d'ailleurs, était simple comme deux et deux font quatre, et un rire sonore lui tenait<br />
lieu de pensée.<br />
Fière par instinct de sa beauté, elle avait en horreur les voiles les plus légers; et elle circulait,<br />
courait, gambadait dans ma maison avec une impudeur inconsciente et hardie. Quand elle était enfin<br />
repue d'amour, épuisée de cris et de mouvement, elle dormait à mes côtés, sur le divan, d'un sommeil<br />
fort et paisible; tandis que l'accablante chaleur faisait pointer sur sa peau brunie de minuscules gouttes<br />
de sueur, dégageait d'elle, de ses bras relevés sous sa tête, de tous ses replis secrets, cette odeur fauve<br />
qui plaît aux mâles.<br />
Quelquefois elle revenait le soir, son mari étant de service je ne sais où. Nous nous étendions<br />
alors sur la terrasse, à peine enveloppés en de fins et flottants tissus d'Orient.<br />
Quand la grande lune illuminante des pays chauds s'étalait en plein dans le ciel, éclairant la ville<br />
et le golfe avec son cadre arrondi de montagnes, nous apercevions alors sur toutes les autres terrasses<br />
comme une armée de silencieux fantômes étendus qui parfois se levaient, changeaient de place, et se<br />
recouchaient sous la tiédeur langoureuse du ciel apaisé.<br />
Malgré l'éclat de ces soirées d'Afrique, Marroca s'obstinait à se mettre nue encore sous les clairs<br />
rayons de la lune; elle ne s'inquiétait guère de tous ceux qui nous pouvaient voir, et souvent elle<br />
poussait par la nuit, malgré mes craintes et mes prières, de longs cris vibrants, qui faisaient au loin<br />
hurler les chiens.<br />
Comme je sommeillais un soir, sous le large firmament tout barbouillé d'étoiles, elle vint<br />
s'agenouiller sur mon tapis, et approchant de ma bouche ses grandes lèvres retournées:
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 40<br />
«Il faut, dit-elle, que tu viennes dormir chez moi.»<br />
Je ne comprenais pas, «Comment, chez toi?»<br />
—Oui, quand mon mari sera parti, tu viendras dormir à sa place.»<br />
Je ne pus m'empêcher de rire.<br />
«Pourquoi ça, puisque tu viens ici?»<br />
Elle reprit, en me parlant dans la bouche, me jetant son haleine chaude au fond de la gorge,<br />
mouillant ma moustache de son souffle:—«C'est pour me faire un souvenir.»—Et l'r de souvenir traîna<br />
longtemps avec un fracas de torrent sur des roches.<br />
Je ne saisissais point son idée. Elle passa ses bras à mon cou.—«Quand tu ne seras plus là, j'y<br />
penserai. Et quand j'embrasserai mon mari, il me semblera que ce sera toi.»<br />
Et les rrrai et les rrra prenaient en sa voix des grondements de tonnerres familiers.<br />
Je murmurai attendri et très égayé:<br />
«Mais tu es folle. J'aime mieux rester chez moi.»<br />
Je n'ai, en effet, aucun goût pour les rendez-vous sous un toit conjugal; ce sont là des souricières<br />
où sont toujours pris les imbéciles. Mais elle me pria, me supplia, pleura même, ajoutant:—«Tu verras<br />
comme je t'aimerrrai.» T'aimerrrai retentissait à la façon d'un roulement de tambour battant la charge.<br />
Son désir me semblait tellement singulier que je ne me l'expliquais point; puis, en y songeant, je<br />
crus démêler quelque haine profonde contre son mari, une de ces vengeances secrètes de femme qui<br />
trompe avec délices l'homme abhorré, et le veut encore tromper chez lui, dans ses meubles, dans ses<br />
draps.<br />
Je lui dis:—«Ton mari est très méchant pour toi?»<br />
Elle prit un air fâché.—«Oh non, très bon.<br />
—Mais tu ne l'aimes pas, toi?»<br />
Elle me fixa avec ses larges yeux étonnés.<br />
«Si, je l'aime beaucoup, au contraire, beaucoup, beaucoup, mais pas tant que toi, mon coeurrr,»<br />
Je ne comprenais plus du tout, et comme je cherchais à deviner, elle appuya sur ma bouche une<br />
de ces caresses dont elle connaissait le pouvoir, puis elle murmura:—«Tu viendrras, dis?»<br />
Je résistai cependant. Alors elle s'habilla tout de suite et s'en alla.<br />
Elle fut huit jours sans se montrer. Le neuvième jour elle reparut, s'arrêta gravement sur le seuil<br />
de ma chambre et demanda:—«Viendras-tu ce soir dorrrmirrr chez moi? Si tu ne viens pas, je m'en<br />
vais.»<br />
Huit jours, c'est long, mon ami, et, en Afrique, ces huit jours-là valaient bien un mois: Je criai:<br />
—«Oui» et j'ouvris les bras. Elle s'y jeta.<br />
Elle m'attendit, à la nuit, dans une rue voisine, et me guida.<br />
Ils habitaient près du port une petite maison basse. Je traversai d'abord une cuisine où le ménage<br />
prenait ses repas, et je pénétrai dans la chambre blanchie à la chaux, propre, avec des photographies de<br />
parents le long des murs et des fleurs de papier sous des globes. Marroca semblait folle de joie; elle<br />
sautait, répétant:—«Te voilà chez nous, te voilà chez toi.»<br />
J'agis, en effet, comme chez moi.<br />
J'étais un peu gêné, je l'avoue, même inquiet. Comme j'hésitais, dans cette demeure inconnue, à<br />
me séparer de certain vêtement sans lequel un homme surpris devient aussi gauche que ridicule, et<br />
incapable de toute action, elle me l'arracha de force et l'emporta dans la pièce voisine, avec toutes mes<br />
autres hardes.<br />
Je repris enfin mon assurance et je le lui prouvai de tout mon pouvoir, si bien qu'au bout de<br />
deux heures nous ne songions guère encore au repos, quand des coups violents frappés soudain contre<br />
la porte nous firent tressaillir; et une voix forte d'homme cria:—«Marroca, c'est moi.»<br />
Elle fit un bond:—«Mon mari! Vite, cache-toi sous le lit.» Je cherchais éperdument mon
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 41<br />
pantalon; mais elle me poussa, haletante:—«Va donc, va donc.»<br />
Je m'étendis à plat ventre et me glissai sans murmurer sous ce lit, sur lequel j'étais si bien.<br />
Alors elle passa dans la cuisine. Je l'entendis ouvrir une armoire, la fermer, puis elle revint,<br />
apportant un objet que je n'aperçus pas, mais qu'elle posa vivement quelque part; et, comme son mari<br />
perdait patience, elle répondit d'un voix forte et calme:—«Je ne trrrouve pas les allumettes;» puis<br />
soudain:—«Les voilà, je t'ouvrrre.»; Et elle ouvrit.<br />
L'homme entra. Je ne vis que ses pieds, des pieds énormes. Si le reste se trouvait en proportion,<br />
il devait être un colosse.<br />
J'entendis des baisers, une tape sur de la chair nue, un rire; puis il dit avec un accent marseillais:<br />
—«Zé oublié ma bourse, té, il a fallu revenir. Autrement, je crois que tu dormais de bon coeur.» Il alla,<br />
vers la commode, chercha longtemps ce qu'il lui fallait; puis Marroca s'étant étendue sur le lit comme<br />
accablée de fatigue, il revint à elle, et sans doute il essayait de la caresser, car elle lui envoya, en<br />
phrases irritées, une mitraille d'_r furieux.<br />
Les pieds étaient si près de moi qu'une envie folle, stupide, inexplicable, me saisit de les toucher<br />
tout doucement. Je me retins.<br />
Comme il ne réussissait pas en ses projets, il se vexa.—«Tu es bien méçante aujourd'hui», dit-il.<br />
Mais il en prit son parti.—«Adieu, petite.» Un nouveau baiser sonna; puis les gros pieds se<br />
retournèrent, me firent voir leurs clous en s'éloignant, passèrent dans la pièce voisine; et la porte de la<br />
rue se referma.<br />
J'étais sauvé!<br />
Je sortis lentement de ma retraite, humble et piteux, et tandis que Marroca, toujours nue, dansait<br />
une gigue autour de moi en riant aux éclats et battant des mains, je me laissai tomber lourdement sur<br />
une chaise. Mais je me relevai d'un bond; une chose froide gisait sous moi, et comme je n'étais pas plus<br />
vêtu que ma complice, le contact m'avait saisi. Je me retournai.<br />
Je venais de m'asseoir sur une petite hachette à fendre le bois, aiguisée comme un couteau.<br />
Comment était-elle venue à cette place! Je ne l'avais pas aperçue en entrant.<br />
Marroca, voyant mon sursaut, étouffait de gaîté, poussait des cris, toussait, les deux mains sur<br />
son ventre.<br />
Je trouvai cette joie déplacée, inconvenante. Nous avions joué notre vie stupidement; j'en avais<br />
encore froid dans le dos, et ces rires fous me blessaient un peu.<br />
«Et si ton mari m'avait vu», lui demandai-je.<br />
Elle répondit:—«Pas de danger.<br />
—Comment! pas de danger. Elle est raide celle-là! Il lui suffisait de se baisser pour me trouver.»<br />
Elle ne riait plus; elle souriait seulement en me regardant de ses grands yeux fixes, où germaient<br />
de nouveaux désirs.<br />
«Il ne se serait pas baissé.»<br />
J'insistai.—«Par exemple! S'il avait seulement laissé tomber son chapeau, il aurait bien fallu le<br />
ramasser, alors... j'étais propre, moi, dans ce costume.»<br />
Elle posa sur mes épaules ses bras ronds et vigoureux, et, baissant le ton, comme si elle m'eût<br />
dit:—«Je t'adorrre», elle murmura:—«Alorrrs, il ne se serait pas relevé.»<br />
Je ne comprenais point:<br />
«Pourquoi ça?»<br />
Elle cligna de l'oeil avec malice, allongea sa main vers la chaise où je venais de m'asseoir; et<br />
son doigt tendu, le pli de sa joue, ses lèvres entr'ouvertes, ses dents pointues, claires et féroces, tout cela<br />
me montrait la petite hachette à fendre le bois, dont le tranchant aigu luisait.<br />
Elle fit le geste de la prendre; puis, m'attirant du bras gauche tout contre elle, serrant sa hanche à<br />
la mienne, du bras droit elle esquissa le mouvement qui décapite un homme à genoux!...
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 42<br />
Et voilà, mon cher, comment on comprend ici les devoirs conjugaux, l'amour et l'hospitalité! ■<br />
<br />
Marroca<br />
Guy de Maupassant<br />
Minh Thu chuy‹n ng»<br />
Bạn ta ơi, cậu đòi mình gửi cho cậu những cảm tưởng của mình, những cuộc phiêu lưu của mình, và<br />
trên hết là những cuộc tình của mình ở vùng đất châu Phi nơi từ lâu vẫn thu hút mình. Trước tiên thì<br />
như cậu nói, cậu đã cười nhiều về những cuộc tình da đen của mình; và chưa chi mà cậu đã nhìn thấy<br />
mình trở về, theo sau là một phụ nữ da đen to lớn, đầu choàng một chiếc khăn mầu vàng, và mặc bộ đồ<br />
sặc sỡ rộng thùng thình .<br />
Chắc hẳn rồi sẽ tới lượt những người Mauricaude đấy, bởi vì mình đã nhìn thấy nhiều trường<br />
hợp khiến tạo cho mình cái thèm muốn tự đắm mình trong làn mực đen đó; nhưng với mình thì ngay từ<br />
đầu mình đã ngã vào vòng tay một người hơn thế và đặc biệt khác thường.<br />
Trong lá thư mới đây nhất của cậu, cậu viết cho mình: “Khi tao biết được ở xứ đó người ta yêu<br />
như thế nào, thì tao có thể biết để miêu tả xứ đó, dẫu cho tao chưa hề nhìn thấy xứ đó.” Hãy biết rằng ở<br />
đây họ yêu một cách mãnh liệt. Ngay những ngày đầu, người ta đã cảm thấy cái rung động nóng hổi,<br />
một dâng trào, một thăng hoa đột ngột của những ham muốn, một luồng xuy nhược trên đầu những<br />
ngón tay mà những sức mạnh của tình yêu và mọi giác quan của chúng ta về cảm giác xác thịt bị hưng<br />
phấn quá độ, gây khó chịu, kể từ sự va chạm giản dị của những bàn tay cho tới những đòi hỏi xấu xa<br />
khiến chúng ta làm biết bao hành động kỳ khôi.<br />
Chúng ta hãy đồng ý rõ ràng với nhau nhé. Mình không rõ là điều gọi là tình yêu của trái tim,<br />
của tâm hồn, liệu cái tình cảm lý tưởng,<br />
sau hết là tình yêu trong sáng có thể hiện<br />
diện duới bầu trời này không, mình hồ<br />
nghi cả điều này đấy. Nhưng cái tình yêu<br />
kia, tình yêu của các giác quan, mà là điểu<br />
tốt, và nhiều cái hay, thì thật sự là ghê gớm<br />
trong cái khí hậu này. Cái nóng nực, cái<br />
không khí rát bỏng thường xuyên này làm<br />
người ta phát sốt, những luồng gió nam<br />
ngột ngạt, những đợt sóng lửa thổi về từ sa<br />
mạc bao la cận kề, làn gió đông nam nặng<br />
nề, thì tàn phá hơn, đốt cháy hơn là ngọn<br />
lửa, cái cháy bỏng thường xuyên của hết<br />
trọn một lục địa bị mặt trời lớn và hủy<br />
diệt, đốt cháy tới cả sỏi đá, khiến máu sôi<br />
bỏng, mê đắm thịt da, thú hóa con người.<br />
Nhưng mình xin kể chuyện của<br />
Figure 1. Calanque de Piana<br />
Note: Retrieved from http://en.wikipedia.org/wiki/Calanques_de_Piana
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 43<br />
mình đây. Mình không kể gì với cậu về thời gian đầu mình ở Algérie. Sau khi đã thăm viếng Bône,<br />
Constantine, Biska và Sétif, mình tới Bougie qua những eo Chabet, và một con đường không so sánh<br />
được giữa những cánh rừng vùng kabyle chạy theo bờ biển cả hai trăm mét ở phía trên, và vòng vèo<br />
theo những đỉnh núi cao, cho tới vịnh Bougie tuyệt vời đẹp chẳng kém gì vịnh Naples, hay vịnh<br />
Ajaccio và vịnh Douarnenez, những vịnh đáng ca ngợi nhất mà mình biết. Sự so sánh này của mình,<br />
mình không thể gồm cả vịnh Porto, với vòng đai đá hoa cương đỏ, với những phiến đá khổng lồ mầu<br />
máu dị kỳ của những hình thể đá làm thành thung lũng hẹp ven biển của thành phố Piana goi là<br />
“Calanche de Piana”, bên duyên hải phía Tây đảo Corse.<br />
Từ xa, từ rất xa, trước khi phác họa lòng chảo rộng lớn nơi nước thái bình lặng lờ chảy, thì<br />
người ta trông thấy Bougie. Vịnh này nằm trên những triền cao thẳng của một ngọn núi rất cao được<br />
những cánh rừng bao phủ. Đó là một chiếc bàn trắng trong triền cỏ xanh; người ta có thể tưởng đó là<br />
một thác nước đổ xuống biển.<br />
Ngay khi vừa đặt chân tới cái tỉnh thật nhỏ bé và dễ thương này, mình đã biết là mình sẽ lưu lại<br />
đó lâu sau này. Từ khắp nơi mắt người nhìn ôm vòng trọn những đỉnh núi cong, lởm chởm, vuông<br />
cạnh, và kỳ dị, chồng chất làm người ta khó nhìn nhận được phần nào biển cả, và khiến cho vịnh này có<br />
vẻ như một biển hồ. Nước xanh, một mầu xanh xấu, thì lại trong vắt thật đẹp; và trời thì mang mầu<br />
xanh da trời, một mầu xanh da trời dầy, tưởng như được sơn đến hai lớp sơn, uể oải trải phía trên cái<br />
sắc đẹp khác thường của nó. Chúng cho cảm tưởng như biển và trời phản chiếu nhau tạo ra những sắc<br />
mầu như thế.<br />
Bougie là một tỉnh hoang tàn đổ nát. Khi đến nơi, trên bến tầu, người ta thấy một tàn tích nguy<br />
nga mà khiến người ta cho đó là của màn ca kịch. Đó là cổng Sarracen cổ, bị giây trường xuân quấn<br />
phủ. Và trong những cánh rừng núi non quanh thành phố, nơi nào cũng có cảnh hoang tàn, những đoạn<br />
tường la mã, những mẩu tượng đài kiến trúc sarracen, và những tàn tích của kiến trúc ả rập.<br />
Mình đã thuê được một căn nhà nhỏ của người mô-rơ trên phố cao. Cậu biết những căn nhà<br />
thường thấy được mô tả này chứ. Những căn nhà này không có cửa sổ mở ra phía ngoài; mà một sân<br />
nằm bên trong chiếu sáng những căn nhà đó từ trên xuống dưới. Ở tầng nhất là một phòng rộng lớn mát<br />
mẻ người ta ở lúc ban ngày, và tuốt phía trên là một sân thượng, nơi người ta ở ban đêm.<br />
Mình đã quen ngay với những tập quán của những xứ nóng, tức là ngủ trưa sau bữa ăn. Đó là<br />
cái thời giờ ngột ngạt của châu Phi, thời gian mà người ta không thở nữa, thời gian mà các đường phố,<br />
các đồng bằng, những con đường dài đều vắng vẻ, nơi ai nấy đều ngủ, hay cố ngủ, với, ngoài ra, càng ít<br />
áo quần càng tốt.<br />
Trong phòng của mình kiểu kiến trúc ả rập với những chiếc cột nhỏ, mình kê một chiếc giường<br />
lớn êm ái, phủ một tấm thảm Djebel-Amour. Mình nằm trên giường trong bộ đồ ít ỏi kiểu Assan, nhưng<br />
mình không ngủ nghê gì được, vì bị sự tiết dục của mình tra tấn.<br />
Ôi! Bạn mình ơi, có hai sự hành hạ trên trái đất này mà mình chẳng hề mong cậu gặp phải: đó là<br />
thiếu nước và thiếu đàn bà. Cái nào khổ hơn? Mình chẳng biết. Trong sa mạc, người ta sẽ phạm mọi<br />
điều hèn hạ để có được một ly nước lạnh và trong. Người ta liệu sẽ có không làm gì tại những tỉnh nào<br />
đó ở miền duyên hải để có được một em gái tươi mát và khỏe mạnh? Bởi vì châu Phi không thiếu gì<br />
con gái! Ngược lại, các em đầy dẫy ra đó, nhưng để tiếp tục chuyện so sánh của mình, thì tất cả các em<br />
đó đều cũng ranh ma và hôi thối như nước đục ngầu trong những giếng nước ở sa mạc Sahara vậy.<br />
Nhưng, rồi hôm đó, bị khó chịu hơn thường lệ, mình cố ru giấc ngủ, nhưng vô ích. Đôi cẳng<br />
chân mình run lên như bị kim châm từ bên trong; một nỗi bất ổn đáng ngại làm mình cứ luôn luôn trở<br />
mình trên tấm thảm của mình. Sau cùng, không chịu nổi nữa, mình ra khỏi giường và đi ra phố.<br />
Khi đó là tháng bẩy, và trong một xế trưa nóng bỏng. Hè đường ngoài phố thì nóng đến có thể<br />
nướng bánh trên đó được; áo sơ mi thì tức thời ướt sũng, dán chặt vào người; khắp nơi ở chân trời, lơ<br />
lửng trôi một làn hơi khói trắng, cái hơi nóng bỏng đó của làn gió đông nam, làm người ta tưởng có thể<br />
sờ được cái hơi nồng nực đó.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 44<br />
Mình đi xuống gần biển; và bọc quanh cảng, mình đi dọc theo bờ vịnh đẹp đẽ nơi có những bãi<br />
tắm. Núi non triền sâu được cỏ cây bao phủ, những cây cao nồng hương, mọc thành vòng, quanh cái<br />
lạch nước nơi những tảng đá nâu lớn trầm mình dọc theo bờ lạch.<br />
Không ai ra ngoài; không gì chuyển động; không cả một tiếng thú kêu, không một cánh chim<br />
bay, không một tiếng động, ngay không cả một gợn sóng, vì mặt biển im lìm dường như tê liệt dưới ánh<br />
mặt trời. Nhưng trong cái không khí sôi bỏng đó, mình có cảm tưởng nắm bắt được tiếng lửa reo nào<br />
đó.<br />
Đột nhiên, mình như nghe ra một chuyển động nhẹ, đằng sau một trong những tảng đá nước<br />
ngập nửa chừng trong luồng sóng yên ắng; sau khi quay lại, mình trông thấy, một người con gái to lớn<br />
trần truồng, nước ngập ngang ngực, đang tưởng là chỉ có mình cô ở vào cái giờ giấc sôi bỏng này. Cô ta<br />
quay mặt ra biển cả, và nhè nhẹ chạy nhẩy trong nước mà không trông thấy mình.<br />
Không gì ngạc nhiên hơn là cái khung ảnh này: người phụ nữ đep đẽ kia trong làn nước trong<br />
vắt như một cái ly ấy, dưới cái ánh sáng chói chang này. Bởi vì nàng đẹp tuyệt vời, người đàn bà ấy, to<br />
lớn, tựa như một bức tượng.<br />
Cô ta quay lại, thốt ra một tiếng kêu, và, nửa như lội, nửa như bước, nàng ẩn trốn đàng sau một<br />
tảng đá.<br />
Biết là rồi nàng ta sẽ phải đi ra, nên mình cứ ngồi trên bờ và chờ đợi. Thế rồi nàng nhẹ ngẩng<br />
đầu với bộ tóc đen kết bím dữ dằn. Nàng có cái miệng rộng, với đôi môi mọng cong như những độn<br />
bông, mắt nàng thật là to, không mắc cỡ, và khắp nơi da nàng được khí hậu làm cho hơi nâu tựa như<br />
mầu da ngà cổ xưa, cứng và dịu, thuộc sắc da trắng đẹp được nhuộm bởi ánh nắng vùng đất người da<br />
đen.<br />
Nàng kêu lên với tôi: “Ông đi đi chứ.” Giọng nói nàng, đầy ắp và hơi mạnh giống như toàn thân<br />
nàng, thì là giọng nói từ cổ họng. Tôi cứ ngồi ì ra. Nàng ta nói thêm: “Thật không có hay gì để ông cứ<br />
ngồi ì ra như thế đâu ông.” Những tiếng e-rờ ròn trong miệng nàng được tuôn ra như bánh xe ngựa<br />
chạy. Mình lại càng cứ ì ra. Thế là cái đầu biến mất.<br />
Mười phút trôi qua; rồi bộ tóc, rồi cái trán, rồi đôi mắt trồi trở lên chầm chậm và thận trọng, y<br />
như những đứa trẻ chơi đi trốn đi tìm thường làm khi quan sát đứa đang đi tìm chúng.<br />
Lần này thì nàng tức giận, và la lên: “Ông làm tôi bị cảm lạnh bây giờ đấy.Tôi sẽ không bước ra<br />
đâu, chừng nào ông còn ngồi đó.” Khi đó thì mình mới đứng lên và bỏ đi nhưng cứ thường ngoái đầu<br />
nhìn lại. Khi nàng thấy mình đã đi đủ xa, thì nàng bước từ nước lên, cúi gặp mình xuống, xoay lưng lại<br />
phía mình; rồi biến vào một hốc đá, được chiếc váy chăng lên che kín.<br />
Ngày hôm sau mình lại tới. Nàng còn đang tắm, nhưng mặc đầy đủ áo tắm đàng hoàng. Nàng<br />
cười với mình cho mình thấy hàm răng trắng bóc.<br />
Tám ngày sau đó, chúng tôi trở thành bạn, sau thêm tám ngày nữa, chúng tôi trở thành bạn thân<br />
hơn nữa.<br />
Tên nàng là Marroca, chắc là tên gọi đùa, và nàng nói tên này lên cứ như là nó có mang đến<br />
mười lăm chữ e-rờ trong đó. Con gái của thực dân Tây ban nha, lấy một người chồng Pháp tên là<br />
Pontabèze. Chồng nàng là công chức nhà nước. Mình chẳng hề biết rõ anh ta giữ chức vụ gì nữa. Mình<br />
được biết anh ta khá bận rộn, và mình chẳng buồn hỏi han gì thêm nữa về công việc của anh ta.<br />
Thế rồi nàng đổi giờ đi tắm biển, hằng ngày, sau khi mình ăn xong bữa cơm trưa, nàng đến nhà<br />
mình để ngủ trưa. Còn giấc ngủ trưa nào hơn! Nếu ta có thể gọi đó là sự nghỉ ngơi!<br />
Nàng thật là người con gái dễ nể, một loại người hơi có thú tính, nhưng rực rỡ. Đôi mắt nàng<br />
mang cái vẻ luôn luôn long lanh niềm say mê; miệng hé mở, với những chiếc răng nhọn, và ngay nụ<br />
cười của nàng đều có một cái gì đó của sự khoái lạc mạnh mẽ; và nàng có cặp vú kỳ lạ, kéo dài và<br />
thẳng đuỗn, nhọn như những trái táo bằng da, rung rinh như bên trong có những chiếc lò xo bằng sắt,<br />
khiến cho thân nàng có một cái gì của một con thú, làm cho nàng như là một người kém thế tráng lệ,<br />
một sinh vật dành cho thứ tình yêu hỗn độn, làm dậy lên trong mình ý tưởng của những sự tục tĩu thần
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 45<br />
thánh cổ đại mà những sự âu yếm tự do được phơi trải giữa thảm cỏ lá rơi.<br />
Và chưa bao giờ có người đàn bà nào lại có những ham muốn không thể rập tắt hơn thế ở trong<br />
lòng. Sự đam mê khoái lạc của nàng và những ghì ôm rên siết của nàng, với những tiếng nghiến răng,<br />
những run rẩy và những vết cắn được theo sau gần như ngay sau đó bằng những giấc ngủ say như một<br />
người chết. Nhưng rồi nàng lại đột ngột tỉnh dậy trong cánh tay mình. Sẵn sàng cho những ôm ấp mới,<br />
cổ họng phồng căng những chiếc hôn. Ngoài ra tâm trí nàng thì giản đơn như hai với hai là bốn và thay<br />
cho ý nghĩ thì là tiếng cười ròn tan.<br />
Kiêu ngạo tự nhiên về sắc đẹp của mình, nàng rất ghê sợ những hàng voan dù là loại nhẹ nhất;<br />
vì thế nên nàng tha thẩn, chạy, nhẩy trong nhà mình với sự phóng túng vô tư và táo bạo. Khi nàng đã<br />
hưởng thụ ái tình đầy đủ, rên rỉ, động tác rã rời, thì sau cùng nàng nằm ngủ trên giuờng bên mình, một<br />
giấc ngủ say, yên bình; trong khi cái oi nồng ngột ngạt làm nổi trên làn da nâu của nàng những giọt mồ<br />
hôi nhỏ xíu, và từ da thịt nàng, với đôi cánh tay nàng vươn đặt dưới gáy, với từ khắp những nếp gấp<br />
thầm kín của nàng, tỏa ra cái mùi hăng hắc ấy của thú hoang gây thỏa mãn cho giống đực.<br />
Đôi khi nàng trở lại ban chiều khi chồng nàng bận công việc gì đó mình cũng chẳng biết nữa.<br />
Khi đó thì chúng tôi nằm trên sân thượng, mình mẩy đắp sơ sài hàng Đông phương mảnh dẻ phất phơ.<br />
Khi mặt trăng lớn dọi xuống những vùng đất nóng trải ra trên bầu trời, chiếu sáng thành phố và<br />
vịnh được núi non bao quanh, thì khi đó chúng tôi trông thấy trên khắp các sân thượng, cảnh tượng như<br />
một đạo quân ma lặng lẽ nằm dài, đôi khi họ dậy, đổi chỗ cho nhau rồi lại nằm xuống dưới cái hơi nóng<br />
bớt đi của bầu không khí đã dịu xuống.<br />
Mặc dầu có những bầu không khí buổi chiều như thế ở châu Phi thì Marroca nhất định vẫn cứ<br />
thích ở trần dưới ánh sáng trăng; nàng chẳng ngại ngần gì về việc tất cả mọi người có thể nhìn thấy<br />
chúng tôi, và thường khi trong đêm, mặc những lo ngại và lời cầu khẩn của mình, nàng cứ kêu rên dài<br />
lớn tiếng làm cho những con chó ở nơi xa hú vang.<br />
Một tối khi mình đang lơ mơ ngủ, dưới bầu trời bao la trải đầy sao, thì nàng tới quỳ gối trên tấm<br />
thảm của mình, ghé đôi môi cong dầy, mọng của nàng lên miệng mình.<br />
Nàng nói : “Anh phải đến ngủ ở nhà em.”<br />
Mình chẳng hiểu gì cả. “Cái gì chứ, ở nhà em à?”<br />
“Vâng, khi chồng em đi, thì anh đến ngủ thay chỗ hắn.”<br />
Mình không sao nhịn được cười.<br />
“Tại sao phải thế chứ, vì em đến đây rồi mà?”<br />
Nàng tiếp, nói lên trong miệng mình, ném đưa cái hơi thở nồng của nàng vào cổ họng mình, hơi<br />
thở của nàng làm ẩm bộ ria của mình: “Để lưu lại cho em một kỷ niệm.” Và cái tiếng e-rờ của chữ kỷ<br />
niệm kéo dài ra rồi đập mạnh vào những tảng đá.<br />
Mình chẳng nắm được cái ý tưởng đó của nàng. Nàng choàng hai cánh tay quanh cổ mình: “Khi<br />
anh không có đó nữa, em sẽ nghĩ đến anh. Và khi em hôn chồng em, em sẽ tưởng như em đang hôn anh<br />
vậy đó.”<br />
Và những tiềng e-rờ trong câu nói của nàng làm mình nghe thấy những tiếng sấm sét rầm rầm<br />
quen thuộc.<br />
Xúc động, và rất vui vẻ, mình thì thào:<br />
“Nhưng em điên à. Anh thích ở nhà anh hơn.”<br />
Nói thật tình thì mình không hề thích có cuộc hẹn hò dưới mái nhà của một cặp vợ chồng; chính<br />
nơi đó là những cái bẫy mà những kẻ ngu đần luôn bị vướng mắc. Nhưng nàng cầu khẩn, van nài và<br />
ngay cả khóc lóc khi nàng nói: “Anh sẽ thấy em yêu anh biết bao.” Lại cái tiếng e-rờ vang lên như<br />
tiếng trống rồn hối thúc lúc xuất quân.<br />
Mình thấy sự ham muốn của nàng có vẻ thật đặc biệt mà mình chẳng thấy cần giải thích làm gì;<br />
thế rồi suy nghĩ về điều đó thì mình cảm thấy khám phá ra nàng có một sự thù ghét sâu xa chồng nàng,<br />
một trong những sự trả thù bí mật của phụ nữ lừa dối, với niềm hoan lạc, người đàn ông mà họ khinh
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 46<br />
tởm, và còn muốn lừa dối hắn ngay trong nhà hắn, trên giường hắn, giữa những tấm khăn trải giường<br />
của hắn.<br />
Mình hỏi nàng: “Bộ chồng em ác với em lắm sao?”<br />
Nàng làm mặt giận: “Ồ,không, hắn rất tốt.”<br />
“Thế bộ em không yêu chồng em à?”<br />
Nàng ngạc nhiên nhìn sững mình với đôi mắt to.<br />
“Có chứ, ngược lại, em yêu chồng em lắm, nhiều lắm lắm, nhưng không nhiều bằng yêu anh,<br />
trái tim của em.”<br />
Mình chẳng còn hiểu gì nữa, và trong khi mình đang moi óc để tìm hiểu tình trạng thì nàng đã<br />
đè lên miệng mình một trong những mơn trớn mà nàng biết là có sức mạnh đối với mình, rồi nàng thì<br />
thầm: “Anh sẽ tới nhé, anh nhé.”<br />
Tuy nhiên mình vẫn cưỡng lại. Thế là nàng tức thì mặc quần áo vào và bỏ đi.<br />
Xuốt tám ngày nàng không tới. Đến ngày thứ chín thì nàng lại xuất hiện và nghiêm trang đứng lại nơi<br />
nguỡng cửa phòng mình và hỏi: “Anh có đến ngủ ở nhà em tối nay không?Nếu anh không tới thì em đi<br />
về đây.”<br />
Bạn ta ơi, tám ngày thì dài đấy, và ở châu Phi tám ngày đó thì dài bằng một tháng chứ không<br />
ngắn đâu. Mình kêu lên: “Ừ” rồi dang rộng hai cánh tay và nàng xà ngay vào vòng tay mình.<br />
Đến tối, nàng chờ mình tại một con phố bên cạnh, và dẫn mình về nhà nàng.<br />
Họ sống trong một căn nhà nhỏ ở phía thấp gần bến cảng. Trước tiên thì mình đi qua một nhà<br />
bếp, nơi người làm ngồi, và rồi mình bước vào cái phòng sơn vôi trắng, sạch sẽ, dọc trên tường treo<br />
những bức hình cha mẹ, và dưới những bóng tròn là những bông hoa giấy. Marroca như điên lên vì vui<br />
mừng, nàng nhẩy cẫng và liên tục nói: “Thế là anh đang ở nhà chúng ta, thế là anh đang ở nhà của anh.<br />
Quả thực mìng cũng đang hành động như trong chính nhà mình vậy.<br />
Thú thực thì mình hơi bối rối ngay cả lo lắng nữa. Trong khi mình còn do dự trong căn nhà<br />
không quen này, để trút bỏ nội y mà nếu không mặc nó thì một người đàn ông bị bắt quả tang sẽ trở nên<br />
vừa vụng về vừa lố bịch, chẳng thể có phản ứng nào hết, thì nàng đã dùng sức lột nó ra, và đem nó sang<br />
phòng bên cạnh cùng với những quần áo khác của mình.<br />
Sau cùng mình đã lấy lại được sự tự tin và chứng tỏ tất cả sức lực của mình với nàng tốt đến nỗi sau hai<br />
tiếng đồng hồ mà chúng tôi đã chẳng buồn nghĩ đến chuyện nghỉ giải lao, thì bỗng có những tiếng đập<br />
cửa mạnh làm chúng tôi giật nẩy mình; và một giọng đàn ông khỏe gọi: “Anh đây, Marroca.”<br />
Nàng nhẩy dựng lên: “Chồng em! Nhanh lên anh, hãy trốn xuống gầm giường.” Mình mê tơi<br />
lên tìm cái quần, nhưng nàng đã thở hổn hển đẩy mình: “Vào gầm giường đi. Vào đi.”<br />
Mình bèn nằm sát bụng xuống và không thì thào gì cả, luồn người vào gầm chiếc giường mà lúc trước<br />
mình đã hạnh phúc nằm lên.<br />
Thế rồi nàng đi qua nhà bếp. Mình nghe thấy nàng mở ngăn kéo, đóng nó lại, rồi nàng trở vào<br />
phòng mang theo một vật gì đó mà mình không trông thấy, nhưng được nàng đặt vội vàng đâu đó; và vì<br />
chồng nàng mất kiên nhẫn, nên nàng trả lời bằng một giọng nói khỏe và bình tĩnh: “Em không tìm thấy<br />
hộp quẹt” rồi bỗng nhiên: “À đây rồi, em tìm thấy rồi.” Và nàng mở cửa.<br />
Người đàn ông bước vào. Mình chỉ trông thấy có chân anh ta, đôi chân to tướng. Nếu cơ thể còn<br />
lại của anh ta cũng cùng một kích cỡ như thế thì anh ta là người khổng lồ.<br />
Mình nghe thấy những chiếc hôn, một cái đập tay chắc nịch lên làn da trần, tiếng cười; và rồi<br />
anh ta nói với cái giọng của người ở Marseille: “Anh quên mất ví, nên phải quay về. Hơn nữa anh cứ<br />
tưởng em đang ngủ say.” Rồi anh ta bước tới tủ com mốt, tìm kiếm hồi lâu cái anh ta muốn kiếm; rồi<br />
Marroca nằm dựa lên giường như rũ ra vì mệt, anh ta trở lại bên vợ, và hẳn là định mơn trớn nàng, vì<br />
nàng đuổi hắn đi khi nói một câu nóng nẩy với một tràng tiếng e-rờ như súng liên thanh.<br />
Đôi chân hắn gần mình đến nỗi mình bị lôi cuốn bởi cái thèm điên rồ, ngu xuẩn, không giải<br />
thích được, để sờ nhẹ vào chúng. Nhưng mình cưỡng lại ý muốn này.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 47<br />
Vì anh ta không thực hiện được ý đồ nên anh ta giận, và anh ta nói: “Tối nay em dữ lắm nhé.”<br />
Nhưng rồi anh ta đi khi nói: “Chào em bé.” Và hôn chóc một cái, và đôi chân to tướng quay gót cho<br />
mình thấy đế có đóng đinh khi bước đi sang phòng bên cạnh, và cửa ra đường được đóng lại.<br />
Thế là mình thoát.<br />
Tủi hổ và buồn lòng, mình từ từ chui ra khỏi nơi ẩn trốn, trong khi Marroca, vẫn trần truồng,<br />
nhẩy nhót quanh mình, vỗ tay, miệng cười khanh khách, thì mình để mình buông rơi nặng nề xuống<br />
một chiếc ghế. Nhưng mình vội đứng bật dậy; vì dưới mông mình có một vật gì lạnh nằm đó, và vì<br />
cũng trần như nhộng y như Marroca, nên mịnh cảm ngay được sự va chạm này. Mình quay lại.<br />
Mình vừa mới ngồi lên một cái dìu nhỏ để chặt gỗ, sắc như một con dao. Làm sao mà cái dìu lại<br />
nằm ở đó. Mình đâu có nhìn thấy nó lúc mới vào phòng.<br />
Trông thấy mình nhẩy dựng lên thì Marroca, bị niềm vui làm cho sặc sụa, kêu lên một tiếng, rồi<br />
ho, hai tay đặt trên bụng nàng.<br />
Mình thấy cái niềm vui đó không đúng lúc, không hợp cảnh. Chúng tôi đã mang mạng sống của<br />
mình ra chơi trò ngu xuẩn; mình hãy còn thấy ớn xương sống, và những tíếng cười đùa của nàng làm<br />
mình hơi bị thương tổn.<br />
Mình hỏi nàng: “Thế nếu chồng em nhìn thấy anh thì sao?”<br />
Em trả lời: “Không có gì nguy hiểm.”<br />
“Sao! Không có gì nguy hiểm. Bộ em này quá đáng đấy nhé! Chỉ cần anh ta đánh rơi chiếc mũ<br />
và cúi xuống để nhặt là thấy anh ngay.”<br />
Nàng không còn cười nữa mà chỉ mỉm cười khi nhìn thẳng mình với đôi mắt mở to mà đang<br />
nhen nhúm những ham muốn mới.<br />
“Anh ta sẽ không cúi xuống đâu.”<br />
Mình nói cố “Ví dụ. Nếu anh ta chỉ đánh rơi cái mũ, thì anh ta hẳn là phải nhặt lên.. khi đó<br />
trong bộ vó khỏa thân của anh đây, thì anh chết một cửa tứ chứ còn gì nữa.”<br />
Nàng đặt lên vai mình hai cánh tay tròn và khỏe mạnh của nàng, và hạ thấp giọng như khi nàng<br />
nói với mình: “Em yêu quý anh.” Nàng thì thầm: “Lúc đó thì anh ta sẽ không đứng lên nữa.”<br />
Mình chẳng hiểu gì cả:<br />
“Tại sao vậy?”<br />
Ranh ma, nàng nháy mắt, dang tay tới cái ghế, nơi mình ngồi lúc nãy, với ngón tay giơ ra, vệt<br />
nhăn trên má nàng, cặp môi nàng hé mở, những chiếc răng nhọn của nàng, bóng và dữ dằn, tất cả giơ<br />
cho mình thấy cái dìu nhỏ chặt gỗ, lưỡi dìu sắc sáng loáng.<br />
Nàng làm cái động tác cầm lấy cây dìu; rồi với cánh tay trái kéo mình sát vào mình nàng, háng<br />
nàng cọ sát vào háng mình, và cánh tay phải của nàng hoàn tất động tác chặt đầu người đàn ông đang<br />
quỳ gối!...<br />
Và thế đó, bạn thân ơi, đó là cung cách mà ở đây người ta hiểu được những bổn phận gia cang,<br />
tình yêu và sự hiếu khách. ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne, 05/2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 48<br />
Hạnh phúc ví như một nụ hôn,<br />
muốn thưởng thức phải san sẻ<br />
Bernard Melzer<br />
CHÚ THÍCH:<br />
Petrarch’s Sonnets<br />
English translation<br />
By<br />
A.S. KLINE<br />
Tình Ca Petrarch<br />
Tuyển chọn và dịch thuât bởi<br />
DAVID LÝ LÃNG NHÂN<br />
Francesco Petrarch (1304-1374) là một văn học sĩ ngừơi Ý. Hồi còn trẻ ông gặp nàng Laura de Noves, một<br />
thiếu phụ nhan sắc tuyệt trần và đã yêu nàng đắm đuối. Đây là mối tình tuyệt vọng đối với chàng và chàng<br />
không hề một lần hé môi để tõ tình, vì nàng đã có chồng. Laura qua đời khi nàng mới 38 tuổi.<br />
Petrarch viết tất cả là 366 bài sonnets (canzoniere) để ca ngợi sắc dep của Laura và để ký thác nổi lòng<br />
mình cho hậu thế, Dịch giả mạo muội tuyển chọn 8 bài sonnets đặc sắc của thi sĩ Petrarch để dịch thuật và để<br />
nhắc lại một thiên tình sử bất hủ dứơi trời Âu.<br />
DAVID LÝ LÃNG NHÂN – Madison, AL,USA – September 2010<br />
SONNET 15<br />
I turn back at every step I take<br />
with weary body that has borne great pain,<br />
and take comfort then from your aspect<br />
that make me go on, saying: Ah me!<br />
<strong>The</strong>n thinking of the sweet good I leave,<br />
of the long road, and of my brief life,<br />
I halt my steps, dismayed and pale,<br />
and lower my eyes weeping to the ground.<br />
Sometimes a doubt assails me in the midst<br />
of sad tears: how can these limbs<br />
live separated from their spirit?<br />
But Love replies: Do you not remember<br />
TÌNH CA 15<br />
Mỗi bước tới, tôi quày đầu trông ngóng<br />
Thân hình sao nghe đau đớn ê chề<br />
Chỉ mong sao niềm an ủi, vỗ về<br />
Dìu tôi khỏi cơn đau thương nhức nhối!<br />
Hồi tưởng lại phút ngọt ngào nếm trải<br />
Dọc đường dài, trong kiếp sống phù vân<br />
Tôi dừng chân, nghe tê tái tâm thần<br />
Mắt cúi xuống, lệ chan hòa mặt đất<br />
Một nghi vấn chợt về trong tiếng ngấc<br />
Hình hài nầy, xương thịt ấy, chân tay<br />
Sống thế nào riêng rẻ khỏi hồn ai?<br />
Tình Yêu đáp: Người ơi, sao chẳng nhớ
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 49<br />
that this is the privilege of lovers,<br />
freed from every other human tie? ■<br />
SONNET 18<br />
When I have turned my eyes to that place<br />
where my lady's lovely face shines,<br />
and that light leaves me not a thought<br />
while I burn and melt away inside,<br />
I fear lest my heart parts from my self,<br />
and seeing the end of my light nearing,<br />
I go like a blind man, without light,<br />
who knows no way to go, but must depart.<br />
I receive so many deadly blows<br />
I flee: but not so quickly that desire<br />
does not come with me as is his wont.<br />
I go silently, since one deadly word<br />
would make men weep: and I desire<br />
that my tears might be shed alone. ■<br />
SONNET 19<br />
<strong>The</strong>re are creatures in the world with such other<br />
vision that it is protected from the full sun:<br />
yet others, because the great light offends them<br />
cannot move around until the evening falls:<br />
and others with mad desire, that hope<br />
perhaps to delight in fire, because it gleams,<br />
prove the other power, that which burns:<br />
alas, and my place is with these last.<br />
I am not strong enough to gaze at the light Không đủ lực để nhìn tia sáng chói<br />
of that lady, and do not know how to make a screen của giai nhân; và chẳng biết che thân<br />
from shadowy places, or the late hour:<br />
Sau lùm cây, hoặc chờ bóng tối dần:<br />
yet, with weeping and infirm eyes, my fate<br />
leads me to look on her: and well I know<br />
I wish to go beyond the fire that burns me. ■<br />
Rằng đặc ân của những kẽ yêu nhau<br />
Đâu ràng buộc bởi giây tơ trần thế? ■<br />
TÌNH CA 18<br />
Đoái nhìn lại chốn xưa khi gặp gở<br />
Khuôn mặt Nàng rạng rỡ nét tuyệt trần<br />
Ánh hào quang làm ngơ ngẫn tâm thần<br />
Lửa thiêu đốt hồn tôi mềm lụn chảy<br />
Tôi luống sợ tim mình rời thần trí<br />
Trước khi nhìn ánh sáng phút cuối cùng<br />
Như người mù trong bóng tối mịt mùng<br />
Nào biết ngõ đi về, chân vẫn bước<br />
Mang thương tìch nặng nề , thân đau buốt<br />
Tôi cố thoát thân; nhưng chẳng kịp thời<br />
Ước muốn kia đà khóa chặt hồn tôi<br />
Lặng lẽ bước âm thầm, lời câm nín<br />
E thốt ra sẽ làm lệ người rơi<br />
Ước mong rằng lệ ấy chỉ riêng tôi. ■<br />
TÌNH CA 19<br />
Mắt sinh vật cõi trần đều che chở<br />
Khỏi ánh sáng mặt trời lúc chói chang<br />
Nhưng cũng còn vài lọai thiếu an tòan<br />
Phải di chuyển trong bóng đêm tịch mịch<br />
Có sinh vật lại cực kỳ ưa thích<br />
Ánh lửa hồng, tia chớp sáng lập lòe<br />
Uy lực nầy sức thiêu đốt gớm ghê<br />
Ôi, hình thể ta biến thành tro bụi<br />
Mắt tàn tật, khóc òa theo định mệnh<br />
Từng bước đi chiêm ngưỡng bóng hình nàng<br />
Ước mong thầm thân khỏi cháy thành than. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 50<br />
SONNET 20<br />
Ashamed sometimes that your beauty,<br />
lady, is still silent in my verses,<br />
I recall that time when I first saw it,<br />
such that nothing else could ever please me.<br />
But I find the weight too great for my shoulder,<br />
a work not to be polished by my skill:<br />
the more my wit exercises its force<br />
the more its whole action grows cold.<br />
Many times my lips have opened to speak,<br />
but my voice is stilled in my chest:<br />
who is he who could climb so high?<br />
Many times I've begun to scribble verses:<br />
but the pen, the hand, and the intellect<br />
fell back defeated at their first attempt. ■<br />
SONNET 22<br />
<strong>The</strong> time to labour, for every animal<br />
that inhabits earth, is when it is still day,<br />
except for those to whom the sun is hateful:<br />
but then when heaven sets fire to its stars,<br />
some turn for home and some nestle in the woods<br />
to find some rest before the dawn.<br />
And I may not cease to sigh with the sun,<br />
from when dawn begins to scatter<br />
the shadows from around the Earth,<br />
waking the animals in every woodland:<br />
yet when I see the flaming of the stars<br />
I go weeping, and desire the day.<br />
When the evening drives out daylight's clarity,<br />
and our shadow makes another's dawn,<br />
I gaze pensively at cruel stars,<br />
that have created me of sentient earth:<br />
and I curse the day I saw the sun, :<br />
TÌNH CA 20<br />
Có những lúc tôi thấy mình hổ thẹn<br />
Vì lặng thinh chưa gieo nổi câu vần<br />
Để tôn vinh nhan sắc đẹp tuyệt trần<br />
Tôi được thấy một lần trong hạnh phúc<br />
Tôi đã hiểu mình vô tài kém sức<br />
Cho công trình mỹ thuật lắm công phu<br />
Càng nhiệt tâm trong ước muốn đấp bù<br />
Càng xa cách mức thành công toại ý<br />
Bao nhiêu lần hé môi đôi lời nghĩ<br />
Âm vang như tắt thở, cổ nghẹn ngào<br />
Hỏi ai còn nức nở được lời nào?<br />
Bao nhiêu lần câu thơ tôi muốn viết<br />
Bút cạn khô, tay mõi, ý thơ mòn<br />
Thất bại về đầy ngao ngán chán chường. ■<br />
TÌNH CA 22<br />
Giờ sinh vật cần lao trên mặt đất<br />
Là phút giây còn ánh sáng ban ngày<br />
Ngọai trừ trong thế giới một hai loài<br />
Phải đợi lúc bầu trời đầy sao sáng<br />
Quay về hang, hay tổ ấm trên cành<br />
Tìm yên nghỉ chờ bình minh ló dạng<br />
Không ngưng đuợc tiếng thở dài trong nắng<br />
Từ ban mai, lúc trời rạng tia hồng<br />
Màn đêm còn lãng đãng khắp non rừng<br />
Nhẹ báo thức muôn loài còn ngái ngủ<br />
Mỗi khi thấy bầu trời đầy tinh tú<br />
Lệ tuôn tràn, tôi muốn trở lại ngày<br />
Hoàng hôn xuống đuổi xô ngày sáng tỏ<br />
Bóng đêm dài tái tạo buổi bình minh<br />
Mắt đăm chiêu nhìn vô số thiên tinh<br />
Đã tạo dựng cõi trần hòan tri thức<br />
Lời nguyền xưa bỗng về trong ký ức:
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 51<br />
that makes me in aspect like a wild man of the<br />
woods.<br />
I do not think that any creature so harsh<br />
grazed the woods, either by night or day,<br />
as she, through whom I weep in sun or shade:<br />
and I am not wearied by first sleep or dawn:<br />
for though I am mortal body of this earth,<br />
my fixed desire comes from the stars.<br />
Might I see pity in her, for one day,<br />
before I return to you, bright stars,<br />
or turning back into cherished woodland,<br />
leave my body changed to dry earth,<br />
it would restore many years, and before dawn<br />
enrich me at the setting of the sun.<br />
May I be with her when the sun departs,<br />
and seen by no one but the stars,<br />
for one sole night, and may there be no dawn:<br />
and may she not be changed to green woodland,<br />
issuing from my arms, as on the day<br />
when Apollo pursued her down here on earth.<br />
But I will be beneath the wood's dry earth,<br />
and daylight will be full of little stars,<br />
before the sun achieves so sweet a dawn. ■<br />
Hãy sống tròn kiếp hoang dại, người ơi<br />
Tôi không nhớ thú rừng nào thô bạo<br />
Gặm cỏ cây, không ngửng nghỉ đêm ngày<br />
Không như tôi, luôn than khóc đọa đày<br />
Qua giấc ngủ đêm thâu hay ngày sáng<br />
Tôi hằng nghĩ dẫu thân nầy phân tán<br />
Ước vọng còn mãi mãi với trăng sao<br />
Nét từ tâm xin cho thấy ngày nào<br />
Trước khi tôi nhập diệt vào sao sáng<br />
Gửi hình hài cho ngàn cây thanh thản<br />
Cát bụi nầy hòan lại đất khô cắn<br />
Sẽ phục hồi tất cả những tháng năm<br />
Mang hạnh phúc tràn đầy khi chiều xuống<br />
<strong>The</strong>o gót Nàng lúc ánh tà khuất bóng<br />
Xa mắt trần, kề tinh tú lung linh<br />
Chỉ một đêm, không có ánh bình minh<br />
Nàng không thể biến thành xanh cây cỏ<br />
Nới vòng tay như cõi trần ngày đó<br />
Thái Dương thần theo đuổi bóng giai nhân<br />
Lòng đất khô, tôi cằn cỗi chiếc thân<br />
Trời ban mai đầy sao sáng rưng rưng<br />
Chờ hòa tấu khúc bình minh mật ngọt. ■<br />
<br />
Madison, AL, September 2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 52<br />
Chi<br />
By Bính H»u Phåm<br />
(<strong>The</strong> English version of this story appeared in <strong>Firmament</strong> October 2010.)<br />
Washington, DC, một ngày Chủ Nhật đẹp trời giữa tháng 9 năm 1977. Du khách lũ lượt đi chơi trong<br />
công viên <strong>The</strong> National Mall, nơi có những viện bảo tàng nổi tiếng như Bảo Tàng Viện Không Gian và<br />
Phi Hành, Bảo Tàng Viện Lịch Sử Thiên Nhiên, v..v…<br />
Chi đưa chiếc máy ảnh lên nhằm vào người chồng đang bồng đứa con trai đứng gần một pho<br />
tượng lớn và bấm lia lịa. Những tia sáng lóe ra từ flash của máy ảnh làm đứa nhỏ khoái trí cười lên<br />
khanh khách. Người chồng cũng cười theo. Một lúc sau, người chồng đưa đứa nhỏ cho Chi và nói: “Em<br />
bế con đứng vào chỗ bụi hoa kia để anh chụp cho.”<br />
Bỗng có tiếng gọi: “Chị Chi! Chị Chi!” Chi quay lại và thấy một người đàn bà từ trên lề đường<br />
chạy lại, hớn hở nói: “Chị có nhận ra em không? Em là Hường, em chị Quyên là bạn thân của chị đó.”<br />
Chi vui cười đáp: “Trời ơi! Em lớn lên nhiều làm sao chị nhận ra ngay được. Bây giờ em nói thì<br />
chị nhận ra rồi. Thế chị Quyên thì sao? Có đi được không?”<br />
“Dạ, chị em có đi được, nhưng theo gia đình chồng sang Pháp. Để rồi em sẽ cho chị điện thoại<br />
và địa chỉ của chị Quyên để chị liên lạc.” Hường vừa trả lời vừa đưa mắt nhìn về hướng đứa nhỏ. Chi<br />
chiềng tay về phía chồng và con, giới thiệu: “Đây là anh Khoa, chồng chị và cháu Văn, con trai đầu<br />
lòng của anh Khoa và chị đấy.”<br />
Hường cúi đầu chào Khoa và mỉm cười nhìn đứa nhỏ: “Cháu kháu khỉnh quá. Cháu được mấy<br />
tuổi rồi chị? Mà bây giờ chị làm gì?”<br />
“Cháu được 18 tháng, mới biết đi và đang tập nói. Sang đây chị mới sinh cháu. Bây giờ thì còn<br />
phải gửi cháu cho bà nội trông. Anh Khoa kiếm được việc ở bưu điện; còn chị thì làm cashier cho một<br />
supermarket. Chị muốn tìm việc khác mà chưa tìm được.”<br />
“Vậy hả chị? Ngày trước chị tốt nghiệp Sư-Phạm thực hành và chị cũng thạo tiếng Anh nữa vì<br />
chị đã học ở Hội Việt Mỹ. Chị có muốn trở lại nghề dạy học không?<br />
“Chị muốn lắm chứ. Nhưng chị nghe nói muốn làm giáo viên ở đây phải có chứng chỉ hành<br />
nghề dạy học mà chị không có thì làm sao? Tiền đâu mà đi học lại để lấy chứng chỉ?”<br />
“Chị ơi, bây giờ các trường học cần nhiều giáo viên lắm, nhất là giáo viên nói thạo tiếng Việt, vì<br />
có nhiều học sinh Việt Nam mới tới. Em làm thư ký cho một trường tiểu học trong khu em ở. Ông<br />
Hiệu-Trưởng ngày nào cũng nhắc em tìm giáo viên người Việt cho ông ấy. Ông ấy nói ông ấy có nhiều<br />
cách để giúp giáo viên lấy chứng chỉ hành nghề. Nếu chị muốn thì em có thể giới thiệu chị với ông<br />
Hiệu Trưởng và nói rõ chị đã dạy học nhiều năm ở Việt Nam. Chắc là ông ấy sẽ mừng lắm.”<br />
Nghe thế, Chi mừng ra mặt: “Nếu vậy thì chị cám ơn em lắm. Em cho chị địa chỉ và điện thoại<br />
của em đi.”<br />
Hường lấy giấy ghi tên, địa chỉ, điện thoại đưa cho Chi và ân cần nói: “Nếu tiện thì ngày mai<br />
chị đến nhà em sớm và em sẽ đưa chị đến trường giới thiệu với ông Hiệu Trưởng.”<br />
Chi hồi hộp bước vào văn phòng ông Hiệu Trưởng ngày hôm sau; nhưng chỉ trong chốc lát, nét<br />
mặt nhã nhặn, giọng nói ân cần của ông Hiệu Trưởng đã làm tan biến đi những lo âu lúc ban đầu. Sau<br />
khi xem kỹ những giấy chứng chỉ của Chi, Ông Hiệu Trưởng cho Chi biết ông ấy sẽ yêu cầu phòng<br />
nhân viên làm thủ tục bổ dụng Chi làm giáo viên tạm thời, đầy đủ lương bổng và quyền lợi với điều<br />
kiện là trong vòng hai năm Chi sẽ phải hoàn tất 6 tín chỉ về phương pháp giáo dục các trẻ nhi đồng và<br />
về tâm lý trẻ em. Những tín chỉ này Chi có thể học trong kỳ nghỉ hè hay vào buổi tối ở các đại học gần<br />
đây. Ngoài ra ông Hiệu Trưởng cũng nói trong vài tháng đầu ông ấy muốn Chi dạy chung một lớp mẫu<br />
giáo với một giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm tên là Jennifer Petersen để Chi có dịp làm quen với
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 53<br />
lớp học và cách dạy học ở Hoa Kỳ.<br />
Mọi việc trôi chảy ngoài sức tưởng tượng của Chi. Ông Hiệu Trưởng cũng bảo Hường đưa Chi<br />
đi giới thiệu với các nhân viên nhà trường và đến gặp cô giáo Jennifer Petersen để hai người bàn luận<br />
về lớp học.<br />
Việc đầu tiên của Chi khi đến nhận việc là làm quen với các em ở trong lớp mẫu giáo này. Các<br />
em thuộc nhiều chủng tộc: có trẻ em Nam Mỹ, trẻ em da đen, da trắng và trẻ em Á Đông trong đó có 4<br />
em là người Việt. Mấy em này thấy có cô giáo nói được tiếng Việt thì mừng rỡ và mạnh dạn, tự tin hẳn<br />
lên. Các trẻ em trong lớp đều tò mò về cô giáo mới và tìm mọi cớ để lại nói chuyện với Chi: “Cô Chi<br />
làm ơn buộc lại dây giầy cho em.”, “Cô Chi cài hộ em nút áo.” Chi sung sướng chiều lòng các em và<br />
lợi dụng những lúc gần gũi này để chuyện trò, tìm hiểu từng em.<br />
Một điều Chi nhận thấy rõ là các trẻ em ở đây mạnh dạn và thân mật với các cô giáo. Các em<br />
nói năng tự nhiên và tự lập trong cách suy nghĩ. Trong giờ tập làm toán, một hôm cô Jennifer hỏi các<br />
em: “Nếu cô cho em hai con thỏ; rồi cô Chi lại cho em hai con thỏ nữa thì em có tất cả mấy con thỏ?”<br />
Các em xòe bàn tay ra đếm trên mấy ngón tay rồi dơ 4 ngón tay lên để trả lời. Riêng có em Clara xòe<br />
cả bàn tay 5 ngón lên trả lời. Cô Jennifer hỏi Clara: “Em có thể cho cô biết làm sao em có được 5 con<br />
thỏ không?” Clara nói: “Cô nói cô cho em 2 con thỏ; rồi cô Chi lại cho em 2 con thỏ nữa, thế là 4 con;<br />
với lại ở nhà em có một con rồi, thế là em có tất cả 5 con thỏ.” Cô Jennifer đành chịu thua, cười và ôn<br />
tồn nói: “Em nói như thế là đúng.”<br />
Chi cũng nhận ra ngay là hai em người Á Đông tên Kimberly và Katy và môt em da đen tên<br />
Alisha đều là con nuôi vì ngày nào cũng có phụ huynh người da trăng đến đón. Các em rõ ràng là được<br />
bố mẹ nuôi cưng chiều. Quần áo ngày nào cũng thay đổi, hợp thời trang và sạch sẽ, tươm tất, riêm rúa.<br />
Hai em Kimberly và Katy cũng được bố mẹ đón sớm hơn để còn kịp đi học piano ngày Thứ Hai, học<br />
vũ ballet ngày Thứ Ba, học ice skating ngày Thứ Năm. Chi thầm nghĩ những đứa trẻ này thật là may<br />
mắn. Nếu như các em này còn sống với cha mẹ ruột nơi quê hương bản sứ thì chắc chắn còn sống trong<br />
cảnh nghèo nàn, đói rách, bệnh tật và thất học. Những cha mẹ nào đã phải cho con đi chắc cũng đau<br />
lòng, sót ruột khi phải chia ly với con; nhưng nếu họ biết giờ này con họ đang sống sung sướng với cha<br />
mẹ nuôi thì chắc họ cũng được an ủi đôi phần. Họ sẽ biết rằng việc họ quyết định cho đứa con đi khi họ<br />
không thể nuôi nó là một quyết định khôn ngoan và đầy tình thương.<br />
Chi cũng chú ý đến một em trai tóc vàng óng ánh tên là John Kriege. Có một cái gì từ con người<br />
John như thu hút lấy Chi. Một hôm, Chi thấy John ngồi thừ mặt ra, không chuyện trò với ai. Chi tiến<br />
lại, định hỏi xem John có cần Chi giúp gì không; nhưng John xua tay nói: “Đừng lại gần em! Đừng lại<br />
gần em!” Chi không biết làm sao. Cô giáo Jennifer bước lại gần Chi và ghé tai nói thầm: “Chắc là em<br />
đó ỉa đùn hay đái dầm và không muốn ai biết đấy!” Chi thong thả đến gần em đó và dịu dàng nói: “Em<br />
lỡ làm ướt quần phải không? Không sao đâu. Để cô giúp em thay quần áo khác.” Lúc bấy giờ John mới<br />
chịu đi theo Chi ra phòng tắm. Khi thay quần cho John, Chi nhận thấy một vết đỏ thẫm bằng đầu ngón<br />
tay cái ở trên mông phải John. Chi chăm chú nhìn kỹ. Vết đỏ như đã ăn sâu vào da John. Chi băn<br />
khoăn, nghĩ ngợi. Chi lấy ngón tay ấn nhẹ vào vết đỏ, nhưng John không tỏ ra đau đớn gì. Chi đưa John<br />
trở lại lớp rồi gọi điện thoại cho bà Kriege nói rõ về vết đỏ mà Chi vừa thấy trên mông John. Bà Kriege<br />
cười và nói: “Cháu đã có vết đỏ đó trên mông từ ngày cháu ra đời.’ Từ hôm đó trở đi, Chi càng để ý đặc<br />
biệt đến John hơn.<br />
Bố John là ông Gary Kriege, người da trắng, cao lớn, vạm vỡ, cũng có tóc vàng óng ánh như<br />
John, thường tự nguyện đến trường buổi chiều ngày Thứ Năm để giúp kiểm điểm, chỉnh trang các máy<br />
computers. Mẹ em cũng là người da trắng, mảnh khảnh, thon thả. Cả hai người cùng rất dịu dàng, lịch<br />
thiệp.<br />
Là phụ giáo, Chi có nhiệm vụ giúp riêng từng em một khi cần. Nhưng lần nào đến chỗ John,<br />
Chi cũng đứng lại lâu hơn. Ở trong lớp học Chi phải giữ ý tứ, không được ôm ấp học trò nào; nhưng<br />
Chi ước ao làm sao Chi có thể ôm John vào lòng âu yếm, như Chi ôm bé Văn ở nhà, để lấy hơi nóng
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 54<br />
của mình truyền cho John và được cảm thấy hơi nóng từ thân thể John thấm vào cơ thể của mình. John<br />
hình như cũng cảm thấy sự âu yếm của cô giáo và tỏ ra ân cần, gần gũi với Chi hơn bất cứ học sinh nào<br />
khác. Sáng đến là John chạy lại ôm chầm lấy Chi, cười khanh khách. Khi ra về John cũng hai ba lần từ<br />
biệt Chi rồi mới bước ra khỏi lớp.<br />
Một buổi sáng John đem đến đưa cho Chi một cái kẹo sô-cô-la, rồi mỉm cười nói: “Mẹ em cho<br />
em kẹo này để ăn sau bữa trưa; nhưng em muốn cho cô.” Chi lắc đầu: “Kẹo này mẹ em cho em để ăn<br />
trưa. Em phải giữ để ăn sau bữa trưa. Em không được cho đi. Cô cám ơn em; nhưng cô không ăn kẹo<br />
được vì cô sợ mập.” John tỏ ra hơi buồn. Một hôm khác khi được mẹ đưa đến lớp học, John mang theo<br />
một con gấu nhồi bông đến đưa cho Chi và nói: “Đây là con gấu mà em thích nhất; nhưng em muốn<br />
cho cô. Em đã hỏi mẹ em và mẹ em nói được.” Bà mẹ John mỉm cười ghé tai Chi nói nhỏ: “Cô cứ nhận<br />
cho cháu vui lòng. Nó mến cô lắm, cứ luôn miệng nhắc đến cô Chi” Chi cũng ghé tai bà mẹ nói nhỏ:<br />
“Tôi cứ giữ con gấu ở đây và sẽ bỏ vào một túi plastic. Chiều nay bà lại đón cháu, nhớ mang về cho<br />
cháu.”<br />
Những ngày đi dạy mẫu giáo bây giờ là những ngày thần tiên đối với Chi. Khoa cũng thấy rõ vẻ<br />
sung sướng, yêu đời của vợ. Một buổi sáng trước khi đi làm, Khoa nói với Chi: “Anh thấy rõ là em yêu<br />
nghề dạy học hơn bất cứ việc gì khác.” Chi đồng ý ngay: “Anh nói đúng. Em được trở lại với nghề cũ<br />
thế này là may mắn lắm. Ở trường ai cũng quí mến em. Mình thật là có phúc lắm anh ơi!”<br />
Một buổi sáng Thứ Sáu cách đó ít lâu sau, cả hai vợ chồng ông Gary Kriege cùng đưa con đến<br />
lớp. Bà Kriege nói với cô Jennifer và Chi: “Cuối tuần này chúng tôi sẽ dọn đến căn nhà mới xây xong<br />
của chúng tôi cách đây 20 miles. Chúng tôi sẽ phải cho cháu John chuyển đến một lớp mẫu giáo gần<br />
nhà mới. Hôm nay là buổi học cuối cùng của cháu ở đây. Chúng tôi đến từ biệt hai cô và cám ơn hai cô<br />
rất nhiều về tất cả những điều tốt đẹp hai cô đã làm cho cháu.”<br />
Chi cảm thấy như có tiếng sét đánh ngang tai, đứng lặng người đi, không nói năng đưọc một<br />
câu. Cả bầu trời như tối rầm hẳn lại. Có đến năm bảy phút sau Chi mới lấy lại được bình tĩnh và vội<br />
nói: “Tôi mến em John lắm. Em thật dễ thương. Nếu ông bà cho phép thì thỉnh thoảng tôi sẽ rẽ qua<br />
thăm em.” Ông Kriege cười vui vẻ: “Nếu thế thì quí lắm. Xin cô cứ tự nhiên.”<br />
Khi John vẫy tay chào Chi để ra về ngày hôm đó, nó vẫn vui tươi như không có gì khác lạ hơn<br />
mọi khi. Chi cố mỉm cười nhìn theo nó.<br />
Chi đến trường ngày Thứ Hai tuần sau, uể oải, mệt nhọc như người thiếu ngủ. Giờ khắc trôi qua<br />
nặng nề. Chi vẫn đi quanh lớp đến từng em để quan sát, chuyện trò, chỉ bảo, giúp đỡ; nhưng mỗi lần<br />
đến chỗ ngồi cũ của John là Chi bước vội đi. Ngày Thứ Ba cũng trôi qua nặng nề, chậm chạp. Chi<br />
không ngờ Chi lại nhớ John đến thế. Hay là chiều nay về Chi sẽ gọi điện thoại thăm hỏi nó. Ồ, không<br />
được; như vậy có vẻ vội vã quá. Có lẽ phải đợi đến cuối tuần thì hợp lý hơn. Ngày Thứ Tư cô Jennifer<br />
vắng mặt, Chi phải đảm nhiệm tất cả mọi việc trong lớp, đọc truyện cho từng nhóm, săn sóc, giảng giải<br />
cho từng em. Em này ho và nóng đầu phải gọi điện thoại cho phụ huynh đến đón về sớm; em kia ỉa đùn<br />
phải thay quần áo cho em. Chi bận túi bụi và quên đi sự vắng mặt của John cho đến giờ tan học. Không<br />
còn tiếng chào từ biệt “bye bye Cô Chi”, không còn cái vẫy tay mềm mại luyến tiếc của John. Thế là<br />
những ngày thần tiên đã tàn tạ<br />
Ngày Thứ Năm Chi mệt mỏi đến trường. Vừa bước vào hành lang đi ngang qua văn phòng<br />
chính, Chi nghe rõ ràng có tiếng gọi của John: “Cô Chi! Cô Chi!” Quay đầu lại, Chi thấy vợ chồng ông<br />
Gary Kriege đang dắt tay John đi vào văn phòng. Chi mừng quýnh, chưa kịp hỏi lý do, thì bà Kriege đã<br />
nhanh nhẹn giải thích: “Cháu sang trường mới, lạ thày, lạ bạn, cháu chẳng chịu học hành gì; cả ngày<br />
chỉ ngồi một mình buồn thiu. Chúng tôi tưởng một hai hôm rồi cháu sẽ quen đi. Nhưng đến hôm qua<br />
thì cháu lại càng buồn hơn, bỏ cả ăn, nằm ngủ li bì. Cho nên chúng tôi xin cho cháu trở lại học ở đây<br />
với cô Jennifer và cô . Chúng tôi sẽ phải lái xe đưa cháu đi học xa hơn một chút thôi.”<br />
Bao nhiêu buồn phiền bỗng tan biến hết, Chi lại thấy khung cảnh trường rạng rỡ, tươi vui, lớp<br />
học đầy hứng thú.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 55<br />
Ông hiệu trưởng nghe tin một học sinh gia đình đã dọn nhà đi xa mà còn xin trở lại học thì<br />
mừng lắm. Đối với ông đây là bằng chứng hiển nhiên rằng những giáo viên trong trường này đã tận<br />
tâm và khéo léo trong việc giáo dục trẻ em. Ông loan tin đó cho tờ báo Gazette ở địa phương. Một tuần<br />
sau, hình hai cô giáo Jennifer và Chi tươi cười đứng chung với gia đình John đã được in trên trang nhất<br />
tờ Gazette dưới tiêu đế “Những Điểm Son Trong Địa Phương.” Bài báo kể lại chuyện John nhớ trường<br />
và nhớ cô giáo ra sao với kết luận là trường tiểu học Eastern Elementary, dưới sự điều khiển của ông<br />
hiệu trưởng Michael Dix, đã rất thành công trong việc giáo dục trẻ em. Phóng viên tờ báo cũng nhận<br />
xét rằng em John đã mến cô giáo Chi đến độ em đã bắt chước cả dáng đi và nụ cười của cô giáo. Bài<br />
báo cũng nhấn mạnh đến kinh nghiệm dạy học và sự tận tâm của hai cô giáo, nhất là Chi., một giáo<br />
viên từ Việt Nam mới tới đây. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, số đơn xin nhập học vào lớp mẫu giáo ở<br />
trường Eastern Elementary đã tăng lên bội phần. Ông hiệu trưởng phải dự trù mở thêm hai lớp nữa.<br />
Chi lại đi dạy học với một niềm hân hoan, hãnh diện. Chi vẫn săn sóc từng em học sinh trong<br />
lớp và vẫn gần gũi với John hơn bất cứ học sinh nào khác. Nhưng Chi nhận thấy rõ ràng là John không<br />
nhanh nhẹn, hăng hái như lúc trước. John có vẻ mệt mỏi, đờ đẫn. Một hôm cầm tay John, Chi thấy đẫm<br />
những mồ hôi. Trán John hâm hẩm nóng. Chi bàn với cô giáo Jennifer rồi gọi điện thoại cho mẹ John.<br />
Nửa giờ sau bà Kriege đến đón con về đưa đi bác sĩ.<br />
Ngày hôm sau, John không đến học. Chi đoán John bi cảm, cần nghỉ ở nhà và không băn khoăn<br />
gì. Ngày hôm sau nữa, John vẫn vắng mặt, Chi cũng không thắc mắc gì. Nhưng khi John vắng mặt liền<br />
ba hôm nữa, thì Chi lo âu ra mặt. Cuối tuần đó Chi gọi điện thoại lại nhà John để hỏi thăm. Bà Kriege<br />
trả lời điện thoại và cho Chi biết John vẫn còn sốt; nhưng bác sĩ chưa biết rõ John bệnh gì. Bác sĩ đã lấy<br />
máu để thử nghiệm và hai ngày nữa mới có kết quả.” Chi ngỏ lời muốn đến thăm John và bà Kriege ân<br />
cần mời Chi đến ngay hôm đó.<br />
Nhà của ông bà Kriege ở trong một khu biệt thự mới xây, mỗi nhà một kiểu riêng biệt. Nhà nào<br />
cũng lớn với vườn tược rộng rãi có trồng cây cảnh và sân cỏ xanh tươi bao quanh. Bà Kriege đã đứng<br />
sẵn ở cửa để đón Chi. Bà đã không cho John ra cửa đón cô giáo vì sợ gió lạnh; nhưng John đã ra đứng<br />
sẵn ở đầu cầu thang. Khi thấy cô giáo lên đến nơi là nó ôm chầm lấy. Chi cúi xuống ôm lấy John và<br />
bồng nó lên rồi đi theo bà Kriege vào phòng ngủ của John. Chi thấy rõ ràng John gầy và xanh hẳn đi,<br />
hơi thở nóng hổi, vẻ mệt mỏi hiện ngay trên nét mặt. John nằm ngay xuống giường, đưa mắt nhìn mẹ<br />
và cô giáo. Chi lấy ra một con gấu nhồi bông, cúi xuống đưa cho John. rồi mỉm cười nói: “Cô biết em<br />
thích gấu nhồi bông. Cô có cái này làm quà cho em đây.” John đỡ lấy con gấu ôm vào lòng và nói khe<br />
khẽ: “Cám ơn cô.” rồi mệt mỏi nhắm mắt lại ngủ. Chi đứng nhìn John vài phút rồi từ biệt bà Krieger ra<br />
về. Ra đến cửa bà Kriege nói khe khẽ: “Cám ơn cô nhiều lắm. Nhưng nếu lần sau cô có đến thăm cháu,<br />
xin cô đừng mua quà cho cháu. Cháu có nhiều đồ chơi lắm rồi.”<br />
Ngày Thứ Hai, John vẫn vắng mật. Chi nóng lòng, gọi điện thoại lại nhà John; nhưng không có<br />
ai trả lời. Chi đoán chừng ông bà Kriege đã đưa con đi bác sĩ. Buổi chiều, vừa về tới nhà là Chi lại gọi<br />
điện thoại đến nhà John; nhưng vẫn không có ai trả lời.<br />
Sau khi ăn cơm tối xong, Chi lại gọi điện thoại nữa thì có tiếng ông Kriege trả lời. Ông Kriege<br />
cho Chi biết bác sĩ nói là John bị ung thư máu và phải ở trong bệnh viện để bác sĩ thử nghiệm thêm và<br />
chữa trị. Chi hớt hải muốn vào thăm John ngay; nhưng ông Kriege nói giờ thăm bệnh nhân đã chấm<br />
rứt. Chi đành hỏi số điện thoại ở nhà thương và số phòng của John để đi thăm ngày hôm sau. Chi quay<br />
qua nói với Khoa: “Ngày mai em sẽ đón bé Văn và cho nó ăn uống rồi anh chịu khó ở nhà trông con để<br />
em vào nhà thương thăm một học sinh đang đau nặng.”<br />
Khi đến nhà thương ngày hôm sau, Chi thấy John đang ngủ li bì và bà Kriege đang ngồi bên<br />
giường cầm tay con. Bà Krieger ra hiệu cho Chi giữ yên lặng rồi thong thả đứng lên đưa Chi ra bên<br />
ngoài cửa phòng và ghé tai Chi nói nhỏ: “Bác sĩ nói cháu bị ung thư máu thuộc loại rất nguy hiểm.<br />
Cháu sẽ phải làm chemotherapy ngay ngày mai. Bác sĩ còn phải chờ kết quả cách chữa bằng<br />
chemotherapy rồi mới theo đó mà quyết định những phuơng pháp trị liệu kế tiếp.”
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 56<br />
Chi lặng người đi, không nói được một lời, chỉ biết nắm chặt lấy tay bà Kriege. Sau một hồi,<br />
Chi cố lấy lại bình tĩnh, nói nhỏ với bà Kriege: “Chắc bà cũng mệt lắm. Bà để tôi ở đây với cháu. Bà<br />
nên đi ăn uống và nghỉ ngơi một chút. Tôi có thể ở đây với cháu đến 9 giờ.” Bà Kriege cúi đầu nói:<br />
“Nếu vậy thì cám ơn cô lắm. Tôi chạy đi một lúc rồi sẽ trở lại ngay. Nhà tôi sẽ đến thay thế cho tôi lúc<br />
10 giờ. Nhà thương chỉ cho một người ở trong phòng để trông bệnh nhân thôi.”<br />
Bà Kriege đi rồi, Chi ngồi xuống chiếc ghế nhỏ bên giường, đưa tay nhè nhẹ cầm lấy tay John,<br />
nước mắt ứa ra chảy cả xuống má. Một lúc sau John cựa quậy rồi mở mắt ra. Thấy Chi, nó nở một nụ<br />
cười thật tươi. Chi sung sướng cúi xuống hôn lên má nó, hỏi khe khẽ: “Em mệt không?” John nói nhỏ:<br />
“Em mệt một chút thôi.” Chi cầm lấy một quyển truyện để ở cuối giường và hỏi John: “Em có muốn cô<br />
đọc cho em nghe một truyện không?” John đồng ý ngay: “Vâng, cô đọc cho em nghe một truyện.” Chi<br />
vừa đọc truyện vừa đưa mắt nhìn John. Chi mới đọc được hai trang thì John lim dim mắt lại và ngủ<br />
thiếp đi.<br />
Những ngày kế tiếp Chi đều đặn vào nhà thương tiếp tay bà Kriege trông nom John từ 7 giờ<br />
rưỡi đến 9 giờ tối mới về. Ông Hiệu Trưởng nghe tin một học sinh đau nặng và cô giáo Chi đã đến<br />
thăm em này hàng ngày thì cảm động lắm. Ông lại báo tin cho tờ báo Gazette. Một phóng viên đã tìm<br />
đến nhà thương để chụp hình John và cô giáo Chi. Một tuần sau trên trang nhất tờ Gazette có in một<br />
phóng sự dài dưới tiêu đề “MỘT CÔ GIÁO TẬN TÂM” với hình màu cô giáo Chi đang ngồi bên<br />
giường bệnh cầm tay John.<br />
Bệnh tình của John càng ngày càng nguy kịch hơn. Sau ba lần làm chemotherapy tóc John đã<br />
rụng hết. John hay nôn ọe, ăn rất ít và gầy dộc hẳn đi. Bác sĩ nói cho ông bà Kriege biết là ít có hy vọng<br />
gì John có thể qua khỏi được. Ông bà Kriege đã báo tin buồn này cho Chi. Cả ba người cùng đồng ý<br />
rằng số phận John đã như vậy thì buồn phiền, khóc than cũng chẳng ích gì. Cách tốt nhất là trong<br />
những ngày John còn ở đây, tất cả đều cố gắng đem lại cho John những phút thoải mái, sung sướng. Bà<br />
Kriege đã mua sẵn một bịch lớn những đồ chơi đưa cho Chi để Chi mỗi ngày mang lại cho John một<br />
món. John hình như đã quen với giờ giấc có cô giáo Chi đến thăm và thường cố thức để chờ Chi. Nó<br />
cười và đưa tay đỡ lấy món đồ chơi Chi mang đến và ôm chặt vào lòng. Chi cúi xuống ôm lấy nó và<br />
hôn lên má lên môi nó. John đưa tay ra cầm lấy tay Chi và nũng nịu: “Cô đọc một truyện cho em.” Rồi<br />
chỉ mấy phút sau là nó ngủ thiếp đi.<br />
John kêu đau đớn khắp người. Bác sĩ phải cho tiêm morphine để John khỏi cảm thấy đau;<br />
nhưng thuốc làm John ngủ li bì.<br />
Chi đoán chừng những ngày cuối cùng của John đã tới và xin phép nghỉ luôn ba ngày để ở trong<br />
nhà thương với John. Ông bà Kriege cũng được nhà thương nhân nhượng cho ở luôn bên giường với<br />
con. Một buổi sáng, bà Kriege đang bế John trong lòng thì thấy John mở mắt nhìn vòng chung quanh<br />
như thể để ghi nhận mọi người thân một lần cuối rồi thân thể John mềm rũ, hai mắt đờ ra và nhắm lại.<br />
Bà Kriege kêu lớn tiếng lên: “Con tôi! Con tôi đi rồi!” Bà òa lên khóc. Chi cũng òa lên khóc theo. Ông<br />
Kriege đưa tay lên chùi vội nước mắt đang dàn dụa chảy xuống má. Bác sĩ và y tá thường trực đến<br />
ngay và sau khi khám nghiệm đã xác nhận là John vừa qua đời.<br />
Lễ cầu nguyện và viếng xác bé John được tổ chức vào 5 giờ chiều ngày Thứ Sáu. Số người đến<br />
tham dự rất đông đảo. Người ta đến để chia buồn với gia đình Kriege; nhưng người ta cũng tò mò<br />
muốn biết mặt cô giáo Chi mà tờ báo Gazette đã có nhiều bài ca tụng. Chi ngồi khiêm nhượng ở hàng<br />
ghế gần cuối phòng. Khi mọi người sắp hàng để lên viếng quan tài, Chi cũng thong thả đi lên. Nhưng<br />
khi đến bên quan tài thì Chi không ngăn được nỗi súc động nữa. Chi cúi xuống ôm lấy quan tài và òa<br />
lên khóc làm cho ai nấy đều mủi lòng.<br />
Lễ cầu nguyện chấm dứt. Mục sư đọc lời cầu nguyện cuối cùng. Ông Kriege đứng lên nói vài<br />
lời cám ơn. Mọi người yên lặng ra về. Ông bà Kriege lùi lại sau chờ Chi để cùng đi ra. Khi đã ra ngoài,<br />
ông Kriege ân cần cám ơn Chi một lần nữa trước khi từ biệt. Bà Kriege đứng lại nhìn theo Chi rồi quay<br />
sang nói nhỏ với chồng: “Anh ra xe trước ngồi chờ em. Em muốn nói với cô Chi cái này một chút.”
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 57<br />
Ông Kriege bước ra xe. Bà Kriege gọi với theo Chi: “Cô Chi, cô Chi.” Nghe tiếng bà Kriege,<br />
Chi đứng lại, chờ đợi. Bà Kriege đến bên Chi, đưa hai tay nắm lấy tay Chi, rồi nhìn thẳng vào mắt Chi<br />
khe khẽ hỏi: “Cô là mẹ ruột John, phải không?” Chi biến sắc mặt, mở rộng mắt nhìn bà Kriege một hồi<br />
rồi gật đầu nói: “Vâng. Tôi cũng đoán chừng rồi bà sẽ nhận ra. Bây giờ bà đã biết rồi thì tôi cũng nói cả<br />
mọi chuyện để bà biết.”<br />
“ Vào năm 1971, tôi đang là giáo viên thì nghe tin chính phủ có chương trình gửi những giáo<br />
viên ưu tú và giỏi Anh Ngữ sang Hoa Kỳ tu nghiệp để về dạy ở trường Sư Phạm. Tôi muốn tìm đường<br />
tiến thân nên sau giờ dạy học, tôi đi học thêm Anh Ngữ ở Hội Việt Mỹ.<br />
Tôi thường đến lớp Anh Ngữ sớm và cùng một vài người bạn ngồi uống nước ở trong snack bar.<br />
Một hôm người bồi bàn bưng nước ra đã vấp vào chân ghế làm đổ cả mấy ly nước vào người tôi. Tôi<br />
còn đang lính quýnh chưa biết làm sao thì một sĩ quan Hoa Kỳ ngồi bàn gần đó đã nhanh nhẹn đem đến<br />
cho tôi một nắm khăn giấy để tôi lau người và quần áo. Ông ta nhìn tôi, thương hại và nói: ‘Tôi có xe<br />
Jeep. Nếu cô muốn thì tôi có thể chở cô về nhà thay quần áo rồi lại chở cô về đây cho kịp lớp học.’<br />
Không còn cách nào hơn, tôi bằng lòng làm theo lời ông ấy. Mấy ngày sau ông ấy lại vào snack bar khi<br />
chúng tôi đang ngồi uống nước ở đó. Ông ấy ngồi vào bàn nói chuyện với chúng tôi. Ông ấy tự giới<br />
thiệu là đại úy thủy quân lục chiến, tên là John Britta, có nhiệm vụ giữ an ninh cho Tòa Đại Sứ Hoa<br />
Kỳ. Chúng tôi vui mừng có dịp thực tập tiếng Anh và nhất là thấy ông ấy rất lịch sự.<br />
Cuối tuần sau đó John mời tôi đi ăn và đi khiêu vũ. Rồi chúng tôi yêu nhau tha thiết. John hứa<br />
sẽ đưa tôi về Hoa Kỳ vào kỳ nghỉ phép tới để giới thiệu tôi với cha mẹ John và rồi chúng tôi sẽ làm lễ<br />
thành hôn.<br />
Một hôm tôi đang dạy học thì nghe một tiếng nổ rất lớn làm rung chuyển cả cửa kính. Sau đó<br />
radio loan tin một chiếc xe vận tải đã ngừng lại trước Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ; người tài xế bỏ xe chạy và<br />
mấy phút sau thì bom trên xe đã nổ. Bom đã nổ mạnh đến nỗi làm sụp hẳn phía trước Tòa Đại Sứ. Tôi<br />
sợ hãi, gọi điện thoại cho John; nhưng lúc đó, mọi liên lạc truyền thông với Tòa Đại Sứ đã hoàn toàn<br />
ngưng đọng. Tôi nóng lòng chờ tin John; nhưng không thấy John gọi điện thoại cho tôi. Tôi biết có<br />
chuyện chẳng lành. Tôi tìm đến chỗ ở của John và một người lính canh cho tôi biết John đã tử nạn, xác<br />
đã được đưa ngay về Hoa Kỳ.<br />
Tôi khóc thương John biết là bao. Một tuần lễ sau thì tôi biết tôi đã có bầu. Tôi lo lắng cho đời<br />
tôi và nhất là cho đứa con đang còn nằm trong bụng tôi. Trong xã hội Việt Nam, một người đàn bà có<br />
con lai sẽ bị coi là thứ đàn bà hư hỏng. Tôi sẽ phải bỏ việc dạy học; mà rồi tôi có biết làm gì khác để<br />
sinh sống đâu. Đứa con lai của tôi sẽ bị dè bỉu, chế diễu, sẽ chẳng dám đến trường học. Rồi nó sẽ thành<br />
một đứa trẻ bụi đời, lang thang đầu đường, xó chợ. Càng nghĩ tôi càng thấy xót xa, đau đớn. Có lúc tôi<br />
đã nghĩ đến chuyện phá thai.<br />
Nhưng mẹ tôi đã khuyên bảo tôi phải tìm giải pháp khác. Mẹ tôi khuyên tôi xin nghỉ việc tạm<br />
một thời gian, lên ở với cô tôi ở Đà Lạt cho đến ngày sinh rồi nhờ các bà sơ tìm cha mẹ nuôi người da<br />
trắng cho con tôi. Tôi nghe lời mẹ tôi. Tôi đứt lòng đứt ruột khi phải cho nó đi. Nhưng nghĩ đến tương<br />
lai của nó, tôi đành chịu đau khổ một mình. Tôi chỉ xin các bà sơ đặt tên nó là John. Tôi nhìn kỹ mặt<br />
mũi và thân thể con tôi một lần cuối Tôi thấy một vết đỏ thẫm to gần bằng đầu ngón tay cái trên mông<br />
phải nó.<br />
Năm 1975, tôi theo gia đình di cư sang Hoa Kỳ. Tôi gặp chồng tôi bây giờ ở trong trại tị nạn<br />
Fort Chaffee và chúng tôi đã làm lễ cưới ngay trong trại. Chúng tôi được một con trai mười tám tháng.<br />
Tôi vẫn nghĩ đến đứa con mà tôi đã phải cho đi, băn khoăn không biết nó đã trôi dạt về đâu. Không ngờ<br />
trời run rủi, tôi được gặp lại nó. Tôi đã nhận ra những nét nó giống bố nó và nhất là vết đỏ trên mông<br />
nó. Tôi sung sướng như vừa tìm thấy thiên đàng. Tôi cám ơn ông bà đã thương yêu nó hết lòng. Thôi<br />
thì số trời cho nó được sống có bấy lâu. Nhưng nó đã mang lại bao nhiêu là tình thương cho ông bà và<br />
cho tôi. Tôi không có gì hối tiếc nữa. Cám ơn ông bà đã cho tôi được gần gũi với nó trong gần một năm<br />
nay.”
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 58<br />
Bà Kriege nghẹn ngào không nói được gì. Mãi một lúc sau, bà mới lấy lại được bình tĩnh, nắm<br />
chặt lấy tay Chi, nói: “Chúng tôi cũng cám ơn cô rất nhiều.”<br />
Hai người đàn bà bịn rịn như không muốn rời nhau ra. Hai người đàn bà đã gặp nhau vì tình yêu<br />
một đứa trẻ. Đứa trẻ đó không còn ở trên trần gian này nữa. Nhưng hai người còn quấn quyện với nhau<br />
trong một tình thương cho đứa trẻ đã ra đi.<br />
Phút từ biệt đã tới. Hai người mẹ bước đi, mỗi người một ngả. Được một quãng hai người quay<br />
đầu nhìn lại nhau một lần cuối, mỗi người mang theo một nỗi niềm riêng. ■<br />
<br />
<strong>The</strong> Metamorphosis<br />
by Franz Kafka (1883 – 1924)<br />
Translated by David Wyllie<br />
I<br />
One morning, when Gregor Samsa woke from troubled dreams, he found himself transformed in his<br />
bed into a horrible vermin. He lay on his armour-like back, and if he lifted his head a little he could see<br />
his brown belly, slightly domed and divided by arches into stiff sections. <strong>The</strong> bedding was hardly able<br />
to cover it and seemed ready to slide off any moment. His many legs, pitifully thin compared with the<br />
size of the rest of him, waved about helplessly as he looked.<br />
"What's happened to me?" he thought. It wasn't a dream. His room, a proper human room although a<br />
little too small, lay peacefully between its four familiar walls. A collection of textile samples lay spread<br />
out on the table - Samsa was a travelling salesman - and above it there hung a picture that he had<br />
recently cut out of an illustrated magazine and housed in a nice, gilded frame. It showed a lady fitted<br />
out with a fur hat and fur boa who sat upright, raising a heavy fur muff that covered the whole of her<br />
lower arm towards the viewer.<br />
Gregor then turned to look out the window at the dull weather. Drops of rain could be heard hitting the<br />
pane, which made him feel quite sad. "How about if I sleep a little bit longer and forget all this<br />
nonsense", he thought, but that was something he was unable to do because he was used to sleeping on<br />
his right, and in his present state couldn't get into that position. However hard he threw himself onto his<br />
right, he always rolled back to where he was. He must have tried it a hundred times, shut his eyes so<br />
that he wouldn't have to look at the floundering legs, and only stopped when he began to feel a mild,<br />
dull pain there that he had never felt before.<br />
"Oh, God", he thought, "what a strenuous career it is that I've chosen! Travelling day in and day out.<br />
Doing business like this takes much more effort than doing your own business at home, and on top of<br />
that there's the curse of travelling, worries about making train connections, bad and irregular food,<br />
contact with different people all the time so that you can never get to know anyone or become friendly<br />
with them. It can all go to Hell!" He felt a slight itch up on his belly; pushed himself slowly up on his<br />
back towards the headboard so that he could lift his head better; found where the itch was, and saw that<br />
it was covered with lots of little white spots which he didn't know what to make of; and when he tried<br />
to feel the place with one of his legs he drew it quickly back because as soon as he touched it he was
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 59<br />
overcome by a cold shudder.<br />
He slid back into his former position. "Getting up early all the time", he thought, "it makes you stupid.<br />
You've got to get enough sleep. Other travelling salesmen live a life of luxury. For instance, whenever I<br />
go back to the guest house during the morning to copy out the contract, these gentlemen are always still<br />
sitting there eating their breakfasts. I ought to just try that with my boss; I'd get kicked out on the spot.<br />
But who knows, maybe that would be the best thing for me. If I didn't have my parents to think about<br />
I'd have given in my notice a long time ago, I'd have gone up to the boss and told him just what I think,<br />
tell him everything I would, let him know just what I feel. He'd fall right off his desk! And it's a funny<br />
sort of business to be sitting up there at your desk, talking down at your subordinates from up there,<br />
especially when you have to go right up close because the boss is hard of hearing. Well, there's still<br />
some hope; once I've got the money together to pay off my parents' debt to him - another five or six<br />
years I suppose - that's definitely what I'll do. That's when I'll make the big change. First of all though,<br />
I've got to get up, my train leaves at five."<br />
And he looked over at the alarm clock, ticking on the chest of drawers. "God in Heaven!" he thought. It<br />
was half past six and the hands were quietly moving forwards, it was even later than half past, more<br />
like quarter to seven. Had the alarm clock not rung? He could see from the bed that it had been set for<br />
four o'clock as it should have been; it certainly must have rung. Yes, but was it possible to quietly sleep<br />
through that furniture-rattling noise? True, he had not slept peacefully, but probably all the more deeply<br />
because of that. What should he do now? <strong>The</strong> next train went at seven; if he were to catch that he<br />
would have to rush like mad and the collection of samples was still not packed, and he did not at all<br />
feel particularly fresh and lively. And even if he did catch the train he would not avoid his boss's anger<br />
as the office assistant would have been there to see the five o'clock train go, he would have put in his<br />
report about Gregor's not being there a long time ago. <strong>The</strong> office assistant was the boss's man,<br />
spineless, and with no understanding. What about if he reported sick? But that would be extremely<br />
strained and suspicious as in fifteen years of service Gregor had never once yet been ill. His boss would<br />
certainly come round with the doctor from the medical insurance company, accuse his parents of<br />
having a lazy son, and accept the doctor's recommendation not to make any claim as the doctor<br />
believed that no-one was ever ill but that many were workshy. And what's more, would he have been<br />
entirely wrong in this case? Gregor did in fact, apart from excessive sleepiness after sleeping for so<br />
long, feel completely well and even felt much hungrier than usual.<br />
He was still hurriedly thinking all this through, unable to decide to get out of the bed, when the clock<br />
struck quarter to seven. <strong>The</strong>re was a cautious knock at the door near his head. "Gregor", somebody<br />
called - it was his mother - "it's quarter to seven. Didn't you want to go somewhere?" That gentle voice!<br />
Gregor was shocked when he heard his own voice answering, it could hardly be recognised as the voice<br />
he had had before. As if from deep inside him, there was a painful and uncontrollable squeaking mixed<br />
in with it, the words could be made out at first but then there was a sort of echo which made them<br />
unclear, leaving the hearer unsure whether he had heard properly or not. Gregor had wanted to give a<br />
full answer and explain everything, but in the circumstances contented himself with saying: "Yes,<br />
mother, yes, thank-you, I'm getting up now." <strong>The</strong> change in Gregor's voice probably could not be<br />
noticed outside through the wooden door, as his mother was satisfied with this explanation and shuffled<br />
away. But this short conversation made the other members of the family aware that Gregor, against<br />
their expectations was still at home, and soon his father came knocking at one of the side doors, gently,<br />
but with his fist. "Gregor, Gregor", he called, "what's wrong?" And after a short while he called again<br />
with a warning deepness in his voice: "Gregor! Gregor!" At the other side door his sister came<br />
plaintively: "Gregor? Aren't you well? Do you need anything?" Gregor answered to both sides: "I'm<br />
ready, now", making an effort to remove all the strangeness from his voice by enunciating very
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 60<br />
carefully and putting long pauses between each, individual word. His father went back to his breakfast,<br />
but his sister whispered: "Gregor, open the door, I beg of you." Gregor, however, had no thought of<br />
opening the door, and instead congratulated himself for his cautious habit, acquired from his travelling,<br />
of locking all doors at night even when he was at home.<br />
<strong>The</strong> first thing he wanted to do was to get up in peace without being disturbed, to get dressed, and most<br />
of all to have his breakfast. Only then would he consider what to do next, as he was well aware that he<br />
would not bring his thoughts to any sensible conclusions by lying in bed. He remembered that he had<br />
often felt a slight pain in bed, perhaps caused by lying awkwardly, but that had always turned out to be<br />
pure imagination and he wondered how his imaginings would slowly resolve themselves today. He did<br />
not have the slightest doubt that the change in his voice was nothing more than the first sign of a<br />
serious cold, which was an occupational hazard for travelling salesmen.<br />
It was a simple matter to throw off the covers; he only had to blow himself up a little and they fell off<br />
by themselves. But it became difficult after that, especially as he was so exceptionally broad. He would<br />
have used his arms and his hands to push himself up; but instead of them he only had all those little<br />
legs continuously moving in different directions, and which he was moreover unable to control. If he<br />
wanted to bend one of them, then that was the first one that would stretch itself out; and if he finally<br />
managed to do what he wanted with that leg, all the others seemed to be set free and would move about<br />
painfully. "This is something that can't be done in bed", Gregor said to himself, "so don't keep trying to<br />
do it".<br />
<strong>The</strong> first thing he wanted to do was get the lower part of his body out of the bed, but he had never seen<br />
this lower part, and could not imagine what it looked like; it turned out to be too hard to move; it went<br />
so slowly; and finally, almost in a frenzy, when he carelessly shoved himself forwards with all the force<br />
he could gather, he chose the wrong direction, hit hard against the lower bedpost, and learned from the<br />
burning pain he felt that the lower part of his body might well, at present, be the most sensitive.<br />
So then he tried to get the top part of his body out of the bed first, carefully turning his head to the side.<br />
This he managed quite easily, and despite its breadth and its weight, the bulk of his body eventually<br />
followed slowly in the direction of the head. But when he had at last got his head out of the bed and<br />
into the fresh air it occurred to him that if he let himself fall it would be a miracle if his head were not<br />
injured, so he became afraid to carry on pushing himself forward the same way. And he could not<br />
knock himself out now at any price; better to stay in bed than lose consciousness.<br />
It took just as much effort to get back to where he had been earlier, but when he lay there sighing, and<br />
was once more watching his legs as they struggled against each other even harder than before, if that<br />
was possible, he could think of no way of bringing peace and order to this chaos. He told himself once<br />
more that it was not possible for him to stay in bed and that the most sensible thing to do would be to<br />
get free of it in whatever way he could at whatever sacrifice. At the same time, though, he did not<br />
forget to remind himself that calm consideration was much better than rushing to desperate<br />
conclusions. At times like this he would direct his eyes to the window and look out as clearly as he<br />
could, but unfortunately, even the other side of the narrow street was enveloped in morning fog and the<br />
view had little confidence or cheer to offer him. "Seven o'clock, already", he said to himself when the<br />
clock struck again, "seven o'clock, and there's still a fog like this." And he lay there quietly a while<br />
longer, breathing lightly as if he perhaps expected the total stillness to bring things back to their real<br />
and natural state.<br />
But then he said to himself: "Before it strikes quarter past seven I'll definitely have to have got properly<br />
out of bed. And by then somebody will have come round from work to ask what's happened to me as<br />
well, as they open up at work before seven o'clock." And so he set himself to the task of swinging the
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 61<br />
entire length of his body out of the bed all at the same time. If he succeeded in falling out of bed in this<br />
way and kept his head raised as he did so he could probably avoid injuring it. His back seemed to be<br />
quite hard, and probably nothing would happen to it falling onto the carpet. His main concern was for<br />
the loud noise he was bound to make, and which even through all the doors would probably raise<br />
concern if not alarm. But it was something that had to be risked.<br />
When Gregor was already sticking half way out of the bed - the new method was more of a game than<br />
an effort, all he had to do was rock back and forth - it occurred to him how simple everything would be<br />
if somebody came to help him. Two strong people - he had his father and the maid in mind - would<br />
have been more than enough; they would only have to push their arms under the dome of his back, peel<br />
him away from the bed, bend down with the load and then be patient and careful as he swang over onto<br />
the floor, where, hopefully, the little legs would find a use. Should he really call for help though, even<br />
apart from the fact that all the doors were locked? Despite all the difficulty he was in, he could not<br />
suppress a smile at this thought.<br />
After a while he had already moved so far across that it would have been hard for him to keep his<br />
balance if he rocked too hard. <strong>The</strong> time was now ten past seven and he would have to make a final<br />
decision very soon. <strong>The</strong>n there was a ring at the door of the flat. "That'll be someone from work", he<br />
said to himself, and froze very still, although his little legs only became all the more lively as they<br />
danced around. For a moment everything remained quiet. "<strong>The</strong>y're not opening the door", Gregor said<br />
to himself, caught in some nonsensical hope. But then of course, the maid's firm steps went to the door<br />
as ever and opened it. Gregor only needed to hear the visitor's first words of greeting and he knew who<br />
it was - the chief clerk himself. Why did Gregor have to be the only one condemned to work for a<br />
company where they immediately became highly suspicious at the slightest shortcoming? Were all<br />
employees, every one of them, louts, was there not one of them who was faithful and devoted who<br />
would go so mad with pangs of conscience that he couldn't get out of bed if he didn't spend at least a<br />
couple of hours in the morning on company business? Was it really not enough to let one of the trainees<br />
make enquiries - assuming enquiries were even necessary - did the chief clerk have to come himself,<br />
and did they have to show the whole, innocent family that this was so suspicious that only the chief<br />
clerk could be trusted to have the wisdom to investigate it? And more because these thoughts had made<br />
him upset than through any proper decision, he swang himself with all his force out of the bed. <strong>The</strong>re<br />
was a loud thump, but it wasn't really a loud noise. His fall was softened a little by the carpet, and<br />
Gregor's back was also more elastic than he had thought, which made the sound muffled and not too<br />
noticeable. He had not held his head carefully enough, though, and hit it as he fell; annoyed and in<br />
pain, he turned it and rubbed it against the carpet.<br />
"Something's fallen down in there", said the chief clerk in the room on the left. Gregor tried to imagine<br />
whether something of the sort that had happened to him today could ever happen to the chief clerk too;<br />
you had to concede that it was possible. But as if in gruff reply to this question, the chief clerk's firm<br />
footsteps in his highly polished boots could now be heard in the adjoining room. From the room on his<br />
right, Gregor's sister whispered to him to let him know: "Gregor, the chief clerk is here." "Yes, I know",<br />
said Gregor to himself; but without daring to raise his voice loud enough for his sister to hear him.<br />
"Gregor", said his father now from the room to his left, "the chief clerk has come round and wants to<br />
know why you didn't leave on the early train. We don't know what to say to him. And anyway, he wants<br />
to speak to you personally. So please open up this door. I'm sure he'll be good enough to forgive the<br />
untidiness of your room." <strong>The</strong>n the chief clerk called "Good morning, Mr. Samsa". "He isn't well", said<br />
his mother to the chief clerk, while his father continued to speak through the door. "He isn't well, please<br />
believe me. Why else would Gregor have missed a train! <strong>The</strong> lad only ever thinks about the business. It
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 62<br />
nearly makes me cross the way he never goes out in the evenings; he's been in town for a week now but<br />
stayed home every evening. He sits with us in the kitchen and just reads the paper or studies train<br />
timetables. His idea of relaxation is working with his fretsaw. He's made a little frame, for instance, it<br />
only took him two or three evenings, you'll be amazed how nice it is; it's hanging up in his room; you'll<br />
see it as soon as Gregor opens the door. Anyway, I'm glad you're here; we wouldn't have been able to<br />
get Gregor to open the door by ourselves; he's so stubborn; and I'm sure he isn't well, he said this<br />
morning that he is, but he isn't." "I'll be there in a moment", said Gregor slowly and thoughtfully, but<br />
without moving so that he would not miss any word of the conversation. "Well I can't think of any<br />
other way of explaining it, Mrs. Samsa", said the chief clerk, "I hope it's nothing serious. But on the<br />
other hand, I must say that if we people in commerce ever become slightly unwell then, fortunately or<br />
unfortunately as you like, we simply have to overcome it because of business considerations." "Can the<br />
chief clerk come in to see you now then?", asked his father impatiently, knocking at the door again.<br />
"No", said Gregor. In the room on his right there followed a painful silence; in the room on his left his<br />
sister began to cry.<br />
So why did his sister not go and join the others? She had probably only just got up and had not even<br />
begun to get dressed. And why was she crying? Was it because he had not got up, and had not let the<br />
chief clerk in, because he was in danger of losing his job and if that happened his boss would once<br />
more pursue their parents with the same demands as before? <strong>The</strong>re was no need to worry about things<br />
like that yet. Gregor was still there and had not the slightest intention of abandoning his family. For the<br />
time being he just lay there on the carpet, and no-one who knew the condition he was in would<br />
seriously have expected him to let the chief clerk in. It was only a minor discourtesy, and a suitable<br />
excuse could easily be found for it later on, it was not something for which Gregor could be sacked on<br />
the spot. And it seemed to Gregor much more sensible to leave him now in peace instead of disturbing<br />
him with talking at him and crying. But the others didn't know what was happening, they were worried,<br />
that would excuse their behaviour.<br />
<strong>The</strong> chief clerk now raised his voice, "Mr. Samsa", he called to him, "what is wrong? You barricade<br />
yourself in your room, give us no more than yes or no for an answer, you are causing serious and<br />
unnecessary concern to your parents and you fail - and I mention this just by the way - you fail to carry<br />
out your business duties in a way that is quite unheard of. I'm speaking here on behalf of your parents<br />
and of your employer, and really must request a clear and immediate explanation. I am astonished,<br />
quite astonished. I thought I knew you as a calm and sensible person, and now you suddenly seem to be<br />
showing off with peculiar whims. This morning, your employer did suggest a possible reason for your<br />
failure to appear, it's true - it had to do with the money that was recently entrusted to you - but I came<br />
near to giving him my word of honour that that could not be the right explanation. But now that I see<br />
your incomprehensible stubbornness I no longer feel any wish whatsoever to intercede on your behalf.<br />
And nor is your position all that secure. I had originally intended to say all this to you in private, but<br />
since you cause me to waste my time here for no good reason I don't see why your parents should not<br />
also learn of it. Your turnover has been very unsatisfactory of late; I grant you that it's not the time of<br />
year to do especially good business, we recognise that; but there simply is no time of year to do no<br />
business at all, Mr. Samsa, we cannot allow there to be."<br />
"But Sir", called Gregor, beside himself and forgetting all else in the excitement, "I'll open up<br />
immediately, just a moment. I'm slightly unwell, an attack of dizziness, I haven't been able to get up.<br />
I'm still in bed now. I'm quite fresh again now, though. I'm just getting out of bed. Just a moment. Be<br />
patient! It's not quite as easy as I'd thought. I'm quite alright now, though. It's shocking, what can<br />
suddenly happen to a person! I was quite alright last night, my parents know about it, perhaps better<br />
than me, I had a small symptom of it last night already. <strong>The</strong>y must have noticed it. I don't know why I
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 63<br />
didn't let you know at work! But you always think you can get over an illness without staying at home.<br />
Please, don't make my parents suffer! <strong>The</strong>re's no basis for any of the accusations you're making;<br />
nobody's ever said a word to me about any of these things. Maybe you haven't read the latest contracts I<br />
sent in. I'll set off with the eight o'clock train, as well, these few hours of rest have given me strength.<br />
You don't need to wait, sir; I'll be in the office soon after you, and please be so good as to tell that to the<br />
boss and recommend me to him!"<br />
And while Gregor gushed out these words, hardly knowing what he was saying, he made his way over<br />
to the chest of drawers - this was easily done, probably because of the practise he had already had in<br />
bed - where he now tried to get himself upright. He really did want to open the door, really did want to<br />
let them see him and to speak with the chief clerk; the others were being so insistent, and he was<br />
curious to learn what they would say when they caught sight of him. If they were shocked then it would<br />
no longer be Gregor's responsibility and he could rest. If, however, they took everything calmly he<br />
would still have no reason to be upset, and if he hurried he really could be at the station for eight<br />
o'clock. <strong>The</strong> first few times he tried to climb up on the smooth chest of drawers he just slid down again,<br />
but he finally gave himself one last swing and stood there upright; the lower part of his body was in<br />
serious pain but he no longer gave any attention to it. Now he let himself fall against the back of a<br />
nearby chair and held tightly to the edges of it with his little legs. By now he had also calmed down,<br />
and kept quiet so that he could listen to what the chief clerk was saying.<br />
"Did you understand a word of all that?" the chief clerk asked his parents, "surely he's not trying to<br />
make fools of us". "Oh, God!" called his mother, who was already in tears, "he could be seriously ill<br />
and we're making him suffer. Grete! Grete!" she then cried. "Mother?" his sister called from the other<br />
side. <strong>The</strong>y communicated across Gregor's room. "You'll have to go for the doctor straight away. Gregor<br />
is ill. Quick, get the doctor. Did you hear the way Gregor spoke just now?" "That was the voice of an<br />
animal", said the chief clerk, with a calmness that was in contrast with his mother's screams. "Anna!<br />
Anna!" his father called into the kitchen through the entrance hall, clapping his hands, "get a locksmith<br />
here, now!" And the two girls, their skirts swishing, immediately ran out through the hall, wrenching<br />
open the front door of the flat as they went. How had his sister managed to get dressed so quickly?<br />
<strong>The</strong>re was no sound of the door banging shut again; they must have left it open; people often do in<br />
homes where something awful has happened.<br />
Gregor, in contrast, had become much calmer. So they couldn't understand his words any more,<br />
although they seemed clear enough to him, clearer than before - perhaps his ears had become used to<br />
the sound. <strong>The</strong>y had realised, though, that there was something wrong with him, and were ready to<br />
help. <strong>The</strong> first response to his situation had been confident and wise, and that made him feel better. He<br />
felt that he had been drawn back in among people, and from the doctor and the locksmith he expected<br />
great and surprising achievements - although he did not really distinguish one from the other. Whatever<br />
was said next would be crucial, so, in order to make his voice as clear as possible, he coughed a little,<br />
but taking care to do this not too loudly as even this might well sound different from the way that a<br />
human coughs and he was no longer sure he could judge this for himself. Meanwhile, it had become<br />
very quiet in the next room. Perhaps his parents were sat at the table whispering with the chief clerk, or<br />
perhaps they were all pressed against the door and listening.<br />
Gregor slowly pushed his way over to the door with the chair. Once there he let go of it and threw<br />
himself onto the door, holding himself upright against it using the adhesive on the tips of his legs. He<br />
rested there a little while to recover from the effort involved and then set himself to the task of turning<br />
the key in the lock with his mouth. He seemed, unfortunately, to have no proper teeth - how was he,<br />
then, to grasp the key? - but the lack of teeth was, of course, made up for with a very strong jaw; using
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 64<br />
the jaw, he really was able to start the key turning, ignoring the fact that he must have been causing<br />
some kind of damage as a brown fluid came from his mouth, flowed over the key and dripped onto the<br />
floor. "Listen", said the chief clerk in the next room, "he's turning the key." Gregor was greatly<br />
encouraged by this; but they all should have been calling to him, his father and his mother too: "Well<br />
done, Gregor", they should have cried, "keep at it, keep hold of the lock!" And with the idea that they<br />
were all excitedly following his efforts, he bit on the key with all his strength, paying no attention to<br />
the pain he was causing himself. As the key turned round he turned around the lock with it, only<br />
holding himself upright with his mouth, and hung onto the key or pushed it down again with the whole<br />
weight of his body as needed. <strong>The</strong> clear sound of the lock as it snapped back was Gregor's sign that he<br />
could break his concentration, and as he regained his breath he said to himself: "So, I didn't need the<br />
locksmith after all". <strong>The</strong>n he lay his head on the handle of the door to open it completely.<br />
Because he had to open the door in this way, it was already wide open before he could be seen. He had<br />
first to slowly turn himself around one of the double doors, and he had to do it very carefully if he did<br />
not want to fall flat on his back before entering the room. He was still occupied with this difficult<br />
movement, unable to pay attention to anything else, when he heard the chief clerk exclaim a loud<br />
"Oh!", which sounded like the soughing of the wind. Now he also saw him - he was the nearest to the<br />
door - his hand pressed against his open mouth and slowly retreating as if driven by a steady and<br />
invisible force. Gregor's mother, her hair still dishevelled from bed despite the chief clerk's being there,<br />
looked at his father. <strong>The</strong>n she unfolded her arms, took two steps forward towards Gregor and sank<br />
down onto the floor into her skirts that spread themselves out around her as her head disappeared down<br />
onto her breast. His father looked hostile, and clenched his fists as if wanting to knock Gregor back into<br />
his room. <strong>The</strong>n he looked uncertainly round the living room, covered his eyes with his hands and wept<br />
so that his powerful chest shook.<br />
So Gregor did not go into the room, but leant against the inside of the other door which was still held<br />
bolted in place. In this way only half of his body could be seen, along with his head above it which he<br />
leant over to one side as he peered out at the others. Meanwhile the day had become much lighter; part<br />
of the endless, grey-black building on the other side of the street - which was a hospital - could be seen<br />
quite clearly with the austere and regular line of windows piercing its façade; the rain was still falling,<br />
now throwing down large, individual droplets which hit the ground one at a time. <strong>The</strong> washing up from<br />
breakfast lay on the table; there was so much of it because, for Gregor's father, breakfast was the most<br />
important meal of the day and he would stretch it out for several hours as he sat reading a number of<br />
different newspapers. On the wall exactly opposite there was photograph of Gregor when he was a<br />
lieutenant in the army, his sword in his hand and a carefree smile on his face as he called forth respect<br />
for his uniform and bearing. <strong>The</strong> door to the entrance hall was open and as the front door of the flat was<br />
also open he could see onto the landing and the stairs where they began their way down below.<br />
"Now, then", said Gregor, well aware that he was the only one to have kept calm, "I'll get dressed<br />
straight away now, pack up my samples and set off. Will you please just let me leave? You can see", he<br />
said to the chief clerk, "that I'm not stubborn and like I like to do my job; being a commercial traveller<br />
is arduous but without travelling I couldn't earn my living. So where are you going, in to the office?<br />
Yes? Will you report everything accurately, then? It's quite possible for someone to be temporarily<br />
unable to work, but that's just the right time to remember what's been achieved in the past and consider<br />
that later on, once the difficulty has been removed, he will certainly work with all the more diligence<br />
and concentration. You're well aware that I'm seriously in debt to our employer as well as having to<br />
look after my parents and my sister, so that I'm trapped in a difficult situation, but I will work my way<br />
out of it again. Please don't make things any harder for me than they are already, and don't take sides<br />
against me at the office. I know that nobody likes the travellers. <strong>The</strong>y think we earn an enormous wage
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 65<br />
as well as having a soft time of it. That's just prejudice but they have no particular reason to think better<br />
it. But you, sir, you have a better overview than the rest of the staff, in fact, if I can say this in<br />
confidence, a better overview than the boss himself - it's very easy for a businessman like him to make<br />
mistakes about his employees and judge them more harshly than he should. And you're also well aware<br />
that we travellers spend almost the whole year away from the office, so that we can very easily fall<br />
victim to gossip and chance and groundless complaints, and it's almost impossible to defend yourself<br />
from that sort of thing, we don't usually even hear about them, or if at all it's when we arrive back home<br />
exhausted from a trip, and that's when we feel the harmful effects of what's been going on without even<br />
knowing what caused them. Please, don't go away, at least first say something to show that you grant<br />
that I'm at least partly right!"<br />
But the chief clerk had turned away as soon as Gregor had started to speak, and, with protruding lips,<br />
only stared back at him over his trembling shoulders as he left. He did not keep still for a moment<br />
while Gregor was speaking, but moved steadily towards the door without taking his eyes off him. He<br />
moved very gradually, as if there had been some secret prohibition on leaving the room. It was only<br />
when he had reached the entrance hall that he made a sudden movement, drew his foot from the living<br />
room, and rushed forward in a panic. In the hall, he stretched his right hand far out towards the stairway<br />
as if out there, there were some supernatural force waiting to save him.<br />
Gregor realised that it was out of the question to let the chief clerk go away in this mood if his position<br />
in the firm was not to be put into extreme danger. That was something his parents did not understand<br />
very well; over the years, they had become convinced that this job would provide for Gregor for his<br />
entire life, and besides, they had so much to worry about at present that they had lost sight of any<br />
thought for the future. Gregor, though, did think about the future. <strong>The</strong> chief clerk had to be held back,<br />
calmed down, convinced and finally won over; the future of Gregor and his family depended on it! If<br />
only his sister were here! She was clever; she was already in tears while Gregor was still lying<br />
peacefully on his back. And the chief clerk was a lover of women, surely she could persuade him; she<br />
would close the front door in the entrance hall and talk him out of his shocked state. But his sister was<br />
not there, Gregor would have to do the job himself. And without considering that he still was not<br />
familiar with how well he could move about in his present state, or that his speech still might not - or<br />
probably would not - be understood, he let go of the door; pushed himself through the opening; tried to<br />
reach the chief clerk on the landing who, ridiculously, was holding on to the banister with both hands;<br />
but Gregor fell immediately over and, with a little scream as he sought something to hold onto, landed<br />
on his numerous little legs. Hardly had that happened than, for the first time that day, he began to feel<br />
alright with his body; the little legs had the solid ground under them; to his pleasure, they did exactly as<br />
he told them; they were even making the effort to carry him where he wanted to go; and he was soon<br />
believing that all his sorrows would soon be finally at an end. He held back the urge to move but<br />
swayed from side to side as he crouched there on the floor. His mother was not far away in front of him<br />
and seemed, at first, quite engrossed in herself, but then she suddenly jumped up with her arms<br />
outstretched and her fingers spread shouting: "Help, for pity's sake, Help!" <strong>The</strong> way she held her head<br />
suggested she wanted to see Gregor better, but the unthinking way she was hurrying backwards showed<br />
that she did not; she had forgotten that the table was behind her with all the breakfast things on it; when<br />
she reached the table she sat quickly down on it without knowing what she was doing; without even<br />
seeming to notice that the coffee pot had been knocked over and a gush of coffee was pouring down<br />
onto the carpet.<br />
"Mother, mother", said Gregor gently, looking up at her. He had completely forgotten the chief clerk for<br />
the moment, but could not help himself snapping in the air with his jaws at the sight of the flow of<br />
coffee. That set his mother screaming anew, she fled from the table and into the arms of his father as he
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 66<br />
rushed towards her. Gregor, though, had no time to spare for his parents now; the chief clerk had<br />
already reached the stairs; with his chin on the banister, he looked back for the last time. Gregor made a<br />
run for him; he wanted to be sure of reaching him; the chief clerk must have expected something, as he<br />
leapt down several steps at once and disappeared; his shouts resounding all around the staircase. <strong>The</strong><br />
flight of the chief clerk seemed, unfortunately, to put Gregor's father into a panic as well. Until then he<br />
had been relatively self controlled, but now, instead of running after the chief clerk himself, or at least<br />
not impeding Gregor as he ran after him, Gregor's father seized the chief clerk's stick in his right hand<br />
(the chief clerk had left it behind on a chair, along with his hat and overcoat), picked up a large<br />
newspaper from the table with his left, and used them to drive Gregor back into his room, stamping his<br />
foot at him as he went. Gregor's appeals to his father were of no help, his appeals were simply not<br />
understood, however much he humbly turned his head his father merely stamped his foot all the harder.<br />
Across the room, despite the chilly weather, Gregor's mother had pulled open a window, leant far out of<br />
it and pressed her hands to her face. A strong draught of air flew in from the street towards the stairway,<br />
the curtains flew up, the newspapers on the table fluttered and some of them were blown onto the floor.<br />
Nothing would stop Gregor's father as he drove him back, making hissing noises at him like a wild<br />
man. Gregor had never had any practice in moving backwards and was only able to go very slowly. If<br />
Gregor had only been allowed to turn round he would have been back in his room straight away, but he<br />
was afraid that if he took the time to do that his father would become impatient, and there was the<br />
threat of a lethal blow to his back or head from the stick in his father's hand any moment. Eventually,<br />
though, Gregor realised that he had no choice as he saw, to his disgust, that he was quite incapable of<br />
going backwards in a straight line; so he began, as quickly as possible and with frequent anxious<br />
glances at his father, to turn himself round. It went very slowly, but perhaps his father was able to see<br />
his good intentions as he did nothing to hinder him, in fact now and then he used the tip of his stick to<br />
give directions from a distance as to which way to turn. If only his father would stop that unbearable<br />
hissing! It was making Gregor quite confused. When he had nearly finished turning round, still<br />
listening to that hissing, he made a mistake and turned himself back a little the way he had just come.<br />
He was pleased when he finally had his head in front of the doorway, but then saw that it was too<br />
narrow, and his body was too broad to get through it without further difficulty. In his present mood, it<br />
obviously did not occur to his father to open the other of the double doors so that Gregor would have<br />
enough space to get through. He was merely fixed on the idea that Gregor should be got back into his<br />
room as quickly as possible. Nor would he ever have allowed Gregor the time to get himself upright as<br />
preparation for getting through the doorway. What he did, making more noise than ever, was to drive<br />
Gregor forwards all the harder as if there had been nothing in the way; it sounded to Gregor as if there<br />
was now more than one father behind him; it was not a pleasant experience, and Gregor pushed himself<br />
into the doorway without regard for what might happen. One side of his body lifted itself, he lay at an<br />
angle in the doorway, one flank scraped on the white door and was painfully injured, leaving vile<br />
brown flecks on it, soon he was stuck fast and would not have been able to move at all by himself, the<br />
little legs along one side hung quivering in the air while those on the other side were pressed painfully<br />
against the ground. <strong>The</strong>n his father gave him a hefty shove from behind which released him from where<br />
he was held and sent him flying, and heavily bleeding, deep into his room. <strong>The</strong> door was slammed shut<br />
with the stick, then, finally, all was quiet.<br />
II<br />
It was not until it was getting dark that evening that Gregor awoke from his deep and coma-like sleep.<br />
He would have woken soon afterwards anyway even if he hadn't been disturbed, as he had had enough<br />
sleep and felt fully rested. But he had the impression that some hurried steps and the sound of the door<br />
leading into the front room being carefully shut had woken him. <strong>The</strong> light from the electric street lamps
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 67<br />
shone palely here and there onto the ceiling and tops of the furniture, but down below, where Gregor<br />
was, it was dark. He pushed himself over to the door, feeling his way clumsily with his antennae - of<br />
which he was now beginning to learn the value - in order to see what had been happening there. <strong>The</strong><br />
whole of his left side seemed like one, painfully stretched scar, and he limped badly on his two rows of<br />
legs. One of the legs had been badly injured in the events of that morning - it was nearly a miracle that<br />
only one of them had been - and dragged along lifelessly.<br />
It was only when he had reached the door that he realised what it actually was that had drawn him over<br />
to it; it was the smell of something to eat. By the door there was a dish filled with sweetened milk with<br />
little pieces of white bread floating in it. He was so pleased he almost laughed, as he was even hungrier<br />
than he had been that morning, and immediately dipped his head into the milk, nearly covering his eyes<br />
with it. But he soon drew his head back again in disappointment; not only did the pain in his tender left<br />
side make it difficult to eat the food - he was only able to eat if his whole body worked together as a<br />
snuffling whole - but the milk did not taste at all nice. Milk like this was normally his favourite drink,<br />
and his sister had certainly left it there for him because of that, but he turned, almost against his own<br />
will, away from the dish and crawled back into the centre of the room.<br />
Through the crack in the door, Gregor could see that the gas had been lit in the living room. His father<br />
at this time would normally be sat with his evening paper, reading it out in a loud voice to Gregor's<br />
mother, and sometimes to his sister, but there was now not a sound to be heard. Gregor's sister would<br />
often write and tell him about this reading, but maybe his father had lost the habit in recent times. It<br />
was so quiet all around too, even though there must have been somebody in the flat. "What a quiet life<br />
it is the family lead", said Gregor to himself, and, gazing into the darkness, felt a great pride that he<br />
was able to provide a life like that in such a nice home for his sister and parents. But what now, if all<br />
this peace and wealth and comfort should come to a horrible and frightening end? That was something<br />
that Gregor did not want to think about too much, so he started to move about, crawling up and down<br />
the room.<br />
Once during that long evening, the door on one side of the room was opened very slightly and hurriedly<br />
closed again; later on the door on the other side did the same; it seemed that someone needed to enter<br />
the room but thought better of it. Gregor went and waited immediately by the door, resolved either to<br />
bring the timorous visitor into the room in some way or at least to find out who it was; but the door was<br />
opened no more that night and Gregor waited in vain. <strong>The</strong> previous morning while the doors were<br />
locked everyone had wanted to get in there to him, but now, now that he had opened up one of the<br />
doors and the other had clearly been unlocked some time during the day, no-one came, and the keys<br />
were in the other sides.<br />
It was not until late at night that the gaslight in the living room was put out, and now it was easy to see<br />
that parents and sister had stayed awake all that time, as they all could be distinctly heard as they went<br />
away together on tip-toe. It was clear that no-one would come into Gregor's room any more until<br />
morning; that gave him plenty of time to think undisturbed about how he would have to re-arrange his<br />
life. For some reason, the tall, empty room where he was forced to remain made him feel uneasy as he<br />
lay there flat on the floor, even though he had been living in it for five years. Hardly aware of what he<br />
was doing other than a slight feeling of shame, he hurried under the couch. It pressed down on his back<br />
a little, and he was no longer able to lift his head, but he nonetheless felt immediately at ease and his<br />
only regret was that his body was too broad to get it all underneath.<br />
He spent the whole night there. Some of the time he passed in a light sleep, although he frequently<br />
woke from it in alarm because of his hunger, and some of the time was spent in worries and vague<br />
hopes which, however, always led to the same conclusion: for the time being he must remain calm, he
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 68<br />
must show patience and the greatest consideration so that his family could bear the unpleasantness that<br />
he, in his present condition, was forced to impose on them.<br />
Gregor soon had the opportunity to test the strength of his decisions, as early the next morning, almost<br />
before the night had ended, his sister, nearly fully dressed, opened the door from the front room and<br />
looked anxiously in. She did not see him straight away, but when she did notice him under the couch -<br />
he had to be somewhere, for God's sake, he couldn't have flown away - she was so shocked that she lost<br />
control of herself and slammed the door shut again from outside. But she seemed to regret her<br />
behaviour, as she opened the door again straight away and came in on tip-toe as if entering the room of<br />
someone seriously ill or even of a stranger. Gregor had pushed his head forward, right to the edge of<br />
the couch, and watched her. Would she notice that he had left the milk as it was, realise that it was not<br />
from any lack of hunger and bring him in some other food that was more suitable? If she didn't do it<br />
herself he would rather go hungry than draw her attention to it, although he did feel a terrible urge to<br />
rush forward from under the couch, throw himself at his sister's feet and beg her for something good to<br />
eat. However, his sister noticed the full dish immediately and looked at it and the few drops of milk<br />
splashed around it with some surprise. She immediately picked it up - using a rag, not her bare hands -<br />
and carried it out. Gregor was extremely curious as to what she would bring in its place, imagining the<br />
wildest possibilities, but he never could have guessed what his sister, in her goodness, actually did<br />
bring. In order to test his taste, she brought him a whole selection of things, all spread out on an old<br />
newspaper. <strong>The</strong>re were old, half-rotten vegetables; bones from the evening meal, covered in white<br />
sauce that had gone hard; a few raisins and almonds; some cheese that Gregor had declared inedible<br />
two days before; a dry roll and some bread spread with butter and salt. As well as all that she had<br />
poured some water into the dish, which had probably been permanently set aside for Gregor's use, and<br />
placed it beside them. <strong>The</strong>n, out of consideration for Gregor's feelings, as she knew that he would not<br />
eat in front of her, she hurried out again and even turned the key in the lock so that Gregor would know<br />
he could make things as comfortable for himself as he liked. Gregor's little legs whirred, at last he<br />
could eat. What's more, his injuries must already have completely healed as he found no difficulty in<br />
moving. This amazed him, as more than a month earlier he had cut his finger slightly with a knife, he<br />
thought of how his finger had still hurt the day before yesterday. "Am I less sensitive than I used to be,<br />
then?", he thought, and was already sucking greedily at the cheese which had immediately, almost<br />
compellingly, attracted him much more than the other foods on the newspaper. Quickly one after<br />
another, his eyes watering with pleasure, he consumed the cheese, the vegetables and the sauce; the<br />
fresh foods, on the other hand, he didn't like at all, and even dragged the things he did want to eat a<br />
little way away from them because he couldn't stand the smell. Long after he had finished eating and<br />
lay lethargic in the same place, his sister slowly turned the key in the lock as a sign to him that he<br />
should withdraw. He was immediately startled, although he had been half asleep, and he hurried back<br />
under the couch. But he needed great self-control to stay there even for the short time that his sister was<br />
in the room, as eating so much food had rounded out his body a little and he could hardly breathe in<br />
that narrow space. Half suffocating, he watched with bulging eyes as his sister unselfconsciously took a<br />
broom and swept up the left-overs, mixing them in with the food he had not even touched at all as if it<br />
could not be used any more. She quickly dropped it all into a bin, closed it with its wooden lid, and<br />
carried everything out. She had hardly turned her back before Gregor came out again from under the<br />
couch and stretched himself.<br />
This was how Gregor received his food each day now, once in the morning while his parents and the<br />
maid were still asleep, and the second time after everyone had eaten their meal at midday as his parents<br />
would sleep for a little while then as well, and Gregor's sister would send the maid away on some<br />
errand. Gregor's father and mother certainly did not want him to starve either, but perhaps it would
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 69<br />
have been more than they could stand to have any more experience of his feeding than being told about<br />
it, and perhaps his sister wanted to spare them what distress she could as they were indeed suffering<br />
enough.<br />
It was impossible for Gregor to find out what they had told the doctor and the locksmith that first<br />
morning to get them out of the flat. As nobody could understand him, nobody, not even his sister,<br />
thought that he could understand them, so he had to be content to hear his sister's sighs and appeals to<br />
the saints as she moved about his room. It was only later, when she had become a little more used to<br />
everything - there was, of course, no question of her ever becoming fully used to the situation - that<br />
Gregor would sometimes catch a friendly comment, or at least a comment that could be construed as<br />
friendly. "He's enjoyed his dinner today", she might say when he had diligently cleared away all the<br />
food left for him, or if he left most of it, which slowly became more and more frequent, she would<br />
often say, sadly, "now everything's just been left there again".<br />
Although Gregor wasn't able to hear any news directly he did listen to much of what was said in the<br />
next rooms, and whenever he heard anyone speaking he would scurry straight to the appropriate door<br />
and press his whole body against it. <strong>The</strong>re was seldom any conversation, especially at first, that was not<br />
about him in some way, even if only in secret. For two whole days, all the talk at every mealtime was<br />
about what they should do now; but even between meals they spoke about the same subject as there<br />
were always at least two members of the family at home - nobody wanted to be at home by themselves<br />
and it was out of the question to leave the flat entirely empty. And on the very first day the maid had<br />
fallen to her knees and begged Gregor's mother to let her go without delay. It was not very clear how<br />
much she knew of what had happened but she left within a quarter of an hour, tearfully thanking<br />
Gregor's mother for her dismissal as if she had done her an enormous service. She even swore<br />
emphatically not to tell anyone the slightest about what had happened, even though no-one had asked<br />
that of her.<br />
Now Gregor's sister also had to help his mother with the cooking; although that was not so much bother<br />
as no-one ate very much. Gregor often heard how one of them would unsuccessfully urge another to<br />
eat, and receive no more answer than "no thanks, I've had enough" or something similar. No-one drank<br />
very much either. His sister would sometimes ask his father whether he would like a beer, hoping for<br />
the chance to go and fetch it herself. When his father then said nothing she would add, so that he would<br />
not feel selfish, that she could send the housekeeper for it, but then his father would close the matter<br />
with a big, loud "No", and no more would be said.<br />
Even before the first day had come to an end, his father had explained to Gregor's mother and sister<br />
what their finances and prospects were. Now and then he stood up from the table and took some receipt<br />
or document from the little cash box he had saved from his business when it had collapsed five years<br />
earlier. Gregor heard how he opened the complicated lock and then closed it again after he had taken<br />
the item he wanted. What he heard his father say was some of the first good news that Gregor heard<br />
since he had first been incarcerated in his room. He had thought that nothing at all remained from his<br />
father's business, at least he had never told him anything different, and Gregor had never asked him<br />
about it anyway. <strong>The</strong>ir business misfortune had reduced the family to a state of total despair, and<br />
Gregor's only concern at that time had been to arrange things so that they could all forget about it as<br />
quickly as possible. So then he started working especially hard, with a fiery vigour that raised him from<br />
a junior salesman to a travelling representative almost overnight, bringing with it the chance to earn<br />
money in quite different ways. Gregor converted his success at work straight into cash that he could lay<br />
on the table at home for the benefit of his astonished and delighted family. <strong>The</strong>y had been good times<br />
and they had never come again, at least not with the same splendour, even though Gregor had later
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 70<br />
earned so much that he was in a position to bear the costs of the whole family, and did bear them. <strong>The</strong>y<br />
had even got used to it, both Gregor and the family, they took the money with gratitude and he was glad<br />
to provide it, although there was no longer much warm affection given in return. Gregor only remained<br />
close to his sister now. Unlike him, she was very fond of music and a gifted and expressive violinist, it<br />
was his secret plan to send her to the conservatory next year even though it would cause great expense<br />
that would have to be made up for in some other way. During Gregor's short periods in town,<br />
conversation with his sister would often turn to the conservatory but it was only ever mentioned as a<br />
lovely dream that could never be realised. <strong>The</strong>ir parents did not like to hear this innocent talk, but<br />
Gregor thought about it quite hard and decided he would let them know what he planned with a grand<br />
announcement of it on Christmas day.<br />
That was the sort of totally pointless thing that went through his mind in his present state, pressed<br />
upright against the door and listening. <strong>The</strong>re were times when he simply became too tired to continue<br />
listening, when his head would fall wearily against the door and he would pull it up again with a start,<br />
as even the slightest noise he caused would be heard next door and they would all go silent. "What's<br />
that he's doing now", his father would say after a while, clearly having gone over to the door, and only<br />
then would the interrupted conversation slowly be taken up again.<br />
When explaining things, his father repeated himself several times, partly because it was a long time<br />
since he had been occupied with these matters himself and partly because Gregor's mother did not<br />
understand everything first time. From these repeated explanations Gregor learned, to his pleasure, that<br />
despite all their misfortunes there was still some money available from the old days. It was not a lot,<br />
but it had not been touched in the meantime and some interest had accumulated. Besides that, they had<br />
not been using up all the money that Gregor had been bringing home every month, keeping only a little<br />
for himself, so that that, too, had been accumulating. Behind the door, Gregor nodded with enthusiasm<br />
in his pleasure at this unexpected thrift and caution. He could actually have used this surplus money to<br />
reduce his father's debt to his boss, and the day when he could have freed himself from that job would<br />
have come much closer, but now it was certainly better the way his father had done things.<br />
This money, however, was certainly not enough to enable the family to live off the interest; it was<br />
enough to maintain them for, perhaps, one or two years, no more. That's to say, it was money that<br />
should not really be touched but set aside for emergencies; money to live on had to be earned. His<br />
father was healthy but old, and lacking in self confidence. During the five years that he had not been<br />
working - the first holiday in a life that had been full of strain and no success - he had put on a lot of<br />
weight and become very slow and clumsy. Would Gregor's elderly mother now have to go and earn<br />
money? She suffered from asthma and it was a strain for her just to move about the home, every other<br />
day would be spent struggling for breath on the sofa by the open window. Would his sister have to go<br />
and earn money? She was still a child of seventeen, her life up till then had been very enviable,<br />
consisting of wearing nice clothes, sleeping late, helping out in the business, joining in with a few<br />
modest pleasures and most of all playing the violin. Whenever they began to talk of the need to earn<br />
money, Gregor would always first let go of the door and then throw himself onto the cool, leather sofa<br />
next to it, as he became quite hot with shame and regret.<br />
He would often lie there the whole night through, not sleeping a wink but scratching at the leather for<br />
hours on end. Or he might go to all the effort of pushing a chair to the window, climbing up onto the<br />
sill and, propped up in the chair, leaning on the window to stare out of it. He had used to feel a great<br />
sense of freedom from doing this, but doing it now was obviously something more remembered than<br />
experienced, as what he actually saw in this way was becoming less distinct every day, even things that<br />
were quite near; he had used to curse the ever-present view of the hospital across the street, but now he
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 71<br />
could not see it at all, and if he had not known that he lived in Charlottenstrasse, which was a quiet<br />
street despite being in the middle of the city, he could have thought that he was looking out the window<br />
at a barren waste where the grey sky and the grey earth mingled inseparably. His observant sister only<br />
needed to notice the chair twice before she would always push it back to its exact position by the<br />
window after she had tidied up the room, and even left the inner pane of the window open from then<br />
on.<br />
If Gregor had only been able to speak to his sister and thank her for all that she had to do for him it<br />
would have been easier for him to bear it; but as it was it caused him pain. His sister, naturally, tried as<br />
far as possible to pretend there was nothing burdensome about it, and the longer it went on, of course,<br />
the better she was able to do so, but as time went by Gregor was also able to see through it all so much<br />
better. It had even become very unpleasant for him, now, whenever she entered the room. No sooner<br />
had she come in than she would quickly close the door as a precaution so that no-one would have to<br />
suffer the view into Gregor's room, then she would go straight to the window and pull it hurriedly open<br />
almost as if she were suffocating. Even if it was cold, she would stay at the window breathing deeply<br />
for a little while. She would alarm Gregor twice a day with this running about and noise making; he<br />
would stay under the couch shivering the whole while, knowing full well that she would certainly have<br />
liked to spare him this ordeal, but it was impossible for her to be in the same room with him with the<br />
windows closed.<br />
One day, about a month after Gregor's transformation when his sister no longer had any particular<br />
reason to be shocked at his appearance, she came into the room a little earlier than usual and found him<br />
still staring out the window, motionless, and just where he would be most horrible. In itself, his sister's<br />
not coming into the room would have been no surprise for Gregor as it would have been difficult for<br />
her to immediately open the window while he was still there, but not only did she not come in, she<br />
went straight back and closed the door behind her, a stranger would have thought he had threatened her<br />
and tried to bite her. Gregor went straight to hide himself under the couch, of course, but he had to wait<br />
until midday before his sister came back and she seemed much more uneasy than usual. It made him<br />
realise that she still found his appearance unbearable and would continue to do so, she probably even<br />
had to overcome the urge to flee when she saw the little bit of him that protruded from under the couch.<br />
One day, in order to spare her even this sight, he spent four hours carrying the bedsheet over to the<br />
couch on his back and arranged it so that he was completely covered and his sister would not be able to<br />
see him even if she bent down. If she did not think this sheet was necessary then all she had to do was<br />
take it off again, as it was clear enough that it was no pleasure for Gregor to cut himself off so<br />
completely. She left the sheet where it was. Gregor even thought he glimpsed a look of gratitude one<br />
time when he carefully looked out from under the sheet to see how his sister liked the new<br />
arrangement.<br />
For the first fourteen days, Gregor's parents could not bring themselves to come into the room to see<br />
him. He would often hear them say how they appreciated all the new work his sister was doing even<br />
though, before, they had seen her as a girl who was somewhat useless and frequently been annoyed<br />
with her. But now the two of them, father and mother, would often both wait outside the door of<br />
Gregor's room while his sister tidied up in there, and as soon as she went out again she would have to<br />
tell them exactly how everything looked, what Gregor had eaten, how he had behaved this time and<br />
whether, perhaps, any slight improvement could be seen. His mother also wanted to go in and visit<br />
Gregor relatively soon but his father and sister at first persuaded her against it. Gregor listened very<br />
closely to all this, and approved fully. Later, though, she had to be held back by force, which made her<br />
call out: "Let me go and see Gregor, he is my unfortunate son! Can't you understand I have to see<br />
him?", and Gregor would think to himself that maybe it would be better if his mother came in, not
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 72<br />
every day of course, but one day a week, perhaps; she could understand everything much better than<br />
his sister who, for all her courage, was still just a child after all, and really might not have had an<br />
adult's appreciation of the burdensome job she had taken on.<br />
Gregor's wish to see his mother was soon realised. Out of consideration for his parents, Gregor wanted<br />
to avoid being seen at the window during the day, the few square meters of the floor did not give him<br />
much room to crawl about, it was hard to just lie quietly through the night, his food soon stopped<br />
giving him any pleasure at all, and so, to entertain himself, he got into the habit of crawling up and<br />
down the walls and ceiling. He was especially fond of hanging from the ceiling; it was quite different<br />
from lying on the floor; he could breathe more freely; his body had a light swing to it; and up there,<br />
relaxed and almost happy, it might happen that he would surprise even himself by letting go of the<br />
ceiling and landing on the floor with a crash. But now, of course, he had far better control of his body<br />
than before and, even with a fall as great as that, caused himself no damage. Very soon his sister<br />
noticed Gregor's new way of entertaining himself - he had, after all, left traces of the adhesive from his<br />
feet as he crawled about - and got it into her head to make it as easy as possible for him by removing<br />
the furniture that got in his way, especially the chest of drawers and the desk. Now, this was not<br />
something that she would be able to do by herself; she did not dare to ask for help from her father; the<br />
sixteen year old maid had carried on bravely since the cook had left but she certainly would not have<br />
helped in this, she had even asked to be allowed to keep the kitchen locked at all times and never to<br />
have to open the door unless it was especially important; so his sister had no choice but to choose some<br />
time when Gregor's father was not there and fetch his mother to help her. As she approached the room,<br />
Gregor could hear his mother express her joy, but once at the door she went silent. First, of course, his<br />
sister came in and looked round to see that everything in the room was alright; and only then did she let<br />
her mother enter. Gregor had hurriedly pulled the sheet down lower over the couch and put more folds<br />
into it so that everything really looked as if it had just been thrown down by chance. Gregor also<br />
refrained, this time, from spying out from under the sheet; he gave up the chance to see his mother until<br />
later and was simply glad that she had come. "You can come in, he can't be seen", said his sister,<br />
obviously leading her in by the hand. <strong>The</strong> old chest of drawers was too heavy for a pair of feeble<br />
women to be heaving about, but Gregor listened as they pushed it from its place, his sister always<br />
taking on the heaviest part of the work for herself and ignoring her mother's warnings that she would<br />
strain herself. This lasted a very long time. After labouring at it for fifteen minutes or more his mother<br />
said it would be better to leave the chest where it was, for one thing it was too heavy for them to get the<br />
job finished before Gregor's father got home and leaving it in the middle of the room it would be in his<br />
way even more, and for another thing it wasn't even sure that taking the furniture away would really be<br />
any help to him. She thought just the opposite; the sight of the bare walls saddened her right to her<br />
heart; and why wouldn't Gregor feel the same way about it, he'd been used to this furniture in his room<br />
for a long time and it would make him feel abandoned to be in an empty room like that. <strong>The</strong>n, quietly,<br />
almost whispering as if wanting Gregor (whose whereabouts she did not know) to hear not even the<br />
tone of her voice, as she was convinced that he did not understand her words, she added "and by taking<br />
the furniture away, won't it seem like we're showing that we've given up all hope of improvement and<br />
we're abandoning him to cope for himself? I think it'd be best to leave the room exactly the way it was<br />
before so that when Gregor comes back to us again he'll find everything unchanged and he'll be able to<br />
forget the time in between all the easier".<br />
Hearing these words from his mother made Gregor realise that the lack of any direct human<br />
communication, along with the monotonous life led by the family during these two months, must have<br />
made him confused - he could think of no other way of explaining to himself why he had seriously<br />
wanted his room emptied out. Had he really wanted to transform his room into a cave, a warm room
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 73<br />
fitted out with the nice furniture he had inherited? That would have let him crawl around unimpeded in<br />
any direction, but it would also have let him quickly forget his past when he had still been human. He<br />
had come very close to forgetting, and it had only been the voice of his mother, unheard for so long,<br />
that had shaken him out of it. Nothing should be removed; everything had to stay; he could not do<br />
without the good influence the furniture had on his condition; and if the furniture made it difficult for<br />
him to crawl about mindlessly that was not a loss but a great advantage.<br />
His sister, unfortunately, did not agree; she had become used to the idea, not without reason, that she<br />
was Gregor's spokesman to his parents about the things that concerned him. This meant that his<br />
mother's advice now was sufficient reason for her to insist on removing not only the chest of drawers<br />
and the desk, as she had thought at first, but all the furniture apart from the all-important couch. It was<br />
more than childish perversity, of course, or the unexpected confidence she had recently acquired, that<br />
made her insist; she had indeed noticed that Gregor needed a lot of room to crawl about in, whereas the<br />
furniture, as far as anyone could see, was of no use to him at all. Girls of that age, though, do become<br />
enthusiastic about things and feel they must get their way whenever they can. Perhaps this was what<br />
tempted Grete to make Gregor's situation seem even more shocking than it was so that she could do<br />
even more for him. Grete would probably be the only one who would dare enter a room dominated by<br />
Gregor crawling about the bare walls by himself.<br />
So she refused to let her mother dissuade her. Gregor's mother already looked uneasy in his room, she<br />
soon stopped speaking and helped Gregor's sister to get the chest of drawers out with what strength she<br />
had. <strong>The</strong> chest of drawers was something that Gregor could do without if he had to, but the writing<br />
desk had to stay. Hardly had the two women pushed the chest of drawers, groaning, out of the room<br />
than Gregor poked his head out from under the couch to see what he could do about it. He meant to be<br />
as careful and considerate as he could, but, unfortunately, it was his mother who came back first while<br />
Grete in the next room had her arms round the chest, pushing and pulling at it from side to side by<br />
herself without, of course, moving it an inch. His mother was not used to the sight of Gregor, he might<br />
have made her ill, so Gregor hurried backwards to the far end of the couch. In his startlement, though,<br />
he was not able to prevent the sheet at its front from moving a little. It was enough to attract his<br />
mother's attention. She stood very still, remained there a moment, and then went back out to Grete.<br />
Gregor kept trying to assure himself that nothing unusual was happening, it was just a few pieces of<br />
furniture being moved after all, but he soon had to admit that the women going to and fro, their little<br />
calls to each other, the scraping of the furniture on the floor, all these things made him feel as if he were<br />
being assailed from all sides. With his head and legs pulled in against him and his body pressed to the<br />
floor, he was forced to admit to himself that he could not stand all of this much longer. <strong>The</strong>y were<br />
emptying his room out; taking away everything that was dear to him; they had already taken out the<br />
chest containing his fretsaw and other tools; now they threatened to remove the writing desk with its<br />
place clearly worn into the floor, the desk where he had done his homework as a business trainee, at<br />
high school, even while he had been at infant school - he really could not wait any longer to see<br />
whether the two women's intentions were good. He had nearly forgotten they were there anyway, as<br />
they were now too tired to say anything while they worked and he could only hear their feet as they<br />
stepped heavily on the floor.<br />
So, while the women were leant against the desk in the other room catching their breath, he sallied out,<br />
changed direction four times not knowing what he should save first before his attention was suddenly<br />
caught by the picture on the wall - which was already denuded of everything else that had been on it -<br />
of the lady dressed in copious fur. He hurried up onto the picture and pressed himself against its glass,<br />
it held him firmly and felt good on his hot belly. This picture at least, now totally covered by Gregor,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 74<br />
would certainly be taken away by no-one. He turned his head to face the door into the living room so<br />
that he could watch the women when they came back.<br />
<strong>The</strong>y had not allowed themselves a long rest and came back quite soon; Grete had put her arm around<br />
her mother and was nearly carrying her. "What shall we take now, then?", said Grete and looked<br />
around. Her eyes met those of Gregor on the wall. Perhaps only because her mother was there, she<br />
remained calm, bent her face to her so that she would not look round and said, albeit hurriedly and with<br />
a tremor in her voice: "Come on, let's go back in the living room for a while?" Gregor could see what<br />
Grete had in mind, she wanted to take her mother somewhere safe and then chase him down from the<br />
wall. Well, she could certainly try it! He sat unyielding on his picture. He would rather jump at Grete's<br />
face.<br />
But Grete's words had made her mother quite worried, she stepped to one side, saw the enormous<br />
brown patch against the flowers of the wallpaper, and before she even realised it was Gregor that she<br />
saw screamed: "Oh God, oh God!" Arms outstretched, she fell onto the couch as if she had given up<br />
everything and stayed there immobile. "Gregor!" shouted his sister, glowering at him and shaking her<br />
fist. That was the first word she had spoken to him directly since his transformation. She ran into the<br />
other room to fetch some kind of smelling salts to bring her mother out of her faint; Gregor wanted to<br />
help too - he could save his picture later, although he stuck fast to the glass and had to pull himself off<br />
by force; then he, too, ran into the next room as if he could advise his sister like in the old days; but he<br />
had to just stand behind her doing nothing; she was looking into various bottles, he startled her when<br />
she turned round; a bottle fell to the ground and broke; a splinter cut Gregor's face, some kind of<br />
caustic medicine splashed all over him; now, without delaying any longer, Grete took hold of all the<br />
bottles she could and ran with them in to her mother; she slammed the door shut with her foot. So now<br />
Gregor was shut out from his mother, who, because of him, might be near to death; he could not open<br />
the door if he did not want to chase his sister away, and she had to stay with his mother; there was<br />
nothing for him to do but wait; and, oppressed with anxiety and self-reproach, he began to crawl about,<br />
he crawled over everything, walls, furniture, ceiling, and finally in his confusion as the whole room<br />
began to spin around him he fell down into the middle of the dinner table.<br />
He lay there for a while, numb and immobile, all around him it was quiet, maybe that was a good sign.<br />
<strong>The</strong>n there was someone at the door. <strong>The</strong> maid, of course, had locked herself in her kitchen so that<br />
Grete would have to go and answer it. His father had arrived home. "What's happened?" were his first<br />
words; Grete's appearance must have made everything clear to him. She answered him with subdued<br />
voice, and openly pressed her face into his chest: "Mother's fainted, but she's better now. Gregor got<br />
out." "Just as I expected", said his father, "just as I always said, but you women wouldn't listen, would<br />
you." It was clear to Gregor that Grete had not said enough and that his father took it to mean that<br />
something bad had happened, that he was responsible for some act of violence. That meant Gregor<br />
would now have to try to calm his father, as he did not have the time to explain things to him even if<br />
that had been possible. So he fled to the door of his room and pressed himself against it so that his<br />
father, when he came in from the hall, could see straight away that Gregor had the best intentions and<br />
would go back into his room without delay, that it would not be necessary to drive him back but that<br />
they had only to open the door and he would disappear.<br />
His father, though, was not in the mood to notice subtleties like that; "Ah!", he shouted as he came in,<br />
sounding as if he were both angry and glad at the same time. Gregor drew his head back from the door<br />
and lifted it towards his father. He really had not imagined his father the way he stood there now; of<br />
late, with his new habit of crawling about, he had neglected to pay attention to what was going on the<br />
rest of the flat the way he had done before. He really ought to have expected things to have changed,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 75<br />
but still, still, was that really his father? <strong>The</strong> same tired man as used to be laying there entombed in his<br />
bed when Gregor came back from his business trips, who would receive him sitting in the armchair in<br />
his nightgown when he came back in the evenings; who was hardly even able to stand up but, as a sign<br />
of his pleasure, would just raise his arms and who, on the couple of times a year when they went for a<br />
walk together on a Sunday or public holiday wrapped up tightly in his overcoat between Gregor and his<br />
mother, would always labour his way forward a little more slowly than them, who were already<br />
walking slowly for his sake; who would place his stick down carefully and, if he wanted to say<br />
something would invariably stop and gather his companions around him. He was standing up straight<br />
enough now; dressed in a smart blue uniform with gold buttons, the sort worn by the employees at the<br />
banking institute; above the high, stiff collar of the coat his strong double-chin emerged; under the<br />
bushy eyebrows, his piercing, dark eyes looked out fresh and alert; his normally unkempt white hair<br />
was combed down painfully close to his scalp. He took his cap, with its gold monogram from,<br />
probably, some bank, and threw it in an arc right across the room onto the sofa, put his hands in his<br />
trouser pockets, pushing back the bottom of his long uniform coat, and, with look of determination,<br />
walked towards Gregor. He probably did not even know himself what he had in mind, but nonetheless<br />
lifted his feet unusually high. Gregor was amazed at the enormous size of the soles of his boots, but<br />
wasted no time with that - he knew full well, right from the first day of his new life, that his father<br />
thought it necessary to always be extremely strict with him. And so he ran up to his father, stopped<br />
when his father stopped, scurried forwards again when he moved, even slightly. In this way they went<br />
round the room several times without anything decisive happening, without even giving the impression<br />
of a chase as everything went so slowly. Gregor remained all this time on the floor, largely because he<br />
feared his father might see it as especially provoking if he fled onto the wall or ceiling. Whatever he<br />
did, Gregor had to admit that he certainly would not be able to keep up this running about for long, as<br />
for each step his father took he had to carry out countless movements. He became noticeably short of<br />
breath, even in his earlier life his lungs had not been very reliable. Now, as he lurched about in his<br />
efforts to muster all the strength he could for running he could hardly keep his eyes open; his thoughts<br />
became too slow for him to think of any other way of saving himself than running; he almost forgot<br />
that the walls were there for him to use although, here, they were concealed behind carefully carved<br />
furniture full of notches and protrusions - then, right beside him, lightly tossed, something flew down<br />
and rolled in front of him. It was an apple; then another one immediately flew at him; Gregor froze in<br />
shock; there was no longer any point in running as his father had decided to bombard him. He had<br />
filled his pockets with fruit from the bowl on the sideboard and now, without even taking the time for<br />
careful aim, threw one apple after another. <strong>The</strong>se little, red apples rolled about on the floor, knocking<br />
into each other as if they had electric motors. An apple thrown without much force glanced against<br />
Gregor's back and slid off without doing any harm. Another one however, immediately following it, hit<br />
squarely and lodged in his back; Gregor wanted to drag himself away, as if he could remove the<br />
surprising, the incredible pain by changing his position; but he felt as if nailed to the spot and spread<br />
himself out, all his senses in confusion. <strong>The</strong> last thing he saw was the door of his room being pulled<br />
open, his sister was screaming, his mother ran out in front of her in her blouse (as his sister had taken<br />
off some of her clothes after she had fainted to make it easier for her to breathe), she ran to his father,<br />
her skirts unfastened and sliding one after another to the ground, stumbling over the skirts she pushed<br />
herself to his father, her arms around him, uniting herself with him totally - now Gregor lost his ability<br />
to see anything - her hands behind his father's head begging him to spare Gregor's life.<br />
III<br />
No-one dared to remove the apple lodged in Gregor's flesh, so it remained there as a visible reminder of<br />
his injury. He had suffered it there for more than a month, and his condition seemed serious enough to
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 76<br />
remind even his father that Gregor, despite his current sad and revolting form, was a family member<br />
who could not be treated as an enemy. On the contrary, as a family there was a duty to swallow any<br />
revulsion for him and to be patient, just to be patient.<br />
Because of his injuries, Gregor had lost much of his mobility - probably permanently. He had been<br />
reduced to the condition of an ancient invalid and it took him long, long minutes to crawl across his<br />
room - crawling over the ceiling was out of the question - but this deterioration in his condition was<br />
fully (in his opinion) made up for by the door to the living room being left open every evening. He got<br />
into the habit of closely watching it for one or two hours before it was opened and then, lying in the<br />
darkness of his room where he could not be seen from the living room, he could watch the family in the<br />
light of the dinner table and listen to their conversation - with everyone's permission, in a way, and thus<br />
quite differently from before.<br />
<strong>The</strong>y no longer held the lively conversations of earlier times, of course, the ones that Gregor always<br />
thought about with longing when he was tired and getting into the damp bed in some small hotel room.<br />
All of them were usually very quiet nowadays. Soon after dinner, his father would go to sleep in his<br />
chair; his mother and sister would urge each other to be quiet; his mother, bent deeply under the lamp,<br />
would sew fancy underwear for a fashion shop; his sister, who had taken a sales job, learned shorthand<br />
and French in the evenings so that she might be able to get a better position later on. Sometimes his<br />
father would wake up and say to Gregor's mother "you're doing so much sewing again today!", as if he<br />
did not know that he had been dozing - and then he would go back to sleep again while mother and<br />
sister would exchange a tired grin.<br />
With a kind of stubbornness, Gregor's father refused to take his uniform off even at home; while his<br />
nightgown hung unused on its peg Gregor's father would slumber where he was, fully dressed, as if<br />
always ready to serve and expecting to hear the voice of his superior even here. <strong>The</strong> uniform had not<br />
been new to start with, but as a result of this it slowly became even shabbier despite the efforts of<br />
Gregor's mother and sister to look after it. Gregor would often spend the whole evening looking at all<br />
the stains on this coat, with its gold buttons always kept polished and shiny, while the old man in it<br />
would sleep, highly uncomfortable but peaceful.<br />
As soon as it struck ten, Gregor's mother would speak gently to his father to wake him and try to<br />
persuade him to go to bed, as he couldn't sleep properly where he was and he really had to get his sleep<br />
if he was to be up at six to get to work. But since he had been in work he had become more obstinate<br />
and would always insist on staying longer at the table, even though he regularly fell asleep and it was<br />
then harder than ever to persuade him to exchange the chair for his bed. <strong>The</strong>n, however much mother<br />
and sister would importune him with little reproaches and warnings he would keep slowly shaking his<br />
head for a quarter of an hour with his eyes closed and refusing to get up. Gregor's mother would tug at<br />
his sleeve, whisper endearments into his ear, Gregor's sister would leave her work to help her mother,<br />
but nothing would have any effect on him. He would just sink deeper into his chair. Only when the two<br />
women took him under the arms he would abruptly open his eyes, look at them one after the other and<br />
say: "What a life! This is what peace I get in my old age!" And supported by the two women he would<br />
lift himself up carefully as if he were carrying the greatest load himself, let the women take him to the<br />
door, send them off and carry on by himself while Gregor's mother would throw down her needle and<br />
his sister her pen so that they could run after his father and continue being of help to him.<br />
Who, in this tired and overworked family, would have had time to give more attention to Gregor than<br />
was absolutely necessary? <strong>The</strong> household budget became even smaller; so now the maid was<br />
dismissed; an enormous, thick-boned charwoman with white hair that flapped around her head came<br />
every morning and evening to do the heaviest work; everything else was looked after by Gregor's
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 77<br />
mother on top of the large amount of sewing work she did. Gregor even learned, listening to the<br />
evening conversation about what price they had hoped for, that several items of jewellery belonging to<br />
the family had been sold, even though both mother and sister had been very fond of wearing them at<br />
functions and celebrations. But the loudest complaint was that although the flat was much too big for<br />
their present circumstances, they could not move out of it, there was no imaginable way of transferring<br />
Gregor to the new address. He could see quite well, though, that there were more reasons than<br />
consideration for him that made it difficult for them to move, it would have been quite easy to transport<br />
him in any suitable crate with a few air holes in it; the main thing holding the family back from their<br />
decision to move was much more to do with their total despair, and the thought that they had been<br />
struck with a misfortune unlike anything experienced by anyone else they knew or were related to.<br />
<strong>The</strong>y carried out absolutely everything that the world expects from poor people, Gregor's father<br />
brought bank employees their breakfast, his mother sacrificed herself by washing clothes for strangers,<br />
his sister ran back and forth behind her desk at the behest of the customers, but they just did not have<br />
the strength to do any more. And the injury in Gregor's back began to hurt as much as when it was new.<br />
After they had come back from taking his father to bed Gregor's mother and sister would now leave<br />
their work where it was and sit close together, cheek to cheek; his mother would point to Gregor's room<br />
and say "Close that door, Grete", and then, when he was in the dark again, they would sit in the next<br />
room and their tears would mingle, or they would simply sit there staring dry-eyed at the table.<br />
Gregor hardly slept at all, either night or day. Sometimes he would think of taking over the family's<br />
affairs, just like before, the next time the door was opened; he had long forgotten about his boss and the<br />
chief clerk, but they would appear again in his thoughts, the salesmen and the apprentices, that stupid<br />
teaboy, two or three friends from other businesses, one of the chambermaids from a provincial hotel, a<br />
tender memory that appeared and disappeared again, a cashier from a hat shop for whom his attention<br />
had been serious but too slow, - all of them appeared to him, mixed together with strangers and others<br />
he had forgotten, but instead of helping him and his family they were all of them inaccessible, and he<br />
was glad when they disappeared. Other times he was not at all in the mood to look after his family, he<br />
was filled with simple rage about the lack of attention he was shown, and although he could think of<br />
nothing he would have wanted, he made plans of how he could get into the pantry where he could take<br />
all the things he was entitled to, even if he was not hungry. Gregor's sister no longer thought about how<br />
she could please him but would hurriedly push some food or other into his room with her foot before<br />
she rushed out to work in the morning and at midday, and in the evening she would sweep it away<br />
again with the broom, indifferent as to whether it had been eaten or - more often than not - had been<br />
left totally untouched. She still cleared up the room in the evening, but now she could not have been<br />
any quicker about it. Smears of dirt were left on the walls, here and there were little balls of dust and<br />
filth. At first, Gregor went into one of the worst of these places when his sister arrived as a reproach to<br />
her, but he could have stayed there for weeks without his sister doing anything about it; she could see<br />
the dirt as well as he could but she had simply decided to leave him to it. At the same time she became<br />
touchy in a way that was quite new for her and which everyone in the family understood - cleaning up<br />
Gregor's room was for her and her alone. Gregor's mother did once thoroughly clean his room, and<br />
needed to use several bucketfuls of water to do it - although that much dampness also made Gregor ill<br />
and he lay flat on the couch, bitter and immobile. But his mother was to be punished still more for what<br />
she had done, as hardly had his sister arrived home in the evening than she noticed the change in<br />
Gregor's room and, highly aggrieved, ran back into the living room where, despite her mothers raised<br />
and imploring hands, she broke into convulsive tears. Her father, of course, was startled out of his chair<br />
and the two parents looked on astonished and helpless; then they, too, became agitated; Gregor's father,<br />
standing to the right of his mother, accused her of not leaving the cleaning of Gregor's room to his<br />
sister; from her left, Gregor's sister screamed at her that she was never to clean Gregor's room again;
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 78<br />
while his mother tried to draw his father, who was beside himself with anger, into the bedroom; his<br />
sister, quaking with tears, thumped on the table with her small fists; and Gregor hissed in anger that noone<br />
had even thought of closing the door to save him the sight of this and all its noise.<br />
Gregor's sister was exhausted from going out to work, and looking after Gregor as she had done before<br />
was even more work for her, but even so his mother ought certainly not to have taken her place.<br />
Gregor, on the other hand, ought not to be neglected. Now, though, the charwoman was here. This<br />
elderly widow, with a robust bone structure that made her able to withstand the hardest of things in her<br />
long life, wasn't really repelled by Gregor. Just by chance one day, rather than any real curiosity, she<br />
opened the door to Gregor's room and found herself face to face with him. He was taken totally by<br />
surprise, no-one was chasing him but he began to rush to and fro while she just stood there in<br />
amazement with her hands crossed in front of her. From then on she never failed to open the door<br />
slightly every evening and morning and look briefly in on him. At first she would call to him as she did<br />
so with words that she probably considered friendly, such as "come on then, you old dung-beetle!", or<br />
"look at the old dung-beetle there!" Gregor never responded to being spoken to in that way, but just<br />
remained where he was without moving as if the door had never even been opened. If only they had<br />
told this charwoman to clean up his room every day instead of letting her disturb him for no reason<br />
whenever she felt like it! One day, early in the morning while a heavy rain struck the windowpanes,<br />
perhaps indicating that spring was coming, she began to speak to him in that way once again. Gregor<br />
was so resentful of it that he started to move toward her, he was slow and infirm, but it was like a kind<br />
of attack. Instead of being afraid, the charwoman just lifted up one of the chairs from near the door and<br />
stood there with her mouth open, clearly intending not to close her mouth until the chair in her hand<br />
had been slammed down into Gregor's back. "Aren't you coming any closer, then?", she asked when<br />
Gregor turned round again, and she calmly put the chair back in the corner.<br />
Gregor had almost entirely stopped eating. Only if he happened to find himself next to the food that<br />
had been prepared for him he might take some of it into his mouth to play with it, leave it there a few<br />
hours and then, more often than not, spit it out again. At first he thought it was distress at the state of<br />
his room that stopped him eating, but he had soon got used to the changes made there. <strong>The</strong>y had got<br />
into the habit of putting things into this room that they had no room for anywhere else, and there were<br />
now many such things as one of the rooms in the flat had been rented out to three gentlemen. <strong>The</strong>se<br />
earnest gentlemen - all three of them had full beards, as Gregor learned peering through the crack in the<br />
door one day - were painfully insistent on things' being tidy. This meant not only in their own room but,<br />
since they had taken a room in this establishment, in the entire flat and especially in the kitchen.<br />
Unnecessary clutter was something they could not tolerate, especially if it was dirty. <strong>The</strong>y had<br />
moreover brought most of their own furnishings and equipment with them. For this reason, many<br />
things had become superfluous which, although they could not be sold, the family did not wish to<br />
discard. All these things found their way into Gregor's room. <strong>The</strong> dustbins from the kitchen found their<br />
way in there too. <strong>The</strong> charwoman was always in a hurry, and anything she couldn't use for the time<br />
being she would just chuck in there. He, fortunately, would usually see no more than the object and the<br />
hand that held it. <strong>The</strong> woman most likely meant to fetch the things back out again when she had time<br />
and the opportunity, or to throw everything out in one go, but what actually happened was that they<br />
were left where they landed when they had first been thrown unless Gregor made his way through the<br />
junk and moved it somewhere else. At first he moved it because, with no other room free where he<br />
could crawl about, he was forced to, but later on he came to enjoy it although moving about in the way<br />
left him sad and tired to death and he would remain immobile for hours afterwards.<br />
<strong>The</strong> gentlemen who rented the room would sometimes take their evening meal at home in the living<br />
room that was used by everyone, and so the door to this room was often kept closed in the evening. But
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 79<br />
Gregor found it easy to give up having the door open, he had, after all, often failed to make use of it<br />
when it was open and, without the family having noticed it, lain in his room in its darkest corner. One<br />
time, though, the charwoman left the door to the living room slightly open, and it remained open when<br />
the gentlemen who rented the room came in in the evening and the light was put on. <strong>The</strong>y sat up at the<br />
table where, formerly, Gregor had taken his meals with his father and mother, they unfolded the<br />
serviettes and picked up their knives and forks. Gregor's mother immediately appeared in the doorway<br />
with a dish of meat and soon behind her came his sister with a dish piled high with potatoes. <strong>The</strong> food<br />
was steaming, and filled the room with its smell. <strong>The</strong> gentlemen bent over the dishes set in front of<br />
them as if they wanted to test the food before eating it, and the gentleman in the middle, who seemed to<br />
count as an authority for the other two, did indeed cut off a piece of meat while it was still in its dish,<br />
clearly wishing to establish whether it was sufficiently cooked or whether it should be sent back to the<br />
kitchen. It was to his satisfaction, and Gregor's mother and sister, who had been looking on anxiously,<br />
began to breathe again and smiled.<br />
<strong>The</strong> family themselves ate in the kitchen. Nonetheless, Gregor's father came into the living room before<br />
he went into the kitchen, bowed once with his cap in his hand and did his round of the table. <strong>The</strong><br />
gentlemen stood as one, and mumbled something into their beards. <strong>The</strong>n, once they were alone, they<br />
ate in near perfect silence. It seemed remarkable to Gregor that above all the various noises of eating<br />
their chewing teeth could still be heard, as if they had wanted to Show Gregor that you need teeth in<br />
order to eat and it was not possible to perform anything with jaws that are toothless however nice they<br />
might be. "I'd like to eat something", said Gregor anxiously, "but not anything like they're eating. <strong>The</strong>y<br />
do feed themselves. And here I am, dying!"<br />
Throughout all this time, Gregor could not remember having heard the violin being played, but this<br />
evening it began to be heard from the kitchen. <strong>The</strong> three gentlemen had already finished their meal, the<br />
one in the middle had produced a newspaper, given a page to each of the others, and now they leant<br />
back in their chairs reading them and smoking. When the violin began playing they became attentive,<br />
stood up and went on tip-toe over to the door of the hallway where they stood pressed against each<br />
other. Someone must have heard them in the kitchen, as Gregor's father called out: "Is the playing<br />
perhaps unpleasant for the gentlemen? We can stop it straight away." "On the contrary", said the middle<br />
gentleman, "would the young lady not like to come in and play for us here in the room, where it is,<br />
after all, much more cosy and comfortable?" "Oh yes, we'd love to", called back Gregor's father as if he<br />
had been the violin player himself. <strong>The</strong> gentlemen stepped back into the room and waited. Gregor's<br />
father soon appeared with the music stand, his mother with the music and his sister with the violin. She<br />
calmly prepared everything for her to begin playing; his parents, who had never rented a room out<br />
before and therefore showed an exaggerated courtesy towards the three gentlemen, did not even dare to<br />
sit on their own chairs; his father leant against the door with his right hand pushed in between two<br />
buttons on his uniform coat; his mother, though, was offered a seat by one of the gentlemen and sat -<br />
leaving the chair where the gentleman happened to have placed it - out of the way in a corner.<br />
His sister began to play; father and mother paid close attention, one on each side, to the movements of<br />
her hands. Drawn in by the playing, Gregor had dared to come forward a little and already had his head<br />
in the living room. Before, he had taken great pride in how considerate he was but now it hardly<br />
occurred to him that he had become so thoughtless about the others. What's more, there was now all the<br />
more reason to keep himself hidden as he was covered in the dust that lay everywhere in his room and<br />
flew up at the slightest movement; he carried threads, hairs, and remains of food about on his back and<br />
sides; he was much too indifferent to everything now to lay on his back and wipe himself on the carpet<br />
like he had used to do several times a day. And despite this condition, he was not too shy to move<br />
forward a little onto the immaculate floor of the living room.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 80<br />
No-one noticed him, though. <strong>The</strong> family was totally preoccupied with the violin playing; at first, the<br />
three gentlemen had put their hands in their pockets and come up far too close behind the music stand<br />
to look at all the notes being played, and they must have disturbed Gregor's sister, but soon, in contrast<br />
with the family, they withdrew back to the window with their heads sunk and talking to each other at<br />
half volume, and they stayed by the window while Gregor's father observed them anxiously. It really<br />
now seemed very obvious that they had expected to hear some beautiful or entertaining violin playing<br />
but had been disappointed, that they had had enough of the whole performance and it was only now out<br />
of politeness that they allowed their peace to be disturbed. It was especially unnerving, the way they all<br />
blew the smoke from their cigarettes upwards from their mouth and noses. Yet Gregor's sister was<br />
playing so beautifully. Her face was leant to one side, following the lines of music with a careful and<br />
melancholy expression. Gregor crawled a little further forward, keeping his head close to the ground so<br />
that he could meet her eyes if the chance came. Was he an animal if music could captivate him so? It<br />
seemed to him that he was being shown the way to the unknown nourishment he had been yearning for.<br />
He was determined to make his way forward to his sister and tug at her skirt to show her she might<br />
come into his room with her violin, as no-one appreciated her playing here as much as he would. He<br />
never wanted to let her out of his room, not while he lived, anyway; his shocking appearance should,<br />
for once, be of some use to him; he wanted to be at every door of his room at once to hiss and spit at<br />
the attackers; his sister should not be forced to stay with him, though, but stay of her own free will; she<br />
would sit beside him on the couch with her ear bent down to him while he told her how he had always<br />
intended to send her to the conservatory, how he would have told everyone about it last Christmas - had<br />
Christmas really come and gone already? - if this misfortune hadn't got in the way, and refuse to let<br />
anyone dissuade him from it. On hearing all this, his sister would break out in tears of emotion, and<br />
Gregor would climb up to her shoulder and kiss her neck, which, since she had been going out to work,<br />
she had kept free without any necklace or collar.<br />
"Mr. Samsa!", shouted the middle gentleman to Gregor's father, pointing, without wasting any more<br />
words, with his forefinger at Gregor as he slowly moved forward. <strong>The</strong> violin went silent, the middle of<br />
the three gentlemen first smiled at his two friends, shaking his head, and then looked back at Gregor.<br />
His father seemed to think it more important to calm the three gentlemen before driving Gregor out,<br />
even though they were not at all upset and seemed to think Gregor was more entertaining that the violin<br />
playing had been. He rushed up to them with his arms spread out and attempted to drive them back into<br />
their room at the same time as trying to block their view of Gregor with his body. Now they did<br />
become a little annoyed, and it was not clear whether it was his father's behaviour that annoyed them or<br />
the dawning realisation that they had had a neighbour like Gregor in the next room without knowing it.<br />
<strong>The</strong>y asked Gregor's father for explanations, raised their arms like he had, tugged excitedly at their<br />
beards and moved back towards their room only very slowly. Meanwhile Gregor's sister had overcome<br />
the despair she had fallen into when her playing was suddenly interrupted. She had let her hands drop<br />
and let violin and bow hang limply for a while but continued to look at the music as if still playing, but<br />
then she suddenly pulled herself together, lay the instrument on her mother's lap who still sat<br />
laboriously struggling for breath where she was, and ran into the next room which, under pressure from<br />
her father, the three gentlemen were more quickly moving toward. Under his sister's experienced hand,<br />
the pillows and covers on the beds flew up and were put into order and she had already finished making<br />
the beds and slipped out again before the three gentlemen had reached the room. Gregor's father<br />
seemed so obsessed with what he was doing that he forgot all the respect he owed to his tenants. He<br />
urged them and pressed them until, when he was already at the door of the room, the middle of the<br />
three gentlemen shouted like thunder and stamped his foot and thereby brought Gregor's father to a<br />
halt. "I declare here and now", he said, raising his hand and glancing at Gregor's mother and sister to<br />
gain their attention too, "that with regard to the repugnant conditions that prevail in this flat and with
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 81<br />
this family" - here he looked briefly but decisively at the floor - "I give immediate notice on my room.<br />
For the days that I have been living here I will, of course, pay nothing at all, on the contrary I will<br />
consider whether to proceed with some kind of action for damages from you, and believe me it would<br />
be very easy to set out the grounds for such an action." He was silent and looked straight ahead as if<br />
waiting for something. And indeed, his two friends joined in with the words: "And we also give<br />
immediate notice." With that, he took hold of the door handle and slammed the door.<br />
Gregor's father staggered back to his seat, feeling his way with his hands, and fell into it; it looked as if<br />
he was stretching himself out for his usual evening nap but from the uncontrolled way his head kept<br />
nodding it could be seen that he was not sleeping at all. Throughout all this, Gregor had lain still where<br />
the three gentlemen had first seen him. His disappointment at the failure of his plan, and perhaps also<br />
because he was weak from hunger, made it impossible for him to move. He was sure that everyone<br />
would turn on him any moment, and he waited. He was not even startled out of this state when the<br />
violin on his mother's lap fell from her trembling fingers and landed loudly on the floor.<br />
"Father, Mother", said his sister, hitting the table with her hand as introduction, "we can't carry on like<br />
this. Maybe you can't see it, but I can. I don't want to call this monster my brother, all I can say is: we<br />
have to try and get rid of it. We've done all that's humanly possible to look after it and be patient, I don't<br />
think anyone could accuse us of doing anything wrong."<br />
"She's absolutely right", said Gregor's father to himself. His mother, who still had not had time to catch<br />
her breath, began to cough dully, her hand held out in front of her and a deranged expression in her<br />
eyes.<br />
Gregor's sister rushed to his mother and put her hand on her forehead. Her words seemed to give<br />
Gregor's father some more definite ideas. He sat upright, played with his uniform cap between the<br />
plates left by the three gentlemen after their meal, and occasionally looked down at Gregor as he lay<br />
there immobile.<br />
"We have to try and get rid of it", said Gregor's sister, now speaking only to her father, as her mother<br />
was too occupied with coughing to listen, "it'll be the death of both of you, I can see it coming. We can't<br />
all work as hard as we have to and then come home to be tortured like this, we can't endure it. I can't<br />
endure it any more." And she broke out so heavily in tears that they flowed down the face of her<br />
mother, and she wiped them away with mechanical hand movements.<br />
"My child", said her father with sympathy and obvious understanding, "what are we to do?"<br />
His sister just shrugged her shoulders as a sign of the helplessness and tears that had taken hold of her,<br />
displacing her earlier certainty.<br />
"If he could just understand us", said his father almost as a question; his sister shook her hand<br />
vigorously through her tears as a sign that of that there was no question.<br />
"If he could just understand us", repeated Gregor's father, closing his eyes in acceptance of his sister's<br />
certainty that that was quite impossible, "then perhaps we could come to some kind of arrangement<br />
with him. But as it is ..."<br />
"It's got to go", shouted his sister, "that's the only way, Father. You've got to get rid of the idea that<br />
that's Gregor. We've only harmed ourselves by believing it for so long. How can that be Gregor? If it<br />
were Gregor he would have seen long ago that it's not possible for human beings to live with an animal<br />
like that and he would have gone of his own free will. We wouldn't have a brother any more, then, but<br />
we could carry on with our lives and remember him with respect. As it is this animal is persecuting us,<br />
it's driven out our tenants, it obviously wants to take over the whole flat and force us to sleep on the
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 82<br />
streets. Father, look, just look", she suddenly screamed, "he's starting again!" In her alarm, which was<br />
totally beyond Gregor's comprehension, his sister even abandoned his mother as she pushed herself<br />
vigorously out of her chair as if more willing to sacrifice her own mother than stay anywhere near<br />
Gregor. She rushed over to behind her father, who had become excited merely because she was and<br />
stood up half raising his hands in front of Gregor's sister as if to protect her.<br />
But Gregor had had no intention of frightening anyone, least of all his sister. All he had done was begin<br />
to turn round so that he could go back into his room, although that was in itself quite startling as his<br />
pain-wracked condition meant that turning round required a great deal of effort and he was using his<br />
head to help himself do it, repeatedly raising it and striking it against the floor. He stopped and looked<br />
round. <strong>The</strong>y seemed to have realised his good intention and had only been alarmed briefly. Now they<br />
all looked at him in unhappy silence. His mother lay in her chair with her legs stretched out and pressed<br />
against each other, her eyes nearly closed with exhaustion; his sister sat next to his father with her arms<br />
around his neck.<br />
"Maybe now they'll let me turn round", thought Gregor and went back to work. He could not help<br />
panting loudly with the effort and had sometimes to stop and take a rest. No-one was making him rush<br />
any more, everything was left up to him. As soon as he had finally finished turning round he began to<br />
move straight ahead. He was amazed at the great distance that separated him from his room, and could<br />
not understand how he had covered that distance in his weak state a little while before and almost<br />
without noticing it. He concentrated on crawling as fast as he could and hardly noticed that there was<br />
not a word, not any cry, from his family to distract him. He did not turn his head until he had reached<br />
the doorway. He did not turn it all the way round as he felt his neck becoming stiff, but it was<br />
nonetheless enough to see that nothing behind him had changed, only his sister had stood up. With his<br />
last glance he saw that his mother had now fallen completely asleep.<br />
He was hardly inside his room before the door was hurriedly shut, bolted and locked. <strong>The</strong> sudden noise<br />
behind Gregor so startled him that his little legs collapsed under him. It was his sister who had been in<br />
so much of a rush. She had been standing there waiting and sprung forward lightly, Gregor had not<br />
heard her coming at all, and as she turned the key in the lock she said loudly to her parents "At last!".<br />
"What now, then?", Gregor asked himself as he looked round in the darkness. He soon made the<br />
discovery that he could no longer move at all. This was no surprise to him, it seemed rather that being<br />
able to actually move around on those spindly little legs until then was unnatural. He also felt relatively<br />
comfortable. It is true that his entire body was aching, but the pain seemed to be slowly getting weaker<br />
and weaker and would finally disappear altogether. He could already hardly feel the decayed apple in<br />
his back or the inflamed area around it, which was entirely covered in white dust. He thought back of<br />
his family with emotion and love. If it was possible, he felt that he must go away even more strongly<br />
than his sister. He remained in this state of empty and peaceful rumination until he heard the clock<br />
tower strike three in the morning. He watched as it slowly began to get light everywhere outside the<br />
window too. <strong>The</strong>n, without his willing it, his head sank down completely, and his last breath flowed<br />
weakly from his nostrils.<br />
When the cleaner came in early in the morning - they'd often asked her not to keep slamming the doors<br />
but with her strength and in her hurry she still did, so that everyone in the flat knew when she'd arrived<br />
and from then on it was impossible to sleep in peace - she made her usual brief look in on Gregor and<br />
at first found nothing special. She thought he was laying there so still on purpose, playing the martyr;<br />
she attributed all possible understanding to him. She happened to be holding the long broom in her<br />
hand, so she tried to tickle Gregor with it from the doorway. When she had no success with that she<br />
tried to make a nuisance of herself and poked at him a little, and only when she found she could shove
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 83<br />
him across the floor with no resistance at all did she start to pay attention. She soon realised what had<br />
really happened, opened her eyes wide, whistled to herself, but did not waste time to yank open the<br />
bedroom doors and shout loudly into the darkness of the bedrooms: "Come and 'ave a look at this, it's<br />
dead, just lying there, stone dead!"<br />
Mr. and Mrs. Samsa sat upright there in their marriage bed and had to make an effort to get over the<br />
shock caused by the cleaner before they could grasp what she was saying. But then, each from his own<br />
side, they hurried out of bed. Mr. Samsa threw the blanket over his shoulders, Mrs. Samsa just came<br />
out in her nightdress; and that is how they went into Gregor's room. On the way they opened the door<br />
to the living room where Grete had been sleeping since the three gentlemen had moved in; she was<br />
fully dressed as if she had never been asleep, and the paleness of her face seemed to confirm this.<br />
"Dead?", asked Mrs. Samsa, looking at the charwoman enquiringly, even though she could have<br />
checked for herself and could have known it even without checking. "That's what I said", replied the<br />
cleaner, and to prove it she gave Gregor's body another shove with the broom, sending it sideways<br />
across the floor. Mrs. Samsa made a movement as if she wanted to hold back the broom, but did not<br />
complete it. "Now then", said Mr. Samsa, "let's give thanks to God for that". He crossed himself, and<br />
the three women followed his example. Grete, who had not taken her eyes from the corpse, said: "Just<br />
look how thin he was. He didn't eat anything for so long. <strong>The</strong> food came out again just the same as<br />
when it went in". Gregor's body was indeed completely dried up and flat, they had not seen it until<br />
then, but now he was not lifted up on his little legs, nor did he do anything to make them look away.<br />
"Grete, come with us in here for a little while", said Mrs. Samsa with a pained smile, and Grete<br />
followed her parents into the bedroom but not without looking back at the body. <strong>The</strong> cleaner shut the<br />
door and opened the window wide. Although it was still early in the morning the fresh air had<br />
something of warmth mixed in with it. It was already the end of March, after all.<br />
<strong>The</strong> three gentlemen stepped out of their room and looked round in amazement for their breakfasts;<br />
they had been forgotten about. "Where is our breakfast?", the middle gentleman asked the cleaner<br />
irritably. She just put her finger on her lips and made a quick and silent sign to the men that they might<br />
like to come into Gregor's room. <strong>The</strong>y did so, and stood around Gregor's corpse with their hands in the<br />
pockets of their well-worn coats. It was now quite light in the room.<br />
<strong>The</strong>n the door of the bedroom opened and Mr. Samsa appeared in his uniform with his wife on one arm<br />
and his daughter on the other. All of them had been crying a little; Grete now and then pressed her face<br />
against her father's arm.<br />
"Leave my home. Now!", said Mr. Samsa, indicating the door and without letting the women from him.<br />
"What do you mean?", asked the middle of the three gentlemen somewhat disconcerted, and he smiled<br />
sweetly. <strong>The</strong> other two held their hands behind their backs and continually rubbed them together in<br />
gleeful anticipation of a loud quarrel which could only end in their favour. "I mean just what I said",<br />
answered Mr. Samsa, and, with his two companions, went in a straight line towards the man. At first, he<br />
stood there still, looking at the ground as if the contents of his head were rearranging themselves into<br />
new positions. "Alright, we'll go then", he said, and looked up at Mr. Samsa as if he had been suddenly<br />
overcome with humility and wanted permission again from Mr. Samsa for his decision. Mr. Samsa<br />
merely opened his eyes wide and briefly nodded to him several times. At that, and without delay, the<br />
man actually did take long strides into the front hallway; his two friends had stopped rubbing their<br />
hands some time before and had been listening to what was being said. Now they jumped off after their<br />
friend as if taken with a sudden fear that Mr. Samsa might go into the hallway in front of them and<br />
break the connection with their leader. Once there, all three took their hats from the stand, took their<br />
sticks from the holder, bowed without a word and left the premises. Mr. Samsa and the two women
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 84<br />
followed them out onto the landing; but they had had no reason to mistrust the men' intentions and as<br />
they leaned over the landing they saw how the three gentlemen made slow but steady progress down<br />
the many steps. As they turned the corner on each floor they disappeared and would reappear a few<br />
moments later; the further down they went, the more that the Samsa family lost interest in them; when<br />
a butcher's boy, proud of posture with his tray on his head, passed them on his way up and came nearer<br />
than they were, Mr. Samsa and the women came away from the landing and went, as if relieved, back<br />
into the flat.<br />
<strong>The</strong>y decided the best way to make use of that day was for relaxation and to go for a walk; not only had<br />
they earned a break from work but they were in serious need of it. So they sat at the table and wrote<br />
three letters of excusal, Mr. Samsa to his employers, Mrs. Samsa to her contractor and Grete to her<br />
principal. <strong>The</strong> cleaner came in while they were writing to tell them she was going, she'd finished her<br />
work for that morning. <strong>The</strong> three of them at first just nodded without looking up from what they were<br />
writing, and it was only when the cleaner still did not seem to want to leave that they looked up in<br />
irritation. "Well?", asked Mr. Samsa. <strong>The</strong> charwoman stood in the doorway with a smile on her face as<br />
if she had some tremendous good news to report, but would only do it if she was clearly asked to. <strong>The</strong><br />
almost vertical little ostrich feather on her hat, which had been source of irritation to Mr. Samsa all the<br />
time she had been working for them, swayed gently in all directions. "What is it you want then?", asked<br />
Mrs. Samsa, whom the cleaner had the most respect for. "Yes", she answered, and broke into a friendly<br />
laugh that made her unable to speak straight away, "well then, that thing in there, you needn't worry<br />
about how you're going to get rid of it. That's all been sorted out." Mrs. Samsa and Grete bent down<br />
over their letters as if intent on continuing with what they were writing; Mr. Samsa saw that the cleaner<br />
wanted to start describing everything in detail but, with outstretched hand, he made it quite clear that<br />
she was not to. So, as she was prevented from telling them all about it, she suddenly remembered what<br />
a hurry she was in and, clearly peeved, called out "Cheerio then, everyone", turned round sharply and<br />
left, slamming the door terribly as she went.<br />
"Tonight she gets sacked", said Mr. Samsa, but he received no reply from either his wife or his daughter<br />
as the charwoman seemed to have destroyed the peace they had only just gained. <strong>The</strong>y got up and went<br />
over to the window where they remained with their arms around each other. Mr. Samsa twisted round<br />
in his chair to look at them and sat there watching for a while. <strong>The</strong>n he called out: "Come here, then.<br />
Let's forget about all that old stuff, shall we. Come and give me a bit of attention". <strong>The</strong> two women<br />
immediately did as he said, hurrying over to him where they kissed him and hugged him and then they<br />
quickly finished their letters.<br />
After that, the three of them left the flat together, which was something they had not done for months,<br />
and took the tram out to the open country outside the town. <strong>The</strong>y had the tram, filled with warm<br />
sunshine, all to themselves. Leant back comfortably on their seats, they discussed their prospects and<br />
found that on closer examination they were not at all bad - until then they had never asked each other<br />
about their work but all three had jobs which were very good and held particularly good promise for the<br />
future. <strong>The</strong> greatest improvement for the time being, of course, would be achieved quite easily by<br />
moving house; what they needed now was a flat that was smaller and cheaper than the current one<br />
which had been chosen by Gregor, one that was in a better location and, most of all, more practical. All<br />
the time, Grete was becoming livelier. With all the worry they had been having of late her cheeks had<br />
become pale, but, while they were talking, Mr. and Mrs. Samsa were struck, almost simultaneously,<br />
with the thought of how their daughter was blossoming into a well built and beautiful young lady. <strong>The</strong>y<br />
became quieter. Just from each other's glance and almost without knowing it they agreed that it would<br />
soon be time to find a good man for her. And, as if in confirmation of their new dreams and good<br />
intentions, as soon as they reached their destination Grete was the first to get up and stretch out her
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 85<br />
young body. ■<br />
Copyright (C) 2002 by David Wyllie.<br />
End of the Project Gutenberg EBook of Metamorphosis, by Franz Kafka<br />
Translated by David Wyllie.<br />
<br />
Hóa Thân<br />
<strong>The</strong> Metamorphosis by Franz Kafka<br />
Bän dÎch ViŒt Ng» do David Lš Lãng Nhân<br />
I<br />
Một buổi sáng, khi Gregor Samsa sực tỉnh qua một cơn ác mộng, anh ta bổng thấy mình biến thành<br />
một con bọ gớm ghiếc trong giường ngủ của mình. Anh đang nằm ngữa lưng như trên một chiếc áo<br />
giáp sắt, và nếu anh ngấc đầu một tí anh có thể nhìn thấy chiếc bụng mình màu nâu, hơi vòng cầu và<br />
ráp nối liền nhau bởi những bộ phận hình cánh cung cứng còng. Chiếc chăn giường không phủ hết<br />
bụng anh nên nó có thể tụt ra lúc nào không biết. Anh lại có rất nhiều chân nhỏ tí xíu đáng thương hại<br />
so với tòan bộ con người anh, và đám chân ấy đang quờ quạng chới với một cách vô dụng trước mắt<br />
anh.<br />
“Việc gì đã xãy ra cho tôi?”anh ta suy nghĩ. Đó không phải là một giấc mơ. Phòng ngủ của anh<br />
ta là một phòng của “con người” bình thường, mặc dù hơi nhỏ hẹp, nằm yên tỉnh giữa bốn bức tường<br />
quen thuộc. Một lô hàng vãi mẫu nằm la liệt trên bàn – Samsa là một ngừơi bán hàng dạo – và trên<br />
tường có treo một bức hình anh mới cắt ra trong một tờ đặc san tranh ảnh, và lộng trong một chiếc<br />
khung mạ vàng khá đep. Bức hình cho thấy một thiếu phụ trang sức với chiếc mủ và khăn chòang lông<br />
thú, đang ngồi thẳng lưng, chìa cánh tay của cô ta có mang một chiếc vớ dầy làm bằng lông thú về phía<br />
ngừơi nhìn.<br />
Kế đó, Gregor xoay nhìn qua cửa sổ thì thấy thời tiết đang âm u. Những giọt mưa đập lên khung<br />
kính làm cho anh buồn ảm đạm. “Hay là ta kéo dài giấc ngủ thêm tí nữa và quên đi những điều phi lý<br />
nầy”, anh suy nghĩ, nhưng có một điều anh ta không làm được là anh đã quen ngủ nằm nghiêng bên<br />
phải, mà trong lúc này thì anh không thể xoay mình lại được. Mặc dù anh đã dùng hết sức tung mình<br />
vế phía tay phải, thân mình anh vẫn luôn luôn tụt vào vị thế cũ. Anh đã thữ hàng trăm lần như thế,<br />
nhắm nghiền mắt lại để khỏi phải thấy những cữ động chân tay vô vọng của mình, và chỉ dừng lại khi<br />
anh bắt đầu nghe hơi đau nhức ở một chỗ mà anh chưa từng cảm thấy trước đây bao giờ.<br />
“Chúa ơi”, anh nghĩ, “nghề nghiệp chi khổ sở mà tôi đã chọn như thế này! Di chuyển hết ngày<br />
nầy qua ngày nọ. Buôn bán như thế nầy còn khó nhọc hơn buôn bán tại gia, và còn hơn thế nữa, nghề<br />
chạy hàng rong lại còn mang theo cái nghiệp chướng lo lắng trễ chuyến xe lửa giao liên, ăn uống kém
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 86<br />
ngon và thất thường, liên lạc với khách mới luôn luôn, do đó không thể nào thật quen biết hoặc trở<br />
thành bạn thân với ai. Ôi, tất cả hãy về Âm phủ!” Anh ta cảm thấy hơi ngứa ở bụng; từ từ đẩy mình về<br />
phía đầu giường để ngẫng đầu lên; anh tìm thấy chỗ ngứa nổi đầy những chấm trắng khó hiểu; và khi<br />
anh dùng một chân của mình để thăm dò chỗ ấy thì anh phải thụt chân lại tức khắc vì khi chạm vào đó<br />
anh cảm thấy rùn mình ớn lạnh.<br />
Anh ta tụt lại vị thế cũ. “Thức dậy sớm thường xuyên”, anh nghĩ, “làm mình trở thành ngu đần.<br />
Ta phải ngủ đầy đủ. Những nguời buôn bán dạo khác sống một cách xa hoa.Ví dụ, mỗi khi tôi trở về<br />
phòng khách chung buổi sáng để sao lục khế ước, quí vị nầy luôn luôn ngồi đó ăn điểm tâm. Tôi phải<br />
thử làm như vậy với ông xếp tôi; tôi có thể bị đá văng ra đường. Nhưng biết đâu đó là điều tốt đẹp nhất<br />
cho tôi. Nếu tôi không cần nghĩ đến bố mẹ tôi, tôi đã gởi giấy thông báo nghỉ việc lâu rồi, tôi đã gặp<br />
xếp tôi và nói lên những gì tôi đả nghĩ, nói hết những điều tôi muốn nói, cho hắn biết những gì tôi cảm<br />
nhận. Hắn sẽ té nhào ra khỏi bàn giấy! Nghĩ cũng nực cười thay việc ngồi sau bàn giấy, miệt thị nhân<br />
viên thuộc hạ từ thế cao, đặc biệt nhất là lúc anh đến thật sát gần vì ông xếp bị lảng tai. Tuy thế, cũng<br />
còn hy vọng; khi tôi dành dum đủ số tiền để trả nợ cho hắn – chừng năm hay sáu năm nữa tôi đóan thế<br />
- tôi sẽ chắc chắn làm điều đó. Lúc ấy, tôi sẽ làm môt việc thay đổi lớn. Nhưng truớc hết, tôi phải thức<br />
dậy, chuyến xe lữa của tôi khởi hành vào lúc năm giờ.”<br />
Và anh nhìn lên chiếc đồng hồ reo trên tủ đang tích tắc . “Thánh Thượng ơi!” anh nghĩ. Đã sáu<br />
giờ rười và hai cây kim đang quay nhanh tới, bây giờ đã muộn hơn sáu giờ rưởi, hầu như bẫy giờ kém<br />
mừoi lăm. Đồng hồ không reo chăng? Từ giừong anh ta cũng có thể nhìn thấy đồng hồ đã vặn báo thức<br />
vào lúc bốn giờ như thường lệ, như vậy nó phải reo đúng. Phải, nhưng cũng có thể mình ngủ quên đi<br />
trong tiếng lạch cạch như bàn ghế bị khua động chăng? Đúng, anh đã không ngủ ngon giấc, nhưng có<br />
thể vì lý do đó nên thiếp đi. Bây giờ thì hắn phải làm gì? Chuyến xe lửa tới sẽ qua vào bãy giờ; Muốn<br />
bắt kịp chuyến nầy anh sẽ phải hối hả như điên và những hàng mẫu sẽ không được gói ghém, và anh<br />
cũng không được tươm tất và tuơi tắn. Cho dù anh bắt kịp chuyến xe anh cũng không tránh khỏi cơn<br />
thịnh nộ của ông xếp khi ông phụ tá văn phòng đã có mặt khi chuyến xe năm giờ chuyên bánh, và ông<br />
ta đã ghi trong tờ báo cáo rằng Gregor đã vắng mặt.. Ông phụ tá văn phòng là người bộ hạ tay chân<br />
của ông xếp, ông ta không có sống lưng “cứng rắn” và cũng không có tình cảm với ai cả. Hay là anh<br />
báo cáo bị ốm? Nhưng điều ấy lại còn kỳ quặc và đáng nghi hơn nữa vì trong suốt mười lăm năm làm<br />
việc Gregor chưa bị ốm môt lần nào cả. Ông xếp chắc chắn sẽ dến thăm cùng với viên bác sĩ của hảng<br />
bảo hiểm, buộc tội bố mẹ anh đã có một đứa con lười biếng và đồng ý không thưa kiện vì viên bác sĩ<br />
tin tửơng không ai bị đau ốm cả chỉ có nhiều người lười việc mà thôi. Hơn thế nữa, viên bác sĩ cũng<br />
không phải hòan tòan sai trong trường hơp nầy? Thực ra, ngoại trừ đã ngủ quá trớn, Gregor thấy<br />
mình hòan tòan phục sức và cảm thấy đói hơn thường lệ.<br />
Anh vẫn suy nghĩ gấp rút nhưng chưa quyết định ngồi dậy thì lúc ấy đồng hồ vừa điểm bãy giờ<br />
kém muòi lăm. Có một tiếng gõ nhẹ trên cánh cửa gần nơi đầu hắn. “Gregor”, rồi có tiếng ai gọi – đó là<br />
mẹ hắn – “ đã bãy giờ kém mươi lăm. Con có tính đi đâu không ?” Giọng nói êm dịu ấy! Gregor giật<br />
nẫy mình khi hắn nghe tiếng trả lời cũa chính mình, khó nhận ra so với giọng nói bình thường của hắn.<br />
Như từ trong sâu thẩm của người anh, có một tiếng the thé đau dớn không kìm hảm được hòa lẫn với<br />
thanh âm của từ ngữ tuy được phát âm nguyên thủy nhưng đã bị dư âm làm cho lu mờ đi, khiến cho<br />
người nghe không thể tin chắc rằng mình đã nghe đúng hay không. Gregor muốn trả lời đầy đủ và cắt<br />
nghĩa mọi sự, nhưng trong trường hợp nầy anh chỉ nói: “Vâng ạ, cám ơn mẹ, con thức dậy đây.” Sự<br />
thay đổi trong tiếng nói của Gregor có thể không thấy rỏ xuyên qua cửa gổ nên bà mẹ anh xem chừng<br />
cũng thỏa mãn về sự cắt nghĩa và bà nhẹ gót quay đi. Tuy nhiên câu chuyện vắn tắt đó cũng đủ làm<br />
cho mọi người trong gia đình biết rằng Gregor vẫn còn ở nhà, trái hẵn với sự chờ đợi cùa họ, và kế tiếp<br />
đó, là bố anh gõ vào cửa bên hông, và gõ nhè nhẹ với bàn tay nắm lại. “Gregor, Gregor”, ông ta bảo,<br />
“việc gì lôi thôi thế?” Và một khắc sau ông gọi lại bằng một giọng trầm trầm như thễ báo<br />
nguy:”Gregor! Gregor!” Từ phía cửa hông bên kia có tiếng cô em gái của hắn vang lên rên rĩ :
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 87<br />
“Gregor? Anh bị ốm phải không? Anh có cần gì không?” Gregor trả lời cho cả hai bên: “Tôi đã săn<br />
sàng rồi”, trong khi anh ta cố gắng sửa giọng nói cho bình thường bằng cách phát âm rất cẫn thận và<br />
ngừng giữa những từ ngữ. Bố anh đã trỏ lại ăn điểm tâm nhưng em gái anh thì thầm nói: “Gregor, mở<br />
cửa đi, tôi năn nỉ anh mà”. Tuy nhiên, Gregor không hề có ý định mở cửa, trái lại anh rất hài lòng đã<br />
có thói quen của ngừoi bán hàng dạo là khóa cửa ban đêm cho dù lúc ở nhà cũng vậy.<br />
Việc đầu tiên anh muốn làm là thức dậy yên ổn không bị quấy rầy, mặc quần áo, và ăn điểm<br />
tâm. Chỉ sau đó anh mới nghĩ dến công tác kế tiếp, như anh từng đã biết rõ rằng mình không thể nằm lỳ<br />
t rên giuờng để suy nghĩ ra một giãi pháp hữu dụng. Anh còn nhớ anh thường bị đau nhức nhẹ khi nằm<br />
trên giường, có lẽ vì nằm không ngay ngắn, nhưng điều đó chỉ là điều tưởng tượng và anh tự hỏi trí<br />
tưởng tựơng của anh hôm nay nó sẽ từ từ giãi quyết vấn đề ra sao. Anh không hề nghi ngờ chút nào về<br />
sự đổi thay trong tiếng nói của anh chỉ là sự báo hiệu dầu tiên cho một cơn cảm cúm nặng, một chứng<br />
bệnh kinh niên nghề nghiệp của những ngừoi buôn hàng dạo.<br />
Muốn nhẹ tung lớp chăn giường, anh chỉ cần thổi phồng nhẹ lên thân mình một tí thì lớp chăn<br />
mỏng sẽ tự nó tụt ra. Nhưng công việc kế đó sẽ trở thành khó khăn hơn, nhất là đối với tầm vóc người<br />
to rộng như anh. Anh phải dùng hai cánh tay lẫn bàn tay để chổi dậy; nhưng bây giờ thì anh chỉ có mấy<br />
chiếc chân nhỏ khẳng khiu cữ động tứ phía không kềm chế được. Nếu anh muốn co một chiếc chân nào<br />
đó thì chính nó sẽ tự bung ra; và cuối cùng nếu anh thành công với chiếc chân ấy thì tất cả những chân<br />
còn lại được tự do nhưng lại cữ động một cách đau đớn.”Công tác nầy không thể nào làm đuợc ở trên<br />
giường” Gregor tự nhủ, “ ta không nên tiếp tục thữ nữa”.<br />
Điều trước tiên anh muốn làm là rướn phần dưới của thân mình ra khỏi giường, nhưng anh chựa<br />
hề thấy nó bao giờ và cũng không thể tưởng tượng nó ra sao, hóa ra nó cữ động rât khó khăn và hết<br />
sức chậm chạp rồi cuối cùng trong một trạng thái hầu như cuồng loạn, trong lúc lơ đãng tung mình hết<br />
mức về phía trước và lạc hướng, anh đụng phải trụ chân giường và cảm thấy đau nhói ở phân dưới thân<br />
mình do đó nhận thây rằng đấy cũng là vùng nhạy cảm nhất trong người anh lúc nầy.<br />
Vì vậy anh thũ nhấc phần trên của thân mình anh ra khỏi giường trước và cẩn thận nghiêng đầu qua<br />
một bên. Anh làm công tác nầy dễ dàng; mặc dù hinh vóc và sức nặng của anh, phần to của thân thể sẽ<br />
từ từ di chuyển theo hướng của chiếc đầu anh. Tuy nhiên khi anh lấy được đầu ra khỏi giường vào<br />
trong không khí mát thì anh chợt nghĩ rằng nếu anh tự để mình rơi xuống sàn thì nếu chiếc đầu của anh<br />
không bi thuơng thì quả là một phép mầu; do đó anh lo sợ không dám tiếp tục nhũi mình tới nữa. Và<br />
bằng mọi giá, nếu anh không thể nào tư mình đả thương đến bất tỉnh; tốt hơn là cứ tiếp tục nằm trên<br />
giường hơn là nằm trong trạng thái hôn mê.<br />
Anh cũng tổn phí ngần ấy công sức để trở lai vị thế cũ, nhưng khi anh nằm đó thở dài thì nhận<br />
thấy một lần nữa rằng những bộ chân của anh vật lộn với nhau kịch liệt, anh nghĩ rằng không ai có thẻ<br />
đem lại an bình trật tụ cho sự hỗn lọan nầy đuợc . Một lần nữa anh tự bảo rằng không thể nằm lỳ trên<br />
giường và điều hợp lý nhất là tung ra khỏi giường bằng mọi cách. Anh cũng không quên rằng giữ khả<br />
năng bình tỉnh phân tích lúc nào cũng tốt hơn là vội vã nhảy vào kếr luận hồ đồ. Trong những lúc tương<br />
tợ anh quay mắt qua phía cửa sổ và nhin thực kỷ, nhưng rủi thay, thậm chí con đuờng hẹp bên kia cũng<br />
bị sương sáng che khuất nên quang cảnh lu mờ và kém vui đối với anh. “Đã bãy giờ rồi”, anh tự bảo<br />
mình khi nghe đồng hồ điểm lần nữa, “bãy giờ rồi mà vẫn còn sương mù như thế”. Và anh nằm đó yên<br />
lặng một lúc lâu, hơi thở nhẹ nhàng, như chờ đợi sự hòan tòan bất động sẽ mang trả lại trạng thái thực<br />
và tự nhiên của sự vật.<br />
Nhưng anh lại tự hỏi:”Trước khi đồng hồ điểm bãy giờ mười lăm mình nhất định sẽ phải ra<br />
khỏi giường. Lúc đó thì sẽ có người từ sở làm gởi tới để xem việc gì đã xãy ra cho mình vì sở mở cửa<br />
làm trước bãy giờ.” Kế đó, anh bắt đầu thi hành công tác đu mình theo chiều dọc đồng thời lách<br />
mình ra khỏi giuờng. Nếu anh thành công để rơi ra khỏi giường trong tư thế nầy với đàu ngóc lên cao<br />
thì sẽ tránh gây thuơng tích. Lưng anh xem chừng rất cứng rắn có thể an tòan vì rơi trên thảm. Anh chỉ<br />
lo ngại nhất là tiếng động anh sẽ tạo ra, măc dù xuyên qua cac cánh cửa, sẽ gây nên một sự lo lắng hoặc
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 88<br />
một sự báo động. Nhưng đìều đó cũng cần phải mạo hiểm.<br />
Khi Gregor đã thò nữa thân người ra khỏi giường – phương pháp mới nấy giống như một trò<br />
chơi hơn là một sự cố gắng, anh chỉ cần xích đu tới lui – anh chợt nhận thấy có lẽ mọi sự sẽ dãn dị nếu<br />
có ai đên giúp anh một tay. Chỉ cần hai ngừơi lực lưỡng – anh nghĩ đến bố anh và chị giúp việc – cũng<br />
thừa sức; họ chỉ cần luồn hai cánh tay dứoi chiếc lưng khum khum của anh, lôi nhẹ anh khỏi giường, hạ<br />
anh xuống một cách cẩn thận và kiên nhẫn đặt anh nằm sấp trên sàn nhà để may ra anh có thể sử dụng<br />
bộ chân nhỏ của anh. Anh có thực sự cần kêu cầu cứu không, dù rằng trong lúc nầy các cửa phòng đều<br />
khóa chặc? Tuy trong hòan cảnh khó khăn nầy, anh không ngăn được mình mĩm cười với ý nghĩ đó.<br />
Sau một lúc khá lâu anh đã di chuyển gần ra khỏi giường,đến độ anh khó lấy lại thăng bằng nếu<br />
anh lắc mình quá mạnh. Lúc ấy đã bãy giờ mười và anh thực sự cần lấy quyết dịnh cuối cùng.Kế đó là<br />
tiêng chuông reo phía trước cửa chính. “Đấy có lẽ là một nhân viên cùa sở làm”, anh tự bảo mình, thân<br />
thể anh bổng cứng lạnh như băng giá, mặc dù bộ chân nhỏ xíu của anh nhảy múa nhanh hơn gấp bội.<br />
Trong một khoảnh khắc tất cả đều yên lặng. “Họ sẽ không mở cửa phòng đâu”, Gregor tự bảo mình,<br />
như bị vướn mẳc trong tư tưởng vô vọng nào đó. Thế nhưng rồi những bước chân vững chắc của chị<br />
bồi phòng cứ tiến dần ra phía cửa chính như thường và chị ta mở cửa ra. Gregor chỉ cần nghe những<br />
tiếng chào hỏi đầu tiên là đã biết vị khách ấy là ai – ông tổng thư ký. Tại sao Gregor lại là người duy<br />
nhất bị tuyên án phải làm việc cho một hảng mà mỗi khuyết điểm nhỏ tức khắc trở thành nghi vấn?<br />
Một nơi mà nhân viên cả thảy không chừa một ai, đều cộc cằn thô lổ; không một ai trung thành và tận<br />
tâm đến độ mà, vì lương tâm cắn rứt, không rời khỏi giường nếu không lạm dụng được khỏan hai tiếng<br />
đồng hồ thì giờ của hảng cho việc riêng tư của mình buổi sáng? Như thế đã đủ lý do để cho một trong<br />
những tập sự viên mở cuộc thăm dò quan sát – ví như cuộc quan sát nầy cần thiết – thì sự có mặt của<br />
ông tổng thư ký có thực sự cần thiết không, liệu như họ cần tỏ ra với cả gia đình vô tội rằng việc nầy<br />
rất đáng nghi ngờ và chỉ ông tổng thư ký mới đáng tin cậy đủ tài trí để mở cuộc điều tra không? Những<br />
ý nghĩ ấy càng làm anh tức bực hơn những quyết định hợp lý, anh xoay mình một cách mạnh mẽ hết<br />
sức và tung ra khỏi giường. Chỉ có một tiếng đánh thịch, không thực sự là một tiếng động lớn. Khi anh<br />
rơi xuống thì tấm thảm đã hút giảm đi một phần tiếng động, và chiếc lưng của Gregor cũng đàn hồi khá<br />
hơn anh tưởng, do đó tiếng động đã được hảm thanh và khôngcòn rõ rệt lắm. Bởi anh không cẩn thận<br />
khéo giữ đầu của mình nên khi té xuống đầu anh bị va vào sàn nhà; làm anh đau điến và xửng vững,<br />
anh xoay đầu lại cọ xát nó vào tấm thảm.<br />
“Có vật gì vừa rơi xuống trong phòng đó”, ông tổng thư ký nói trong phòng bên trái. Gregor thữ<br />
tửong tuợng rằng những việc gì đã xãy ra cho anh cũng có thể xãy đến cho ông tổng thư ký; điều đó ta<br />
phải công nhận là có thể lắm chứ. Tuy nhiên, như để trả lời cộc lốc cho câu hỏi đó, những bước chân<br />
chắc nịch của ông tổng thư ký trong đôi giầy da ống cao đánh bóng đã nghe rõ trong phòng kế cận. Từ<br />
căn phòng bên phải, em gái của Gregor thì thào cho anh biết: “Gregor, ông tổng thư ký tới rôi.” “Có, tôi<br />
biết rồi”, Gregor thầm bảo mình; không dám lớn tiếng đến mức độ mà em gái anh nghe được.<br />
“Gregor”,bố anh gọi từ phòng bên trái, “ông tổng thư ký đã vòng qua đây và muốn biêt vì sao<br />
con không đáp chuyến xe lửa sớm. Chúng tao không biết nói thế nào với ông ấy. Vã lại ông ấy muốn<br />
nói chuyên riêng với con. Vậy con hãy mở cửa đi. Bố chắc ông tốt bụng lắm và sẽ tha thứ sự bừa bãi<br />
trong phòng con mà. “ Tiếp theo, ông tổng thư ký gọi:” Chào ông Samsa”. “Người nó không được<br />
khỏe, mẹ anh nói với ông tổng thư ký, trong lúc bố anh tiếp tục nói xuyên qua cánh cửa. “Người nó<br />
không được khỏe, xin tin tôi. Còn ly do nào mà Gregor phải trể xe lửa! Cậu thanh niên nầy lúc nào<br />
cũng nghĩ dến thương mại. Không như tôi, hầu như hắn không hề đi chơi vào buổi tối; hắn đã có mặt<br />
tại nhà một tuần nay rồi nhưng tối nào cũng ở nhà. Hắn quay quẩn trong nhà bêp, đọc báo hoặc nghiên<br />
cứu chương trình xe lửa. Ý tưởng giải trí của hắn là làm việc với một chiếc cưa lộng. Hắn chế tạo ra,<br />
nói ví dụ nhũng chiếc khung nhỏ, mất chừng hai, ba đêm, quí vị sẽ thấy xong một cái khung rất đẹp,<br />
treo lên tường trong phòng hắn; quí vị sẽ thấy nó ngay khi Gregor mở cửa. Nhưng thôi, tôi mừng thấy<br />
ông tới đây; chúng tôi đã vô phương làm thế nào cho Gregor mở cữa; hắn rất cứng đầu; và tôi chắc
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 89<br />
chắn hắn không được khỏe, hắn nói hồi sáng là hắn khỏe, nhưng không phải thế,” “ Tôi sẽ ra ngay bây<br />
giờ mà” Gregor nói một cách khoan thai rõ rệt nhưng vẫn không cữ động để khỏi mất một chữ nào của<br />
câu chuyện. “Đấy, tôi không còn nghĩ ra cách nào nữa để giãi thích việc ấy, bà Samsa ạ”, ông tổng thư<br />
ký nói, “Tôi hy vọng không có việc gì quan trọng. Tuy nhiên mặt trái của vấn đề tôi phải nói là nếu<br />
chúng ta trong ngành thương mại có chút gì bất bình thuờng trong sức khỏe thì trường hợp dù có đáng<br />
tiếc hay không theo ý mình, chúng ta cũng phải cố gắng vượt qua vì lý do nghề nghiệp bắt buộc.”<br />
“Nào bây giờ thì ông tổng thư ký có thể vào gặp con được chưa?”, bố anh mất kiên nhẫn vừa hỏi vừa<br />
gõ cửa lần nữa. “Không” Gregor nói. Một sự yên lặng nhức nhối tiếp diễn sau đó trong căn phòng phía<br />
mặt; bên phòng phía trái em gái hắn bắt đầu khóc.<br />
Nhưng tại sao em gái hắn không bước ra gia nhập với cả nhóm? Có thể cô ta vừa mới thức dậy<br />
và chưa kịp thay quần áo. Nhưng tại sao cô lại khóc? Có phải hắn không chổi dậy và không cho ông<br />
tổng thư ký vào phòng, tại vì hắn đang bị nguy cơ mất việc và nếu sự nầy xãy ra ông chủ của hắn sẽ<br />
theo đuổi một lần nữa những đòi hỏi tương tợ đối với cha mẹ hắn trước đây? Chưa đến lúc phải lo<br />
lắng đến những việc như thế. Gregor vẫn còn đó và không hề có ý nghĩ cỏn con gì về việc bỏ bê gia<br />
đình mình cả. Trong lúc nầy anh ta chỉ nằm trên thảm và không một ai nếu biết được tình trạng của anh<br />
lại có thể nghĩ rằng anh sẽ cho ông tổng thư ký vào phòng. Đấy chỉ là một cử chỉ bất lịch sự nhỏ mà<br />
sau nầy một lý do chính đáng sẽ được lựa chọn để cáo lỗi; đó không phải là sự kiện mà người ta có thể<br />
dựa vào để mạnh mẽ tấn công Gregor lúc nầy. <strong>The</strong>o ý Gregor thì hơp lý hơn cả là cứ để hắn yên ổn<br />
thay vì quấy rầy hỏi han hắn và than khóc. Nhưng nhóm người bên ngoài đâu biết việc gì đã xãy ra, họ<br />
lo lắng, và điều đó biện minh cho hành động và thái độ của họ.<br />
Ông tổng thư ký bây giờ lên giọng, “Ông Samsa ơi,” ông ta gọi, “việc gì lộn xộn thế?” Anh tấn<br />
chặt cửa phòng, chỉ trả lời có và không, anh đã gây ra một sự lo lắng vô ích cho bố mẹ anh – nhân tiện<br />
tôi cũng nhắc anh – rằng anh đã sơ xuất trong trách vụ thương mại của mình một cách chưa từng xảy<br />
ra. Tôi nói đây là thay mặt cho bố mẹ anh và chủ nhân anh, và thực sự đòi hỏi một sự cắc nghĩa rõ rệt<br />
và tức khắc. Tôi rất ngạc nhiên, hết sức ngạc nhiên. Tôi tưởng đã biết anh là một người khoan thai và<br />
điềm đạm, và bây giờ anh bỗng nhiên để lộ trần những nhược điểm cá nhân ra. Sáng nay, ông chủ có ý<br />
kiến anh không đến sở có thể vì lý do , thực vậy – là chương mục mới giao phó cho anh – nhưng tôi<br />
hầu như hứa danh dự với ông ta là lý do đó sai lầm. Nhưng bây giờ tôi đã thấy sự ngoan cố của anh tôi<br />
không còn ý muốn gì để can thiệp hộ anh. Và chức vụ của anh cũng không vững đâu. Tôi đã có ý định<br />
nói chuyện nầy riêng với anh, nhưng tại vì anh đã làm mất thì giờ vô ích nên tôi nhận thấy bố mẹ anh<br />
cũng cần nên biết. Phần dịch vụ thương mại do anh phụ trách lại hểt sức chậm trễ; dù rằng thời điểm<br />
trong năm bất lợi cho sự buôn bán phồn thịnh, chúng tôi công nhận, tuy nhiên, không có thời điểm nào<br />
trong năm để ngưng buôn bán làm ăn, ông Samsa ạ, chúng ta không thể nào chấp nhận chuyện đó.”<br />
“Nhưng thưa Ông”, Gregor lên tiếng, quên hẵn mình đang bối rối vì câu chuyện, “Tôi sẽ mở<br />
cửa ngay lập tức, một khắc thôi. Tôi chỉ khó chịu trong nguời một tí, bị một cơn chóng mặt, nên không<br />
ngồi dậy được. Tôi vẫn còn nằm trên giường. Tôi đã khỏe trở lại rồi. Tôi đang ra khỏi giường đây. Chỉ<br />
một khắc thôi. Xin kiên nhẫn! Thật ra không phải dễ như tôi tưởng. Nhưng tôi đã bình thường rồi. Thật<br />
hú vía, chuyện gì bất thần cũng có thể xãy ra cho một cá nhân! Đêm qua tôi rất bình thường, bố mẹ tôi<br />
đều biết đấy, có lẽ còn rõ ràng hơn tôi nữa. Tôi đã cảm nhận một triệu chứng nhỏ rồi. Bố mẹ tôi hẳn đã<br />
thấy điều đó. Tôi không rõ vì sao tôi không cho ông biết tại sở làm! Nhưng chúng ta luôn luôn nghĩ<br />
rằng mình có thể lướt qua một cơn bệnh mà khỏi cần nghỉ ở nhà. Xin ông vui lòng đừng làm cho bố mẹ<br />
tôi đau khổ! Những lời ông buộc tội đều vô căn cứ ; không một ai nói một lời nào cả với tôi về những<br />
điều ấy. Có thể ông chưa đọc những khế ước mới nhất mà tôi đã đệ trình. Rồi tôi sẽ đáp chuyến xe lửa<br />
tám giờ, những giờ nghỉ ngơi đã làm tôi khỏe lại rồi. Ông không cần chờ, thưa ông; tôi sẽ đến văn<br />
phòng ngay sau khi ông đến, và xin ông vui lòng thưa lại với ông chủ và gửi gấm tôi với ông ấy!”<br />
Trong lúc Gregor nói như nuớc tuôn xối xả, không biết rõ mình muốn nói gì thì anh ta đã tiến<br />
đến gần tủ quần áo – một cách dễ dàng, có lẽ nhờ anh đã thực tập trên giường – anh thữ đứng thẳng
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 90<br />
người dậy. Anh thực sự muốn mở cửa ra, thực sự muốn họ nhìn thấy anh và nói chuyện với ông tổng<br />
thư ký; những người đó đã tỏ ra cứng rắn, và anh tò mò muốn biết họ sẽ phản ứng ra sao nếu thấy anh.<br />
Nếu họ bị sững sốt thì sẽ không còn là trách nhiệm của anh nữa và anh có thể yên ổn. Còn nếu như họ<br />
giữ một thái độ an nhiên bình thãn thì anh không còn lý do gì để tức bực, và nếu anh gấp rút lên anh có<br />
thể đến nhà ga kịp chuyến xe lửa tám giờ. Những lần đầu tiên anh trèo lên tủ quần áo trơn láng thì bị tụt<br />
xuống, nhưng lần cuối cùng anh tung người đứng thẳng ; bán thân phía dưới đau đớn nhưng anh không<br />
thèm chú ý. Bây giờ anh ngả mình tựa vào lưng một chiếc ghế gần đó, ôm chặt lấy cạnh ghế bằng bộ<br />
chân bé nhỏ của mình. Lúc nầy thì anh đã bình tỉnh lại và vẫn giữ yên lặng để nghe ông tổng thư ký<br />
nói.<br />
“Các người có hiểu nổi một chữ nào hắn nói không?” ông tổng thư ký hỏi bố mẹ anh, “chắc<br />
chắn anh ấy không dối gạt gì chúng ta chứ”. “Thượng Đế ơi!” Mẹ hắn kêu lên, nước mắt ràn rụa, “nó<br />
có thể bị ốm nặng và chúng ta chỉ làm cho hắn đau đớn thêm. Grete! Grete! Bà òa lên khóc. “Mẹ ơi?”<br />
em gái hắn gọi từ phòng bên cạnh. Họ nói chuyện xuyên qua phòng Gregor. “Con phải gọi Bác sĩ đến<br />
ngay. Gregor bị ốm nặng Gấp lên, gọi Bác sĩ đến ngay. Con có nghe giọng nói Gregor không?” “Đó là<br />
giọng của một con thú”, ông tổng thư ký nói một cách bình tỉnh trái ngược hẵn với tiếng gào thét của<br />
bà mẹ. “ Anna! Anna!” ngưòi cha gọi hướng về hành lang bếp, vừa vỗ tay, hãy gọi anh thợ sửa ổ khóa<br />
đến ngay đây!” Và hai người con gái tức khắc chạy qua khỏi hành lang, tiếng váy của họ nghe xào xạc<br />
và ta nghe tiếng cửa chính kêu lớn khi họ thoát ra cửa. Làm thế nào mà cô em gái của hắn thay quần áo<br />
quá nhanh như thế? Không ai nghe tiếng cửa đóng sầm lại; chắc họ đã để cửa mở; người ta thường để<br />
cửa mở trong những căn nhà mà có chuyện bất thường xãy ra.<br />
Gregor trái lại đã bình tỉnh hơn. Thế là họ không còn hiểu tiếng nói của anh nữa mặc dù tiếng<br />
nói đó rõ ràng với anh, rõ ràng hơn trước – có lẽ tai anh đã quen với âm thanh đó . Tuy vậy, họ đã cảm<br />
thấy có một điều gì bất ổn trong anh và họ sẳn sàng muốn giúp anh. Phãn ứng đầu tiên trong trường<br />
hợp nầy đã đem lại sự tự tín và khôn ngoan làm cho anh cảm thấy dễ chịu hơn. Anh thấy mình được thu<br />
hút ngược lại với đám quần chúng, và từ ông Bác sĩ tới anh sửa khóa, anh ta chờ đợi nhiều thành quả<br />
tốt đẹp lạ thường – tuy anh chẳng biết ai sẽ mang tới. Bất cứ điều gì anh nói ra tiếp đó sẽ tối quan trọng<br />
cho nên giọng nói anh cần rõ ràng càng tốt, anh cất tiếng ho khúc khắc một chút, cẩn thận không làm to<br />
quá e rằng tiếng ho ấy nghe khác hẵn tiếng người, vì anh không còn chắc mình biết mình rõ rệt nữa.<br />
Trong lúc đó, phòng bên cạnh trở thành rất yên lặng Có lẽ bố mẹ anh đang ngồi cùng bàn với ông tổng<br />
thư ký thì thầm với nhau, hay tất cả đều dán tai vào cửa nghe ngóng.<br />
Gregor chầm chậm đẩy mình theo chiếc ghế trên sàn nhà lần tới phía cửa. Khi tới đó anh bỏ tay<br />
ra và phóng mình lên cánh cửa, đứng thẳng người vịn vào cửa nhờ chất nhựa tiết ra từ đầu các chân.<br />
Anh dừng lại đó nghỉ mệt một chốc, dưỡng sức để thi hành công tác xoay mở chìa khóa bằng mồm.<br />
Thảm thay bộ răng của anh không thích hợp tí nào – làm thế nào anh cắn lấy chìa khóa được? – tuy<br />
nhiên thay thế cho bộ răng anh lại có bộ quai hàm mạnh mẽ; sử dụng quai hàm, anh có thể xoay được<br />
chìa khóa, anh quên đi hiện trạng anh bị thương tích vì từ mồm anh chảy ra một chất nhờn màu nâu<br />
tràn qua chìa khóa và nhỏ giọt xuống sàn nhà. “Nghe đây,” ông tổng thư ký nói trong phòng kế cận,<br />
“anh ấy đang xoay chìa khóa.” Gregor rất phấn khởi; tất cả đáng lẽ phải hoan hô anh, kể cả bố mẹ anh:<br />
Giỏi quá, Gregor, đáng lẽ họ phải la lên. “Giữ chặt nó, kềm lấy chìa khóa!”. Và với ý nghĩ rằng họ đang<br />
say mê theo dõi sự cố gắng cũa anh, anh dùng hết sức mình cắn chiếc chìa khóa, không chú tâm đến sự<br />
đau đớn anh tự gây ra. Trong khi chìa khóa xoay tròn anh cũng xoay tròn ổ khóa, đứng thẳng người<br />
nhờ tựa vào mồm hoặc dùng toàn thể sức nặng thân mình khi cần để xoay chìa khóa. Tiếng kêu rõ rệt<br />
của ổ khóa khi bật mở là dấu hiệu cho Gregor biết anh có thề ngưng sự tập trung, tiếp tục thở lại và tự<br />
bảo mình: “Như vậy, mình cũng chả cần anh thợ sửa ổ khóa.” Rồi anh đặt đầu mình lên tay nắm để<br />
hoàn toàn mở cửa ra.<br />
Vì phải mở cách đó nên cửa đã mở toang mà không ai thấy hắn. Anh ta chầm chậm xoay mình<br />
theo một cánh cửa đôi cẩn thận để khỏi ngả ngữa khi trở vô phòng. Anh vẫn lay hoay với động tác khó
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 91<br />
khăn nầy, không để ý đến điều gì khác, đến khi anh nghe tiếng thốt lớn “Ối!” của ông tổng thư ký phát<br />
ra như một tiếng gió hú. Bây giờ thì anh thấy ông – ông ta đứng gần cửa nhất – bàn tay bịt miệng há<br />
hốc và từ từ thối lui như bị một sức mạnh vô hình lôi cuốn. Bà mẹ của Gregor đầu tóc vẫn còn rối mặc<br />
dù sự hiện diện của ông tổng thư ký thì sững nhìn bố anh. Đọan bà buông khoanh tay, bước tới hai<br />
bước về phía Gregor và sụng mình xuống sàn trong chiếc váy xòe tròn của bà và chiếc đầu của bà thụt<br />
vào trong ngực bà. Bố anh trông có vẻ tức tối, tay nắm lại như muốn đấm Gregor ngược về phòng.<br />
Nhưng rồi ông ta bối rối nhìn quanh phòng khách , lấy tay che mặt và khóc nức nở, lồng ngực to rung<br />
chuyển.<br />
Gregor không trở vô phòng, nhưng tựa mình vào phía trong của cánh cửa bên kia vẫn còn khóa.<br />
Như thế, chỉ có nữa người anh được để lộ ra với chiếc đầu quan sát đám người bên ngoài. Trong lúc ấy<br />
ngày đã sáng tỏ; một phần vô tận của tòa nhà màu xám đen bên kia đường – một bệnh viện – được lộ ra<br />
với những cửa sổ nghiêm trang trổ thẳng hàng trên mặt tiền kiến trúc; mưa vẫn rơi, hạt mưa to đập vào<br />
nền đất từng hạt một. Đồ ăn sáng vẫn thừa mứa trên bàn; vì theo bố Gregor, điểm tâm là bửa ăn quan<br />
trọng nhất trong ngày và ông kéo dài nhiều giờ, vừa ăn vừa đọc một số báo khác nhau. Đối diện, trên<br />
tường có treo một bức hình Gregor hồi còn là Trung Úy Lục Quân , tay cầm kiếm, nụ cười bất cần đời<br />
trên mặt, một thái độ làm người ta kính trọng bộ quân phục và tư cách. Cửa chính vô tòa nhà và cửa vô<br />
hành lang đều mở, ông ta nhìn thấy bực thềm và nơi cầu thang bắt đầu xa xa phía dưới.<br />
“Nào, bây giờ” Gregor nói, biết rằng chỉ còn mình hắn là giữ đuợc bình tỉnh, Tôi thay đồ ngay,<br />
gói các hàng mẫu và khời hành. Xin quí vị vui lòng cho tôi đi nhé? Ông thấy không” hắn nói với ông<br />
tổng thư ký, “tôi đâu có ngoan cố; tôi thích trách vụ của tôi; nghề buôn bán dạo như tôi rất là khó nhọc,<br />
nhưng không di chuyển luôn thì không mưu sinh đuợc. Thế thì ông đi đâu bây giờ, đến văn phòng<br />
chăng? Phải rồi, Ông sẽ báo cáo chính xác mọi sự chứ? Ai cũng có thể bị tạm thời đau yếu không làm<br />
việc được, nhưng đó cũng là lúc cần nên nhớ những thành quả đạt được trong quá khứ và cân nhắc sau<br />
nầy khi khó khăn trở ngại đã vượt qua, đương sự chắc chắn còn tập trung nổ lực và hăng hái làm việc<br />
hơn nữa. Ông đã biết rõ tôi còn món nợ lớn với ông chủ cũng như phải lo lắng bão trợ cho bố mẹ và em<br />
gái tôi, tôi tuy nằm trong thế kẹt nhưng tôi cũng sẽ thoát ra được. Xin ông vui lòng đừng làm khó khăn<br />
thêm, và đứng về phe chống đối tôi ở văn phòng. Tôi biết không ai ưa những người buôn dạo. Họ<br />
tưởng chúng tôi làm lương cao lắm và rất nhàn nhả. Đó là một sự kỳ thị; nhưng họ cũng không nghĩ ra<br />
được lý do nào để cãi thiện. Nhưng ông, thưa ông, ông có một nhãn quan rộng rãi hơn những người<br />
trong bộ tham mưu, thật ra tôi có thể nói một cách tự tín rằng nó còn khả quan hơn của ông chủ nữa kia<br />
–thật là dễ dàng cho một thương gia như ông ta để nhầm lẫn về nhân viên của mình và phê phán họ quá<br />
gắt gao. Và ông cũng biết rõ những người lái buôn như chúng tôi đều làm việc xa văn phòng cả năm,<br />
cho nên dễ thành nạn nhân dèm siểm và may rủi, cũng như những sự than phiền vô căn cứ, và hầu như<br />
vô phương chống đở đối với những trường hợp mà có khi mình còn không được biết nữa cơ, hoặc giã<br />
khi mình trở về nhà sau một chuyến hành trình mỏi mệt, để cảm thấy hậu quả tai hại của những gì đã<br />
xảy ra mà mình không hề biết nguyên do. Xin ông hãy vui lòng đừng đi vội, ít nữa nói cho tôi biết<br />
rằng ông công nhận tôi đã nói đúng một phần nào.”<br />
Nhưng ông tỗng thư ký đã quay mình ngay khi Gregor bắt đầu nói, và bĩu môi, mắt nhìn sững,<br />
vai rung rung ông bỏ đi. Ông không hề dừng lại giây nào trong lúc Gregor nói, nhưng tiếp tục di<br />
chuyển về phía cửa mắt vẫn nhìn hắn. Ông di chuyển từ từ như có một luật huyền bí nào cấm cản rời<br />
căn phòng. Chỉ khi ông ta đến hành lang thì ông mới làm một cữ động đột ngột, đưa chân ra khỏi<br />
phòng khách và vọt mình ra trước trong một cơn kinh hãi. Trong hành lang, ông rướn cánh tay phải về<br />
phía cầu thang xem như ngoài đó có một sức mạnh siêu nhiên đang chờ đợi cứu vớt ông.<br />
Gregor hiểu rằng không còn nghi ngờ gì nữa mà để cho ông tổng thư ký ra đi trong trạng thái<br />
nầy thì chức vụ của anh tại nhiệm sở sẽ ở trong tình trạng nguy hiểm vô cùng. Đó là điều mà bố mẹ hắn<br />
không biết rõ; qua nhiều năm, họ đã tự thuyết phục rằng chức vụ của Gregor sẽ bảo toàn ấm no suốt<br />
đời hắn, hơn thế nữa, họ đã có quá nhiều nổi lo lắng trong hiện tại nên quên mất ý nghĩ về tương lai.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 92<br />
Gregor trái lại suy nghĩ về tương lai. Ông Tổng thư ký phải đựợc kềm giữ lại, vỗ về an định, thuyết<br />
phục và tranh thủ ; tương lai của Gregor và gia đình anh tùy thuộc vào đó! Phải chi em gái hắn có mặt<br />
tại đây! Cô ấy thật khôn ngoan; cô đã khóc trong lúc Gregor còn yên tỉnh nằm ngữa lưng. Và ông tổng<br />
thư ký là người ưa thích phụ nữ, chắc chắn cô ta sẽ thuyết phục ông; cô ta sẽ đóng cửa hành lang lại và<br />
thay đổi trạng thái kinh hoảng của ông bằng lời lẽ ôn tồn. Nhưng cô ta không có ở đây, Gregor phải tự<br />
làm công tác nầy. Và không suy nghĩ gì đến việc vấn đề anh không quen di chuyển theo lối mới , hay<br />
lối phát âm của anh nghe hiểu được – có thể không hiểu được – anh ta buông cánh cửa; thò người qua<br />
khung cửa; cố níu lấy ông tổng thư ký trên bực thềm, hai tay ông đang nắm chặt lang cang một cách<br />
tức cười. Nhưng Gregor ngả bổ nhào tới và thét lên một tiếng nhỏ trong lúc tìm một vật gì đê vịn anh ta<br />
lấy thăng bằng trên bộ chân nhỏ bé của anh. Bỗng nhiên, lần đâu tiên trong ngày anh cảm thấy thoải<br />
mái trong con người của anh ; bộ chân nhỏ xíu đứng vững chải trên mặt đất; anh ta thích thú nhận thấy<br />
bộ chân đó cữ động y như ý muốn của anh; chúng nó còn cố gắng hết sức khênh thân người anh tới chỗ<br />
anh muốn tới; và anh tin tưởng rằng những nỗi khổ đau của anh cũng sớm chấm dứt. Anh tự kềm hảm<br />
ý muốn di chuyển nên chỉ lắc mình qua lại trên sàn nhà. Mẹ anh đứng đó không cách xa trước mặt anh,<br />
thọat đầu lúng túng, bỗng nhiên nhảy dựng lên, hai tay giăng ra, ngón tay xòe, miệng thét lớn: “Cứu tôi<br />
với, làm phước cứu tôi với!” Lối nghiêng đầu của bà làm ta nghĩ rằng bà muốn thấy Gregor khả quan<br />
hơn nhưng hành đông một cách vô ý thức, bà lại bước thụt lùi, chứng tỏ bà không muốn; bà quên chiếc<br />
bàn sau lưng đầy đồ ăn sáng; khi bà đụng chiếc bàn bà vội vàng ngồi lên nó một cách lơ đểnh, không<br />
nhân thấy răng bình cà-phê bị nghiêng đổ, nước cà-phê chảy ra lênh láng trên mặt thảm.<br />
“Mẹ ơi, mẹ ơi”,Gregor nhẹ nhàng nói và ngước mắt nhìn bà. Anh ta đã hoàn toàn quên ông tổng<br />
thư ký trong khoảnh khắc, nhưng không thể không búng quai hàm mình trong không khí khi nhìn thấy<br />
cà-phê chảy ra. Điều nầy làm cho mẹ Gregor thét lên lần nữa, bà chạy trốn vào vòng tay của bố Gregor<br />
khi ông chạy lại phía bà. Về phần Gregor anh không còn thì giờ nào cho bố mẹ mình; ông tổng thư ký<br />
đã vói được cầu thang; cầm ông gát lên lang cang, ông ngoáy nhìn lại lần chót. Gregor rượt theo ông;<br />
anh muốn bắt kịp ông; ông tổng thư ký nghi ngờ điều gì đó nên ông phóng nhanh xuống nhiều nấc<br />
thang một lượt và biến mất; tiếng hét của ông còn vang dội quanh cầu thang. Cuộc chạy trốn của ông<br />
tổng thư ký rủi thay làm cho bố Gregor kinh hoãng. Cho đến phút nầy ông ta hình như tương đối tự<br />
chủ, nhưng bây giờ thay vì rượt bắt ông tổng thư ký hay it nhất không ngăn trờ Gregor đuổi bắt, bố<br />
Gregor chộp lấy bằng tay mặt chiểc gậy (của ông tổng thư ký đã bỏ lại trên ghế với chiếc mũ và áo<br />
choàng), tay trái hốt lấy nột tờ báo to trên bàn và dùng chúng nó để xua đẩy Gregor ngược về phòng<br />
hắn vừa đi vừa dậm chân. Những lời năn nĩ khẫn cầu của Gregor đối với bố anh đều vô hiệu, lời khẫn<br />
cầu đó không đuợc hiểu, mặc cho anh tha thiết cúi đầu, bố anh vẫn cứ dậm chân mạnh hơn. Đối diện<br />
với căn phòng, mặc dù trời lạnh buốt bên ngoài, mẹ của Gregor đã kéo mở một cửa sổ, bà nghiêng<br />
mình ra ngoài hai tay bụm mặt. Một luồng gió mạnh từ ngoài đuờng thổi vào cầu thang, các bức màn<br />
bay lên, những tờ báo trên bàn rung lên phần phật và vài tờ bị thổi văng xuống sàn. Không có gì cản<br />
trở ông bố của Gregor xua đuổi hắn lui về phòng, mồm ông luôn huýt sáo như đối với một người man<br />
dã. Gregor chưa hề thực tập thụt lùi nên đi rất chậm. Nếu anh có cơ hội xoay vòng lại chắc anh đã đi<br />
thẳng vào phòng mình rồi, nhưng anh sợ rằng bỏ thì giờ làm như thể bố anh sẽ mất kiên nhẫn, và lúc<br />
nào hắn cũng e sợ một đòn gậy chí tử gây ra bởi cây gậy trong tay bố hắn giáng xuống lưng hoặc lên<br />
đầu hắn. Cuối cùng rồi Gregor nhận thấy một cách tức bực rằng anh không thể nào đi lui trên một lằn<br />
thẳng được; do đó anh khởi đầu gấp rút xoay mình lại, mắt thường xuyên ngó chừng bố hắn. Cử động<br />
nầy xảy ra chậm chạp, nhưng có thể bố anh đoán được ý đồ tốt đó nên không hành động gì để ngăn cản<br />
anh, thực ra, đôi khi ông còn dùng mủi chiếc gậy để chỉ hướng xoay cho anh. Phải chi ông ta ngừng<br />
tiếng huýt sáo rất khó chịu kia! Nó làm cho Gregor vô cùng bối rối. Khi anh xoay mình gần xong, tai<br />
vẫn còn nghe tiếng húyt sáo, anh đã xoay nhầm ngươc lại. Anh vui sướng khi thấy đầu mình ngay hàng<br />
với mặt cửa, nhưng cũng nhận thấy lổ cửa quá hẹp cho thân mình to lớn của anh chui lọt qua mà không<br />
găp khó khăn. Trong trạng thái tinh thần hiện tại bố anh Gregor không nghĩ tới việc mở cánh cửa đôi ra
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 93<br />
cho Gregor có đủ chỗ chui mình qua. Ông chỉ có trong đầu ý tưởng là đẩy Gregor trở về phòng càng<br />
sớm càng tốt. Ông cũng không cho Gregor có thì giờ đứng thẳng người dậy để lách mình qua cửa. Gây<br />
thêm tiếng động to hơn bao giờ hết, ông cố sức xua Gregor về trước xem như trước mặt hắn không có<br />
trở ngại nào cả; Gregor nghe tưởng chừng như có nhiều ông bố sau lưng hắn một lúc; một kinh nghiệm<br />
không tốt đẹp gì, và anh cố rưởn mình qua lổ hổng không cần biết hậu quả sẽ ra sao. Hắn dở hổng một<br />
phía hông người hắn, dựa sát vào lồ hổng cửa với một góc độ nghiêng, một bên sườn bị cào bởi khung<br />
cửa sổ sơn trắng đau đớn lắm và để lại dấu trầy xướt màu nâu, để rồi cả thân mình hắn bị kẹt cứng<br />
không cựa quậy được, bộ chân một bên thì lẩy bẩy run trong không khí, trong lúc bộ chân bên kia bị<br />
đè bẹp xuống sàn đau điếng. Bấy giờ bố của hắn đẩy mạnh phía sau mình hắn trượt qua chỗ kẹt một<br />
cách trơn tru, văng sâu trong phòng, mình mẩy máu me đầm đìa. Cửa phòng đóng sầm lại, then gài<br />
chặt, rồi tất cả đều yên lặng. ■<br />
(còn tiếp)
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 94<br />
Du ThuyŠn Oasis of the Seas<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
Du thuyền Oasis of the Seas được quảng cáo là du thuyền lớn nhất trong kỹ nghệ du thuyền trên biển<br />
cả của đầu năm 2010. Bài viết này là một chút tìm hiểu về du thuyền qua kinh nghiệm của cá nhân<br />
người viết.<br />
(Ghi chú: đến cuối năm 2010 thì sẽ có thêm du thuyền Allure of the Seas đuợc coi như song sinh của<br />
du thuyền Oasis of the Seas).<br />
Departure Port : Port Everglades, Ft. Lauderdale, Florida<br />
Chiếc tầu du lịch lớn nhất thế giới của năm 2010 (Oasis of the Seas) cần một trạm cuối (terminal) của<br />
một hải cảng lớn để làm thủ tục đón du khách. Hải cảng mới tu bổ tốn cỡ 75 triệu dollars Port<br />
Everglades ở Fort Lauderdale, Florida đã được mở rộng gấp 3 lần kích thước cũ để thủ tục nhập du<br />
thuyền trở nên mau chóng chỉ trong vòng 15 phút.<br />
Du thuyền “Oasis of the Seas” của hãng Royal Caribbean - dài khoảng 360m và bề rộng<br />
khoảng 47m, trị giá khoảng 1,4 tỷ USD.<br />
Du thuyền “Oasis of the Seas” nặng 225,282 tấn, chở được hơn 2.000 thuyền viên cùng hơn<br />
5,400 du khách, trải rộng 16 decks, 2,700 phòng ngủ gồm 27 duplex theo kiểu New-York loft, phòng<br />
ngủ có balcony nhìn ra boardwalk hay công viên Central , có balcony nhìn ra biển, và chia làm 7 khu<br />
vực riêng rẽ.<br />
Du thuyền này có bốn hồ bơi, hai bức tường đá trèo, một sàn trượt tuyết, hai sân lướt ván nhân<br />
tạo, một zip line lơ lửng 9 decks, một sân khấu nước để trình diễn, một sân khấu chính thiết kế để trình<br />
diễn những show tầm vóc Broadway. Bẩy khu riêng rẽ gồm có một công viên mang tên Central Park,<br />
một Boardwalk loại Coney-Island, một đường đi bộ Royal Promenade, bốn hồ bơi và vùng thể thao,<br />
Spa và trung tâm thể thao, khu giải trí, và khu dành cho giới trẻ (Central Park, Boardwalk, Royal<br />
Promenade, Pool and Sports Zone, Vitality at Sea Spa và Fitness Center, Entertainment Place, và the<br />
Youth Zone.<br />
Tầu tuy rất lớn nhưng lối phân chia của tầu làm du khách không cảm thấy xa cách. Lầu 5 hay
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 95<br />
boong 5 là Promenade, deck 6 là Boardwalk, deck 8 là Central park. Promenade và Central nằm giữa<br />
tầu và Boardwalk nằm cuối đuôi tàu (Aft) dẫn đến Aqua <strong>The</strong>ater. Có rất nhiều cửa tiệm ở ba deck này.<br />
Boardwalk có candy shop, donut shop, seafood shop v.v…, Central park có Park Café, Giovanni, và có<br />
quán rượu nổi Rising Tide Bar.<br />
Rising Tide Bar Vòi phun nước từ sàn Rising Tide Bar<br />
Muốn nhìn Rising Tide Bar nổi lên ra sao thì phải đứng ở deck 5 Promenade, cảnh thật diễm lệ<br />
khi cái bar từ từ rời deck 5 Promenade để lên deck 8 Central Park , thì trên sàn của cái bar có những vòi<br />
phun nước màu tím, màu đỏ, màu cam v.v...phun lên. Tối đến nhìn đẹp gấp bội hơn ban ngày.<br />
Giải Trí<br />
Opal <strong>The</strong>ater<br />
Central Park Come Fly with Me<br />
Opal <strong>The</strong>ater là một nhà hát lớn với dàn dựng tối tân và vĩ đại với những shows biểu diễn cực kỳ linh<br />
động với diễn viên xuất hiện từ trên sân khấu có thể theo dây kéo tới balcony khác giả đang ngồi xem,<br />
hay từ trên cao hạ xuống rất bắt mắt.<br />
Opal <strong>The</strong>ater chứa được cỡ 1,350 khách. Trong mỗi chuyến du lịch (1 tuần) thường có 3 shows
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 96<br />
khác nhau trình diễn.<br />
Chuyến du lịch đầu tháng năm (May 01, 2010) gồm:<br />
Come Fly With Me: đây là một show rất công phu với những màn biểu diễn rất tuyệt vời của một<br />
nhóm ca múa hát đi trên tường, một nhóm nhào lộn bằng giây và giải lụa, màn múa hát dưới mưa,<br />
v.v…<br />
Show trình diễn 6 lần trong ngày 2, ngày 3 và ngày 4.<br />
Headliner Showtime: mỗi chuyến có thể có nghê sĩ khác nhau trình diễn, trong dịp này có Earl Turner<br />
trình diễn trong ngày 3 và ngày 4.<br />
Hairspray hay “<strong>The</strong> Corny Collins” show kể chuyện một cô gái trẻ vóc dáng khá nặng nhưng có ước<br />
vọng rất mạnh đã thắng giải trong một chương trình TV nhảy múa địa phương, và nhanh chóng trở nên<br />
một cô gái diễn xuất tuyệt vời.<br />
Những nghệ sĩ trình diễn được tuyển chọn từ bốn tỉnh London, New York, Chicago và Los<br />
Angeles, diễn xuất với trang phục như nguyên gốc của kịch bản, kể cà dàn dựng sân khấu, ánh sáng và<br />
âm thanh.<br />
Show trình diễn ba lần trong hai ngày chót, ngày 5 và ngày 6.<br />
Trong ngày đầu tiên vào buổi tối có một buổi trình diễn duy nhất của Paul Boland, Paul Boland hát giả<br />
giọng một số nam ca sĩ có tên tuổi rất hay và sống động.<br />
Hairspray Hairspray<br />
<strong>The</strong> Aqua<strong>The</strong>ater<br />
Aqua <strong>The</strong>ater có một pool có hình bán nguyệt ở giữa, hai bên là hai màn ảnh lớn. Aqua <strong>The</strong>ater trang bị<br />
một hệ thống máy móc cực kỳ tối tân có thể đóng lại để trở thành một sàn biểu diễn, và có thể mở ra<br />
ngay tức khắc để biến thành một hồ bơi sâu nhất của tất cả các du thuyền để trình diễn những màn nhào<br />
lộn, và ngụp lặn như biểu diễn trong thế vận hội Olympic. Ban ngày có nhiều shows music (fountain<br />
shows) với vòi nước tắt mở lên xuống tùy theo điệu nhạc (như ở Hotel Bellagio, Las Vegas), có chiếu<br />
movie mà mặc dù trời nắng chói chang, hình xem vẫn rõ.<br />
Hai bức tường đá leo trèo cũng nằm ở hai bên vách đối diện hồ bơi bán nguyệt này. Một zip line<br />
chạy ròng rọc cao có thể nhìn thấy đi ngang qua Boarwalk.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 97<br />
Day Show Aqua <strong>The</strong>ater<br />
Rock Climbing Wall Oasis of Dreams<br />
Show chính của Aqua <strong>The</strong>ater là Oasis of Dreams. Sân khấu này nằm ở đuôi tầu với sân khấu và hầu<br />
hết ghế ngồi lộ thiên. Ngồi xem những màn nghệ sĩ nhào lộn trong không khí, phóng mình xuống nước<br />
trong ánh đèn đêm màu sắc thay đổi thường xuyên, vòi nước phun lên xuống, làm khán giả phải xuýt<br />
xoa vỗ tay khen ngợi liên hồi. Những người trình diễn đều là những tay nhào lộn và ngụp lặn chuyên<br />
nghiệp trên khắp thế giới đã từng tham dự tranh giải Olympic và NCAA. Họ cũng biểu diễn những màn<br />
nhào lộn, bơi hoà hợp rất nguy hiểm làm khán giả hồi hộp vô cùng.<br />
Show Oasis of Dreams được trình diễn rất nhiều lần trong một tuần, ai ai cũng có thể đi xem khi<br />
thuận tiện.<br />
Studio B<br />
Studio B là một sàn trượt tuyết dàng cho show và cũng có thì giờ dành cho ai muốn đi trượt tuyết.<br />
Show chính là Frozen in Time<br />
Frozen in Time là show trình diễn trên ice những chuyện của Hans Christian Andersen, tác giả<br />
của những chuyện nổi tiếng cho trẻ em như “<strong>The</strong> Snow Queen,” “<strong>The</strong> Red Shoes,” “<strong>The</strong> Ugly<br />
Duckling,” “<strong>The</strong> Little Mermaid” và “<strong>The</strong> Emperor’s New Clothes” Show được trình diễn rất ngoạn<br />
mục bởi nhóm biểu diễn quốc tế <strong>The</strong> Oasis of the Seas International Ice Cast. Cũng như những show<br />
chính khác, show Frozen in Time đuợc trình diễn rất nhiều lần trong một tuần.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 98<br />
Frozen in Time<br />
Và sau cùng phải kể đến Comedy Live show, đây là một club với những chuyện kể dí dỏm, khôi<br />
hài dành cho người lớn do hai ba comedians đảm trách. Comedy Live club trang trí rất đặc biệt theo lối<br />
New York ngay từ ngoài cửa đến cảnh trí bên trong phòng. Những mục trình diễn này đuợc khán giả<br />
hưởng ứng cười ngang ngửa.<br />
Ngoài những giải trí trên tầu Oasis of <strong>The</strong> Seas còn có những festival parades vào ban đêm trên deck<br />
Royal Promenade như Disco Inferno Street Party, Royal Promenade Parade, v.v…<br />
Lời bàn<br />
Lần đầu tiên du khách có thể dự tính coi những show nào và giờ giấc ra sao bằng cách giữ chỗ trước ở<br />
nhà trước khi đi du thuyền bằng cách vào trang nhà của Royal Caribbean tại<br />
www.royalcaribbean.com. Những thông báo này được posted cỡ hai, ba tháng trước cho mỗi chuyến<br />
du lịch cho những shows ở the Opal <strong>The</strong>ater, Studio B ice-skating rink, Comedy Live và Aqua<strong>The</strong>ater.<br />
Sau khi “vé” đã được giữ chỗ trong thẻ gọi là card Seapass thì mỗi du khách đều an tâm là<br />
mình sẽ có chỗ ngồi khi lên tầu và có mặt ít nhất là 15 phút truớc khi show mở màn.<br />
Nếu không giữ chỗ trước ở nhà thì khi đến nơi sắp hàng đễ giữ chỗ cũng không có trở ngại.<br />
Du khách không cần có “vé” coi show, mà chỉ cần hiện diện, để người soát chỗ dùng máy<br />
scanner cầm tay để scan card Seapass là được vào ngay. Những người không có vé vẫn có thể vào xem<br />
nhưng phải sắp hàng cho đến khi những người có vé vào hết và họ sẽ đuợc vào cỡ 10 phút trước khi<br />
show bắt đầu.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 99<br />
Card Seapass cho mỗi du khách là một card có kích thước như một thẻ bằng lái xe, trên đó có<br />
ghi tên, số cabin, số bàn ngồi ăn tối (dinner sớm hay muộn), có hàng chữ đề Folio #, và Photo gallery<br />
#. Những con số này tương ứng với folder của từng cabin trữ trong photo gallery. Mỗi lần thơ chụp<br />
hình chụp hình ai thì họ sẽ scan seapass của khách, và tất cả hình ảnh sẽ nằm trong đó vào 24 hr sau<br />
đó. Tất cả hình ảnh sẽ đuợc nằm trong folder riêng biệt đó, bất cứ lúc nào photo gallery mở cửa là<br />
khách có thể vào mở ra xem và chọn lựa mà mua hình.<br />
Tiệm ăn<br />
Có rất nhiều tiệm ăn và có rất nhiều lựa chọn để ăn uống.<br />
Café Promenade Boardwalk: Johnny Rockets<br />
Sau đây là danh sách nhà hàng trên tàu:<br />
<strong>The</strong> Boardwalk<br />
· Seafood Shack: tiệm ăn với đồ ăn biển với tráng miệng rất nhiều và có nhiều nước giải khát pha chế,<br />
thức ăn có thể ăn tại tiệm hay mang ra ngoài.<br />
· Boardwalk Bar: đây là bar chính của Boardwalk có trái cây, salads, và sandwiches.<br />
· Boardwalk Donut Shop: bán donut và thức ăn nhâm nhi<br />
· Ice Cream Parlor: bán đủ loại Ice cream có trang trí rất mỹ thuật.<br />
· Johnny Rockets: tiệm ăn trang trí kiểu thời 50’s với những người bồi bàn làm trò giải trí du khách.<br />
Central Park<br />
· 150 Central Park: Tiệm ăn khá sang trọng với thực đơn và thức uống chọn lọc<br />
· Giovanni's Table: Tiệm ăn với thức ăn Italy cổ truyền<br />
· Park Café: Thức ăn ngon nhiều loại khác nhau.<br />
· Vintages: Quầy bán rượu có rất nhiều loại rượu vang ngon và thức ăn nhâm nhi với rượu.<br />
· Chops Grille: Tiệm ăn với thịt bò thượng hạng đặc biệt (Royal Caribbean’s signature steakhouse)<br />
nhìn ra Central Park.<br />
Royal Promenade<br />
· Mondo Café: mở suốt ngày đêm có thức ăn Italy, Spain và Cuba, thức uống, café,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 100<br />
· Sorrento's Pizzeria: có pizza kiểu New York style pizza, có thể ăn tại chỗ hay mang đi ra ngoài.<br />
· Café Promenade: có café, nước trái cây nhiều loại, và sandwiches suốt ngày.<br />
· <strong>The</strong> Cupcake Cupboard: có cupcakes và nhiều thứ khác.<br />
Pool and Sports Zone<br />
· Solarium Bistro: ban ngày có thức ăn lành mạnh, ban đêm có nhạc để nhảy dưới bầu trời.<br />
· <strong>The</strong> Wipe Out Café: có thức ăn buffet đủ loại.<br />
· Izumi Asian Cuisine: bán thức ăn đặc biệt và sushi bar, và phải gọi trước giữ bàn.<br />
Vitality at Sea Spa and Fitness Center<br />
· <strong>The</strong> Vitality Café: nhà hàng này có thức ăn lành mạnh cho những người đến tập thể thao.<br />
<strong>The</strong> Classics, và lẽ dĩ nhiên trên tầu có những nhà hàng cổ điển như tất cả các tầu du lịch khác:<br />
· Opus Dining Room: Phòng ăn chính với 1920s Art Deco<br />
· Windjammer Marketplace: Tiệm ăn buffet mở cho ăn sáng , trưa, và chiều cho du khách muốn ăn mà<br />
không muốn ngồi ở phòng ăn Opus Dining.<br />
· In-Stateroom Service: và nếu có ngày lười biếng không muốn ra ngoài thì có room service.<br />
Royal Promenade
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 101<br />
Bài viết chỉ là một tóm lược những đề mục chính của du thuyền <strong>The</strong> Oasis of the Seas, ngoài ra còn rất<br />
nhiều những chi tiết khác đều có bình thường trên tất cả các du thuyền không được đề cập đến như<br />
sòng bạc, phòng hình ảnh, thư viện, v.v. ■<br />
11 May 2010<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
<br />
Une aventure parisienne<br />
Par Guy de Maupassant<br />
Est-il un sentiment plus aigu que la curiosité chez la femme? Oh! savoir, connaître, toucher ce<br />
qu'on a rêvé! Que ne ferait-elle pas pour cela? Une femme, quand sa curiosité impatiente est en éveil,<br />
commettra toutes les folies, toutes les imprudences, aura toutes les audaces, ne reculera devant rien. Je<br />
parle des femmes vraiment femmes, douées de cet esprit à triple fond qui semble, à la surface,<br />
raisonnable et froid, mais dont les trois compartiments secrets sont remplis: l'un d'inquiétude féminine<br />
toujours agitée; l'autre, de ruse colorée en bonne foi, de cette ruse de dévots, sophistique et redoutable;<br />
le dernier enfin, de canaillerie charmante, de tromperie exquise, de délicieuse perfidie, de toutes ces<br />
perverses qualités qui poussent au suicide les amants imbécilement crédules, mais ravissent les autres.<br />
Celle dont je veux dire l'aventure était une petite provinciale, platement honnête jusque-là. Sa<br />
vie, calme en apparence, s'écoulait dans son ménage, entre un mari très occupé et deux enfants, qu'elle<br />
élevait en femme irréprochable. Mais son coeur frémissait d'une curiosité inassouvie, d'une<br />
démangeaison d'inconnu. Elle songeait à Paris, sans cesse, et lisait avidement les journaux mondains.<br />
Le récit des fêtes, des toilettes, des joies, faisait bouillonner ses désirs; mais elle était surtout<br />
mystérieusement troublée par les échos pleins de sous-entendus, par les voiles à demi soulevés en des<br />
phrases habiles, et qui laissent entrevoir des horizons de jouissances coupables et ravageantes.<br />
De là-bas elle apercevait Paris dans une apothéose de luxe magnifique et corrompu.<br />
Et pendant les longues nuits de rêve, bercée par le ronflement régulier de son mari qui dormait à<br />
ses côtés sur le dos, avec un foulard autour du crâne, elle songeait à ces hommes connus dont les noms<br />
apparaissent à la première page des journaux comme de grandes étoiles dans un ciel sombre; et elle se<br />
figurait leur vie affolante, avec de continuelles débauches, des orgies antiques épouvantablement<br />
voluptueuses et des raffinements de sensualité si compliqués qu'elle ne pouvait même se les figurer.<br />
Les boulevards lui semblaient être une sorte de gouffre des passions humaines; et toutes leurs<br />
maisons recelaient assurément des mystères d'amour prodigieux.<br />
Elle se sentait vieillir cependant. Elle vieillissait sans avoir rien connu de la vie, sinon ces<br />
occupations régulières, odieusement monotones et banales qui constituent, dit-on, le bonheur du foyer.<br />
Elle était jolie encore, conservée dans cette existence tranquille comme un fruit d'hiver dans une<br />
armoire close; mais rongée, ravagée, bouleversée d'ardeurs secrètes. Elle se demandait si elle mourrait<br />
sans avoir connu toutes ces ivresses damnantes, sans s'être jetée une fois, une seule fois, tout entière,<br />
dans ce flot des voluptés parisiennes.<br />
Avec une longue persévérance, elle prépara un voyage à Paris, inventa un prétexte, se fit inviter
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 102<br />
par des parents, et, son mari ne pouvant l'accompagner, partit seule.<br />
Sitôt arrivée, elle sut imaginer des raisons qui lui permettraient au besoin de s'absenter deux<br />
jours ou plutôt deux nuits, s'il le fallait, ayant retrouvé, disait-elle, des amis qui demeuraient dans la<br />
campagne suburbaine.<br />
Et elle chercha. Elle parcourut les boulevards sans rien voir, sinon le vice errant et numéroté.<br />
Elle sonda de l'oeil les grands cafés, lut attentivement la petite correspondance du Figaro, qui lui<br />
apparaissait chaque matin comme un tocsin, un rappel de l'amour.<br />
Et jamais rien ne la mettait sur la trace de ces grandes orgies d'artistes et d'actrices; rien ne lui<br />
révélait les temples de ces débauches qu'elle imaginait fermés par un mot magique, comme la caverne<br />
des Mille et une Nuits et ces catacombes de Rome, où s'accomplissaient secrètement les mystères d'une<br />
religion persécutée. Ses parents, petits bourgeois, ne pouvaient lui faire connaître aucun de ces hommes<br />
en vue dont les noms bourdonnaient dans sa tête; et, désespérée, elle songeait à s'en retourner, quand le<br />
hasard vint à son aide.<br />
Un jour, comme elle descendait la rue de la Chaussée-d'Antin, elle s'arrêta à contempler un<br />
magasin rempli de ces bibelots japonais si colorés qu'ils donnent aux yeux une sorte de gaieté. Elle<br />
considérait les mignons ivoires bouffons, les grandes potiches aux émaux flambants, les bronzes<br />
bizarres, quand elle entendit, à l'intérieur de la boutique, le patron qui, avec force révérences, montrait à<br />
un gros petit homme chauve de crâne, et gris de menton, un énorme magot ventru, pièce unique, disaitil.<br />
Et à chaque phrase du marchand, le nom de l'amateur, un nom célèbre, sonnait comme un appel<br />
de clairon. Les autres clients, des jeunes femmes, des messieurs élégants, contemplaient, d'un coup<br />
d'oeil furtif et rapide, d'un coup d'oeil comme il faut et manifestement respectueux, l'écrivain renommé<br />
qui, lui, regardait passionnément le magot de porcelaine. Ils étaient aussi laids l'un que l'autre, laids<br />
comme deux frères sortis du même flanc.<br />
Le marchand disait: «Pour vous, monsieur Jean Varin, je le laisserai à mille francs; c'est juste ce<br />
qu'il me coûte. Pour tout le monde ce serait quinze cents francs; mais je tiens à ma clientèle d'artistes et<br />
je lui fais des prix spéciaux. Ils viennent tous chez moi, monsieur Jean Varin. Hier, M. Busnach<br />
m'achetait une grande coupe ancienne. J'ai vendu l'autre jour deux flambeaux comme ça (sont-ils<br />
beaux, dites?) à M. Alexandre Dumas. Tenez, cette pièce que vous tenez là, si M. Zola la voyait, elle<br />
serait vendue, monsieur Varin.»<br />
L'écrivain très perplexe hésitait, sollicité par l'objet, mais songeant à la somme; et il ne<br />
s'occupait pas plus des regards que s'il eût été seul dans un désert.<br />
Elle était entrée tremblante, l'oeil fixé effrontément sur lui, et elle ne se demandait même pas s'il<br />
était beau, élégant ou jeune. C'était Jean Varin lui-même, Jean Varin!<br />
Après un long combat, une douloureuse hésitation, il reposa la potiche sur une table. «Non, c'est<br />
trop cher,» dit-il.<br />
Le marchand redoublait d'éloquence. «Oh! monsieur Jean Varin, trop cher? cela vaut deux mille<br />
francs comme un sou.»<br />
L'homme de lettres répliqua tristement en regardant toujours le bonhomme aux yeux d'émail:<br />
«Je ne dis pas non; mais c'est trop cher pour moi. »<br />
Alors, elle, saisie d'une audace affolée, s'avança: «Pour moi, dit-elle, combien ce bonhomme?»<br />
Le marchand, surpris, répliqua:<br />
«Quinze cents francs, madame. »<br />
«Je le prends.»<br />
L'écrivain, qui jusque-là ne l'avait pas même aperçue, se retourna brusquement, et il la regarda<br />
des pieds à la tête en observateur, l'oeil un peu fermé; puis, en connaisseur, il la détailla.<br />
Elle était charmante, animée, éclairée soudain par cette flamme qui jusque-là dormait en elle. Et
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 103<br />
puis une femme qui achète un bibelot de quinze cents francs n'est pas la première venue.<br />
Elle eut alors un mouvement de ravissante délicatesse; et se tournant vers lui, la voix<br />
tremblante: «Pardon, monsieur, j'ai été sans doute un peu vive; vous n'aviez peut-être pas dit votre<br />
dernier mot.»<br />
Il s'inclina: «Je l'avais dit, madame.»<br />
Mais elle, tout émue: «Enfin, monsieur, aujourd'hui ou plus tard, s'il vous convient de changer<br />
d'avis, ce bibelot est à vous. Je ne l'ai acheté que parce qu'il vous avait plu.»<br />
Il sourit, visiblement flatté. «Comment donc me connaissiez-vous?» dit-il.<br />
Alors elle lui parla de son admiration, lui cita ses oeuvres, fut éloquente.<br />
Pour causer, il s'était accoudé à un meuble, et plongeant en elle ses yeux aigus, il cherchait à la<br />
deviner.<br />
Quelquefois, le marchand, heureux de posséder cette réclame vivante, de nouveaux clients étant<br />
entrés, criait à l'autre bout du magasin: «Tenez, regardez ça, monsieur Jean Varin, est-ce beau?» Alors<br />
toutes les têtes se levaient, et elle frissonnait de plaisir à être vue ainsi causant intimement avec un<br />
Illustre.<br />
Grisée enfin, elle eut une audace suprême, comme les généraux qui vont donner l'assaut:<br />
«Monsieur, dit-elle, faites-moi un grand, un très grand plaisir. Permettez-moi de vous offrir ce<br />
magot comme souvenir d'une femme qui vous admire passionnément et que vous aurez vue dix<br />
minutes.»<br />
Il refusa. Elle insistait. Il résista, très amusé, riant de grand coeur.<br />
Elle, obstinée, lui dit: «Eh bien! je vais le porter chez vous tout de suite; où demeurez-vous?»<br />
Il refusa de donner son adresse; mais elle, l'ayant demandée au marchand, la connut, et, son<br />
acquisition payée, elle se sauva vers un fiacre. L'écrivain courut pour la rattraper, ne voulant point<br />
s'exposer à recevoir ce cadeau, qu'il ne saurait à qui rapporter. Il la joignit quand elle sautait en voiture,<br />
et il s'élança, tomba presque sur elle, culbuté par le fiacre qui se mettait en route; puis il s'assit à son<br />
côté, fort ennuyé.<br />
Il eut beau prier, insister, elle se montra intraitable. Comme ils arrivaient devant la porte, elle<br />
posa ses conditions:<br />
«Je consentirai, dit-elle, à ne point vous laisser cela, si vous accomplissez aujourd'hui toutes<br />
mes volontés.»<br />
La chose lui parut si drôle qu'il accepta.<br />
Elle demanda: «Que faites-vous ordinairement à cette heure-ci?»<br />
Après un peu d'hésitation: «Je me promène,» dit-il.<br />
Alors, d'une voix résolue, elle ordonna: «Au Bois!»<br />
Ils partirent.<br />
Il fallut qu'il lui nommât toutes les femmes connues, surtout les impures, avec des détails<br />
intimes sur elles, leur vie, leurs habitudes, leur intérieur, leurs vices.<br />
Le soir tomba. «Que faites-vous tous les jours à cette heure?» dit-elle.<br />
Il répondit en riant: «Je prends l'absinthe.»<br />
Alors, gravement, elle ajouta: «Alors, monsieur, allons prendre l'absinthe.»<br />
Ils entrèrent dans un grand café du boulevard qu'il fréquentait, et où il rencontra des confrères.<br />
Il les lui présenta tous. Elle était folle de joie. Et ce mot sonnait sans répit dans sa tête: «Enfin, enfin!»<br />
Le temps passait, elle demanda: «Est-ce l'heure de votre dîner?»<br />
Il répondit: «Oui, madame.»<br />
«Alors, monsieur, allons dîner.»<br />
En sortant du café Bignon: «Le soir, que faites-vous?» dit-elle.<br />
Il la regarda fixement: «Cela dépend; quelquefois je vais au théâtre.»
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 104<br />
«Eh bien, monsieur, allons au théâtre.»<br />
Ils entrèrent au Vaudeville, par faveur, grâce à lui, et, gloire suprême, elle fut vue par toute la<br />
salle à son côté, assise aux fauteuils de balcon.<br />
La représentation finie, il lui baisa galamment la main: «Il me reste, madame, à vous remercier<br />
de la journée délicieuse...» Elle l'interrompit.—«A cette heure-ci, que faites-vous toutes les nuits?»<br />
«Mais...mais... je rentre chez moi.»<br />
Elle se mit à rire, d'un rire tremblant.<br />
«Eh bien, monsieur... allons chez vous.»<br />
Et ils ne parlèrent plus. Elle frissonnait par instants, toute secouée des pieds à la tête, ayant des<br />
envies de fuir et des envies de rester, avec, tout au fond du coeur, une bien ferme volonté d'aller<br />
jusqu'au bout.<br />
<strong>Dan</strong>s l'escalier, elle se cramponnait à la rampe, tant son émotion devenait vive; et il montait<br />
devant, essoufflé, une allumette-bougie à la main.<br />
Dès qu'elle fut dans la chambre, elle se déshabilla bien vite et se glissa dans le lit sans<br />
prononcer une parole; et elle attendit blottie contre le mur.<br />
Mais elle était simple comme peut l'être l'épouse légitime d'un notaire de province, et lui plus<br />
exigeant qu'un pacha à trois queues. Ils ne se comprirent pas, pas du tout.<br />
Alors il s'endormit La nuit s'écoula, troublée seulement par le tic-tac de la pendule; et elle,<br />
immobile, songeait aux nuits conjugales; et sous les rayons jaunes d'une lanterne chinoise elle<br />
regardait, navrée, à son côté, ce petit homme sur le dos, tout rond, dont le ventre en boule soulevait le<br />
drap comme un ballon gonflé de gaz. Il ronflait avec un bruit de tuyau d'orgue, des renâclements<br />
prolongés, des étranglements comiques. Ses vingt cheveux profitaient de son repos pour se rebrousser<br />
étrangement, fatigués de leur longue station fixe sur ce crâne nu dont ils devaient voiler les ravages. Et<br />
un filet de salive coulait d'un coin de sa bouche entr'ouverte.<br />
L'aurore enfin glissa un peu de jour entre les rideaux fermés. Elle se leva, s'habilla sans bruit, et,<br />
déjà elle avait ouvert à moitié la porte, quand elle fit grincer la serrure et il s'éveilla en se frottant les<br />
yeux.<br />
Il demeura quelques secondes avant de reprendre entièrement ses sens, puis, quand toute<br />
l'aventure lui fut revenue, il demanda: «Eh bien, vous partez?»<br />
Elle restait debout, confuse. Elle balbutia: «Mais oui, voici le matin.»<br />
Il se mit sur son séant: «Voyons, dit-il, à mon tour, j'ai quelque chose à vous demander.»<br />
Elle ne répondait pas, il reprit: «Vous m'avez bigrement étonné depuis hier. Soyez franche,<br />
avouez-moi pourquoi vous avez fait tout ça; car je n'y comprends rien.»<br />
Elle se rapprocha doucement, rougissante comme une vierge. «J'ai voulu connaître... le... le<br />
vice... eh bien... eh bien, ce n'est pas drôle.»<br />
Et elle se sauva, descendit l'escalier, se jeta dans la rue.<br />
L'armée des Balayeurs balayait. Ils balayaient les trottoirs, les pavés, poussant toutes les ordures<br />
au ruisseau. Du même mouvement régulier, d'un mouvement de faucheurs dans les prairies, ils<br />
repoussaient les boues en demi-cercle devant eux; et, de rue en rue, elle les retrouvait comme des<br />
pantins montés, marchant automatiquement avec un ressort pareil.<br />
Et il lui semblait qu'en elle aussi on venait de balayer quelque chose, de pousser au ruisseau, à<br />
l'égout, ses rêves surexcités.<br />
Elle rentra, essoufflée, glacée, gardant seulement dans sa tête la sensation de ce mouvement des<br />
balais nettoyant Paris au matin.<br />
Et, dès qu'elle fut dans sa chambre, elle sanglota. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 105<br />
<br />
Cuc Phiêu LÜu Ÿ Paris<br />
Tác giä: Guy de Maupassant<br />
Minh Thu chuy‹n ng»<br />
Đối với phụ nữ còn có ý nghĩ nào sắc bén hơn là sự tò mò không nhỉ? Ờ! Muốn biết, muốn sờ được cái<br />
mình mơ ước! Để được như thế không có gì người phụ nữ lại không dám làm chứ? Khi sự tò mò nôn<br />
nóng của mình bùng lên, người phụ nữ sẽ làm mọi điều rồ dại, mọi chuyện thiếu khôn ngoan, nàng sẽ<br />
cho thấy mọi táo bạo, và không lùi bước trước bất cứ điều gì. Đây là tôi nói về những phụ nữ thật sự là<br />
đàn bà, thiên bẩm với cái tinh thần ba mặt ấy mà có vẻ như ở ngoài mặt thì biết điều và lạnh lùng,<br />
nhưng ba mặt bí mật kia thì gồm có: một mặt là sự lo lắng thường xuyên bị khuấy động của nữ giới,<br />
mặt thứ hai là mưu chước được tô mầu với niềm tin tưởng hảo ý, và cái mưu chước của những thành<br />
tâm, ngụy tạo và khả nghi, và mặt sau cùng là cái duyên dáng ác độc, sự lừa dối tuyệt tác, những phản<br />
bội thú vị của tât cả những phẩm chất đồi bại này mà xua đẩy những tình nhân ngu dại, ngỡ ngàng đến<br />
chỗ tự sát, nhưng lại làm những người khác thú vị.<br />
Người phụ nữ, mà tôi muốn nói về sự phiêu lưu của nàng đây, là một phụ nữ tỉnh lẻ cho đến lúc<br />
này thì còn thực thà một cách tẻ nhạt. Cứ nhìn bề ngoài thì đời nàng bình lặng, trôi đi trong cuộc hôn<br />
nhân, giữa một người chồng bận rộn và hai đứa con được nàng dậy dỗ trong cung cách một người phụ<br />
nữ không có gì chê trách được. Nhưng con tim nàng thì xôn xao một sự tò mò không được thỏa mãn,<br />
một sự ngứa ngáy tìm biết cái không biết. Nàng không ngừng nghĩ đến Paris, và cứ đọc ngấu nghiến<br />
những tờ báo về những sinh hoạt trên thế giới. Các bài viết về những hội hè, thời trang, những cuộc vui<br />
làm sôi sục những ham muốn của nàng: nhưng trên hết thì nàng bị khuấy động kỳ lạ về những tiếng<br />
vọng đầy ẩn ý, qua những mảnh voan che mặt được nâng lên nửa vời với những lời nói khôn khéo như<br />
mở ra những chân trời hưởng thụ những tội lỗi và những phá phách.<br />
Từ tỉnh lẻ nàng nhận định Paris như một đỉnh cao của sự sa hoa tráng lệ lẫn sự sa đọa. Và trong<br />
những đêm dài xây mộng, được ru ngủ bởi tiếng ngáy đều đều của ông chồng nằm ngửa bên cạnh,<br />
quanh đầu choàng kín chiếc khăn nỉ, nàng nghĩ đến những người đàn ông nổi tiếng mà tên tuổi được<br />
báo chí đăng trên trang nhất như những ngôi sao vĩ đại trên bầu trời tăm tối; và nàng hình dung cuộc<br />
đời hỗn loạn của họ với những màn trụy lạc liên tục, những cuộc ăn chơi sa đọa xưa với những khoái<br />
lạc và những nghệ thuật nhục thể phức tạp đến nỗi nàng không thể nào ngay cả hình dung ra được.<br />
Với nàng những đại lộ có vẻ như một hình thức vực thẳm cho những đắm say của con người, và<br />
tất cả những ngôi nhà trên các đại lộ đó chắc chắn là sē tiết lộ những bí mật yêu đương phi thường.<br />
Tuy nhiên, nàng cảm thấy mình đang già. Nàng già đi mà không biết gì về cuộc đời, ngoại trừ<br />
những bận rộn đều đặn, buồn nản và tầm thường một cách đáng ghét của nàng, mà như người đời nói,<br />
thì những điều đó tạo dựng nên hạnh phúc gia đình. Nàng hãy còn đẹp, đóng hộp trong cuộc sống bình<br />
lặng này như một trái cây mùa đông trong chiếc tủ đóng kín, nhưng bị những ham muốn bí mật làm<br />
trăn trở, rũ mòn và lũng đoạn.<br />
Nàng tự hỏi liệu nàng sẽ có chết mà chưa nếm được cái nồng say đáng gớm đó, không được<br />
một lần, một lần thôi đắm mình trong sự truy hoan hoang loạn của Paris.<br />
Với sự kiên quyết từ lâu, nàng xếp đặt cho một chuyến đi Paris, tạo ra chuyện cha mẹ nàng mời<br />
nàng lên chơi và vì chồng nàng không thể cùng đi được, nàng bèn một mình lên đường.<br />
Ngay khi vừa đến nơi, và sau khi đã tìm được, như nàng nói, những người bạn sống ở vùng<br />
ngọai ô đồng quê, nàng đã biết tướng tượng ra những lý do để khi nào cần, nàng có thể vắng mặt hai
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 106<br />
ngày, hay đúng ra là hai đêm.<br />
Và rồi nàng tìm kiếm. Nàng tản bộ trên các đại lộ mà chẳng tìm thấy gì, ngoại trừ tật xấu lang<br />
thang tức là những cô gái điếm được đánh số. Nàng đưa mắt dõi nhìn vào các tiệm cà phê lớn, đọc kỹ<br />
càng mục thư tín liên lạc nhỏ của tờ Figaro mà mỗi sáng như còi báo thức và một mời gọi yêu đương.<br />
Và chẳng có gì đã hề dẫn nàng vào dấu vết của những cuộc ăn chơi trác táng lớn của các nam<br />
nghệ sĩ với các nữ minh tinh màn bạc; chẳng có gì giúp nàng phát giác ra những đền thờ của sự trụy lạc<br />
đuợc nàng mường tượng đóng kín bằng một lời ma thuật thần kỳ, tựa như hang động của Nghìn lẻ một<br />
đêm, và những hầm mộ của Roma, nơi đã bí mật diễn ra những kỳ bí của một tôn giáo bị truy diệt. Cha<br />
mẹ nàng thuộc thành phần tiểu tư sản, đã không thể giúp nàng biết được những đấng mày râu, mà tên<br />
tuổi thì thầm trong đầu óc nàng, và tuyệt vọng nàng đã nghĩ trở về nhà cho xong, thì sự tình cờ đã đến<br />
cứu nàng.<br />
Hôm đó, khi nàng đang đi suôi con đường Chaussée d’Antin, nàng dừng lại để ngắm một cửa<br />
hàng bầy những đồ trang trí nhỏ của Nhật đầy mầu sắc vui mắt. Nàng đang chiêm nguỡng những chú<br />
hề nhỏ bằng ngà, những đồ sứ lớn tráng men bóng loáng, những hình tuợng đồng kỳ quái, thì nàng<br />
nghe thấy, từ bên trong cửa tiệm, người chủ tiệm, với sự cung kính hết sức, đang đưa cho một người<br />
đàn ông vóc dáng thấp, béo tròn, đỉnh đầu hói, với râu cầm xám, một hình tượng người kỳ quái, bụng<br />
ỏng, một món hàng đặc biệt, theo lời ông ta.<br />
Và cứ mỗi câu ông chủ tiệm nói, thì tên của con người sành điệu kia, một cái tên nổi tíếng, lại<br />
đã vang lên như hồi kèn đi săn vậy. Những khách hàng khác, những phụ nữ trẻ tuổi, các ông lịch lãm<br />
lén nhìn nhanh, một cái nhìn lịch sự cho thấy lòng quý trọng, đều đã trông thấy nhà văn danh tiếng,<br />
người khi đó đang say mê ngắm hình tượng sứ tráng men. Cả hình tượng lẫn ông ta đều xấu xí, xấu như<br />
hai anh em cùng thoát thai từ bụng một bà mẹ vậy.<br />
Viên chủ tiệm nói: “Với ông, thưa ông Jean Varin, tôi xin để ông mua món này với giá vốn một<br />
ngàn quan. Đối với mọi người khác thì phải là một ngàn rưởi, nhưng tôi quý các khách hàng nghệ sĩ<br />
của tôi và tôi bán cho ông với giá đặc biệt. Giới nghệ sĩ đều đến tiệm tôi, thưa ông Jean Varin. Mới hôm<br />
qua đây, Ông Busnach đã mua của tôi một chiếc ly lớn cổ đại. Hôm trước, tôi đã bán hai cây chân nến<br />
như vầy (ông trông chúng đẹp không) cho ông Alexandre Dumas. Còn hình tượng ông đang cầm đây,<br />
nếu ông Zola thấy thì ông ta sẽ mua ngay đó, thưa ông Varin.”<br />
Rất bối rối, nhà văn do dự, bị hình tượng mời mọc, lôi cuốn, nhưng nghĩ đến số tiền; và ông ta<br />
không quan tâm đến những người đang theo dõi gì hơn là ông ta đang đứng ở nơi sa mạc vậy<br />
Nàng lẩy bẩy bước vào cửa tiệm, mắt táo bạo chăm chú nhìn nhà văn, và nàng chẳng cần cả đòi<br />
hỏi xem ông ta có bảnh bao, lịch sự và trẻ trung không nữa. Đây là chính Jean Varin. Jean Varin chứ<br />
bộ…<br />
Sau một hồi lâu cưỡng lại, một sự do dự đau đớn, ông đặt hình tượng lên bàn: “Không, đắt<br />
quá!” Ông nói.<br />
Chủ tiệm tăng thêm tài hùng biện: “Ồ, quá đắt ư, ông Jean Varin. Cái này đáng giá hai ngàn<br />
quan không kém một xu.”<br />
Nhà văn buồn rầu đáp, mắt không rời bức tượng có đôi mắt sứ: “Tôi không nói là không phải<br />
thế; nhưng quá đắt đối với tôi.”<br />
Thế là bị lôi cuốn bởi một sự táo bạo cuồng si, nàng bước tới rồi nói: “Với tôi thì ông đòi bao<br />
nhiêu cho món đồ này?”<br />
“Một ngàn rưởi quan, thưa bà.”<br />
“Tôi chịu mua đó.”<br />
Nhà văn, mà cho đến lúc đó đã không cả nhìn thấy nàng, quay phắt lại, và nhìn nàng từ đầu đến<br />
chân bằng con mắt hé mở của nhà quan sát; rồi với cung cách một con người từng trải, ông phân tích<br />
nàng.<br />
Trông nàng duyên dáng, sống động, đột nhiên ngời rạng vì sự say mê đó mà đã ngủ kỹ trong
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 107<br />
nàng cho đến nay. Vả lại một phụ nữ lại mua một vật trang trí đến một ngàn rưởi quan thì không phải là<br />
chuyện thường.<br />
Khi đó thì nàng tỏ một hành động tế nhị thật duyên dáng khi nàng quay qua nhìn văn sĩ và nói<br />
với giọng hơi run: “Xin lỗi ông, có lẽ tôi đã quá vội vã; hẳn là ông chưa trả giá cuối cùng của ông chứ<br />
ạ?”<br />
Ông nghiêng mình: “Thưa bà, tôi đã trả giá xong rồi.”<br />
Nhưng hết sức xúc động, nàng nói; “Nói cho cùng, thì thưa ông, hôm nay, hoặc là sau này, nếu<br />
ông thấy muốn đổi ý, thì vật trang trí nay sẽ là của ông. Tôi đã chỉ mua nó vì ông thích nó mà thôi.”<br />
Ông cười, rõ rang thú vị được nịnh hót: “Làm sao mà bà biết tôi”<br />
Thế là nàng cho ông hay về sự ngưỡng mộ của mình, đọc vanh vách những tác phẩm của ông,<br />
thật là hoạt bát.<br />
Để trò chuyện, ông đứng dựa người vào một chiếc tủ, và đôi mắt sắc bén của ông nhìn nhấn sâu<br />
để xét đoán con người nàng.<br />
Đôi khi người chủ tiệm, vui mừng vì gặp được cái cảnh quảng cáo trực tiếp này, nên khi thấy<br />
những khách hàng khác vào tiệm, ông ta nói to từ cuối phía kia của cửa tiệm: “Đây này, thưa ông Jean<br />
Varin, mời ông xem cái này, đẹp không ông?” Thế là mọi cái đầu đều ngẩng lên, và nàng hơi ớn lạnh<br />
phiền lòng bị thấy đang đứng nói chuyện thân mật như thế với một con người tên tuổi.<br />
Sau cùng, như say men, nàng làm một hành động táo bạo tột độ như các viên tướng sắp ra lệnh<br />
tấn công. Nàng nói: “Xin ông cho tôi một niềm vui lớn, thật lớn. Cho phép tôi được tặng ông vật trang<br />
trí này như kỷ vật của một phụ nữ mê muội ngưỡng mộ ông mà ông gặp trong mươi phút.”<br />
Ông từ khước. Nàng cố thuyết phục. Ông cưỡng lại, cảm thấy rất thích thú và ông cười vang.<br />
Nàng bướng bỉnh nói với ông: “Vậy thì tôi sẽ mang nó đến nhà ông ngay bây giờ đây. Thế ông ở đâu?”<br />
Ông không chịu cho nàng địa chỉ của mình, nhưng nàng đã có sau khi hỏi người chủ tiệm, và trả<br />
tiền cho món đồ xong, nàng chạy ra lên một xe ngựa. Nhà văn chạy đuổi theo nàng vì không muốn ở<br />
trong cảnh nhận món quà biếu mà không biết phải trả lại cho ai. Ông bắt kịp nàng khi nàng vừa nhẩy<br />
lên xe, và ông phóng người lên xuýt ngã lên nàng, người lộn nhào vì xe ngựa bắt đầu chạy, rồi rất phiền<br />
lòng ông ngồi xuống cạnh nàng.<br />
Dù ông van xin, nài nỉ thì nàng vẫn tỏ ra không chịu. Vì họ đã tới cửa, nên nàng đặt ra những<br />
điều kiện của mình.<br />
Nàng nói: “Tôi sẽ bằng lòng không để lại vật này cho ông, nếu hôm nay ông chịu chiều theo<br />
mọi ý muốn bất thường của tôi.”<br />
Ông thấy sự thể thật kỳ khôi và ông nhận lời.<br />
Nàng hỏi: “Thường khi vào giờ này ông làm gì?”<br />
Sau một thoáng lưỡng lự, ông nói: “Tôi tản bộ đi chơi.”<br />
Thế là với một giọng nói cương quyết, nàng hạ lệnh cho người xà ích: “Đến Bois de Boulogne.”<br />
Thế là họ lên đường.<br />
Ông đã phải nêu ra tên tất cả những phụ nữ tên tuổi, nhất là những người hư hỏng, với những<br />
chi tiết thân mật của họ, đời sống của họ, những thói quen của họ, đời sống riêng tư của họ, những tất<br />
xấu của họ.<br />
Chiều xuống. Nàng hỏi: “Hàng ngày vào giờ này ông lảm gì?”<br />
Ông vừa cười vừa trả lời: “Tôi uống rượu áp-xanh.”<br />
Thế là, trang trọng nàng nói: “Vây thì, thưa ông, chúng ta đi uống áp-xanh.”<br />
Họ vào một tiệm cà phê lớn ông thường lui tới trên đại lộ, nơi ông gặp các đồng nghiệp của ông. Ông<br />
giới thiệu nàng với tất cả mọi người. Nàng điên lên vì vui mừng. Và câu: “Chung cuộc. Chung cuộc”<br />
dội vang không ngừng trong đầu nàng.<br />
Thì giờ trôi qua, nàng hỏi: “Có phải đến giờ cơm chiều của ông rồi không?”<br />
Ông đáp: “Thưa bà, phải.”
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 108<br />
Nàng nói: “Vậy thì, thưa ông, chúng ta đi ăn cơm chiều.”<br />
Khi ra khỏi tiệm cà phê Bignon, nàng hỏi: “Thế ban tối ông làm gì?”<br />
Ông nhìn nàng chăm chú: “Cái đó còn tùy, đôi khi tôi đi xem kịch.”<br />
“Vậy thì, thưa ông, chúng ta đi xem kịch.”<br />
Họ đến Vaudeville, nhờ ân huệ từ nơi ông, và nàng thấy vẻ vang tột độ khi cả rạp hát nhìn thấy<br />
nàng ngồi ghế bành bên ông trên hàng bao lơn.<br />
Khi vãn hát, ông hôn tay nàng: “Thưa bà, nay thì tôi xin cám ơn bà cho một ngày thú vị.” Nàng<br />
ngắt lời ông: “Hàng đêm vào giờ này ông làm gì?”<br />
“Thì… thì… tôi về nhà tôi.”<br />
“Vậy thì, thưa ông, chúng ta về nhà ông.”<br />
Và rồi họ không nói gì nữa. Có lúc nàng thấy rùng mình ớn lạnh, từ đầu đến chân run rẩy, vừa<br />
có ý muốn trốn chạy lẫn ý muốn ở lại, với tận đáy lòng nàng là một ý muốn rõ rệt sẽ đi đến cùng.<br />
Trên cầu thang, nàng bám vào thành cầu thang vì sự cảm xúc trở nên quá mạnh, còn ông thì<br />
bước lên phía trước, hổn hển thở, tay cầm cây quẹt soi đường.<br />
Khi vào trong buồng, nàng trút bỏ xiêm y rất nhanh và im lặng, luồn mình vào trong chăn trên<br />
giường, rồi nàng ngồi chờ, lưng tựa đầu giường.<br />
Nhưng nàng giản dị, có lẽ giống vợ một viên chưởng lý tỉnh lỵ, còn ông thì đòi hỏi quá đáng<br />
như một viên Tổng đốc Thổ nhĩ kỳ có ba đuôi vậy! Họ chẳng hiểu gì nhau. Chẳng hiểu nhau gì hết.<br />
Thế rồi ông ngủ. Đêm trôi dần giữa những tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường; còn nàng<br />
nằm bất động nghĩ đến những đêm đời sống vợ chồng; và dưới ánh đèn vàng vọt của một ngọn đèn<br />
Trung hoa, nàng đau buồn nhìn, bên cạnh nàng, người đàn ông nhỏ thó nằm ngửa, mình tròn xoe, với<br />
chiếc bụng tròn vo khiến chiếc chăn đắp như được hơi bơm phồng lên. Ông ta ngáy ra tiếng rè rè của<br />
ống đàn phong cầm, những tiếng khụt khịt kéo dài, những hơi ngáy nghẹn họng đến tức cười. Hai mươi<br />
sợi tóc của ông, vì mệt mỏi sau khi cứ phải nằm nguyên một chỗ trên đỉnh đầu hói của ông, để che dấu<br />
sự tàn phá, nay, lợi dụng lúc ông đang ngủ yên, đã tự chải chúng theo một kiểu kỳ dị. Một dòng nước<br />
dãi chảy dài từ khóe miệng hé mở của ông.<br />
Rạng đông sau cùng đã lọt chút ánh sáng giữa những chiếc màn che cửa. Nàng dậy, lặng lẽ mặc<br />
xiêm y. Và khi nàng đã mở cửa được nửa chừng, thì khóa cửa rít tạo ra tiếng động và ông dụi mắt tỉnh<br />
dậy.<br />
Ông yên lặng vài giây trước khi tỉnh hẳn, rồi sau khi nhớ lại trọn cuộc phiêu lưu, ông hỏi: “Thế<br />
vậy bà ra về à?”<br />
Nàng vẫn đứng, lòng hoang mang, rồi nàng lắp bắp: “À vâng, trời sáng rồi.”<br />
Ông ngồi dậy, rồi nói: “Nào, đến lượt tôi, tôi muốn hỏi bà vài điều.”<br />
Nàng không trả lời. Ông nói tiếp: “Kể từ hôm qua, bà đã làm tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Vậy bà<br />
hãy thẳng thắn khai ra với tôi, tại sao bà đã làm những chuyện như vậy¸bởi vì tôi không hiểu gì hết.”<br />
Nàng nhẹ nhàng bước tới, mặt đỏ bừng như một trinh nữ: “Tôi muốn biết cái… cái tật xấu…<br />
vậy đó, chẳng có gì kỳ cục.”<br />
Và rồi nàng chạy trốn, xuống cầu thang, xông ra đường.<br />
Đoàn người quét đường, đang quét dọn. Họ quét vỉa hè, bờ hè, tống khứ mọi rác rưởi bằng tia<br />
nước tới miệng cống. Cùng với động tác đều đặn, giống động tác của những người gặt hái tại các cánh<br />
đồng cỏ, họ dồn quét những đống rác ruởi thành một vòng cung phía trước mặt họ: và từ con đường<br />
này sang con đường khác, nàng lại thấy họ như những con rối treo cùng tự động bước đều trên một lò<br />
xo.<br />
Và dường như nàng cũng vậy, nàng vừa quét đi cái gì đó, bằng tia nước tới miệng cống, những<br />
giấc mơ siêu khích động của nàng.<br />
Nàng hổn hển về nhà, lạnh băng, chỉ còn giữ lại trong đầu nàng cái cảm giác của cái động tác<br />
đó của những cây chổi quét dọn đường phố Paris lúc tảng sáng.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 109<br />
Và khi nàng bước vào căn phòng của nàng, nàng nức nở khóc. ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne 05/2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 110<br />
Hai Vùng Tr©i Mt Tâm S¿<br />
Minh Thu<br />
Vùng trời nào đó, ai có ngẩng nhìn mây bay<br />
rồi nhắn gọi :<br />
Mây ơi, mây ơi, xin gửi đôi lời<br />
từ một phương trời xa xôi vời vợi,<br />
đến người tôi thương từ tuổi đôi mươi..<br />
Con đường nào đó ai có bước đi<br />
vang vang tiếng gọi :<br />
Người ơi,người ơi, tôi nhớ thương người<br />
tiếng cười, tiếng nói.<br />
Từ một phương trời nghe tiếng chân ai bước tới<br />
trên con đường nào ta cùng sánh gót<br />
một chiều vàng trôi.<br />
Thành phố nào đưa hồn ta vào mộng.<br />
Nước hồ nào trải rộng dưới đồi thông.<br />
Mái tóc nào hồng lên trong ánh mắt.<br />
Mùa Thu nào nồng ấm mảnh tình chung.<br />
Vùng trời bên này có tôi ngẩng nhìn mây bay<br />
rồi nhắn gửi :<br />
Mây ơi, mây ơi, xin đem tiếng nói<br />
Từ phương trời này rền vọng thiết tha<br />
Đến người tôi thương một đời trọn gói… ■<br />
Để nhớ những ngày ở LT (09/1992)<br />
&
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 111<br />
Häi ñäo BuÒn<br />
Minh Thu<br />
Em muốn trao anh<br />
những vần thơ yêu<br />
từ phương trời xa thăm thẳm,<br />
từ hải đảo buồn<br />
bao quanh bằng những triền cát trắng<br />
hoang vu!<br />
để tình chúng mình ngàn năm bền chặt,<br />
đừng mất nhau khi tình vừa chớm nụ,<br />
nghe anh!<br />
để tình chúng mình như hoa bất tử,<br />
tỏa hương yêu ngào ngạt mãi mai sau.<br />
để ảnh hình yêu muôn đời bất biến,<br />
cho chúng mình say âu yếm nâng niu.<br />
Người ta bảo :<br />
hải đảo phương nam không là nơi hoang địa.<br />
với em, vắng anh :<br />
hải đảo phương này chỉ là vùng hoang vắng,<br />
cô liêu!<br />
Người ta bảo :<br />
ở đây cũng có những đoàn người hăm hở vào đời,<br />
cũng có chim ca, hoa nở và tình người.<br />
với em, vắng anh :<br />
hải đảo này buồn như giấc miên trường<br />
vương mộng mị,<br />
với một màn đêm phủ kín khắp tâm tư!<br />
những ánh mắt chỉ trơ mầu hoang dại,<br />
Khong một bàn tay nắm trọn một bàn tay. ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne, mùa Thu Canh Tuất (1970)<br />
Træng Häi ñäo<br />
Minh Thu<br />
Đêm hải đảo em buồn nghe gió rít,<br />
&
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 112<br />
sóng biển gào xé nát mảnh gương trăng,<br />
em nghẹn ngào nghe tê tái trong lòng,<br />
muốn gào thét để vơi dần nỗi nhớ,<br />
trăng hải đảo cũng buồn nên trăng vỡ,<br />
đập tan tành trên ghềnh đá chơ vơ,<br />
em đứng nhìn trăng, một bóng thẫn thờ,<br />
hình hài đó, tâm tư xa vời vợi,<br />
hướng về anh, ngày tháng cũ xa xôi :<br />
xin còn đó để đừng là kỷ niệm!<br />
Hãy nói với em những lời yêu thương mầu nhiệm,<br />
để em đừng buồn như trăng hải đảo đêm nay. ■<br />
Melbourne, một đêm buồn tháng Tư 1992<br />
Minh Thu<br />
<br />
Fire and Ice<br />
Robert Frost<br />
(1874-1963)<br />
Some say the world will end in fire,<br />
Some say in ice,<br />
From what I’ve tasted of desire<br />
I hold with those who favor fire.<br />
But if I had to perish twice,<br />
I think I know enough of hate<br />
To say that for destruction ice<br />
Is also great<br />
And would suffice. ■<br />
&<br />
Lºa HÒng và Bæng Giá<br />
Bản dịch Việt Ngữ do<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Có người bảo tận thế chìm trong lửa<br />
Có người tin băng giá sẽ đầy trời<br />
Riêng theo tri nghiệm bản thân tôi<br />
Tôi xin đứng về phe chuộng lửa.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 113<br />
Nếu tôi phải chết thêm lần nữa<br />
Tôi cũng từng hiểu biết oán thù<br />
Để bảo rằng băng giá công phu<br />
Gây tàn phá<br />
Một lần cũng đủ. ■<br />
Madison, AL, October, 2010<br />
&<br />
<strong>The</strong> Tyger<br />
William Blake<br />
(1757 – 1827)<br />
Tyger, Tyger, burning bright<br />
In the forests of the night;<br />
What immortal hand or eye,<br />
Could frame thy fearful symmetry?<br />
In what distant deeps or skies<br />
Burnt the fire of thine eyes!<br />
On what wings dare he aspire?<br />
What the hand, dare seize the fire?<br />
And what shoulder, and what art?<br />
Could twist the sinews of thy heart?<br />
And when thy heart began to beat,<br />
What dread hand? and what dread feet?<br />
What the hammer? what the chain?<br />
In what furnace was thy brain?<br />
What the anvil? what dread grasp<br />
Dare its deadly terrors clasp?
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 114<br />
When the stars threw down their spears<br />
And water’d heaven with their tears:<br />
Did he smile his work to see?<br />
Did he who made the Lamb make thee?<br />
Tiger, Tiger, burning bright<br />
In the forests of the night;<br />
What immortal hand or eye,<br />
Could frame thy fearful symmetry? ■<br />
&<br />
Con H°<br />
Bản Dịch Việt Ngữ do:<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Hổ ơi, Hổ! Lửa hồng sáng rực<br />
Rừng đêm sâu tối mực, hãi hùng;<br />
Ôi, tay bất tử, mắt vô cùng,<br />
Ai sáng tạo hình dung kinh dị ?<br />
Trời thẩm, nước sâu, như vừa ý<br />
Mắt nhìn, tia lửa phóng tầm xa !<br />
Soải cánh nào tìm nghĩa thăng hoa ?<br />
Tay ai khéo điều hòa ngọn lửa ?<br />
Thân dũng mãnh, thuật nào tuyển lựa ?<br />
Vận hành khí lực tựa vô biên ?<br />
Để khi tim đập nhịp đầu tiên<br />
Khiếp đảm hiện hình tay móng vuốt ?<br />
Đâu búa lớn ? Xích xiềng trói buộc ?<br />
Đâu hỏa lò tinh luyện óc mi ?<br />
Nào đe to ! Kìm thép gớm ghê !<br />
Đố ai dám tranh tài khủng khiếp ?<br />
Tinh tú phóng lao trời điệp điệp<br />
Tưới Thiên đàng bằng lệ long lanh ;<br />
Ai mĩm cười, thỏa mãn công trình :<br />
Tạo Cừu non, còn sinh mi đó ?<br />
Hổ ơi, Hổ! Lửa hồng sáng rực<br />
Rừng đêm sâu tối mực, hãi hùng;
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 115<br />
Trà H oa<br />
Ôi, tay bất tử, mắt vô cùng,<br />
Ai sáng tạo hình dung kinh dị ? ■<br />
Madison, AL, September 2010<br />
<br />
Tình Sº ñóa Hoa Thu<br />
Mùa thu lạnh lẽo sắp trôi qua<br />
Rạng sáng ra vườn nhặt cánh hoa<br />
-Thắm sắc thơm hương đà chớm<br />
rụng<br />
Nồng nàn nỡ gởi gió lan xa?<br />
Hoa buồn nhỏ lệ, lá ôm sương:<br />
-Thục nữ thời xưa dạ vấn vương<br />
Quân tử tang bồng như cánh hạc<br />
Một thu sải cánh mịt mù phương.<br />
Mộng tựa mây tan tình dở dang<br />
Gió hiu nắng hắt mỗi thu sang,<br />
Hương phai sắc nhạt, rơi từng cánh...<br />
Nhung nhớ ngàn năm cánh hạc<br />
vàng.<br />
Oan nghiệp hồn hoa tội lắm thay,<br />
Nắng hong gió lượm sắc hương bay<br />
Gom nhờ mây trắng tìm hoàng hạc<br />
Trao chút tình duyên kẻ đắm say.<br />
Bút lưu tâm sự đóa hoa rơi<br />
Ái biệt ly thương trọn kiếp người<br />
Sống thác trinh nguyên tình một<br />
khối<br />
Dầu ai lòng nhẹ cánh chim trời! ■<br />
LŒ Mai - Thanh Trà Tiên Tº!<br />
Tiễn thu khán lạc hoa
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 116<br />
An Autumn Love Story<br />
(Translated from Tra Hoa by Fairy of Green Tea)<br />
<strong>The</strong> cold autumn will soon pass by<br />
This morning in the garden, I pick up some petals from the ground<br />
<strong>The</strong>y are pretty, fragrant and yet they've fallen down<br />
<strong>The</strong> wind has taken away their colour and perfume<br />
Are these dewdrops or tears of the flower?<br />
Suddenly I think of a pretty lady in the olden days<br />
Who was missing her lover dearly,<br />
As a golden crane in the classical poesy<br />
Forever had gone away the lover of the pretty lady.<br />
Her dream was shattered and her heart was broken<br />
Every year since then,<br />
the autumn comes with its fading sunlight and gentle breeze.<br />
<strong>The</strong> withered petals fall all over on the ground<br />
Yet the golden crane hasn't come back ever.<br />
How pitiful is the flower's soul!<br />
Its beauty and sweet scent are carried far by the wind and the sunlight<br />
Oh, silver clouds high in the sky<br />
Please help search for the golden crane<br />
And bestow her love on her lover!<br />
Having written down the flower's confidences.<br />
<strong>The</strong>re is no difference, I can see,<br />
Between the hearts in love when they're in separation pain<br />
Thousands of years pass by, the lover's love has always been so<br />
Even when the love of the beloved may be as light as a flying crane. ■<br />
Translated by TMCS
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 117<br />
Tình Là HuyÍn Mng<br />
LŒMai--Thanh Trà Tiên Tº<br />
Tháng chín qua rồi, anh quá xa<br />
Sương giăng, ngõ nhỏ bớt màu hoa<br />
Dường như xào xạc muôn ngàn lá<br />
Thầm thĩ chuyện mình thưở thiết tha ...<br />
Nắng rọi đôi bờ rủ liễu dương<br />
Muôn hoa tươi thắm rực bên đường,<br />
Tuổi hồng hai đứa lòng trinh trắng<br />
Bút mực nhờ thơ trao mến thương.<br />
Ngày tháng trôi qua tựa bóng câu<br />
Mực xanh đà cạn, rượu tiêu sầu,<br />
Uyên ương trời bắt thành ly biệt<br />
Tam đảo ngũ hồ cuộc bể dâu ...<br />
Dạo lối thu vàng nghe tiếc nuối<br />
Tình là huyễn mộng phải không anh ?! ■<br />
LệMai – Thanh Trà Tiên Tử!<br />
Melbourne, October 2005
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 118<br />
Parkway in Front of Castle Kammer at Lake Atter<br />
.<br />
Gustav Klimt<br />
TØ Lúc Xa<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
Từ lúc xa/ nghe từng cơn trống trải,<br />
Buồn đời về/ kéo đến dệt vần thơ.<br />
Trang giấy cũ/ gọi tần ngần ngơ ngẩn,<br />
Qua mùa đông/ u ám tự bao giờ.<br />
Thoảng giây phút/ chợt đây rồi câm nín,<br />
Dường như thương/ chưa hề thốt nên lời.<br />
Gió đầu xuân/ cứ hồn nhiên xào xạc,<br />
Mặc tâm tư giao động/ xốn xang đời.<br />
Chợt khóc đấy/ rồi chợt cười như trẻ,<br />
Chuỗi tâm tư gào thét/ xé âm thanh.<br />
Có ai biết/ trong cội nguồn đơn lẻ,<br />
Tỉnh cơn mê/ người thoát một khúc quanh.<br />
Chén cà phê nay một mình ta nhấp,<br />
Tiễn đưa nào không mất một đoạn đường.<br />
Giã từ buồn cũng là ngày tỉnh ngộ,<br />
Nắng sớm mai óng ánh sợi tơ vương. ■<br />
Sóng Việt Đàm Giang
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 119<br />
Nh§ Không Anh/Em?<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
<strong>The</strong> Tree of Life. Gustav Klimt<br />
Nhớ không anh/em khi bình minh vừa đến,<br />
Thái dương vương chiếu sáng xuyên áng mây.<br />
Nhớ không anh/em khi đêm vừa kề bến,<br />
Màn chiều buông khêu mộng ước đắm say.<br />
Trong quyến rũ của bóng chiều đồng cảm,<br />
Anh/Em có nghe tiếng vời gọi của rừng sâu,<br />
Tiếng thì thầm nhớ không: anh/em đang hỏi,<br />
Nhớ không anh/em vang vọng suốt đêm thâu.<br />
Cơ duyên xe, đôi ta chung chiều hướng,<br />
Dù buồn phiền dù ngày tháng viễn vông.<br />
Không biên giới như giòng sông vô tận,<br />
Không chia cách như biển rộng mênh mông.<br />
Nhớ không anh/em trong sương mai tươi mát,<br />
Anh/Em là nguồn suối ngọt chảy miên man.<br />
Là thác trong cuốn em/anh vào du mộng,<br />
Bềnh bồng trôi hay hối hả miệt mài.<br />
Khi Xuân đến giữa rừng già cằn cỗi,<br />
Hoa bừng lên khoe sắc cùng bướm oanh.<br />
Chim muông hót hợp ca muôn điệu nhạc,<br />
Tranh thiên nhiên toàn mỹ đón chúng mình...<br />
Nhớ không anh/em? ■<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
28 April 2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 120<br />
Trª VŠ PhÓ H†c<br />
Dã Thäo<br />
Bao lâu rồi Em chưa về phố học<br />
Lá rụng đầy như vàng úa khăn Em<br />
Gió trái chiều đuà nhẹ thắp nắng lên<br />
Em bối rối giữa đoàn người qua lại.<br />
Bước chân học trò ngây ngô khờ dại<br />
Thuở nào đưa đón dào dạt yêu thương<br />
Mắt trong mắt lời mật ngọt vấn vương<br />
Kề bên vai Anh dịu dàng nói nhỏ.<br />
Tiếng « yêu Em » làm xanh xao hồn Cỏ<br />
Cho ngất ngây còn đọng mãi tim hồng<br />
Gửi an bình vào hạnh phúc duỗi rong<br />
Em chợt nghe tiếng Anh ca nồng ấm.<br />
Đã xa xôi thuở đất trời đằm thắm<br />
Môi xa môi nụ hôn cuối tan dần<br />
Cũng buổi chiều lá vàng rụng dưới chân<br />
Như hôm nay thu về trong cô độc.<br />
Quartier Latin, hởi người tình xóm học<br />
Trường Sorbonne từ buổi tiễn nhau về<br />
Để một đời trong trừ tịch u mê<br />
Người đi qua, cuộc tình không đáo hạn.<br />
Chiều thời gian như giòng sông khô cạn<br />
Chim líu lo, tóc Em đã nhuốm màu<br />
Tâm hồn nầy như hóa đá từ lâu
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 121<br />
Qua đời nhau, nỗi thăng trầm ghi dấu.<br />
Chuyến métro mang nỗi đau cào cấu<br />
Cuốn phim đời chợt ẩn hiện tái tê<br />
Trang sách mộng đã sạch những u mê<br />
Người yêu ơi, nghe chiêm bao hờn dỗi.<br />
Đời mấy nẻo chia tình ta trăm lối<br />
Lối bên Em, đêm rốc rách ngậm buồn<br />
Nơi Anh về chồi nẩy lộc tròn vuông<br />
Cánh vạc bay tiếng kêu sương thảm thiết.<br />
Paris trong thu, nắng luà vào mắt biếc<br />
Tóc Em bay đan từng lọn hững hờ<br />
Tự thuở nào Mộng và Thực vẩn vơ<br />
Ta về Ta, trả hoa tình theo gió.<br />
Lại chiều nay, chân lang thang đây đó<br />
Ngọn thu phong thổi lên má héo tàn<br />
Cỏ cây sầu thêm mục rửa tâm can.<br />
Quartier Latin ôm tình ta vùi ngủ….■<br />
Paris. Dã Thảo – hôm nay nhìn chiều thu trong mưa tuyết – 30/11/2010.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 122<br />
ñ®i Khách<br />
by Nguyên Sa<br />
Em đứng lẫn bên góc hè phố vắng<br />
Như loài hoa hoang dại trong rừng sâu<br />
Màu da tơ bóng tối ngã u sầu<br />
Đôi mắt đẹp từng cánh sao tắt lịm<br />
Em đứng đợi một người không hẹn đến<br />
Bán cho người tất cả những niềm vui<br />
Chút tình hoa còn lại thoáng hương phai<br />
Em dâng cả làn môi khô nước ngọt<br />
Trong đêm mỏi hàng mi mờ khẽ ướt<br />
Má phai duyên trên gối đẫm thẹn thùng<br />
Ấp mặt bên người lạ, lạnh mênh mông<br />
Bàn tay nhỏ thẫn thờ như lạc long<br />
Em đứng lẫn bên góc hè phố vắng<br />
Nghe đêm tàn làm lạc khách tìm vui<br />
Đôi tiếng giầy khua vắng tắt xa xôi<br />
Làm vỡ nốt cả đôi niềm tin tưởng<br />
Người khách lạ đêm lạc loài không chọn hướng<br />
Bước đảo say làm vỡ nát màu trăng<br />
Em chờ mong như đợi một âm thầm<br />
Tình sầu tủi pha chút men rượu cặn<br />
Đã lâu rồi vết thời gian trĩu nặng<br />
Từ lần đầu bàn tay trắng đàn mơ<br />
Nhận tiền cho bên nếp gối chăn thừa<br />
Em đã khóc, 122ong hoa sầu nát nhụy<br />
Đêm gần tàn em ơi người gái đĩ<br />
Đợi trong khuya, bến vắng ngủ say rồi<br />
Nhìn ánh đèn vương lại cửa nhà ai<br />
Rồi kéo vội khăn quàng trên vai lạnh…■<br />
Waiting for Customers<br />
Translated by DiŒp Trung Hà<br />
(<strong>The</strong> form of Nguyên Sa’s “Đợi khách”<br />
– the number of syllables in a line –<br />
is preserved in translation.)<br />
You stand on the bare street’s corner<br />
Like wild flowers in the dense woods<br />
<strong>The</strong> silken skin’s sad in darkness<br />
<strong>The</strong> stunning eyes dim all stars<br />
Waiting for someone, not a date,<br />
To sell him all delightfulness<br />
Remains of the fast spent flower<br />
Offering your lips dried of sweetness<br />
Tired in the night, moist blurry eyes<br />
<strong>The</strong> cheek on the pillow, ashamed,<br />
Face in the stranger, vastly cold,<br />
Small hands idle like being lost<br />
You stand on the bare street’s corner<br />
Johns are lost at twilight, you hear<br />
Footsteps waning at a distance<br />
Shattering all lingering hope<br />
<strong>The</strong> stranger’s lost his way in the night<br />
Walks woozily, shattering the moonlight<br />
You long for like a guarded thing<br />
A sad love in last drops of wine<br />
Time’s long weighed heavy since the time<br />
<strong>The</strong> bare hand trembling in a dream first<br />
Received dough for shared bed and board<br />
You cried, for the pistil was crushed<br />
<strong>The</strong> night’s waning, my dear hooker<br />
Waits in the night, the port’s asleep<br />
Eyes a home still lit, then hastens<br />
<strong>The</strong> scarf over the cold shoulders …■<br />
September 2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 123<br />
Nh§ bån xÜa<br />
DiŒp Trung Hà<br />
Tiết hàn đông băng giá phủ đầy<br />
Lò sưởi nóng củi thông rực cháy<br />
Rượu nồng không người cùng cạn chén<br />
Cờ tướng bụi thiếu người trận chiến<br />
Bạn tri kỷ khuất núi quê nhà<br />
Nơi quê người đưa đẩy mình ta<br />
Tuyết trắng không xóa nhòa hình ảnh<br />
Thông xanh vẫn mãi còn thông xanh. ■<br />
Tháng 11, năm 2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 124<br />
Thôn Vï Då<br />
Xuân-Linh TrÀn<br />
Ta đến Huế một ngày không vội vã<br />
Nhưng hồn ta sao rạo rực bôn ba<br />
Lời hứa quâng với bạn cũ thuở nào<br />
Luôn muốn giữ dù mình xa cách xa<br />
Vỹ cùng ta thuở áo trắng trao thơ<br />
Chép cho nhau lời lãng mạng mộng mơ<br />
Vỹ chép hoài bài thơ Hàn Mạc Tử<br />
Tiếc cuộc đời ngắn ngủi cảm lời thơ<br />
Vỹ thường rủ một ngày ấy cùng ta<br />
Ra xứ Huế ghé thăm thôn Vĩ Dạ<br />
Xem hàng cau che nắng áo theo mây<br />
Áo trắng xóa lẫn trong sương khói lã<br />
Mỗi mình ta đến Huế, vậy Vỹ đâu?<br />
Thôn Vĩ đó nhưng nào thấy hàng cau<br />
Dãy phố lầu che nắng tà áo trắng<br />
Khuất mờ sau khói bui xe máy dầu<br />
Đêm nay sao cảnh lai u mờ<br />
Thuyền bến Sông Trăng không kịp chở<br />
Trăng về đặng sáng đường thôn Vĩ<br />
Hay bởi lòng ta thiếu dạ thơ? ■<br />
11 November 2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 125<br />
<strong>The</strong> Man from the Plantation<br />
By David Lš Lãng Nhân<br />
He was a little shorter than the average Vietnamese, perhaps 5’2”, but huskily built. What<br />
struck me when I first saw him was his square jaw, an uncommon feature for a Vietnamese face. He<br />
had a rather dark complexion, and his hair was bushy, sticking out wildly, defying any combing. His<br />
eyes were narrow. <strong>The</strong>y seemed almost closed, except for an occasional gleam from behind the heavy<br />
lids. His voice was deep and harsh. He spoke sparingly, with single words or broken sentences, and<br />
breathed heavily. He scared me the first few weeks he came to live under my father’s roof. I was eight<br />
or nine years old at the time.<br />
“He is a man from the Plantation!” My mother’s maid, Chi Sau, told me with excitement.<br />
“D’you know he came from way up North? He just finished his three-year contract with the Plantation<br />
and decided to stay here. Your father sponsored him. He is our gardener now. In the morning, he gets<br />
water from the well and fills up all the big jars in the kitchen and in the bathhouse for me. From now<br />
on, he will also water the shrubs and take care of the vegetable garden to free me for other things. In<br />
the afternoon he’ll go out to cut firewood, bring it back, split it, and stack it in the shack. We will never<br />
run out of it! He is a strong man! He looks rough, but I think your parents like him very much.”<br />
Well, when I got to know him, I liked him too. I had never listened to a Northern Vietnamese<br />
heavy accent before, and it took me a while to understand his colloquial expressions. His name was Ba<br />
Sho. (Actually, that was his nickname. Nguyen <strong>Van</strong> So was his real name).<br />
It was around 1937, and Vietnam was part of the French empire called French Indochina.<br />
However, Vietnam was arbitrarily divided into three states by the French: North, South, and Central<br />
Vietnam. (A classic tactic: “divide and govern”). Central Vietnam was still ruled by the King of<br />
Vietnam, but all foreign affairs and major political decisions must be conducted by, or at least approved<br />
by, the French Authority.<br />
South Vietnam was under a special regime. It was a French Colony with all Legislative,<br />
Executive, and Judicial systems placed directly under French authority. But the South Vietnamese<br />
citizen was called a “French Subject” and was not legally bound to any obligation to the Vietnamese<br />
King. A French Subject, if well educated, wealthy, and respectable, could apply for French citizenship<br />
and be naturalized with all the rights and privileges of a French citizen. In a way, the South had been<br />
offered a tad more freedom under French rule - probably because the South had had a longer free<br />
exposure to French and European cultures more than 200 years earlier before the whole region had<br />
been totally dominated by the French. A proof of this is that the first Christian Bible was printed in a<br />
Vietnamese script derived from the Roman alphabet by the Portuguese missionary Alexander de<br />
Rhodes in the early 1800’s AD. Even today, the Vietnamese language is the only language in Asia that<br />
is written in Western alphabet.<br />
North Vietnam on the other hand, was under a strange political regime concocted by the French<br />
conquerors, called a “Protectorate.” <strong>The</strong> North Vietnamese were still the “King’s subjects,” but they<br />
were placed under the “Protective Laws” of the French governing authority. It was not easy to get a<br />
passport to travel from North or Central Vietnam to the South–let alone to relocate. <strong>The</strong> most common<br />
way at the time for a poor North Vietnamese to relocate was to sign a three-year contract to work for a<br />
French rubber plantation in the South; and when the contract was fulfilled, if the individual could find a<br />
“respectable citizen” to act as a sponsor, he or she would be allowed to stay. That’s what Ba Sho did.<br />
I liked to watch Ba Sho working. He seldom talked while working. Among other things, he<br />
rebuilt my father’s stable, fixed up the water well and put up a new wood shack. He normally bared
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 126<br />
himself to the waist, and it was fun to watch his muscles moving. He wore no hat and preferred to<br />
cover his head with a sweatband made out of an old towel. I never heard him sing, whistle, or hum like<br />
most workers. After lunch, he would pull out his bamboo water pipe and draw noisily as the smoke<br />
was filtered through the bamboo tube half-filled with water. He sat immobile for half a minute,<br />
exhaled the smoke, and seemed to enjoy his tobacco immensely. <strong>The</strong>n he took a nap, usually under the<br />
shade of a tree for an hour before resuming his work.<br />
When we got to know each other better, sometimes when splitting wood, Ba Sho opened up<br />
himself a little. One day, between two chops, he said: “Pearl, (Pearl was my nickname) you don’t<br />
know how lucky you are to live in the South. It was rough up North.”<br />
“How come?” I asked.<br />
“Really don’t know. Too many poor people. Not enough land available for crops. Have to<br />
farm two crops a year to get enough rice. When the Red River flooded, crops were ruined. People<br />
starved…Winter is cold…cold…”<br />
“D’you have family back there?”<br />
“Nope. My parents died. Long time ago. No relatives left.”<br />
“Will you go back someday?”<br />
“What for?”<br />
“D’you like it here?”<br />
“Yep. Your father, very kind… Now, go play. Let me work.”<br />
Once, Ba Sho and I took my father’s horse to the river to give him a bath. That was quite an<br />
experience for me. When we managed to get the horse in the water, soap him, and brush him, we were<br />
both soaking wet. On our way home, Ba Sho seemed to be in a good mood and started to relate to me<br />
some of his stories about life in a French Plantation.<br />
“Pearl, in the Plantation, you must wake up at four in the morning and start to work. It’s very<br />
dark under the rubber trees. You wear a headband lantern and move around the trees like ghosts. Must<br />
be careful. Can’t cut too much into the bark of the rubber tree. You ruin it. And get severely punished<br />
by the supervisor–the Corporal; he’s bad! And you have to work fast. Sap does not flow well when the<br />
sun’s up. <strong>The</strong>n you go back, collect all the white sap from the bowl, pour it into the bucket while it is<br />
still fluid. And load the shuttle truck. On time. <strong>The</strong>n during daylight, you have to tend the rubber<br />
trees. Thousands of them. You clear bushes and pull weeds. Plant new trees. Water them. But I like<br />
it better than working in the factory. It smells bad there, and your clothes get dirty, too.”<br />
“Did they pay you good money?” I asked.<br />
“Nope! <strong>The</strong>re were a lot of deductions from your monthly pay. For your housing, your rice,<br />
your dried fish, your fish sauce, oil, and soap. Have to be careful what you buy on credit. Otherwise,<br />
nothing is left from your pay to buy clothing or anything. But a lot of fools got in debt for gambling, or<br />
got into trouble drinking too much rice wine. Loan sharks in the campus; they are bad, too. Well, too<br />
many people just don’t care. As long I they can work, and close their eyes, they can stay in the<br />
Plantation until they die. But I made up my mind to get off. Glad I did.”<br />
Years later, as an Army Officer, I took part in a military maneuver in the vicinity of a French<br />
rubber plantation in Binh Duong. <strong>The</strong> plantation owner invited the Division’s staff officers to be his<br />
guests. Our French host was quite gracious and generous. We toured his plant after work hours, so I<br />
didn’t get to see much of the operations and the workers. But this was in the 60’s, and I guessed that<br />
working conditions must have been improved a lot. After the tour, we were ushered into the luxurious<br />
quarters where the host lived and entertained his guests. Champagne and Cognac flowed without<br />
interruption. <strong>The</strong> best cheeses and sausages from France were served. Also, the best local beef, pork,<br />
chicken, and shrimp. And the best tropical fruits and vegetables available. <strong>The</strong> plantation had its own
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 127<br />
power plant which powered the whole factory, a fairly large compound, and several huge freezers.<br />
Practically, one could live comfortably inside this plantation for years and still not miss anything. We<br />
listened to the latest fashion music from France, and some of the officers even got to dance the tango<br />
with the beautiful ladies who were guests at the party. <strong>The</strong>se French owners of the Plantation knew<br />
how to enjoy the best from life !<br />
Even now, when I wear a new pair of shoes with rubber soles, the smell of the rubber is so<br />
distinctive that I can’t help remembering Ba Sho’s stories about the French rubber plantation in<br />
Vietnam before the war. Actually, Ba Sho stayed with my family for only four years. He saved enough<br />
money and started his own life as a free person in the South around 1942 or 1943. My father gave him<br />
excellent recommendations, and he got a good job as a County roads maintenance worker. He married<br />
Chi Sau, my mom’s maid, and built his first house on my parents’ property. For years the couple were<br />
our extended family.<br />
<strong>The</strong>n Ba Sho quit his County job to open his own small sawmill business while his wife<br />
occupied herself with a concession at the County marketplace. <strong>The</strong>y bought a good piece of land, built<br />
a larger house, and enjoyed the fruits of their labor. <strong>The</strong>y didn’t have any children of their own, and<br />
when they reached their late forties, they adopted a son and later willed their business to him. But no<br />
matter how busy they were, never did they miss the traditional New Year’s visit to my parents.<br />
When Ba Sho reached his early sixties, he retired completely and did what many elderly<br />
Vietnamese did. He shaved his head and became a devoted monk. Instead of entering a temple or a<br />
monastery, he built his own small pagoda and dedicated himself to community religious service. He<br />
became 100% vegetarian. In 1972, when I saw him, he has lost a lot of weight. <strong>The</strong> once muscular<br />
man now was floating inside his maroon robe. His paces were a bit slow. His voice deepened a little<br />
more. He talked even less, but his whole personality exuded a great sense of humility and contentment.<br />
He greeted me warmly, “Pearl, haven’t see you a long time. How many kids you have now?”<br />
“Just two,” I answered. “Both High school boys now.”<br />
Ba Sho said pensively, “I’m glad… When you sow the seeds of virtue you’ll reap the fruits of<br />
blessing.”<br />
I didn’t fully understand what he meant, but accepted it as some sort of compliment. Or<br />
perhaps that was just his subtle way of expressing his gratitude and reasserting his belief that my<br />
father’s kindness was the cause of our family blessing (according to the Karma ?).<br />
<strong>The</strong> last time I came home to visit my mom in late 1974, my sister told me that Ba Sho’s<br />
pagoda had been hit by a Communist rocket one night during an attack on the town. “He died<br />
immediately in the explosion, she said.” My sister and my mom cried then. And I did, too. In our<br />
minds, we just didn’t have any logical explanation why such a wonderful man had to die in such a<br />
tragic way. Only, perhaps, because his death was so sudden that he really didn’t experience any<br />
suffering when God decided to call him home! ■<br />
Madison, AL, October 2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 128<br />
Thơ Haiku Kim-Châu<br />
Nhớ Miền Đông<br />
Nhớ Miền Đông<br />
Những ngày nhiều băng tuyết<br />
Lạnh chùng lòng… ■<br />
(10/2010)<br />
Băng Tuyết<br />
Tuyết đóng băng trong xuốt<br />
Như những miếng pha lê mỏng manh<br />
Đắp trên hoa, trên cành. ■<br />
(11/2009)
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 129<br />
Hừng Đông<br />
Mây trời chung<br />
Mênh mang cả hừng đông<br />
Một ngày mới. ■<br />
(10/2010)<br />
Tĩnh Lặng<br />
Mờ sương chiều<br />
Vạn vật đang đắm chìm<br />
Trong tĩnh lặng. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 130<br />
Núi Non Bộ<br />
Cũng núi non<br />
Xanh tươi ngay trước mắt<br />
Giả mà thật. ■<br />
Hương Trà<br />
Ngạt ngào hương<br />
Một tách trà thơm ngát<br />
Lòng nhẹ buông! ■<br />
(11/2010)
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 131<br />
Giä TØ<br />
Mắt biếc lệ trào mi<br />
Giã từ thổn thức lúc chia ly<br />
Tri kỷ xót xa lòng! ■<br />
Minh Thu<br />
Phi trườngTullamarine<br />
Melbourne, 29/09/2010.<br />
SÀu ñông<br />
Nhìn đông về xơ xác<br />
Sao còn vương nỗi sầu man mác<br />
Cành khô lá rụng rồi. ■<br />
Minh Thu
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 132<br />
A thought, once<br />
DiŒp Trung Hà<br />
… to the one who wrote "Éo le" in 2007<br />
<strong>The</strong>ir eyes met just once<br />
but her heart pounds when writing<br />
him, thinking of him.<br />
In an impasse: she<br />
much wants to love him but daren’t,<br />
to be close but can’t.<br />
A knot’s in her heart:<br />
goodbye, but still wanting him<br />
even it’s a dream. ■<br />
June 2009<br />
Longing<br />
DiŒp Trung Hà<br />
slow days and long nights<br />
awaiting the reunion<br />
soul-and-flesh union. ■<br />
July 2009
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 133<br />
Haiku Mùa ñông<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Đông về choàng tuyết trắng<br />
Khóc cành phượng vỹ chết ven sông<br />
Sa-kê nhúm lửa hồng. ■<br />
Madison, AL, Nov 2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 134<br />
<strong>The</strong> Loving Hug<br />
By Chân TÎnh Nhãn (NguyÍn Væn K›-CÜÖng)<br />
Translated by Hoàng-Tâm<br />
Every year, the private bilingual Toronto French School holds graduation ceremony for its students,<br />
attended by proud parents, administrators and faculty members, just as in other schools.<br />
This year, following the usual procedures, the program included one truly touching moment.<br />
When Professor Henry Ky Cuong, the school math team leader, was called to the podium, he stepped<br />
up, looked deeply to the audience, smiled and began to speak in French with a student translating into<br />
English:<br />
Distinguished parents and dear students,<br />
First I’d like to thank Mr. Director General for giving me this opportunity to give the final<br />
lesson to the graduating class this year. <strong>The</strong> title of the lesson is “Success and the Present Moment.”<br />
I’d like to tell you a personal story of mine. I grew up in a small town in South Vietnam. My<br />
father was a teacher. When I was 16 and passed the Baccalaureate Part I exam, I asked my parents to<br />
let me continue my studies in France because Vietnam was at war then. I remember clearly that my<br />
parents were really reluctant to let me go. Dad’s salary at that time was $120 a month while the ticket<br />
to France cost $800, not to mention something like $1,000 fees and bribes to get a passport. Dad<br />
thought I could just continue to study in Saigon but Mom resolutely supported my study overseas. She<br />
told Dad to take care of the paperwork, saying that she would handle the financial problems. I knew<br />
my parents would have to make many sacrifices for my trip and I promised myself to do my best to<br />
succeed quickly so I could show my gratitude to them and pay them back.<br />
In France, as soon as I passed the final exam each year, I would send home a letter with the<br />
word “Success” written on the corner of the envelope. Each time Mom received one of these letters,<br />
she would burst into tears of happiness, for two reasons: <strong>The</strong> time I was away from her had been<br />
shortened by another year, and my success would guarantee another year of scholarship. As for Dad,<br />
my news of success brought him great pride. He bragged all over town about his son Henri passing<br />
the Baccalaureate Part II, the freshman year in college, or whatever, year after year.<br />
One year I passed the final exam as always, but forgot to write the word “Success” on the<br />
envelope of the letter I sent home. In her reply, Mom told me: “When I got your letter without seeing<br />
that word, I started to tremble and worry terribly. Expecting a great disappointment, I didn’t dare to<br />
open the envelope. Your Dad was calmer and urged me to read what you had to say. It turned out that<br />
the word “Success” was clearly written on the top of the letter, not on the envelope. I then started to<br />
cry and laugh at the same time.” And Dad, as usual, went around happily bragging about me.<br />
I felt very bad upon reading my mother’s letter. Tears welled up in my eyes because I had<br />
unwittingly caused my parents to be worried, even if momentarily. So the conclusion of today’s first<br />
lesson is, my dear children, what do your parents expect from you when they make sacrifices for your<br />
studies? <strong>The</strong>y don’t expect you to bring home money, just the word “SUCCESS.” This word has a<br />
magical power to dispel all worries, nervousness and stress when they think about your future.<br />
Just as important as the word “success” is your love for your parents. Nobody denies the fact<br />
that your parents love you and you love them. However, sometimes that love is not clearly expressed.<br />
I’d like to suggest a way of expressing love through hugging meditation.” In the West, hugging is a<br />
friendly act without much meaning, so let me explain what hugging meditation is.<br />
It is important that when you hug someone, you do it with all sincerity and with deep feelings.<br />
When you stand face to face with the person you want to hug, put your hands together like a budding
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 135<br />
lotus flower, look directly at him (or her), smile and imagine that he or she has just come back to you<br />
after years of being away or has to leave you soon. <strong>The</strong>n you open your arms and of course the person<br />
in front of you will also open his arms to hug you back willingly. It comes naturally between parents<br />
and children.<br />
While hugging, remember:<br />
-Hold your mom or dad closely, imagining that her or his body becomes one with yours.<br />
-Breathe a little deeply and slowly, imagining your warmth and your parents’ blend together.<br />
-Whisper in their ears: “Dad! (or “Mom!”) Here and now, I love you so much!”<br />
After that, Professor Henry Ky Cuong and the student translator demonstrated hugging<br />
meditation to the audience. While hugging, the student whispered, “Henry, you’re my papa and I love<br />
you so much.”<br />
Mr. Ky Cuong then asked all students to rise, walk to their parents, stand face to face with one<br />
of them, put their hands together on their chests, and ask permission to hug their loved ones. Two by<br />
two, parents and their children hugged each other lovingly and sincerely, most with tears in their eyes.<br />
Afterwards, Mr. Ky Cuong added, “Do you know why we should say “here and now” while<br />
hugging? My dear children, you will soon go to college, leave your parents and send home the word<br />
“Success.” I really believe that. But you will certainly have very few opportunities to hug your father<br />
or mother again in your arms as lovingly as you did today. <strong>The</strong>refore you should remember to say,<br />
“<strong>The</strong> present moment, wonderful moment.”<br />
Professor Henry Ky Cuong slowly bowed to the audience and stepped down the stage. <strong>The</strong><br />
Director General walked to him, hands together in the lotus position and asked to hug him. One by<br />
one, parents and students approached him and asked to hug him too, while rounds of applause never<br />
seemed to end.<br />
<strong>The</strong> graduation ceremony ended in an atmosphere of happiness and love among parents and<br />
students. ■<br />
Translated by Hoang-Tam Hilton
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 136<br />
Lời mở đầu<br />
ThÀn Mercury, ThÀn Hermes<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
Thần Mercury.<br />
Viện Bảo Tàng Louvre, Paris, Pháp<br />
Thần Mercury (La-mã) hay thần Hermes (Hy-lạp) đã đuợc biết đến qua nhiều hình ảnh; một tượng điêu<br />
khắc nổi tiếng phải kể đến là tượng một vị thần trẻ cầm thiên sứ trượng, một cây gậy có hai cánh và có<br />
hai con rắn cuốn chung quanh, một dấu hiệu đã được thấy rất thường trong ngành Y Dược, Khoa học<br />
và cả ngành Thương mại.<br />
Thần Mercury cũng mang mũ và dép hay đôi giầy có cánh, những biểu tượng này cũng mang<br />
nhiều ý nghĩa quan trọng và được chú ý rất nhiều trong ngành Thương mai.<br />
Vậy thần Merury hay Hermes là ai?<br />
Bài viết dùng cả hai tên Mercury và Hermes: ở đây tên thần Mercury được dùng vì sự thông<br />
dụng hơn, nhưng ý nghĩa và huyền thoại hầu hết liên quan đến Hermes trong thần thoại Hy-lạp.<br />
Thần Mercury<br />
Mercury là một sứ giả và thần buôn bán, con của Maia Maiesta và Jupiter trong thần thoại La-mã.<br />
Tên Mercury liên hệ đến từ Latin merx (merchandise, merchant, commerce, v.v..) và merces<br />
(lương bổng). Những đặc tính tiêu biểu và thần thoại của Mercury đều phản ảnh từ vị thần mang tên<br />
Hermes của thần thoại Hy-lạp.<br />
Mercury có nhiều nghĩa khác nhau, Mercury là một hành tinh nhỏ nhất trong hệ thống trái đất<br />
và mặt trời và cũng là hành tinh gần mặt trời nhất. Mercury cũng là tên một chất lỏng là chất mercury<br />
(thủy ngân). Và từ thay đổi nhanh chóng (mercurial) thường được dùng để chỉ vật thể hay nhân vật nào<br />
thay đổi rất nhanh hay bất ổn, cũng là do thoát nghĩa từ sự bay nhanh chóng của thần Mercury từ chỗ<br />
này đến chỗ khác.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 137<br />
<strong>The</strong>o thần thoại Hy-lạp: Hermes là thần biên giới và di chuyển, thần cừu và bò, thần trộm cắp,<br />
thần khách du lich xa, thần diễn thuyết và nhanh trí, thần văn chương và thi phú, thần thể thao, thần cân<br />
lường, thần phát minh, thần thương mại, và cả thần nói láo. Những biểu tượng liên hệ đến thần Hermes<br />
(Mercury) gồm mai rùa (tượng trưng kiên nhẫn, thời gian, lòng khôn ngoan?), con gà trống (biểu tượng<br />
mặt trời, thông minh nguyên thủy), đôi dép có cánh (có linh hồn, rõ ràng minh bạch) và biểu hiệu thiên<br />
sứ trượng với cây gậy có hình hai con rắn cuộn tréo nhau (1).<br />
<strong>The</strong>o thần thoại Hy-lạp, Hermes, con của thần Zeus và Maia, con gái của Atlas, ra đời trong một<br />
hang động ở núi Cyllene, Arcadia. Nằm trong nôi chăn cuốn ấm cúng của bà mẹ Maia, chỉ trong vòng<br />
vài giờ sau khi ra đời, Hermes đã lẻn trốn ra khỏi nôi, biến hoá cao lớn nhanh chóng, đi tới Pieiria và<br />
trộm vài con bò của Apollo, người anh khác mẹ cùa Hermes.<br />
Để tránh dấu vết chân để lại, Hermes đã ngụy trang đi dép và dùng lá cây che dấu vết chân bò,<br />
lùa bò đến Pylos rồi Hermes giết hai con bò và dấu kín số bò còn lại trong một hang gần đó. Hermes<br />
nấu ăn thịt một phần, mang da bò cắm vào đá và đốt cháy phần còn lại; cùng lúc đó Hermes hiến vật hy<br />
sinh cúng tế cho 12 vị thần và có lẽ vì thế mà Hermes đuợc xem như phát minh ra thờ phượng thần<br />
thánh và hy sinh vật để cúng tế lễ.<br />
Sau đó trên đường trở về Cyllene, Hermes thấy một con rùa ngay lối vào cửa hang có nôi của<br />
mình, chàng lấy mai con rùa, sỏ chỉ dây qua mai rùa và tạo nên cây đàn lia, sồ giây đàn, có sách nói 3<br />
có sách nói 7, được làm bằng ruột của bò hay trừu. Cũng có tài liệu nói Hermes sanh ra vào ban mai,<br />
đến trưa thì ra khỏi nôi bắt rùa sỏ dây làm đàn lia và đến chiều tối thì đi ăn trộm bò.<br />
Thần Apollo với thần lực đoán trước, ngay lúc đó đã khám phá ra kẻ trộm bò và đến ngay<br />
Cyllene để tố cáo việc làm của Hermes với mẹ của Hermes là Maia. Maia không tin và cho rằng<br />
Hermes chỉ là một đứa bé mới sinh còn nằm trong nôi thì làm sao có thể làm chuyện động trời như thế.<br />
Không thuyết phục được Maia, Apollo mang đứa bé đến khiếu nại với Zeus đòi hỏi Hermes phải trả lại<br />
đàn bò. Hermes lại cãi nhưng không ai tin cả, sau cùng phải Hermes nghe lời Zeus mà dẫn Apollo đến<br />
Pylos để nhận lại đàn bò. Trong lúc đó, Apollo nghe đuợc tiếng đàn lia của Hermes thì thích quá nên đề<br />
nghi tặng Hermes luôn đàn bò để đánh đổi lấy đàn lia. . Hai anh em trở nên hoà thuận. <strong>The</strong>o một ấn<br />
bản thì Hermes sau đó phát minh ra đàn ống sáo (syrinx) và Apollo lại cho Hermes cây gậy vàng chăn<br />
cừu để đổi lấy đàn syrinx, cùng chỉ dẫn Hermes che chở bầy gia súc, chim muông, và đồng cỏ nuôi súc<br />
vật, Apollo cũng dạy Hermes nghệ thuật nhìn trước tương lai bằng cách reo súc sắc. Thần vương Zeus<br />
sau đó lại ban cho Hermes chức làm người truyền tin cho Zeus, cùng liên lạc với thần ở thế giới bên<br />
dưới (âm phủ).<br />
Những cá tính của Hermes<br />
Hermes là truyền lệnh sứ của thần vương Zeus, chàng là thần khéo léo hùng biện trong ngôn ngữ, ngay<br />
từ khi vừa sinh ra đã biết biện luận sau khi Apollo khám phá ra là Hermes đã ăn trộm bò, đã biết dùng<br />
tài năng của mình để tạo giây liên hệ với mười hai vị thần trong vấn đề cúng tế lễ.<br />
Hermes có tài trong âm nhạc, là thần đã chế ra hai loại đàn lyre, và syrinx (theo một vài tài<br />
liệu), có tài trong ngôn ngữ, thiên văn, thể thao, trồng cây olive, đo lường và nhiều tài khác nữa.<br />
Như một truyền lệnh sứ và một sứ giả của các thần, Hermes di chuyển rất thường, và vì thế<br />
đuợc coi như là thần của đường lộ, có nhiệm vụ bảo vệ những người phải di chuyển thường xuyên và<br />
trừng phạt những kẻ làm hại họ. Như một thần thương mại Hermes giúp phát triển việc buôn bán và<br />
làm ăn phát đạt<br />
Hình ảnh của Hermes hiện diện trong những trò chơi thể thao của Hy-lạp cho thấy Hermes là<br />
giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động thể xác và có thể vì sự năng động của Hermes mà nghệ sĩ<br />
Hy-lạp đời sau đã thêm vẽ nhiều truyền kỳ về vị thần này.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 138<br />
Từ trái sang phải: Vase cổ (480-470BC) mang hình Hermes<br />
Tranh vẽ Hermes mang dép, đội mũ và cây gậy có đôi cánh cùng hai rắn<br />
Tượng điêu khắc nữ thi sĩ Sappho của Pradier có đàn lyre với mai rùa (Musée d’Orsay)<br />
Mũ và giầy có cánh.<br />
Hermes (Musée d’Orsay)<br />
Những vật được xem như liên hệ đến Hermes gồm một cây gậy thần, một đôi giầy hay dép hai quai có<br />
cánh, và nhiều hình ảnh với mũ có cánh.<br />
Đôi dép hay đôi giầy của Hermes đã đuợc thi vị hoá. Sự thêm đôi cánh như cánh chim để biến<br />
đổi từ bình thường thành một đôi dép/giầy thần giúp thần di chuyển qua biển cả và đất liền là một sáng<br />
kiến tuyệt vời của nghệ sĩ ngày xưa.<br />
Cái mũ và đôi giầy có cánh này được nhắc đến trong chuyện kể về Hermes và Perseus. Chuyện<br />
kể rằng đôi giầy có cánh đã giúp Perseus bay đi rất nhanh và mũ tàng hình như trong chuyện phim<br />
Clash of the Titans đã giúp Perseus theo dõi công chúa Andromedas đến tận đồng lầy của một chàng<br />
Calibos đẹp trai (con nữ thần <strong>The</strong>tis) nay bị Zeus phạt biến thành quái vật giống thần Dê.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 139<br />
Cây gậy của Hermes<br />
<strong>The</strong>o <strong>Home</strong>r thì cây gậy thần mà Hermes nhận được từ Apollo chỉ là một cây gậy đơn giản, và được coi<br />
như là cây gậy của sứ thần. Cây gậy này cũng có hình đuợc miêu tả như có hai dải lụa mà sau này nghệ<br />
sĩ đã thần thánh hóa mà biến thành hai con rắn cuốn chung quanh. Và sau nữa đôi cánh lại được thêm<br />
vào để diễn tả sự nhanh chóng mà sứ thần của các vị thần đã di chuyển . Có rất nhiều huyền thoại<br />
quanh chuyện cây gậy, một rắn, hai rắn cuốn quanh cây gậy và đôi cánh.<br />
Trong một bộ bách khoa từ điển chữ caduceus đuợc giải thích như sau:<br />
<strong>The</strong>o thần thoại Hy-lạp, cây gậy có cánh với hai con rắn cuốn chung quanh là cây gậy thần của<br />
Hermes. Một huy hiệu có hình cây gậy của Hermes đã được dùng như một biểu tượng cho nghề nghiệp<br />
y khoa. Cây gậy Hermes mang là một biểu tượng cho hòa bình, dùng để bảo vệ những sứ giả của Hylạp<br />
và La-mã ngày xưa. Có tài liệu nói rằng nguồn gốc miêu tả một cây gậy hay một cành olive với một<br />
dải lụa, sau này đuợc biến chế thành hai rắn với hai cánh để thích hợp với vai trò của Hermes. Còn cây<br />
gậy caduceus được chế biến thành một biểu tượng của ngành Y vì nó giống cây gậy của thần Y khoa<br />
Asclepius.<br />
<strong>The</strong>o một bộ từ điển khác thì caduceus là cây gậy có cánh một đầu và có hai con rắn cuốn<br />
chung quanh do Apollo tặng cho Hermes. Biểu tượng hai con rắn đã thấy có trong thời Babylon và có<br />
liên hệ đến biểu tượng con rắn khác của sinh sản, khôn ngoan, lành bệnh và của thần mặt trời. Từ năm<br />
1902, huy hiệu ngành Y của quân đội Hoa kỳ đã dùng biểu tượng cây gậy có cánh với hai con rắn cuốn<br />
quanh. Biểu tượng caduceus cũng đã được dùng nhiều nơi như một biểu tượng cho thương mai, và<br />
tượng trưng cho nhiều ngành khác.<br />
Một vài hình ảnh hiện đại thường thấy<br />
Nhãn hiệu của hãng làm lốp bánh xe Goodyear có hình một chiếc giày có cánh, hãng chuyên giao hoa<br />
đến tận địa điểm khách yêu cầu FTD cũng có hình một thanh niên mang giày và đội mũ có cánh, và có<br />
thể còn nhiều logo có hình giày và đôi cánh. Nguồn gốc của hình ảnh này liên quan đến thần Hermes<br />
trong thần thoại Hy-lạp hay Mercury trong thần thoại La-mã.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 140<br />
Hãng giao hoa FTD<br />
Vào ngày 18 tháng 8, 1910, mười lăm tiệm bán hoa đã đồng ý với nhau trao đổi chuyện giao hoa cho<br />
những khách hành ở ngoài thành phố của họ qua điện tín telegraph và đặt tên cho tổ hợp của họ là<br />
Florists' Telegraph Delivery. Năm 1914 công ty chấp thuận dùng nhãn hiệu Mercury Man để làm logo,<br />
mục đích nhấn mạnh đến tốc độ giao hoa của họ. Năm 1965 thì công ty bắt đầu dịch vụ giao hoa khắp<br />
mọi nơi trên thế giới và đổi tên công ty thành Florists' Transworld Delivery (2).<br />
Hãng làm lốp xe Goodyear<br />
Frank Seiberling, sáng lập viên và Chủ tịch Hội đồng công ty làm lốp xe Goodyear Tire & Rubber<br />
Company là người đã có sáng kiến dùng biểu tượng Chân có cánh (Wingfoot) để làm biểu hiệu cho<br />
công ty làm lốp xe của họ vào năm 1900. Trong căn nhà cũ của Seiberling tại Akron, Ihio, một tượng vị<br />
thần thoại nổi tiếng Mercury của La-mã hay Hermes của Hy-lạp đặt ở gần cầu thang đã gây chú ý của<br />
Seiberling. Sáng kiến dùng hình ảnh chiếc giầy có cánh để làm biểu hiệu cho hãng làm lốp xe của mình<br />
vì Mercury là thần trao đổi hàng hóa và thương mại, và cũng là sứ giả mang tin nhanh chóng cho tất cả<br />
các vị thần trong thần thoại, tưởng không còn gì thích hợp hơn. Hình chiếc giầy có cánh đặt giữa chữ<br />
Good và chữ year bắt đầu xuất hiện từ đó. Chiếc giầy lớn hơn chữ trong bảng hiệu nguyên thủy đã<br />
được biến dạng và thu nhỏ lại sau đó (3).<br />
Tượng trung cổ<br />
Tượng hình cũ nhất đuợc biết có hình hai con rắn cuốn quanh cây gậy là hình ghi trên một cái bình màu<br />
xanh (từ 2200-2025 trước Công nguyên) trưng trong Bảo tàng viện Louvre , đề tặng thần sanh sản<br />
Sumarian tên là Ningishzida (cũng đuợc coi như là thần của cây cối) (4).<br />
Mặc dù đuợc coi là một trong những hình ảnh cũ nhất ghi lại hai con rắn cuốn quanh cây gậy<br />
trước thời gian có cây gậy caduceus và gậy của Aslepius, và cây gậy của Moses cả ngàn năm, biểu<br />
tượng một rắn thần cuốn quanh cây gậy đã được biết đến từ thời tiền sử qua hình ảnh ghi trên giấy<br />
papyrus như là một Nữ Thần Rắn Tình Yêu của Hạ Ai Cập.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 141<br />
Hình hai rắn trên bình xanh Tranh họa của Aubin Louis Millin<br />
(Musée du Louvre)<br />
Bức họa của Aubin Louis Millin (Paris 1811] minh họa Mercury (Hermes) và một thương gia<br />
đang lại gần diện kiến Asclepius nhưng bị Asclepius nhìn một cách không vui, bàn tay phải nắm chặt<br />
lại và cánh tay như muốn tránh chạm vào người đang quỳ gối năn nỉ, với một thái độ quả quyết. Bức<br />
họa này đã cho thấy sự khác biệt giữa cây gậy caduceus của Hermes với cây gậy y của Asclepius.<br />
Caduceus của Hermes có hai con rắn, và gậy y của Asclepius có một con rắn (5).<br />
Kết luận<br />
Nói tóm lại hình ảnh thần Mercury/Hermes cầm cây gậy từ ngàn năm trước cho đến hiện đại vẫn là<br />
hình ảnh quen thuộc tượng trưng cho tốc độ, bền bỉ, nhanh nhẹn, khôn ngoan, ngoại giao, và nhất là<br />
biểu tượng cây gậy có cánh với hai con rắn cuốn quanh hoặc có đuôi dính nhau hay không dính nhau,<br />
từ lâu đã được xem như là một biểu tượng liên hệ đến ngành Nha Y Dược cùng Thương mại (6). ■<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
9 November 2010<br />
Ghi chú:<br />
(1). Truy cập tại: http://wikicompany.org/wiki/911:Occult_symbolism_VII ngày 29 September, 2010.<br />
(2). Truy cập tại: http://www.ftdi.com/about.htm<br />
http://en.wikipedia.org/wiki/Florists'_Transworld_Delivery ngày 29 September, 2010.<br />
(3). Truy cập tại: http://www.goodyear.com/corporate/history/history_origin.html ngày 29 September,<br />
2010.<br />
(4). Truy cập tại: http://en.wikipedia.org/wiki/Serpent_(symbolism)<br />
http://en.wikipedia.org/wiki/Ningishzida ngày 29 September, 2010.<br />
(5). Truy cập tại: http://www.ams.ac.ir/aim/010131/0015.htm ngày 29 September, 2010.<br />
(6). Trịnh, N.G., Những Biểu Tượng Ngành Y. <strong>Firmament</strong> số July, 2009 (tr. 115):<br />
http://thehuuvandan.org/firmament.html.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 142<br />
ChuyŒn C° Tích<br />
Người Tiều Phu Hóa Nai<br />
Ngày xưa ở đất Cao Bằng<br />
Có bác tiều phu chân chất, hiền lành<br />
Mẹ đã già lại hay tật bệnh<br />
Nhưng bác là người con hiếu hạnh<br />
Hết lòng chăm sóc mẫu thân<br />
Có một thầy lang nổi tiếng ở gần<br />
Nói phải có sữa nai tẩm bổ<br />
Mới mong chữa bệnh được lành<br />
Bác tiều phu không quản khó khăn<br />
Mỗi ngày chăm chỉ vào rừng<br />
Quyết tâm tìm sữa nai cho mẹ.<br />
Nhưng đến gần nai đâu có dễ<br />
Thấy bóng người nai đã chạy ngay<br />
Biết làm sao lấy được sữa nai…<br />
Ở trong rừng xuốt cả một ngày<br />
Không được sữa, ngồi ôm mặt khóc<br />
Bỗng có một ông lão đầu bạc<br />
Chống gậy trúc lững thững hiện ra<br />
Nhẹ nhàng nói với bác tiều phu<br />
Mang lốt nai mới đến gần nai được<br />
Ông lão bèn cho một bộ da nai<br />
Bảo anh đem lốt khoác lên người<br />
Quả nhiên sau đó anh tới gần<br />
Được nai mẹ, vắt ra nhiều sữa<br />
Đem về chữa bệnh cho mẹ già<br />
Một hôm ông lão lại hiện ra<br />
Ngỏ lời khen anh có lòng hiếu thảo<br />
Truyền cho anh phép đạo thần tiên
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 143<br />
Anh học nằm lòng không cho ai biết<br />
Một thời gian sau mẹ đã qua đời<br />
Anh bỏ lên núi biệt tăm hơi<br />
Không còn thầy bóng dáng anh nữa<br />
****<br />
Rất lâu sau,<br />
Có người con của bác tiều phu<br />
Vào rừng kiếm củi<br />
Bỗng gặp con nai nói tiếng người<br />
“Cha đây, cha đã hóa thành nai<br />
Không trở lại thân người được nữa<br />
Cha cho con cái gạc nai này<br />
Con hãy buộc dây kéo về ngay<br />
Chỗ nào gạc vướng không đi được<br />
Lấy đất ấy khai khẩn làm ăn<br />
Mai sau rồi sẽ rất thành công…”<br />
Nói xong nai húc mạnh đầu mình<br />
Vào thân cây cho rụng gạc ra<br />
Rồi chạy vào rừng sâu biến mất.<br />
Người con trai theo lời cha dặn<br />
Quả nhiên được sung túc giàu sang<br />
Người đời sau, khi biết chuyện này<br />
Đã gọi người tiều phu hóa nai<br />
Là Lộc Giác Chân Nhân<br />
Cho rằng ông đã tu thành tiên. ■<br />
(27/1/2010)
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 144<br />
Photo Jonathan Lee<br />
<strong>The</strong> Magic Dot<br />
(Living Is Sharing)<br />
By David Lš Lãng Nhân<br />
All my life, I always wanted a violin. To me, everything about the violin is elegant: the size, the<br />
shape, the color, the way you play it. I also have been told that the violin is the most eloquent and<br />
expressive instrument. In the hands of a talented player, it can whisper or sob and move you deeply.<br />
My dream came true seven years ago when my daughter-in-law gave me a violin on my<br />
birthday. She said, “It is a used one, but it has a very nice timbre. I hope you like it.” I was deeply<br />
touched.<br />
Last July, I religiously took it out of the case to practice, only to find that its bow hair was<br />
ruined by clothes moths. While sending my bow to be re-haired in Atlanta, I carefully cleaned the<br />
violin and set its case in the sun. For the first time I noticed the old label inside of the violin. <strong>The</strong><br />
inscription in Latin reads: “Antonius Stradivarius Cremonensis. Faciebat Anno 1713.” meaning in<br />
English “Antonio Stradivari of Cremona. Made in the year of 1713.” It does not say “replica” or<br />
“copy.” I was curious to know more.<br />
Well, the Internet gave me this preliminary information:<br />
“Antonio Stradivari, born in 1644. Established in Cremona, a city in North West Italy,<br />
population 80,000. Died in 1737 at the age of 94. Approximately 75 years of his life were devoted to<br />
making violins of which the quality of the tone and the beauty of the design have been unsurpassed for
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 145<br />
over 300 years. An estimated total of 1100 instruments were produced by the master, but only about<br />
650 violins are known to survive today. Since his death, thousands of copies of Stradivarius violins<br />
have been made in tribute to the master, first in Italy, then in Europe. Beginning in 1891, imported<br />
goods and instruments to the United States were required to bear a label indicating the country of their<br />
origin.”<br />
Wow! This means my violin could be 283 years old according to the label. And if it had been a<br />
copy made prior to 1891, my violin could be at least 105 years old, an interesting antique! But the fact<br />
that a label is found on the violin does not guarantee it’s a genuine antique, much less a genuine<br />
“Strad.” You need more proof, and only the experts can determine its authenticity.<br />
While my son Jonathan and I continued our research for the fun of it, a story in <strong>The</strong> Huntsville<br />
Times on November 17, 1996 added to our excitement. On the night of the 28 February 1936, the story<br />
says, a Stradivarius violin had been stolen from the Polish virtuoso Bronislaw Huberman during his<br />
tour in New York City. Fifty years later, on his deathbed, the thief-- Julian Atman-- also a violinist,<br />
confessed his perfect crime to his wife. This widow later contacted the Lloyd Insurance Company in<br />
London and returned the stolen violin for a finder’s fee of $263,000. <strong>The</strong> same violin was resold at the<br />
price of $1.2 million in 1987. <strong>The</strong> violin in question was a Stradivarius 1713. This model is known in<br />
Europe as the “Gibson” or the “Boissier”-- Boissier being the name of its first owner. My violin was<br />
labeled as made in 1713, and curiously does match most of the details of the “Boissier” design,<br />
material, and construction, according to the latest data available to us. We were excited. We have even<br />
considered putting our violin in a secured place before we called upon the experts for further<br />
investigation.<br />
<strong>The</strong>n three weeks ago, Jonathan brought home the prestigious book of William E. Hill, an<br />
authority on Strad violins. <strong>The</strong> book settled the score, based upon this small detail on the label inside<br />
of the violin.<br />
On all Stradivarius’ original labels, the fabrication date of the instrument normally has two preprinted<br />
digits if the violin was made before 1700. If it was made after 1700, the year on the label will<br />
only have one pre-printed digit. <strong>The</strong> remaining digits of the year would be hand written in by the<br />
master himself. But the most curious thing here is that the master always placed a neat and<br />
unmistakable dot on top of his number “1.” It is consistent with all his written documents. On my<br />
violin’s 1713 label, alas, that special dot was missing!<br />
Reluctantly, we concluded that my violin must be a<br />
copy of the 1713 Stradivarius. But I just could not help<br />
pondering why the master always placed a dot on his<br />
number “1.” Was it a common writing practice in Italy<br />
in the 1700s, as the common French practice was to<br />
write the number 7 with a bar across the down stroke;<br />
or, was it just his personal style? I venture to say that it<br />
may have been his personal style because it reveals the<br />
predominant character of the master. That is his love<br />
for innovation, for engineering precision, and for extra<br />
care in his workmanship.<br />
Anyhow, the missing dot discovery reminds me of<br />
my first lesson on technical drafting: a line is a<br />
connection between two dots. When the line is created, the dots are missing; they blend into the<br />
connection. You see, by association of thoughts, there is a certain parallel in my situation: a dot was<br />
missing, but a connection was made. A connection to a wondrous world of music and history, that is.<br />
Wonder # 1. I know now I own a Stradivarius copy and by all means it is an excellent copy,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 146<br />
the Boissier copy! It is also nice to know that in those early days, many copies were produced by<br />
highly skilled instrument makers who were proud to place the master’s name on the label to claim that<br />
it was a faithful copy. This practice is described by researchers as an innocent practice back then to<br />
honor the master, and it was not intended as a fraud. Many copies are actually real jewels; such as the<br />
fine copies by Stainer in Germany, Lupot in France, and Dodd in England; but the best copies were the<br />
ones made by Geissenhof of Vienna.<br />
I still don’t know the origin of my violin, nor the name of the craftsman who built it. Perhaps I<br />
will never know. But I certainly want to praise his wonderful skill, which made such a work of art<br />
affordable to common folk.<br />
Wonder #2. <strong>The</strong> intensive research of the origin of my violin has given my son and me the<br />
thrill of re-discovering a fascinating piece of history. We felt as though we were transported back in<br />
time to the glorious epoch of the Renaissance where European architecture and music went through a<br />
marvelous revival. We’ve learned amazing details about the genius Stradivari and his fabulous life 300<br />
years ago. <strong>The</strong> master fascinates us with his incredible fertility of invention and his remarkable power<br />
of production into his nineties. He seemed to possess that magic ability to satisfy not just the<br />
demanding musicians and instrument connoisseurs of his time, but also to fill extravagant orders from<br />
eminent customers such as the King of Spain, the King of England, and in particular, the King of<br />
Poland. <strong>The</strong> latter King sent his Director of the Court of Music to Cremona in 1715 to stay there for<br />
three months waiting the completion of a set of 12 special-ordered violins.<br />
Stradivari’s keen knowledge of acoustic engineering paired with his superb design and his<br />
exceptional craftsmanship not only surpassed those of his contemporary rivals, they also challenge<br />
today’s technology. Critics of many generations have come to agree that a Stradivarius violin in the<br />
hand of a virtuoso most always produces an unequalled tone of richness and brilliancy that mesmerizes<br />
the audience and gives them incredible enjoyment.<br />
Wonder # 3. <strong>The</strong> missing dot no longer intrigues me as it first did. Instead, it inspires me with<br />
this thought: Each and every one of us as an individual is comparable to a single dot on a blank sheet<br />
of paper. Until the dots are connected, there is no form, no shape, and no meaning. People who are too<br />
wrapped up in themselves for some reason may be living more like a separate dot. Unconnected,<br />
uncommitted, they may have unknowingly excluded themselves from the marvelous experience of the<br />
human loving and sharing found only in genuine friendship and close-knit family love.<br />
As for me, I feel so blessed. Last year, when maple leaves turned orange and gold, that<br />
particular heart-warming color of the Stradivarius violin, I must confess that I could not find enough<br />
words to express my deep appreciation to my daughter-in-law, Sharon, for her thoughtful gift that has<br />
in a very special way enriched the Autumn days of my life beyond expectations. I came to realize that<br />
my dot has melted into a wonderful family connection and binding that grows strong every day in my<br />
heart and gives my life the best meaning of all. <strong>The</strong>refore, I can only say: Bless the magic dot! ■<br />
Madison, AL, 1997 - LLN<br />
THE INTRIGUING AND UNMISTAKABLE “DOT” ON ALL<br />
LABELS INSIDE OF AUTHENTIC STRADIVARIUS VIOLINS<br />
ARE SHOWN BELOW.<br />
MY VIOLON IS A COPY OF STRADIVARIUS MODEL 1713<br />
DOES NOT HAVE THE “DOT”.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 147<br />
Le Misanthrope<br />
de Molière (1622-1673)<br />
Comédie représentée pour la première fois à Paris sur le théâtre du Palais-Royal le 4 juin 1666 par la<br />
Troupe du Roi.<br />
ACTEURS<br />
ALCESTE, amant de Célimène.<br />
PHILINTE, ami d'Alceste.<br />
ORONTE, amant de Célimène.<br />
CÉLIMÈNE, amante d'Alceste.<br />
ELIANTE, cousine de Célimène.<br />
ARSINOÉ, amie de Célimène.<br />
ACASTE, marquis.<br />
CLITANDRE, marquis.<br />
BASQUE, valet de Célimène.<br />
UN GARDE de la Maréchaussée de France.<br />
DU BOIS, valet d'Alceste.<br />
La scène est à Paris.<br />
Acte Ier<br />
Acte II<br />
Acte III<br />
Acte IV<br />
Acte V
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 148<br />
ACTE I, Scène première<br />
PHILINTE, ALCESTE.<br />
PHILINTE<br />
Qu'est-ce donc? Qu'avez-vous?<br />
ALCESTE, assis.<br />
Laissez-moi, je vous prie.<br />
PHILINTE<br />
Mais encor dites-moi quelle bizarrerie...<br />
ALCESTE<br />
Laissez-moi là, vous dis-je, et courez vous cacher.<br />
PHILINTE<br />
Mais on entend les gens, au moins, sans se fâcher.<br />
ALCESTE<br />
Moi, je veux me fâcher, et ne veux point entendre.<br />
PHILINTE<br />
<strong>Dan</strong>s vos brusques chagrins je ne puis vous comprendre,<br />
Et quoique amis enfin, je suis tout des premiers...<br />
ALCESTE, se levant brusquement.<br />
Moi, votre ami? Rayez cela de vos papiers.<br />
J'ai fait jusques ici profession de l'être;<br />
Mais après ce qu'en vous je viens de voir paraître,<br />
Je vous déclare net que je ne le suis plus,<br />
Et ne veux nulle place en des coeurs corrompus.<br />
PHILINTE<br />
Je suis donc bien coupable, Alceste, à votre compte?<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 149<br />
Allez, vous devriez mourir de pure honte;<br />
Une telle action ne saurait s'excuser,<br />
Et tout homme d'honneur s'en doit scandaliser.<br />
Je vous vois accabler un homme de caresses,<br />
Et témoigner pour lui les dernières tendresses;<br />
De protestations, d'offres et de serments,<br />
Vous chargez la fureur de vos embrassements;<br />
Et quand je vous demande après quel est cet homme,<br />
À peine pouvez-vous dire comme il se nomme;<br />
Votre chaleur pour lui tombe en vous séparant,<br />
Et vous me le traitez, à moi, d'indifférent.<br />
Morbleu! c'est une chose indigne, lâche, infâme,<br />
De s'abaisser ainsi jusqu'à trahir son âme;<br />
Et si, par un malheur, j'en avais fait autant,<br />
Je m'irais, de regret, pendre tout à l'instant.<br />
PHILINTE<br />
Je ne vois pas, pour moi, que le cas soit pendable,<br />
Et je vous supplierai d'avoir pour agréable<br />
Que je me fasse un peu grâce sur votre arrêt,<br />
Et ne me pende pas pour cela, s'il vous plaît.<br />
ALCESTE<br />
Que la plaisanterie est de mauvaise grâce!<br />
PHILINTE<br />
Mais, sérieusement, que voulez-vous qu'on fasse?<br />
ALCESTE<br />
Je veux qu'on soit sincère, et qu'en homme d'honneur,<br />
On ne lâche aucun mot qui ne parte du cœur.<br />
PHILINTE<br />
Lorsqu'un homme vous vient embrasser avec joie,<br />
Il faut bien le payer de la même monnoie,<br />
Répondre, comme on peut, à ses empressements,<br />
Et rendre offre pour offre, et serments pour serments.<br />
ALCESTE<br />
Non, je ne puis souffrir cette lâche méthode<br />
Qu'affectent la plupart de vos gens à la mode;
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 150<br />
Et je ne hais rien tant que les contorsions<br />
De tous ces grands faiseurs de protestations,<br />
Ces affables donneurs d'embrassades frivoles,<br />
Ces obligeants diseurs d'inutiles paroles,<br />
Qui de civilités avec tous font combat,<br />
Et traitent du même air l'honnête homme et le fat.<br />
Quel avantage a-t-on qu'un homme vous caresse,<br />
Vous jure amitié, foi, zèle, estime, tendresse,<br />
Et vous fasse de vous un éloge éclatant,<br />
Lorsque au premier faquin il court en faire autant?<br />
Non, non, il n'est point d'âme un peu bien située<br />
Qui veuille d'une estime ainsi prostituée.<br />
Et la plus glorieuse a des régals peu chers,<br />
Dès qu'on voit qu'on nous mêle avec tout l'univers:<br />
Sur quelque préférence une estime se fonde,<br />
Et c'est n'estimer rien qu'estimer tout le monde.<br />
Puisque vous y donnez, dans ces vices du temps,<br />
Morbleu! vous n'êtes pas pour être de mes gens;<br />
Je refuse d'un cœur la vaste complaisance<br />
Qui ne fait de mérite aucune différence;<br />
Je veux qu'on me distingue; et pour le trancher net,<br />
L'ami du genre humain n'est point du tout mon fait.<br />
PHILINTE<br />
Mais, quand on est du monde, il faut bien que l'on rende<br />
Quelques dehors civils que l'usage demande.<br />
ALCESTE<br />
Non, vous dis-je, on devrait châtier, sans pitié,<br />
Ce commerce honteux de semblants d'amitié.<br />
Je veux que l'on soit homme, et qu'en toute rencontre<br />
Le fond de notre cœur dans nos discours se montre,<br />
Que ce soit lui qui parle, et que nos sentiments<br />
Ne se masquent jamais sous de vains compliments.<br />
PHILINTE<br />
Il est bien des endroits où la pleine franchise<br />
Deviendrait ridicule et serait peu permise;<br />
Et parfois, n'en déplaise à votre austère honneur,<br />
Il est bon de cacher ce qu'on a dans le cœur.<br />
Serait-il à propos et de la bienséance<br />
De dire à mille gens tout ce que d'eux on pense?<br />
Et quand on a quelqu'un qu'on hait ou qui déplaît,<br />
Lui doit-on déclarer la chose comme elle est?
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 151<br />
ALCESTE<br />
Oui.<br />
PHILINTE<br />
Quoi? Vous iriez dire à la vieille milie<br />
Qu'à son âge il sied mal de faire la jolie,<br />
Et que le blanc qu'elle a scandalise chacun?<br />
ALCESTE<br />
Sans doute.<br />
PHILINTE<br />
À Dorilas, qu'il est trop importun,<br />
Et qu'il n'est, à la cour, oreille qu'il ne lasse<br />
À conter sa bravoure et l'éclat de sa race?<br />
ALCESTE<br />
Fort bien.<br />
PHILINTE<br />
Vous vous moquez.<br />
ALCESTE<br />
Je ne me moque point,<br />
Et je vais n'épargner personne sur ce point.<br />
Mes yeux sont trop blessés, et la cour et la ville<br />
Ne m'offrent rien qu'objets à m'échauffer la bile;<br />
J'entre en une humeur noire, en un chagrin profond,<br />
Quand je vois vivre entre eux les hommes comme ils font;<br />
Je ne trouve partout que lâche flatterie,<br />
Qu'injustice, intérêt, trahison, fourberie.<br />
Je n'y puis plus tenir, j'enrage, et mon dessein<br />
Est de rompre en visière à tout le genre humain.<br />
PHILINTE<br />
Ce chagrin philosophe est un peu trop sauvage,<br />
Je ris des noirs accès où je vous envisage,<br />
Et crois voir en nous deux, sous mêmes soins nourris,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 152<br />
Ces deux frères que peint l’École des maris,<br />
Dont...<br />
ALCESTE<br />
Mon Dieu! Laissons là vos comparaisons fades.<br />
PHILINTE<br />
Non: tout de bon, quittez toutes ces incartades.<br />
Le monde par vos soins ne se changera pas;<br />
Et puisque la franchise a pour vous tant d'appas,<br />
Je vous dirai tout franc que cette maladie,<br />
Partout où vous allez, donne la comédie,<br />
Et qu'un si grand courroux contre les mœurs du temps<br />
Vous tourne en ridicule auprès de bien des gens.<br />
ALCESTE<br />
Tant mieux, morbleu! tant mieux, c'est ce que je demande;<br />
Ce m'est un fort bon signe, et ma joie en est grande:<br />
Tous les hommes me sont à tel point odieux,<br />
Que je serais fâché d'être sage à leurs yeux.<br />
PHILINTE<br />
Vous voulez un grand mal à la nature humaine!<br />
ALCESTE<br />
Oui, j'ai conçu pour elle une effroyable haine.<br />
PHILINTE<br />
Tous les pauvres mortels, sans nulle exception,<br />
Seront enveloppés dans cette aversion?<br />
Encore en est-il bien, dans le siècle où nous sommes...<br />
ALCESTE<br />
Non: elle est générale, et je hais tous les hommes:<br />
Les uns, parce qu'ils sont méchants et malfaisants,<br />
Et les autres, pour être aux méchants complaisants,<br />
Et n'avoir pas pour eux ces haines vigoureuses<br />
Que doit donner le vice aux âmes vertueuses.<br />
De cette complaisance on voit l'injuste excès<br />
Pour le franc scélérat avec qui j'ai procès:
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 153<br />
Au travers de son masque on voit à plein le traître;<br />
Partout il est connu pour tout ce qu'il peut être;<br />
Et ses roulements d'yeux et son ton radouci<br />
N'imposent qu'à des gens qui ne sont point d'ici.<br />
On sait que ce pied plat, digne qu'on le confonde,<br />
Par de sales emplois s'est poussé dans le monde,<br />
Et que par eux son sort de splendeur revêtu<br />
Fait gronder le mérite et rougir la vertu.<br />
Quelques titres honteux qu'en tous lieux on lui donne,<br />
Son misérable honneur ne voit pour lui personne;<br />
Nommez-le fourbe, infâme et scélérat maudit,<br />
Tout le monde en convient, et nul n'y contredit.<br />
Cependant sa grimace est partout bienvenue:<br />
On l'accueille, on lui rit, partout il s'insinue;<br />
Et s'il est, par la brigue, un rang à disputer,<br />
Sur le plus honnête homme on le voit l'emporter.<br />
Têtebleu! Ce me sont de mortelles blessures,<br />
De voir qu'avec le vice on garde des mesures;<br />
Et parfois il me prend des mouvements soudains<br />
De fuir dans un désert l'approche des humains.<br />
PHILINTE<br />
Mon Dieu, des mœurs du temps mettons-nous moins en peine,<br />
Et faisons un peu grâce à la nature humaine.<br />
Ne l'examinons point dans la grande rigueur,<br />
Et voyons ses défauts avec quelque douceur.<br />
Il faut, parmi le monde, une vertu traitable;<br />
À force de sagesse, on peut être blâmable;<br />
La parfaite raison fuit toute extrémité,<br />
Et veut que l'on soit sage avec sobriété.<br />
Cette grande raideur des vertus des vieux âges<br />
Heurte trop notre siècle et les communs usages;<br />
Elle veut aux mortels trop de perfection:<br />
Il faut fléchir au temps sans obstination;<br />
Et c'est une folie à nulle autre seconde<br />
De vouloir se mêler de corriger le monde.<br />
J'observe, comme vous, cent choses tous les jours,<br />
Qui pourraient mieux aller, prenant un autre cours;<br />
Mais quoi qu'à chaque pas je puisse voir paraître,<br />
En courroux, comme vous, on ne me voit point être;<br />
Je prends tout doucement les hommes comme ils sont,<br />
J'accoutume mon âme à souffrir ce qu'ils font;<br />
Et je crois qu'à la cour, de même qu'à la ville,<br />
Mon flegme est philosophe autant que votre bile.<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 154<br />
Mais ce flegme, Monsieur, qui raisonnez si bien,<br />
Ce flegme pourra-t-il ne s'échauffer de rien?<br />
Et s'il faut par hasard qu'un ami vous trahisse,<br />
Que, pour avoir vos biens, on dresse un artifice,<br />
Ou qu'on tâche à semer de méchants bruits de vous,<br />
Verrez-vous tout cela sans vous mettre en courroux?<br />
PHILINTE<br />
Oui, je vois ces défauts dont votre âme murmure<br />
Comme vices unis à l'humaine nature;<br />
Et mon esprit enfin n'est pas plus offensé<br />
De voir un homme fourbe, injuste, intéressé,<br />
Que de voir des vautours affamés de carnage,<br />
Des singes malfaisants, et des loups pleins de rage.<br />
ALCESTE<br />
Je me verrai trahir, mettre en pièces, voler,<br />
Sans que je sois... Morbleu! je ne veux point parler,<br />
Tant ce raisonnement est plein d'impertinence.<br />
PHILINTE<br />
Ma foi! vous ferez bien de garder le silence.<br />
Contre votre partie éclatez un peu moins,<br />
Et donnez au procès une part de vos soins.<br />
ALCESTE<br />
Je n'en donnerai point, c'est une chose dite.<br />
PHILINTE<br />
Mais qui voulez-vous donc qui pour vous sollicite?<br />
ALCESTE<br />
Qui je veux? La raison, mon bon droit, l'équité.<br />
PHILINTE<br />
Aucun juge par vous ne sera visité?<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 155<br />
Non. Est-ce que ma cause est injuste ou douteuse?<br />
PHILINTE<br />
J'en demeure d'accord; mais la brigue est fâcheuse,<br />
Et...<br />
ALCESTE<br />
Non: j'ai résolu de n'en pas faire un pas.<br />
J'ai tort, ou j'ai raison.<br />
PHILINTE<br />
Ne vous y fiez pas.<br />
ALCESTE<br />
Je ne remuerai point.<br />
PHILINTE<br />
Votre partie est forte,<br />
Et peut, par sa cabale, entraîner...<br />
ALCESTE<br />
Il n'importe.<br />
PHILINTE<br />
Vous vous tromperez.<br />
ALCESTE<br />
Soit. J'en veux voir le succès.<br />
PHILINTE<br />
Mais...<br />
ALCESTE<br />
J'aurai le plaisir de perdre mon procès.<br />
PHILINTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 156<br />
Mais enfin...<br />
ALCESTE<br />
Je verrai, dans cette plaiderie,<br />
Si les hommes auront assez d'effronterie,<br />
Seront assez méchants, scélérats et pervers,<br />
Pour me faire injustice aux yeux de l'univers.<br />
PHILINTE<br />
Quel homme!<br />
ALCESTE<br />
Je voudrais, m'en coutât-il grand'chose,<br />
Pour la beauté du fait avoir perdu ma cause.<br />
PHILINTE<br />
On se rirait de vous, Alceste, tout de bon,<br />
Si l'on vous entendait parler de la façon.<br />
ALCESTE<br />
Tant pis pour qui rirait.<br />
PHILINTE<br />
Mais cette rectitude<br />
Que vous voulez en tout avec exactitude,<br />
Cette pleine droiture, où vous vous renfermez,<br />
La trouvez-vous ici dans ce que vous aimez?<br />
Je m'étonne, pour moi, qu'étant, comme il le semble,<br />
Vous et le genre humain si fort brouillés ensemble,<br />
Malgré tout ce qui peut vous le rendre odieux,<br />
Vous ayez pris chez lui ce qui charme vos yeux;<br />
Et ce qui me surprend encore davantage,<br />
C'est cet étrange choix où votre cœur s'engage.<br />
La sincère Éliante a du penchant pour vous,<br />
La prude Arsinoé vous voit d'un œil fort doux:<br />
Cependant à leurs vœux votre âme se refuse,<br />
Tandis qu'en ses liens Célimène l'amuse,<br />
De qui l'humeur coquette et l'esprit médisant<br />
Semblent si fort donner dans les mœurs d'à présent.<br />
D'où vient que, leur portant une haine mortelle,<br />
Vous pouvez bien souffrir ce qu'en tient cette belle?
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 157<br />
Ne sont-ce plus défauts dans un objet si doux?<br />
Ne les voyez-vous pas? ou les excusez-vous?<br />
ALCESTE<br />
Non, l'amour que je sens pour cette jeune veuve<br />
Ne ferme point mes yeux aux défauts qu'on lui treuve,<br />
Et je suis, quelque ardeur qu'elle m'ait pu donner,<br />
Le premier à les voir, comme à les condamner.<br />
Mais, avec tout cela, quoi que je puisse faire,<br />
Je confesse mon faible, elle a l'art de me plaire:<br />
J'ai beau voir ses défauts, et j'ai beau l'en blâmer,<br />
En dépit qu'on en ait, elle se fait aimer;<br />
Sa grâce est la plus forte; et sans doute ma flamme<br />
De ces vices du temps pourra purger son âme.<br />
PHILINTE<br />
Si vous faites cela, vous ne ferez pas peu.<br />
Vous croyez être donc aimé d'elle?<br />
ALCESTE<br />
Oui, parbleu!<br />
Je ne l'aimerais pas, si je ne croyais l'être.<br />
PHILINTE<br />
Mais si son amitié pour vous se fait paraître,<br />
D'où vient que vos rivaux vous causent de l'ennui?<br />
ALCESTE<br />
C'est qu'un cœur bien atteint veut qu'on soit tout à lui,<br />
Et je ne viens ici qu'à dessein de lui dire<br />
Tout ce que là-dessus ma passion m'inspire.<br />
PHILINTE<br />
Pour moi, si je n'avais qu'à former des désirs,<br />
Sa cousine Éliante aurait tous mes soupirs;<br />
Son cœur, qui vous estime, est solide et sincère,<br />
Et ce choix plus conforme était mieux votre affaire.<br />
ALCESTE<br />
Il est vrai: ma raison me le dit chaque jour;
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 158<br />
Mais la raison n'est pas ce qui règle l'amour.<br />
PHILINTE<br />
Je crains fort pour vos feux; et l'espoir où vous êtes<br />
Pourrait...<br />
Scène II<br />
ORONTE, ALCESTE, PHILINTE.<br />
ORONTE<br />
J'ai su là-bas que, pour quelques emplettes,<br />
Eliante est sortie, et Célimène aussi;<br />
Mais comme l'on m'a dit que vous étiez ici,<br />
J'ai monté pour vous dire, et d'un cœur véritable,<br />
Que j'ai conçu pour vous une estime incroyable,<br />
Et que, depuis longtemps, cette estime m'a mis<br />
<strong>Dan</strong>s un ardent désir d'être de vos amis.<br />
Oui, mon cœur au mérite aime à rendre justice,<br />
Et je brûle qu'un nœud d'amitié nous unisse:<br />
Je crois qu'un ami chaud, et de ma qualité,<br />
N'est pas assurément pour être rejeté.<br />
C'est à vous, s'il vous plaît, que ce discours s'adresse.<br />
En cet endroit Alceste paraît tout rêveur,<br />
Et semble n'entendre pas qu'Oronte lui parle.<br />
ALCESTE<br />
À moi, Monsieur?<br />
ORONTE<br />
À vous. Trouvez-vous qu'il vous blesse?<br />
ALCESTE<br />
Non pas; mais la surprise est fort grande pour moi,<br />
Et je n'attendais pas l'honneur que je reçoi.<br />
ORONTE<br />
L'estime où je vous tiens ne doit point vous surprendre,<br />
Et de tout l'univers vous la pouvez prétendre.<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 159<br />
Monsieur...<br />
ORONTE<br />
L'Etat n'a rien qui ne soit au-dessous<br />
Du mérite éclatant que l'on découvre en vous.<br />
ALCESTE<br />
Monsieur...<br />
ORONTE<br />
Oui, de ma part, je vous tiens préférable<br />
À tout ce que j'y vois de plus considérable.<br />
ALCESTE<br />
Monsieur...<br />
ORONTE<br />
Sois-je du Ciel écrasé, si je mens!<br />
Et pour vous confirmer ici mes sentiments,<br />
Souffrez qu'à cœur ouvert, Monsieur, je vous embrasse,<br />
Et qu'en votre amitié je vous demande place.<br />
Touchez là, s'il vous plaît, vous me la promettez,<br />
Votre amitié?<br />
ALCESTE<br />
Monsieur...<br />
ORONTE<br />
Quoi? vous y résistez?<br />
ALCESTE<br />
Monsieur, c'est trop d'honneur que vous me voulez faire;<br />
Mais l'amitié demande un peu plus de mystère,<br />
Et c'est assurément en profaner le nom<br />
Que de vouloir le mettre à toute occasion.<br />
Avec lumière et choix cette union veut naître;<br />
Avant que nous lier, il faut nous mieux connaître,<br />
Et nous pourrions avoir telles complexions,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 160<br />
Que tous deux du marché nous nous repentirions.<br />
ORONTE<br />
Parbleu! c'est là-dessus parler en homme sage,<br />
Et je vous en estime encore davantage:<br />
Souffrons donc que le temps forme des nœuds si doux;<br />
Mais, cependant, je m'offre entièrement à vous:<br />
S'il faut faire à la cour pour vous quelque ouverture,<br />
On sait qu'auprès du Roi je fais quelque figure;<br />
Il m'écoute; et dans tout, il en use, ma foi!<br />
Le plus honnêtement du monde avecque moi.<br />
Enfin je suis à vous de toutes les manières;<br />
Et comme votre esprit a de grandes lumières,<br />
Je viens, pour commencer entre nous ce beau nœud,<br />
Vous montrer un sonnet que j'ai fait depuis peu,<br />
Et savoir s'il est bon qu'au public je l'expose.<br />
ALCESTE<br />
Monsieur, je suis mal propre à décider la chose;<br />
Veuillez m'en dispenser.<br />
ORONTE<br />
Pourquoi?<br />
ALCESTE<br />
J'ai le défaut<br />
D'être un peu plus sincère en cela qu'il ne faut.<br />
ORONTE<br />
C'est ce que je demande, et j'aurais lieu de plainte,<br />
Si, m'exposant à vous pour me parler sans feinte,<br />
Vous alliez me trahir, et me déguiser rien.<br />
ALCESTE<br />
Puisqu'il vous plaît ainsi, Monsieur, je le veux bien.<br />
ORONTE<br />
Sonnet... C'est un sonnet. L'espoir... C'est une dame<br />
Qui de quelque espérance avait flatté ma flamme.<br />
L'espoir... Ce ne sont point de ces grands vers pompeux,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 161<br />
Mais de petits vers doux, tendres et langoureux.<br />
à toutes ces interruptions il regarde Alceste.<br />
ALCESTE<br />
Nous verrons bien.<br />
ORONTE<br />
L'espoir... Je ne sais si le style<br />
Pourra vous en paraître assez net et facile,<br />
Et si du choix des mots vous vous contenterez.<br />
ALCESTE<br />
Nous allons voir, Monsieur.<br />
ORONTE<br />
Au reste, vous saurez<br />
Que je n'ai demeuré qu'un quart d'heure à le faire.<br />
ALCESTE<br />
Voyons, Monsieur; le temps ne fait rien à l'affaire.<br />
ORONTE<br />
L'espoir, il est vrai, nous soulage,<br />
Et nous berce un temps notre ennui;<br />
Mais, Philis, le triste avantage,<br />
Lorsque rien ne marche après lui!<br />
PHILINTE<br />
Je suis déjà charmé de ce petit morceau.<br />
ALCESTE, bas.<br />
Quoi? vous avez le front de trouver cela beau?<br />
ORONTE<br />
Vous eûtes de la complaisance;<br />
Mais vous en deviez moins avoir,<br />
Et ne vous pas mettre en dépense<br />
Pour ne me donner que l'espoir.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 162<br />
PHILINTE<br />
Ah! qu'en termes galants ces choses-là sont mises!<br />
ALCESTE, bas.<br />
Hé quoi! vil complaisant, vous louez des sottises?<br />
ORONTE<br />
S'il faut qu'une attente éternelle<br />
Pousse à bout l'ardeur de mon zèle,<br />
Le trépas sera mon recours.<br />
Vos soins ne m'en peuvent distraire:<br />
Belle Philis, on désespère,<br />
Alors qu'on espère toujours.<br />
PHILINTE<br />
La chute en est jolie, amoureuse, admirable.<br />
ALCESTE, bas.<br />
La peste de ta chute! Empoisonneur au diable,<br />
En eusses-tu fait une à te casser le nez!<br />
PHILINTE<br />
Je n'ai jamais ouï de vers si bien tournés.<br />
ALCESTE<br />
Morbleu!...<br />
ORONTE<br />
Vous me flattez, et vous croyez peut-être...<br />
PHILINTE<br />
Non, je ne flatte point.<br />
ALCESTE, bas.<br />
Et que fais-tu donc, traître?
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 163<br />
ORONTE<br />
Mais, pour vous, vous savez quel est notre traité:<br />
Parlez-moi, je vous prie, avec sincérité.<br />
ALCESTE<br />
Monsieur, cette matière est toujours délicate,<br />
Et sur le bel esprit nous aimons qu'on nous flatte.<br />
Mais un jour, à quelqu'un, dont je tairai le nom,<br />
Je disais, en voyant des vers de sa façon,<br />
Qu'il faut qu'un galant homme ait toujours grand empire<br />
Sur les démangeaisons qui nous prennent d'écrire,<br />
Qu'il doit tenir la bride aux grands empressements<br />
Qu'on a de faire éclat de tels amusements,<br />
Et que, par la chaleur de montrer ses ouvrages,<br />
On s'expose à jouer de mauvais personnages.<br />
ORONTE<br />
Est-ce que vous voulez me déclarer par là<br />
Que j'ai tort de vouloir...?<br />
ALCESTE<br />
Je ne dis pas cela;<br />
Mais je lui disais, moi, qu'un froid écrit assomme,<br />
Qu'il ne faut que ce faible à décrier un homme,<br />
Et qu'eût-on, d'autre part, cent belles qualités,<br />
On regarde les gens par leurs méchants côtés.<br />
ORONTE<br />
Est-ce qu'à mon sonnet vous trouvez à redire?<br />
ALCESTE<br />
Je ne dis pas cela; mais, pour ne point écrire,<br />
Je lui mettais aux yeux comme, dans notre temps,<br />
Cette soif a gâté de fort honnêtes gens.<br />
ORONTE<br />
Est-ce que j'écris mal? Et leur ressemblerais-je?<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 164<br />
Je ne dis pas cela; mais enfin, lui disais-je,<br />
Quel besoin si pressant avez-vous de rimer?<br />
Et qui diantre vous pousse à vous faire imprimer?<br />
Si l'on peut pardonner l'essor d'un mauvais livre,<br />
Ce n'est qu'aux malheureux qui composent pour vivre.<br />
Croyez-moi, résistez à vos tentations,<br />
Dérobez au public ces occupations;<br />
Et n'allez point quitter, de quoi que l'on vous somme,<br />
Le nom que dans la cour vous avez d'honnête homme,<br />
Pour prendre, de la main d'un avide imprimeur,<br />
Celui de ridicule et misérable auteur.<br />
C'est ce que je tâchai de lui faire comprendre.<br />
ORONTE<br />
Voilà qui va fort bien, et je crois vous entendre.<br />
Mais ne puis-je savoir ce que dans mon sonnet...?<br />
ALCESTE<br />
Franchement, il est bon à mettre au cabinet.<br />
Vous vous êtes réglé sur de méchants modèles,<br />
Et vos expressions ne sont point naturelles.<br />
Qu'est-ce que Nous berce un temps notre ennui?<br />
Et que Rien ne marche après lui?<br />
Que Ne vous pas mettre en dépense,<br />
Pour ne me donner que l'espoir?<br />
Et que Philis, on désespère,<br />
Alors qu'on espère toujours?<br />
Ce style figuré, dont on fait vanité,<br />
Sort du bon caractère et de la vérité:<br />
Ce n'est que jeu de mots, qu'affectation pure,<br />
Et ce n'est point ainsi que parle la nature.<br />
Le méchant goût du siècle, en cela, me fait peur.<br />
Nos pères, tous grossiers, l'avaient beaucoup meilleur,<br />
Et je prise bien moins tout ce que l'on admire,<br />
Qu'une vieille chanson que je m'en vais vous dire:<br />
Si le Roi m'avait donné<br />
Paris, sa grand'ville,<br />
Et qu'il me fallût quitter<br />
L'amour de ma mie,<br />
Je dirais au roi Henri:<br />
"Reprenez votre Paris:<br />
J'aime mieux ma mie, au gué!<br />
J'aime mieux ma mie."
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 165<br />
La rime n'est pas riche, et le style en est vieux:<br />
Mais ne voyez-vous pas que cela vaut bien mieux<br />
Que ces colifichets, dont le bon sens murmure,<br />
Et que la passion parle là toute pure?<br />
Si le Roi m'avait donné<br />
Paris, sa grand'ville,<br />
Et qu'il me fallût quitter<br />
L'amour de ma mie,<br />
Je dirais au roi Henri:<br />
"Reprenez votre Paris:<br />
J'aime mieux ma mie, au gué!<br />
J'aime mieux ma mie."<br />
Voilà ce que peut dire un cœur vraiment épris.<br />
(à Philinte.)<br />
Oui, Monsieur le rieur, malgré vos beaux esprits,<br />
J'estime plus cela que la pompe fleurie<br />
De tous ces faux brillants, où chacun se récrie.<br />
ORONTE<br />
Et moi, je vous soutiens que mes vers sont fort bons.<br />
ALCESTE<br />
Pour les trouver ainsi vous avez vos raisons;<br />
Mais vous trouverez bon que j'en puisse avoir d'autres,<br />
Qui se dispenseront de se soumettre aux vôtres.<br />
ORONTE<br />
Il me suffit de voir que d'autres en font cas.<br />
ALCESTE<br />
C'est qu'ils ont l'art de feindre; et moi, je ne l'ai pas.<br />
ORONTE<br />
Croyez-vous donc avoir tant d'esprit en partage?<br />
ALCESTE<br />
Si je louais vos vers, j'en aurais davantage.<br />
ORONTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 166<br />
Je me passerai fort que vous les approuviez.<br />
ALCESTE<br />
Il faut bien, s'il vous plaît, que vous vous en passiez.<br />
ORONTE<br />
Je voudrais bien, pour voir, que, de votre manière,<br />
Vous en composassiez sur la même matière.<br />
ALCESTE<br />
J'en pourrais, par malheur, faire d'aussi méchants;<br />
Mais je me garderais de les montrer aux gens.<br />
ORONTE<br />
Vous me parlez bien ferme, et cette suffisance...<br />
ALCESTE<br />
Autre part que chez moi cherchez qui vous encense.<br />
ORONTE<br />
Mais, mon petit Monsieur, prenez-le un peu moins haut.<br />
ALCESTE<br />
Ma foi! mon grand Monsieur, je le prends comme il faut.<br />
PHILINTE, se mettant entre deux.<br />
Eh! Messieurs, c'en est trop: laissez cela, de grâce.<br />
ORONTE<br />
Ah! j'ai tort, je l'avoue, et je quitte la place.<br />
Je suis votre valet, Monsieur, de tout mon cœur.<br />
ALCESTE<br />
Et moi, je suis, Monsieur, votre humble serviteur.<br />
Scène III
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 167<br />
PHILINTE, ALCESTE.<br />
PHILINTE<br />
Hé bien! vous le voyez: pour être trop sincère,<br />
Vous voilà sur les bras une fâcheuse affaire.<br />
Et j'ai bien vu qu'Oronte, afin d'être flatté...<br />
ALCESTE<br />
Ne me parlez pas.<br />
PHILINTE<br />
Mais...<br />
ALCESTE<br />
Plus de société.<br />
PHILINTE<br />
C'est trop...<br />
ALCESTE<br />
Laissez-moi là.<br />
PHILINTE<br />
Si je...<br />
ALCESTE<br />
Point de langage.<br />
PHILINTE<br />
Mais quoi...?<br />
ALCESTE<br />
Je n'entends rien.<br />
PHILINTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 168<br />
Mais...<br />
ALCESTE<br />
Encor?<br />
PHILINTE<br />
On outrage...<br />
ALCESTE<br />
Ah, parbleu! c'en est trop; ne suivez point mes pas.<br />
PHILINTE<br />
Vous vous moquez de moi, je ne vous quitte pas.<br />
ACTE II, Scène première<br />
ALCESTE, CÉLIMÈNE.<br />
ALCESTE<br />
Madame, voulez-vous que je vous parle net?<br />
De vos façons d'agir je suis mal satisfait;<br />
Contre elles dans mon cœur trop de bile s'assemble,<br />
Et je sens qu'il faudra que nous rompions ensemble.<br />
Oui, je vous tromperais de parler autrement;<br />
Tôt ou tard nous romprons indubitablement;<br />
Et je vous promettrais mille fois le contraire,<br />
Que je ne serais pas en pouvoir de le faire.<br />
CÉLIMÈNE<br />
C'est pour me quereller donc, à ce que je voi,<br />
Que vous avez voulu me ramener chez moi?<br />
ALCESTE<br />
Je ne querelle point; mais votre humeur, Madame,<br />
Ouvre au premier venu trop d'accès dans votre âme:<br />
Vous avez trop d'amants qu'on voit vous obséder,<br />
Et mon cœur de cela ne peut s'accommoder.<br />
CÉLIMÈNE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 169<br />
Des amants que je fais me rendez-vous coupable?<br />
Puis-je empêcher les gens de me trouver aimable?<br />
Et lorsque pour me voir ils font de doux efforts,<br />
Dois-je prendre un bâton pour les mettre dehors?<br />
ALCESTE<br />
Non, ce n'est pas, Madame, un bâton qu'il faut prendre,<br />
Mais un cœur à leurs vœux moins facile et moins tendre.<br />
Je sais que vos appas vous suivent en tous lieux;<br />
Mais votre accueil retient ceux qu'attirent vos yeux;<br />
Et sa douceur offerte à qui vous rend les armes<br />
Achève sur les cours l'ouvrage de vos charmes.<br />
Le trop riant espoir que vous leur présentez<br />
Attache autour de vous leurs assiduités;<br />
Et votre complaisance un peu moins étendue<br />
De tant de soupirants chasserait la cohue.<br />
Mais au moins dites-moi, Madame, par quel sort<br />
Votre Clitandre a l'heur de vous plaire si fort?<br />
Sur quel fonds de mérite et de vertu sublime<br />
Appuyez-vous en lui l'honneur de votre estime?<br />
Est-ce par l'ongle long qu'il porte au petit doigt<br />
Qu'il s'est acquis chez vous l'estime où l'on le voit?<br />
Vous êtes-vous rendue, avec tout le beau monde,<br />
Au mérite éclatant de sa perruque blonde?<br />
Sont-ce ses grands canons qui vous le font aimer?<br />
L'amas de ses rubans a-t-il su vous charmer?<br />
Est-ce par les appas de sa vaste rhingrave<br />
Qu'il a gagné votre âme en faisant votre esclave?<br />
Ou sa façon de rire et son ton de fausset<br />
Ont-ils de vous toucher su trouver le secret?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Qu'injustement de lui vous prenez de l'ombrage!<br />
Ne savez-vous pas bien pourquoi je le ménage,<br />
Et que dans mon procès, ainsi qu'il m'a promis,<br />
Il peut intéresser tout ce qu'il a d'amis?<br />
ALCESTE<br />
Perdez votre procès, Madame, avec constance,<br />
Et ne ménagez point un rival qui m'offense.<br />
CÉLIMÈNE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 170<br />
Mais de tout l'univers vous devenez jaloux.<br />
ALCESTE<br />
C'est que tout l'univers est bien reçu de vous.<br />
CÉLIMÈNE<br />
C'est ce qui doit rasseoir votre âme effarouchée,<br />
Puisque ma complaisance est sur tous épanchée;<br />
Et vous auriez plus lieu de vous en offenser,<br />
Si vous me la voyiez sur un seul ramasser.<br />
ALCESTE<br />
Mais moi, que vous blâmez de trop de jalousie,<br />
Qu'ai-je de plus qu'eux tous, Madame, je vous prie?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Le bonheur de savoir que vous êtes aimé.<br />
ALCESTE<br />
Et quel lieu de le croire a mon cœur enflammé?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Je pense qu'ayant pris le soin de vous le dire,<br />
Un aveu de la sorte a de quoi vous suffire.<br />
ALCESTE<br />
Mais qui m'assurera que, dans le même instant,<br />
Vous n'en disiez peut-être aux autres tout autant?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Certes, pour un amant, la fleurette est mignonne,<br />
Et vous me traitez là de gentille personne.<br />
Hé bien! Pour vous ôter d'un semblable souci,<br />
De tout ce que j'ai dit je me dédis ici,<br />
Et rien ne saurait plus vous tromper que vous-même:<br />
Soyez content.<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 171<br />
Morbleu! faut-il que je vous aime?<br />
Ah! que si de vos mains je rattrape mon cœur,<br />
Je bénirai le Ciel de ce rare bonheur!<br />
Je ne le cèle pas, je fais tout mon possible<br />
À rompre de ce cœur l'attachement terrible;<br />
Mais mes plus grands efforts n'ont rien fait jusqu'ici,<br />
Et c'est pour mes péchés que je vous aime ainsi.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Il est vrai, votre ardeur est pour moi sans seconde.<br />
ALCESTE<br />
Oui, je puis là-dessus défier tout le monde.<br />
Mon amour ne se peut concevoir, et jamais<br />
Personne n'a, Madame, aimé comme je fais.<br />
CÉLIMÈNE<br />
En effet, la méthode en est toute nouvelle,<br />
Car vous aimez les gens pour leur faire querelle;<br />
Ce n'est qu'en mots fâcheux qu'éclate votre ardeur,<br />
Et l'on n'a vu jamais un amant si grondeur.<br />
ALCESTE<br />
Mais il ne tient qu'à vous que son chagrin ne passe.<br />
À tous nos démêlés coupons chemin, de grâce,<br />
Parlons à cœur ouvert, et voyons d'arrêter...<br />
Scène II<br />
CÉLIMÈNE, ALCESTE, BASQUE.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Qu'est-ce?<br />
BASQUE<br />
Acaste est là-bas.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Hé bien! faites monter.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 172<br />
ALCESTE<br />
Quoi? l'on ne peut jamais vous parler tête à tête?<br />
À recevoir le monde on vous voit toujours prête?<br />
Et vous ne pouvez pas, un seul moment de tous,<br />
Vous résoudre à souffrir de n'être pas chez vous?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Voulez-vous qu'avec lui je me fasse une affaire?<br />
ALCESTE<br />
Vous avez des égards qui ne sauraient me plaire.<br />
CÉLIMÈNE<br />
C'est un homme à jamais ne me le pardonner,<br />
S'il savait que sa vue eût pu m'importuner.<br />
ALCESTE<br />
Et que vous fait cela, pour vous gêner de sorte...?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Mon Dieu! de ses pareils la bienveillance importe;<br />
Et ce sont de ces gens qui, je ne sais comment,<br />
Ont gagné dans la cour de parler hautement.<br />
<strong>Dan</strong>s tous les entretiens on les voit s'introduire;<br />
Ils ne sauraient servir, mais ils peuvent vous nuire;<br />
Et jamais, quelque appui qu'on puisse avoir d'ailleurs,<br />
On ne doit se brouiller avec ces grands brailleurs.<br />
ALCESTE<br />
Enfin, quoi qu'il en soit, et sur quoi qu'on se fonde,<br />
Vous trouvez des raisons pour souffrir tout le monde;<br />
Et les précautions de votre jugement...<br />
Scène III<br />
BASQUE, ALCESTE, CÉLIMÈNE.<br />
BASQUE<br />
Voici Clitandre encor, Madame.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 173<br />
ALCESTE. Il témoigne s'en vouloir aller.<br />
Justement.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Où courez-vous?<br />
ALCESTE<br />
Je sors.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Demeurez.<br />
ALCESTE<br />
Pourquoi faire?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Demeurez.<br />
ALCESTE<br />
Je ne puis.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Je le veux.<br />
ALCESTE<br />
Point d'affaire.<br />
Ces conversations ne font que m'ennuyer,<br />
Et c'est trop que vouloir me les faire essuyer.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Je le veux, je le veux.<br />
ALCESTE<br />
Non, il m'est impossible.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 174<br />
CÉLIMÈNE<br />
Hé bien! allez, sortez, il vous est tout loisible.<br />
Scène IV<br />
ÉLIANTE, PHILINTE, ACASTE, CLITANDRE, ALCESTE, CÉLIMÈNE, BASQUE.<br />
ÉLIANTE<br />
Voici les deux marquis qui montent avec nous:<br />
Vous l'est-on venu dire?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Oui. Des sièges pour tous.<br />
(à Alceste.)<br />
Vous n'êtes pas sorti?<br />
ALCESTE<br />
Non; mais je veux, Madame,<br />
Ou pour eux, ou pour moi, faire expliquer votre âme.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Taisez-vous.<br />
ALCESTE<br />
Aujourd'hui vous vous expliquerez.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Vous perdez le sens.<br />
ALCESTE<br />
Point. Vous vous déclarerez.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Ah!<br />
ALCESTE<br />
Vous prendrez parti.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 175<br />
CÉLIMÈNE<br />
Vous vous moquez, je pense.<br />
ALCESTE<br />
Non; mais vous choisirez: c'est trop de patience.<br />
CLITANDRE<br />
Parbleu! je viens du Louvre, où Cléonte, au levé,<br />
Madame, a bien paru ridicule achevé.<br />
N'a-t-il point quelque ami qui pût, sur ses manières,<br />
D'un charitable avis lui prêter les lumières?<br />
CÉLIMÈNE<br />
<strong>Dan</strong>s le monde, à vrai dire, il se barbouille fort;<br />
Partout il porte un air qui saute aux yeux d'abord;<br />
Et lorsqu'on le revoit après un peu d'absence,<br />
On le retrouve encor plus plein d'extravagance.<br />
ACASTE<br />
Parbleu! s'il faut parler des gens extravagants,<br />
Je viens d'en essuyer un des plus fatigants:<br />
Damon, le raisonneur, qui m'a, ne vous déplaise,<br />
Une heure, au grand soleil, tenu hors de ma chaise.<br />
CÉLIMÈNE<br />
C'est un parleur étrange, et qui trouve toujours<br />
L'art de ne vous rien dire avec de grands discours;<br />
<strong>Dan</strong>s les propos qu'il tient, on ne voit jamais goutte,<br />
Et ce n'est que du bruit que tout ce qu'on écoute.<br />
ÉLIANTE, à Philinte.<br />
Ce début n'est pas mal; et contre le prochain<br />
La conversation prend un assez bon train.<br />
CLITANDRE<br />
Timante encor, Madame, est un bon caractère.<br />
CÉLIMÈNE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 176<br />
C'est de la tête aux pieds un homme tout mystère,<br />
Qui vous jette en passant un coup d'œil égaré,<br />
Et, sans aucune affaire, est toujours affairé.<br />
Tout ce qu'il vous débite en grimaces abonde;<br />
À force de façons, il assomme le monde;<br />
Sans cesse il a, tout bas, pour rompre l'entretien,<br />
Un secret à vous dire, et ce secret n'est rien;<br />
De la moindre vétille il fait une merveille,<br />
Et jusques au bonjour, il dit tout à l'oreille.<br />
ACASTE<br />
Et Géralde, Madame?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Ô l'ennuyeux conteur!<br />
Jamais on ne le voit sortir du grand seigneur;<br />
<strong>Dan</strong>s le brillant commerce il se mêle sans cesse,<br />
Et ne cite jamais que duc, prince ou princesse:<br />
La qualité l'entête; et tous ses entretiens<br />
Ne sont que de chevaux, d'équipage et de chiens;<br />
Il tutaye en parlant ceux du plus haut étage,<br />
Et le nom de Monsieur est chez lui hors d'usage.<br />
CLITANDRE<br />
On dit qu'avec Bélise il est du dernier bien.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Le pauvre esprit de femme, et le sec entretien!<br />
Lorsqu'elle vient me voir, je souffre le martyre:<br />
Il faut suer sans cesse à chercher que lui dire,<br />
Et la stérilité se son expression<br />
Fait mourir à tous coups la conversation.<br />
En vain, pour attaquer son stupide silence,<br />
De tous les lieux communs vous prenez l'assistance:<br />
Le beau temps et la pluie, et le froid et le chaud<br />
Sont des fonds qu'avec elle on épuise bientôt.<br />
Cependant sa visite, assez insupportable,<br />
Traîne en une longueur encore épouvantable;<br />
Et l'on demande l'heure, et l'on bâille vingt fois,<br />
Qu'elle s'émeut autant qu'une pièce de bois.<br />
ACASTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 177<br />
Que vous semble d'Adraste?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Ah! quel orgueil extrême!<br />
C'est un homme gonflé de l'amour de soi-même.<br />
Son mérite jamais n'est content de la cour:<br />
Contre elle il fait métier de pester chaque jour,<br />
Et l'on ne donne emploi, charge ni bénéfice,<br />
Qu'à tout ce qu'il se croit on ne fasse injustice.<br />
CLITANDRE<br />
Mais le jeune Cléon, chez qui vont aujourd'hui<br />
Nos plus honnêtes gens, que dites-vous de lui?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Que de son cuisinier il s'est fait un mérite,<br />
Et que c'est à sa table à qui l'on rend visite.<br />
ÉLIANTE<br />
Il prend soin d'y servir des mets fort délicats.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Oui; mais je voudrais bien qu'il ne s'y servît pas:<br />
C'est un fort méchant plat que sa sotte personne,<br />
Et qui gâte, à mon goût, tous les repas qu'il donne.<br />
PHILINTE<br />
On fait assez de cas de son oncle Damis:<br />
Qu'en dites-vous, Madame?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Il est de mes amis.<br />
PHILINTE<br />
Je le trouve honnête homme, et d'un air assez sage.<br />
CÉLIMÈNE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 178<br />
Oui; mais il veut avoir trop d'esprit, dont j'enrage;<br />
Il est guindé sans cesse; et dans tous ses propos,<br />
On voit qu'il se fatigue à dire de bons mots.<br />
Depuis que dans la tête il s'est mis d'être habile,<br />
Rien ne touche son goût, tant il est difficile;<br />
Il veut voir des défauts à tout ce qu'on écrit,<br />
Et pense que louer n'est pas d'un bel esprit,<br />
Que c'est être savant que trouver à redire,<br />
Qu'il n'appartient qu'aux sots d'admirer et de rire,<br />
Et qu'en n'approuvant rien des ouvrages du temps,<br />
Il se met au-dessus de tous les autres gens;<br />
Aux conversations même il trouve à reprendre:<br />
Ce sont propos trop bas pour y daigner descendre;<br />
Et les deux bras croisés, du haut de son esprit<br />
Il regarde en pitié tout ce que chacun dit.<br />
ACASTE<br />
Dieu me damne, voilà son portrait véritable.<br />
CLITANDRE<br />
Pour bien peindre les gens vous êtes admirable.<br />
ALCESTE<br />
Allons, ferme, poussez, mes bons amis de cœur;<br />
Vous n'en épargnez point, et chacun a son tour:<br />
Cependant aucun d'eux à vos yeux ne se montre,<br />
Qu'on ne vous voie, en hâte, aller à sa rencontre,<br />
Lui présenter la main, et d'un baiser flatteur<br />
Appuyer les serments d'être son serviteur.<br />
CLITANDRE<br />
Pourquoi s'en prendre à nous? Si ce qu'on dit vous blesse,<br />
Il faut que le reproche à Madame s'adresse.<br />
ALCESTE<br />
Non, morbleu! c'est à vous; et vos ris complaisants<br />
Tirent de son esprit tous ces traits médisants.<br />
Son humeur satirique est sans cesse nourrie<br />
Par le coupable encens de votre flatterie;<br />
Et son cœur à railler trouverait moins d'appas,<br />
S'il avait observé qu'on ne l'applaudît pas.<br />
C'est ainsi qu'aux flatteurs on doit partout se prendre
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 179<br />
Des vices où l'on voit les humains se répandre.<br />
PHILINTE<br />
Mais pourquoi pour ces gens un intérêt si grand,<br />
Vous qui condamneriez ce qu'en eux on reprend?<br />
CÉLIMÈNE<br />
Et ne faut-il pas bien que Monsieur contredise?<br />
À la commune voix veut-on qu'il se réduise,<br />
Et qu'il ne fasse pas éclater en tous lieux<br />
L'esprit contrariant qu'il a reçu des cieux?<br />
Le sentiment d'autrui n'est jamais pour lui plaire;<br />
Il prend toujours en main l'opinion contraire,<br />
Et penserait paraître un homme du commun,<br />
Si l'on voyait qu'il fût de l'avis de quelqu'un.<br />
L'honneur de contredire a pour lui tant de charmes,<br />
Qu'il prend contre lui-même assez souvent les armes;<br />
Et ses vrais sentiments sont combattus par lui,<br />
Aussitôt qu'il les voit dans la bouche d'autrui.<br />
ALCESTE<br />
Les rieurs sont pour vous, Madame, c'est tout dire,<br />
Et vous pouvez pousser contre moi la satire.<br />
PHILINTE<br />
Mais il est véritable aussi que votre esprit<br />
Se gendarme toujours contre tout ce qu'on dit,<br />
Et que, par un chagrin que lui-même il avoue,<br />
Il ne saurait souffrir qu'on blâme, ni qu'on loue.<br />
ALCESTE<br />
C'est que jamais, morbleu! les hommes n'ont raison,<br />
Que le chagrin contre eux est toujours de saison,<br />
Et que je vois qu'ils sont, sur toutes les affaires,<br />
Loueurs impertinents, ou censeurs téméraires.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Mais...<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 180<br />
Non, Madame, non: quand j'en devrais mourir,<br />
Vous avez des plaisirs que je ne puis souffrir;<br />
Et l'on a tort ici de nourrir dans votre âme<br />
Ce grand attachement aux défauts qu'on y blâme.<br />
CLITANDRE<br />
Pour moi, je ne sais pas, mais j'avouerai tout haut<br />
Que j'ai cru jusqu'ici Madame sans défaut.<br />
ACASTE<br />
De grâces et d'attraits je vois qu'elle est pourvue;<br />
Mais les défauts qu'elle a ne frappent point ma vue.<br />
ALCESTE<br />
Ils frappent tous la mienne; et loin de m'en cacher,<br />
Elle sait que j'ai soin de les lui reprocher.<br />
Plus on aime quelqu'un, moins il faut qu'on le flatte;<br />
À ne rien pardonner le pur amour éclate;<br />
Et je bannirais, moi, tous ces lâches amants<br />
Que je verrais soumis à tous mes sentiments,<br />
Et dont, à tous propos, les molles complaisances<br />
Donneraient de l'encens à mes extravagances.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Enfin, s'il faut qu'à vous s'en rapportent les cours,<br />
On doit, pour bien aimer, renoncer aux douceurs,<br />
Et du parfait amour mettre l'honneur suprême<br />
À bien injurier les personnes qu'on aime.<br />
ÉLIANTE<br />
L'amour, pour l'ordinaire, est peu fait à ces lois,<br />
Et l'on voit les amants vanter toujours leur choix;<br />
Jamais leur passion n'y voit rien de blâmable,<br />
Et dans l'objet aimé tout leur devient aimable:<br />
Ils comptent les défauts pour des perfections,<br />
Et savent y donner de favorables noms.<br />
La pâle est aux jasmins en blancheur comparable;<br />
La noire à faire peur, une brune adorable;<br />
La maigre a de la taille et de la liberté;<br />
La grasse est dans son port pleine de majesté;<br />
La malpropre sur soi, de peu d'attraits chargée,<br />
Est mise sous le nom de beauté négligée;
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 181<br />
La géante paraît une déesse aux yeux;<br />
La naine, un abrégé des merveilles des cieux;<br />
L'orgueilleuse a le cœur digne d'une couronne;<br />
La fourbe a de l'esprit; la sotte est toute bonne;<br />
La trop grande parleuse est d'agréable humeur;<br />
Et la muette garde une honnête pudeur.<br />
C'est ainsi qu'un amant dont l'ardeur est extrême<br />
Aime jusqu'aux défauts des personnes qu'il aime.<br />
ALCESTE<br />
Et moi, je soutiens, moi...<br />
CÉLIMÈNE<br />
Brisons là ce discours,<br />
Et dans la galerie allons faire deux tours.<br />
Quoi? vous vous en allez, Messieurs?<br />
CLITANDRE et ACASTE<br />
Non pas, Madame.<br />
ALCESTE<br />
La peur de leur départ occupe fort votre âme.<br />
Sortez quand vous voudrez, Messieurs; mais j'avertis<br />
Que je ne sors qu'après que vous serez sortis.<br />
ACASTE<br />
À moins de voir Madame en être importunée,<br />
Rien ne m'appelle ailleurs de toute la journée.<br />
CLITANDRE<br />
Moi, pourvu que je puisse être au petit couché,<br />
Je n'ai point d'autre affaire où je sois attaché.<br />
CÉLIMÈNE<br />
C'est pour rire, je crois.<br />
ALCESTE<br />
Non, en aucune sorte:<br />
Nous verrons si c'est moi que vous voudrez qui sorte.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 182<br />
Scène V<br />
BASQUE, ALCESTE, CÉLIMÈNE, ÉLIANTE, ACASTE, PHILINTE, CLITANDRE.<br />
BASQUE<br />
Monsieur, un homme est là qui voudrait vous parler,<br />
Pour affaire, dit-il, qu'on ne peut reculer.<br />
ALCESTE<br />
Dis-lui que je n'ai point d'affaires si pressées.<br />
BASQUE<br />
Il porte une jaquette à grand'basques plissées,<br />
Avec du d'or dessus.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Allez voir ce que c'est,<br />
Ou bien faites-le entrer.<br />
ALCESTE<br />
Qu'est-ce donc qu'il vous plaît?<br />
Venez, Monsieur.<br />
Scène VI<br />
GARDE, ALCESTE, CÉLIMÈNE, PHILINTE, ÉLIANTE, ACASTE, CLITANDRE.<br />
GARDE<br />
Monsieur, j'ai deux mots à vous dire.<br />
ALCESTE<br />
Vous pouvez parler haut, Monsieur, pour m'en instruire.<br />
GARDE<br />
Messieurs les Maréchaux, dont j'ai commandement,<br />
Vous mandent de venir les trouver promptement,<br />
Monsieur.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 183<br />
ALCESTE<br />
Qui? moi, Monsieur?<br />
GARDE<br />
Vous-même.<br />
ALCESTE<br />
Et pourquoi faire?<br />
PHILINTE<br />
C'est d'Oronte et de vous la ridicule affaire.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Comment?<br />
PHILINTE<br />
Oronte et lui se sont tantôt bravés<br />
Sur certains petits vers, qu'il n'a pas approuvés;<br />
Et l'on veut assoupir la chose en sa naissance.<br />
ALCESTE<br />
Moi, je n'aurai jamais de lâche complaisance.<br />
PHILINTE<br />
Mais il faut suivre l'ordre: allons, disposez-vous...<br />
ALCESTE<br />
Quel accommodement veut-on faire entre nous?<br />
La voix de ces messieurs me condamnera-t-elle<br />
À trouver bons les vers qui font notre querelle?<br />
Je ne me dédis point de ce que j'en ai dit,<br />
Je les trouve méchants.<br />
PHILINTE<br />
Mais, d'un plus doux esprit...<br />
ALCESTE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 184<br />
Je n'en démordrai point: les vers sont exécrables.<br />
PHILINTE<br />
Vous devez faire voir des sentiments traitables.<br />
Allons, venez.<br />
ALCESTE<br />
J'irai; mais rien n'aura pouvoir<br />
De me faire dédire.<br />
PHILINTE<br />
Allons vous faire voir.<br />
ALCESTE<br />
Hors qu'un commandement exprès du Roi me vienne<br />
De trouver bons les vers dont on se met en peine,<br />
Je soutiendrai toujours, morbleu! Qu'ils sont mauvais,<br />
Et qu'un homme est pendable après les avoir faits.<br />
(à Clitandre et Acaste, qui rient.)<br />
Par la sangbleu! Messieurs, je ne croyais pas être<br />
Si plaisant que je suis.<br />
CÉLIMÈNE<br />
Allez vite paraître<br />
Où vous devez.<br />
ALCESTE<br />
J'y vais, Madame, et sur mes pas<br />
Je reviens en ce lieu, pour vuider nos débats. ■<br />
FIN DE L'ACTE II--À SUIVRE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 185<br />
Hài KÎch<br />
KÈ Y‰m Th‰<br />
Tác giä : Molière (1622-1673)<br />
DÎch giä : Minh Thu<br />
Hài kịch lần đầu tiên được Ban kịch Troupe du Roi trình diễn tại sân khấu Palais Royal ở Paris<br />
ngày 4/6/1666.<br />
Các vai trong vở kịch :<br />
Alceste, phải lòng Célimène.<br />
Plilinte, bạn Alceste.<br />
Oronte, phải lòng Célimène.<br />
Célimène, người yêu của Alceste,<br />
Eliante, chị em họ của Célimène.<br />
Arsinoé, bạn của Célimène.<br />
Acaste, hầu tước.<br />
Clitandre, hầu tước.<br />
Basque, người hầu cùa Célimène.<br />
Dubois, người hầu cùa Alceste.<br />
Một sĩ quan Maréchaussée (Hiến binh).<br />
Cảnh diễn là ở Paris<br />
Màn I<br />
Màn II<br />
Màn III<br />
Màn IV<br />
Màn V
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 186<br />
Cảnh trên sân khấu : Trong nhà của Célimène ở Paris.<br />
MÀN I<br />
CẢNH I<br />
PHILINTE, ALCESTE<br />
Philinte : Có chuyện gì thế? Cậu đang buồn chuyện gì vậy?<br />
Alceste (ngồi ghế): Yêu cầu anh để mặc tôi.<br />
Philinte : Nhưng thì cứ nói cho tôi biết cậu gặp chuyện gì vậy chứ?<br />
Alceste : Tôi đã bảo anh cứ mặc kệ tôi, và biến đi cho khuất mắt tôi.<br />
Philinte : Nhưng ít ra thì cậu nên nghe thiên hạ chứ và đừng giận dữ.<br />
Alceste : Tôi thích giận dữ chứ không chọn nghe thiên hạ.<br />
Philinte : Tôi không thể hiểu nổi bạn trong trạng thái bực dọc, cộc cằn này, và mặc dầu chúng ta là bạn,<br />
tôi là người đầu tiên…<br />
Alceste (đứng phắt dậy): Tôi, bạn anh ư? Này, đừng có tưởng bở như thế nhé. Cho đến nay thì tôi vẫn<br />
ngỡ là thế, nhưng sau khi mà tôi vừa nhận chân ra anh, thì tôi nói thẳng cho anh biết tôi không còn là<br />
bạn anh nữa; tôi không mong ước giữ một chỗ nào trong những trái tim đồi bại ấy.<br />
Philinte : Anh Alceste à, như vậy là theo anh nghĩ thì tôi là người thật sự đáng trách sao?<br />
Alceste : Đáng trách ư? Nhẽ ra anh phải chết đi vì quá hổ thẹn mới phải. Không thể có sự tha thứ nào<br />
cho hành vi như thế, và ai có danh dự thì đều phải ghê tởm cái hành vi như thế. Tôi trông thấy anh làm<br />
cho một người hầu như bị ngột ngạt vì những cái vuốt ve bầy tỏ cảm tình nồng hậu nhất của anh với<br />
anh ta, làm anh ta choáng ngợp với những cam kết, những đề nghị, và những thề ước của tình bằng<br />
hữu. Những nóng bỏng trìu mến của anh không còn biết bến bờ; vậy mà khi tôi hỏi anh người đó là ai<br />
thì anh lại không thể cho tôi biết ngay cả đến tên anh ta; những tình cảm của anh đối với anh ta tự nhiên<br />
lạnh tanh; lúc anh vừa xây lưng lại anh nói với tôi về anh ta một cách hết sức vô tình. Trời đất quỷ thần,<br />
tôi coi cung cách đó là không xứng đáng, hèn hạ và xấu xa, đến nỗi phải hạ mình như thế để đi ngược<br />
lại những cảm nghĩ của lòng mình, và nếu chẳng may mà tôi đã làm như vậy thì tôi sẽ tức thì treo cổ tự<br />
vẫn hoàn toàn chỉ vì bực mình.<br />
Philinte : Tôi không coi chuyện đó là một vấn đề phải treo cổ tự vẫn chút nào cả, và xin anh hãy đừng<br />
nghĩ là điều xấu nếu tôi xin anh mở lượng hải hà bởi tôi sẽ không tự treo cổ đâu anh.<br />
Alceste : Thật là một lời nói đùa vô duyên thậm.<br />
Philinte : Nhưng, nói đứng đắn thì anh muốn người ta phải như thế nào?<br />
Alceste : Tôi muốn con người phải thành thực, và rằng giống những người có danh dự, thì không bao<br />
giờ lại nói những lời không thật lòng.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 187<br />
Philinte : Khi người nào tới ôm hôn bạn thắm thiết, thì bạn phải đáp lại y như thế, đáp lại một cách tốt<br />
nhất mà bạn có thể làm đối với sự bầy tỏ cảm tình của hắn, mời mọc đáp lại mời mọc, thề ước đi đôi<br />
với thề ước.<br />
Alceste : Không đâu. Tôi không thể nào chịu được cái cung cách hèn hạ đó mà phần lớn những người<br />
cho là hợp thời của bạn áp dụng; tôi không ghét gì nhiều bằng những vòng vo cam kết của hạng người<br />
miệng lưỡi thượng thừa đó, những người hòa nhã ban phát những chiếc hôn vô nghĩa, những người sốt<br />
sắng nói ra những lời trống rỗng, mà đối xử với mọi người cùng chung một cung cách, đối với người<br />
đáng quý lẫn những kẻ vô bổ đều được đối đãi như nhau.Thử hỏi xem còn có gì đáng kể nữa đâu khi có<br />
người đặt để bao yêu thương vào anh, thề rằng hắn ta là bạn của anh, rằng hắn ta tin tưởng anh, đầy<br />
nhiệt tâm với anh, quý trọng và trìu mến anh, và hăng say khen tặng anh , để rồi hắn ta lại vội vàng làm<br />
đúng như vậy với tên vô lại đầu tiên mà hắn gặp? Không, không, không một tâm hồn nào có đôi chút tự<br />
trọng lại muốn một sự quý trọng đồi bại như thế; và sự quý trọng càng vẻ vang càng làm giảm những<br />
thích thú khi người ta nhận ra rằng mình đã bị chia xẻ với cả vũ trụ. Sự ưa thích hơn hết phải được căn<br />
cứ vào sự quý trọng, quý trọng tất cả mọi người tức là chẳng quý trọng ai hết.Vì anh đã tự buông thả<br />
anh theo những tệ nạn thời đại, thì Trời đất quỷ thần, anh không phải là loại người tôi ưa. Tôi khước từ<br />
sụ ưu ái quá lố phi kỳ thị này Tôi muốn được phân biệt; và tóm lại vấn đề là người nào là bạn của mọi<br />
người thì không phải là bạn của tôi.<br />
Philinte : Nhưng khi ta thuộc về thế giới , thì ta phải thích nghi với những lề lối mà phong tục đòi hỏi<br />
chứ.<br />
Alceste : Tôi không chịu như vậy. Ta cần phải trừng phạt không thương tiếc cái sự giả đò đáng hổ thẹn<br />
này của mối giao hảo bạn bè. Tôi muốn một con người phải là một con người, và trong mọi hoàn cảnh,<br />
phải cho thấy lòng chân thật của mình trong suốt cuộc chuyện trò. Hãy cứ nói điều muốn nói, và đừng<br />
bao giờ phải dấu giếm cảm nghĩ của mình bằng những lời khen tặng vô ích.<br />
Philinte : Có nhiều trường hợp nói năng thành thật sẽ trở nên lố bịch, và khó có thể được dung túng.<br />
Và với mọi thừa nhận đúng phép cho sự thẳng thắn không suy chuyển của anh thì đôi khi cũng phải<br />
dấu giếm những cảm nghĩ của mình. Liệu có phải là điều phải, hay là điều thích đáng để nói vói hàng<br />
ngàn người về điều ta nghĩ về họ chăng? Và khi ta gặp một ai đó mà ta ghét hay là người làm ta khó<br />
chịu, thì liệu ta có phải nói thẳng với họ như vậy chăng?<br />
Alceste : Nói chứ.<br />
Philinte : Cái gì! Thế liệu anh sẽ có nói với bà già Emilia rẳng phấn son bà ta dùng để trang điểm cho<br />
sắc đẹp ở tuổi của bà thì thật là chẳng hợp với bà ta chút nào mà còn khiến cho mọi người phát tởm<br />
chăng?<br />
Alceste : Tất nhiên.<br />
Philinte : Hoặc là nói với Dorilas rằng anh ta chán mớ đời, và chẳng có ai trong triều mà lại không<br />
chán ngấy chuyện anh ta khoác lác về sự can đảm của anh ta, và về cái sáng láng của ngôi nhà của anh<br />
ta?<br />
Alceste : Chắc chắn là phải nói.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 188<br />
Philinte : Anh nói giỡn đấy chứ?<br />
Alceste : Tôi không hề nói giỡn đâu và tôi sẽ không trừ một ai trong vần đề này đâu. Đôi mắt tôi đã bị<br />
xốn xang quá rồi; và ở trong tòa hay ngoài tỉnh, chẳng đem lại cho tôi được gì ngoài những đồ vật làm<br />
lá lách tôi sôi sục; tôi trở nên ưu buồn trong niềm phiền muộn sâu xa khi thấy con người xử sự với nhau<br />
xấu như thế. Đâu đâu tôi cũng chỉ thấy sự nịnh hót hèn hạ, sự bất công, tư lợi, lừa bịp, trò ba que xỏ lá.<br />
Tôi không còn thể chịu đựng được nữa; tôi căm giận; và ý định của tôi là đọan tuyệt với toàn thể nhân<br />
lọai.<br />
Philinte : Cái triết lý phiền muộn này thì hơi dữ dằn quá. Tôi không làm sao mà lại không cười khi thấy<br />
anh trong cái cảnh buồn sầu u tối như vầy, và lạ một cái là tôi hình dung ra hai đứa mình, được cùng<br />
nuôi nấng, như hai anh em được mô tả trong cuốn Trường học cho các ông chồng… mà…<br />
Alceste : Trời ơi! Hãy bỏ ngay những so sánh lạt lẽo đó của anh đi.<br />
Philinte : Không: hãy đứng đắn bỏ những lời mạ lỵ vô cảm đó đi. Cái thế giới này, anh có nhúng tay<br />
vào thì cũng chẳng thay đổi gì đâu. Và nếu ăn nói thật thà vô tư lại thu hút được anh như thế thì tôi nói<br />
thẳng để anh biết là lời than phiển kiểu đó của anh là một trò hề ở bất cứ nơi nào anh đến, và mọi lời<br />
mạ lỵ đối với cung cách hành xử hợp thời đại sẽ làm anh trở thành trò cười cho thiên hạ đấy.<br />
Alceste : Vậy thì càng hay, trời đất quỷ thần, vậy thì càng hay chứ sao. Đó đúng là điều tôi đòi hỏi; đó<br />
là một dấu hiệu tốt, và tôi thật vô cùng sung sướng: với tôi mọi con người đều khó thương và tôi sẽ<br />
giận nếu đối với con mắt họ tôi lại là một nhà hiền tríết.<br />
Philinte : Bộ anh muốn gây ra một tai hại lớn cho tính nhân bản hay sao đây?<br />
Alceste : Đúng thế, tôi quan niệm một sự thù ghét ghê gớm đối với tính nhân bản.<br />
Philinte : Thế không trừ một ai à, tất cả những con người hữu tử khốn khổ đều bị gộp trong quan niệm<br />
này à? Liệu trong thế kỷ chúng ta đang sống anh có trừ ai ra không?<br />
Alceste : Không, chuyện này là gộp chung hết và tôi thù ghét con người. Những người này, là bởi vì họ<br />
độc ác và gây hại, những người kia là vì họ dung túng những hành vi ác độc đó, và không có sự khinh<br />
bỉ triệt để thói hư tật xấu thi sẻ không giúp gợi hứng cho mọi tâm hồn đạo đức. Bạn có thể thấy sự bất<br />
công quá đáng biết bao mà lớp người dung túng đó dành cho tên lừa đảo mặt trơ trán bóng trong vụ xử<br />
án của tôi. Bạn có thể nhìn thấy rõ ràng tên phản trắc qua cái mặt nạ của hắn; đâu đâu người ta cũng<br />
đều nhận ra cái mặt thật của hắn; đôi mắt tráo trưng, và giọng nói đường mật của hắn chỉ lừa đuợc<br />
những người nào không biết hắn. Dân chúng nhận thức rằng cái con người hạ đẳng này, mà đáng bị đưa<br />
ra luận tội, thì với những công việc bẩn thỉu nhất, lại đã dẫn đưa hắn vào thế giới; và rằng cái địa vị<br />
tuyệt vời mà hắn đạt được đã khiến người có công trạng phải than vãn và nhà đạo đức đỏ mặt; và một<br />
vài điều đáng hổ thẹn người ta nói về hắn ở khắp nơi thì chẳng thấy ai lên tiếng bênh vực cái danh giá<br />
khốn kiếp đó của hắn. Cứ gọi hắn là một tên xỏ lá, đê hèn, và một tên vô lại đáng nguyền rủa thì mọi<br />
người dều đồng ý và không ai phản đối hết. Ấy vậy mà cái bộ mặt nham hiểm dấu giếm của hắn được<br />
khắp nơi chào đón: người ta đón chào hắn, cười cợt với hắn, đâu đâu hắn cũng tìm cách len lỏi, luồn<br />
cúi lọt vào mọi hình thái xã hội; và nếu một công việc gì đó cần phải xử dụng mưu mô mới đạt được thì<br />
hắn sẽ hành động như một con người trung thực nhất. Trời đất quỷ thần! Đó là những vết đâm chí tử<br />
đối với tôi để thấy là mình phải so đo kèn cựa với thói lưu manh; và đôi khi bỗng dưng tôi như muốn
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 189<br />
buông bỏ để chạy trốn vào vùng sa mạc cách biệt với lối sống của nhân lọai.<br />
Philinte : Trời ơi, hãy bớt tra tấn chúng ta về những tệ đoan của thời đại này đi, và hãy tỏ ra rộng<br />
lượng hơn đối với tính nhân bản. Chúng ta hãy đừng xét nét tính nhân bản một cách khắt khe quá đáng<br />
mà hãy xem xét những sai lầm của nó một cách độ lượng hơn. Trong xã hội, ta cần thấy đạo đức được<br />
co giãn hơn. Nếu ta quá khôn ngoan, thì ta rất có thể có lỗi không kém. Lý trí tránh mọi sự quá khích,<br />
và đòi hỏi ta phải hợp lý một cách tỉnh táo. Cái đạo đức bất khuất và cứng ngắc của những thời xưa gây<br />
quá nhiều khó khăn cho những phong tục tập quán bình thường của chúng ta ngày nay; và đòi hỏi ở<br />
những người hữu tử chúng ta sự hoàn hảo quá đáng; chúng ta nên ngả theo thời mà không quá buớng<br />
bỉnh; cứ cố tự bận rộn với việc sửa đối thế giới sẽ là điều rồ dại lớn. Tôi, cũng như bạn, hàng ngày nhận<br />
định ra hàng trăm điều mà nhẽ ra phải được giải quyết tốt hơn, nếu được áp dụng cách khác; nhưng bất<br />
cứ điểu gì tôi có thể phát giác vào bất cứ lúc nào, thì người ta sẽ không thấy tôi hành xử giận dữ như<br />
bạn. Tôi cứ nhẹ nhàng coi con người họ là như thế đó; tôi để trí óc tôi quen chịu đựng những gì họ làm,<br />
và tôi tin rằng trong triều đình , cũng như ở ngoài thành phố, sự phớt tỉnh của mình cũng có tính cách<br />
triết lý không kém gì sự tức giận của bạn đâu.<br />
Alceste : Nhưng cái sự phớt lờ, thưa ông anh, ông anh lý luận quá hay, có thể nào bị một điều gì đó<br />
khuấy động chăng? Và nếu chẳng may có người bạn phản bội anh, nếu hắn ta lập một mưu đồ khôn<br />
khéo lấy mất cái gì đó của anh; nếu có người tung ra những tin xấu về anh thì liệu anh sẽ có tùng phục<br />
khứng chịu mọi điều đó mà không nổi giận lên chăng?<br />
Philinte : Vâng, tôi thấy mọi sai hỏng bạn than phiền thì là những tật xấu liên hệ không tách biệt được<br />
với tính nhân bản; tóm lại trí óc tôi không sửng sốt gì khi nhìn thấy một con người là một tên xỏ lá, bất<br />
công, hay ích kỷ hơn là thấy những con kên kên khát khao chờ mồi, những con đười ươi ác ôn, hay<br />
những con chó sói lông xù hung hăng.<br />
Alceste : Tôi thấy tôi bị phản bội, tan nát, bị mất cắp, mà tôi lại không… Trời đất quỷ thần! Tôi không<br />
muốn nói nữa, vì lối lý luận này đầy rẫy sự láo lếu.<br />
Philinte : Thật tình! Nên giữ sự im lặng thì sẽ tốt cho bạn hơn. Hãy đả kích đối phương của bạn ít hơn,<br />
và chú trọng nhiều hơn một chút vào vụ thưa kiện của bạn.<br />
Alceste : Tôi không cần làm chuyện đó; chuyện đó đã được giải quyết từ lâu rồi.<br />
Philinte : Thế, vậy thì ai là người bạn được yêu cầu cãi chứ?<br />
Alceste : Ai à? Lẽ phải, cái quyền chính đáng của tôi, sự công bằng.<br />
Philinte : Thế anh không đến gặp một quan tòa nào à?<br />
Alceste : Không. Thế trường hợp của tôi có bất công hay đáng hồ nghi chăng?<br />
Philinte : Tôi đồng ý về điểm đó; nhưng bạn biết đấy, những mưu mô thường gây ra sự tai hại, và…<br />
Alceste : Không. Tôi nhất định không làm một bước nào. Một là tôi sai, hai là tôi đúng.<br />
Philinte : Đừng có tin là như thế.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 190<br />
Alceste : Tôi sẽ không thay đổi lập trường.<br />
Philinte : Đối phương của bạn mạnh thế đấy, và với lối làm việc ám muội của hắn ta rất có thể sẽ tạo<br />
ra…<br />
Alceste : Không sao đâu.<br />
Philinte : Bạn sẽ bị sai lầm đấy.<br />
Alceste : Thì đành thế. Tôi mong muốn thấy vụ này kết thúc.<br />
Philinte : Nhưng…<br />
Alceste : Tôi sẽ sung sướng được thua kiện.<br />
Philinte : Nhưng nói cho cùng...<br />
Alceste : Tôi sẽ tìm hiểu xem với vụ kiện này liệu con người có đủ muối mặt, có ác, có đê tiện, và đủ<br />
đồi bại để cho toàn thế giới thấy sự bất công đối với tôi chăng?<br />
Philinte : Quái lạ cái anh chàng này!<br />
Alceste : Tôi có thể muốn thấy, như là để làm chuyện vui thôi, cái giá có đắt lắm với tôi không nếu như<br />
tôi bị thua kiện.<br />
Philinte : Người ta sẽ thật tình cười anh đấy, anh Alceste ạ. Nếu người ta nghe anh nói về vụ này như<br />
thế.<br />
Alceste : Thây kệ kẻ nào cười.<br />
Philinte : Nhưng cái thái độ thẳng thừng này mà anh thường áp dụng chính xác một cách cẩn thận<br />
trong mỗi vụ kiện, cái trung trực tuyệt đối anh tự đóng khung mình vào ấy, thì anh có tìm thấy nó ở nơi<br />
người phụ nữ anh yêu không? Với tôi, thì tôi ngạc nhiên khi thấy anh dù như có vẻ gây chiến với trọn<br />
thể nhân loại, và dù đối với anh mọi sự đều khả ố, vậy mà anh còn nhận thấy ở nơi người phụ nữ đó<br />
điều làm anh mê hoặc. Và tôi còn ngạc nhiên hơn nữa là trái tim anh đã có sự chọn lựa kỳ lạ. Nào là<br />
nàng Eliante chân phương kia thích anh, rồi thì nàng Arisoné đoan chính nhìn anh với nhiều ưu ái: vậy<br />
mà trái tim anh đã không đáp lại sự mến thương của họ; trong khi đó anh lại chịu những giằng buộc của<br />
Célimène, người chế nhạo anh, và có óc hài hước trai lơ cùng trí thông minh tinh quái có chiều xứng<br />
hợp rất đúng với cung cách thời đại. Làm sao anh ghét những điều đó đến chết đi được như thế, mà anh<br />
lại khứng chịu chúng trong người đàn bà này chứ? Bộ những điều đó không còn tính cách lầm lỗi trong<br />
cái con người dịu ngọt như thế sao? Bộ anh không nhận thức ra chúng sao, hay nếu có thì anh có dung<br />
túng chúng không?<br />
Alceste : Không phải thế đâu. Tình yêu tôi dành cho góa phụ trẻ trung này không làm cho tôi không<br />
nhìn ra những lầm lỗi của nàng đâu, và dù rằng nàng đã gợi hứng nơi tôi sự nồng thắm thì tôi sẽ là<br />
người đầu tiên nhận thức cũng như lên án những sai lầm đó. Nhưng dù mọi sự là như thế, thì tôi sẽ vẫn<br />
làm theo ý tôi, tôi thừa nhận khuyết điểm của tôi, nàng có nghệ thuật làm tôi vui lòng. Có nhìn ra<br />
những lỗi lầm của nàng cũng là vô ích với tôi thôi; rất có thể tôi còn lên án những lỗi lầm đó; bất kể<br />
mọi điều đó, nàng làm tôi yêu nàng. Sự duyên dáng của nàng chinh phục hết mọi sự, và chắc chắn tình<br />
yêu chân thật của tôi sẽ thanh lọc những tệ đoan thời đại khỏi trái tim nàng.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 191<br />
Philinte : Nếu anh kiện toàn được điều này thì sẽ không phải là một chuyện nhỏ. Thế anh có tin là nàng<br />
yêu anh không?<br />
Alceste : Có chứ. Chắc chắn là có! Tôi sẽ chẳng hề yêu nàng nếu tôi nghĩ là nàng không yêu tôi.<br />
Philinte : Nhưng nếu tình yêu của nàng đối với anh đã hai năm rõ mười, thì làm sao mà những tình<br />
địch của anh lại gây cho anh nhiều sự khó chịu đến thế chứ?<br />
Alceste : Đó là vì một con tim say mê đắm đuối muốn chiếm giữ tất cả cho mình; tôi chỉ đến đây với<br />
dụng ý nói với nàng về điều những tình cảm của tôi ra lệnh cho tôi, trong chuyện này.<br />
Philinte : Nếu tôi phải lựa chọn, thì Eliante sẽ là người chiếm đuợc trọn mối tình của tôi. Trái tim của<br />
nàng, nhận chân được giá trị của anh, thì vững vàng và chân thật; và sự lựa chọn xứng hợp hơn này sẽ<br />
thuận với anh hơn đấy.<br />
Alceste ; Đúng như thế; lý trí của tôi nói với tôi như vậy mỗi ngày; nhưng lý trí không phải lúc nào<br />
cũng chi phối được tình yêu đâu anh ạ.<br />
Philinte : Tôi rất lo ngại cho tình cảm của anh; và niềm hy vọng anh nuôi dưỡng e có thể…<br />
CẢNH II<br />
ORONTE, ALCESTE, PHILINTE<br />
Oronte : Tôi được biết ở nơi nọ rằng Eliante và Célimène đã đi phố mua đồ.Nhưng vì nghe nói ông<br />
đang ở đây, nên tôi tới để nói ông biết, với niềm chân thực nhất, rằng tôi đã có sự quý trọng không thể<br />
tuởng tượng được đối với ông, và rằng, từ lâu rồi, sự quý trọng này đã gợi cho tôi một mong ước nồng<br />
hậu nhất để được coi như người bạn của ông. Vâng: lòng tôi ưa chuộng tài năng và công lý; và tôi hết<br />
sức mong mỏi rằng một cam kết của tình bằng hữu sẽ liên kết chúng ta. Tôi nghĩ rằng một người bạn<br />
nhiệt thành và ở vào địa vị tôi, sẽ không hoàn toàn bị từ khước. ( Suốt thời gian này Alceste cứ đứnng<br />
mơ màng ngẫm nghĩ, và có vẻ không biết là Oronte đang nói với mình. Alceste chỉ ngước lên khi<br />
Oronte nói với anh) _Ông cảm phiền vì chính ông là người tôi đang nói chuyện với đấy.<br />
Alceste : Với tôi ư, thưa ông?<br />
Oronte : Với ông đấy, liệu điều này có xúc phạm gì ông không ạ?<br />
Alceste : Không đâu ông, nhưng nỗi ngạc nhiên của tôi thì rất lớn; và tôi không chờ đợi cái hân hạnh<br />
này.<br />
Oronte : Sự quý trọng tôi dành cho ông nhẽ ra không làm ông ngạc nhiên mới phải, ông có thể đòi hỏi<br />
sự quý trọng này của trọn thế giới ấy chứ.<br />
Alceste : Thưa ông …<br />
Oronte : Trọn quốc gia chúng ta không có gì đứng trên cái tài năng sáng chói mà thiên hạ đã khám phá
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 192<br />
ra được ở nơi ông.<br />
Alceste : Thưa ông…<br />
Oronte : Vâng. Riêng với tôi, thì tôi cho rằng ông là người tối quan trọng của quốc gia.<br />
Alceste : Thưa ông…<br />
Oronte : Xin trời vật chết tôi đi, nếu tôi nói lời gian dối! Và để chứng minh ngay đây những tình cảm<br />
của tôi, xin cho tôi được ôm hôn ông với trọn trái tim tôi, và xin ông dành cho tôi một chỗ trong tình<br />
bạn của ông; xin ông hãy nắm bắt tay tôi. Ông có hứa dành cho tôi tình bạn của ông không?<br />
Alceste : Thưa ông …<br />
Oronte : Sao? Bộ ông từ khước yêu cầu của tôi sao chứ?<br />
Alceste : Thưa ông, ông đã dành cho tôi vinh dự quá lớn; nhưng tình bạn đòi hỏi một chút gì thiêng<br />
liêng hơn, và đem ban bố hoang phí tình bạn trong bất cứ dịp nào tức là chắc chắn có tính cách phạm<br />
thần tình bạn. Cần phải có sư xuy xét và lựa chọn trước một sự liên hệ như thế. Chúng ta cần phải biết<br />
nhau nhiều hơn trước khi ta làm bạn; và rất có thể xẩy ra chuyện chúng ta có những tánh tình mà cả hai<br />
sẽ ăn năn về khế ước này.<br />
Oronte : Thật là hay! Ông thật khôn ngoan; và tôi càng quý trọng ông hơn nữa. Vậy thì chúng ta hãy để<br />
thời gian sẽ thiết lập một mối giây thú vị; nhưng trong khi chờ đợi thì tôi hoàn toàn thuộc quyền xử<br />
dụng của ông. Nếu ông có chuyện gì với triều đình, thì ai cũng đều biết là tôi thân với nhà Vua như thế<br />
nào; Hoàng Thượng nghe theo ý tôi; và thật tình, nói chung Ngài xử sự với tôi trong mọi hoàn cảnh với<br />
niềm quý trọng thành tâm nhất. Tóm lại tôi là của ông trong mọi tình huống; và vì ông là một người trí<br />
tuệ sáng láng, nên, để ăn mừng tình bạn duyên dáng của chúng ta, tôi xin đọc ông nghe một bài thơ tôi<br />
làm cách đây ít lâu để ông xem nó có đủ hay để đăng chăng.<br />
Alceste : Ồ, thưa ông tôi không đủ khả năng để định đoạt chuyện đó đâu, vì vậy mong ông lượng thứ<br />
cho.<br />
Oronte : Sao vậy chứ?<br />
Alceste : Tôi có cái tật là hơi quá thành thật hơn là cần thiết trong những chuyện như vầy.<br />
Oronte : Thì đó chính là điều tôi mong mỏi; và tôi sẽ có lý do để than phiền, nếu tôi tự bầy tỏ thành<br />
thật với ông để mong ông cho tôi ý kiến thẳng thắn, mà ông lại làm tôi thất vọng khi dấu giếm tôi điều<br />
gì đó.<br />
Alceste : Thưa ông, nếu ý ông muốn vậy thì tôi xin hoàn toàn tuân theo.<br />
Oronte : Bài thơ… Đây là một bài thơ…Hy Vọng … Một bài thơ làm cho một bà đã đem lại đôi chút<br />
hy vọng cho mối cảm tình của tôi với bà. Hy Vọng… Bài thơ không dài dòng với những thi từ khoa<br />
trương, mà là những dòng thơ dịu dàng, nhẹ nhàng và gây xúc động lòng người. (Cứ mỗi lời mô tả đó<br />
ông ta lại ngó nhìn Alceste).<br />
Alceste : Để coi xem sao.<br />
Oronte : Hy Vọng…tôi không rõ liệu thể thơ sẽ cho ông thấy là đủ rõ nét và dễ dàng hoặc là liệu ông
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 193<br />
sẽ có ưng ý cách tôi chọn dùng những thi từ chăng.<br />
Alceste : Chúng ta sẽ được biết tức thì đấy mà, thưa ông.<br />
Otonte : Ngoài ra, ông cần được biết là bài thơ đã được tôi làm trong có mười lăm phút.<br />
Alceste : Chúng ta hãy nghe đi thưa ông, thời lượng không có ý nghĩa gì.<br />
Oronte : ( đọc)<br />
Đúng, hy vọng, thường ban niềm dịu lắng,<br />
Ru ngủ ta trong những lúc ưu tư;<br />
Nhưng, Phillis, đó chỉ là lợi nhỏ,<br />
Khi đã qua chỉ còn lại số không!<br />
Philinte : Tôi đã bị mấy câu thơ đó quyến rũ rồi đấy.<br />
Alceste : (nói nhỏ với Philinte) Gì chứ? Sao anh đã vội cho là mấy vần thơ đó hay hay sao vậy.<br />
Oronte :<br />
Em đã từng cho thấy sự ân cần;<br />
Nhưng ít đi thì sẽ thấy hay hơn,<br />
Em chẳng nên đi theo con đường đó<br />
Rồi chỉ ban cho tôi niềm hy vọng.<br />
Philinte : Những thi từ mô tả ý nghĩ hay biết bao!<br />
Alceste : Nào nào! Anh, kẻ nịnh hót ti tiện, làm sao anh khen tặng thứ rơm rác đó được chứ!<br />
Oronte :<br />
Nếu tôi phải đợi chờ lâu muôn kiếp,<br />
Mối tình tôi lôi cuốn đến tận cùng,<br />
Sẽ trôi nổi bay tìm về cõi chết.<br />
Ân cần dịu ngọt em không cản được.<br />
Người đẹp Phillis em, chúng ta vô vọng,<br />
Khi chúng ta phải hy vọng muôn đời<br />
Philinte : Kết thúc đẹp đấy, tình tứ, tuyệt diệu.<br />
Alceste : (nói nhỏ vời Philinte). Kết thúc là một tai họa! Tôi ước chi anh kết luận theo cách đập gẫy mũi<br />
anh đi, anh kẻ đầu độc quỷ thần!<br />
Philinte : Tôi chưa hề được nghe những lời thơ kỹ xảo hơn thế đấy.<br />
Alceste : (nói nhỏ). Trời đất quỷ thần!...
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 194<br />
Oronte : (nói với Philinte). Ông nịnh hót tôi; và có lẽ ông tưởng là …<br />
Philinte : Không, tôi không hề nịnh ông đâu.<br />
Alceste : (nói nhỏ). Không nịnh thì còn là gì nữa chứ? Cái đồ mắc dịch!<br />
Oronte : (nói vói Alceste). Nhưng còn ông, ông biết chúng ta đã đồng ý như thế nào rồi. Xin hãy thành<br />
thực nói cho tôi biết đi ông.<br />
Alceste : Thưa ông, những vấn đề này thì luôn luôn tế nhị, và ai cũng thích trí thông minh của mình<br />
được ca tụng. Nhưng, mới hôm rồi đây, tôi có nói với một người mà tôi xin dấu tên, khi ông ta cho tôi<br />
đọc một vài bài thơ của ông ta, rằng bất cứ lúc nào một nam tử lịch thiệp nên áp dụng sự tự chế lớn lao<br />
đối với chuyện thích viết lách của mình mà đôi khi nó tấn công chúng ta, và nên áp dụng sự kìm hãm<br />
chặt chẽ đối với những khuynh hướng mạnh mẽ khiến ta phải phô ra những thú tiêu khiển như vậy; và<br />
rằng trong niềm mong mỏi phô trương những tác phẩm của mình, người ta thường tự thấy mình đóng<br />
một vai trò rất chi là khờ dại.<br />
Oronte : Bộ ông muốn tỏ cho tôi hay là tôi đã lầm trong việc muốn…<br />
Alceste : Thưa, tôi không thật sự muốn nói như vậy. Nhưng tôi nói với ông ta rằng viết lách không có<br />
hồn sẽ trở nên buồn nản; và chỉ cần nhược điểm đó là một người bị mất đi cái thế của mình; rằng mặt<br />
khác, ngay cả những người có hàng trăm phẩm giá tốt đẹp, chúng ta vẫn nhìn họ dựa vào những khía<br />
cạnh xấu nhất của họ.<br />
Oronte : Vậy ông có nhận thấy điều gì đáng trách trong bài thơ của tôi không?<br />
Alceste : Thưa, tôi không nói vậy. Nhưng để ông ta đừng viết nữa, tôi trưng ra ví dụ cho ông ta thấy,<br />
trong thời đại chúng ta, sự mong muốn viết lách này đã làm hoen ố thanh danh của rất nhiều người khả<br />
kính.<br />
Oronte : Vậy tôi viết có dở không? Tôi có giống họ không? Thưa ông.<br />
Alceste : Thưa, Tôi không nói vậy. Nhưng tóm lại tôi hỏi ông ta: có sự hối thúc cấp thiết nào khiến ông<br />
phải làm thơ không? Và có ma quỷ nào thúc đẩy ông phải in ấn những bài thơ đó không? Nếu chúng ta<br />
có thể tha thứ chuyện một cuốn sách dở như hạch được tung ra thế giới, thì đó chỉ là với những người<br />
không may phải dùng ngòi bút làm kế sinh nhai mà thôi. Ông hãy tin tôi đi, hãy cố cưỡng lại sự quyến<br />
rũ, tránh tràn lan ra công chúng những sự chiếm cứ đó, và xin hãy đừng, dẫu cho ông được người ta cầu<br />
khẩn đến đâu đi nữa, bỏ mất cái thanh danh ông đang hưởng nơi triều đình như một người trung trực để<br />
hứng lấy, từ tay một nhà xuất bản tham lam, tiếng xấu của một tác giả mắc dịch nực cười. Thưa, đó là<br />
điều tôi giải thích với ông ta.<br />
Oronte : Mọi điều ông nói đều thật là hay ho, và có vẻ như tôi hiểu ông muốn nói gì, Nhưng liệu ông<br />
có thể cho tôi biết trong bài thơ của tôi, có điểm gì khiến ông…<br />
Alceste : Nói thẳng thắn ra thì ông nên cất bài thơ đó vào trong tủ. Ông đã chạy theo những mẫu mực<br />
xấu; và những biểu tỏ của ông không được tự nhiên chút nào hết. Cái gì mà :Ru ngủ ta trong nhưng lúc<br />
ưu tư; khi đã qua chỉ còn lại số không. Em chẳng nên đi theo con đường đó; rồi chỉ ban cho tôi niềm<br />
hy vọng. Rồi lại còn: Người đẹp Phillis em, chúng ta vô vọng; khi chúng ta phải hy vọng muôn đời. Cái<br />
lối hành văn nghĩa bóng đó, mà người ta phù phiếm xử dụng, dù cho xuất phát từ tính cách tốt và là sự
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 195<br />
thật, nhưng nó lại chỉ là thuật chơi chữ, trò giả bộ hoàn toàn, vì thế không phải tiếng nói tự nhiên. Cái<br />
sở thích đồi trụy của thời đại là điều tôi không ưa. Ông, cha chúng ta, dẫu họ thiếu bóng bẩy, có sở<br />
thích tốt đẹp hơn hẳn và tôi không coi là giá trị những gì người đời mến mộ hiện nay hơn là một bài hát<br />
xưa mà tôi sẽ hát cho các ông nghe :<br />
“Nếu đại đế của chúng ta ban cho anh<br />
Paris bao la và tráng lệ của Ngài<br />
mà, nhận lời, thì tức thời anh phải xa em<br />
tình yêu chân thực của lòng anh.<br />
thì anh sẽ đáp: Tâu Quốc Vương Hal, hạ thần xin Ngài<br />
lấy lại Paris tráng lệ của Ngài.<br />
vì anh yêu em nhiều hơn hẳn, em ơi, anh nghĩ<br />
vì anh yêu em nhiều hơn hẳn, em ơi.”<br />
Tiết tấu bài hát này không có gi súc tích, và lối hành văn thì cổ xưa, nhưng các ông có thấy là nó hay<br />
hơn hẳn những ca, thi từ bóng bẩy phù phíếm mà lý trí nổi loạn, và rằng trong bài hát này, tình yêu<br />
được nói lên từ chính con tim không nào?<br />
“Nếu đại đế của chúng ta ban cho anh<br />
Paris bao la và tráng lệ của Ngài<br />
mà, nhận lời, thì tức thời anh phải xa em<br />
tình yêu chân thực của lòng anh.<br />
thì anh sẽ đáp: Tâu Quốc Vương Hal, hạ thần xin Ngài<br />
lấy lại Paris tráng lệ của Ngài.<br />
vì anh yêu em nhiều hơn hẳn, em ơi, anh nghĩ<br />
vì anh yêu em nhiều hơn hẳn, em ơi.”<br />
Đó là điều mà một trái tim yêu đuơng thật tình sẽ nói. (Alceste nói với Philinte là người đang rũ ra<br />
cười)Vâng, thưa anh hề, dù với tất cả trí thông minh của anh, tôi thích bài hát này hơn tất cả những<br />
phèn la, chiêng trống và cái sáng láng giả tạo mà ai nấy đều ưa chuộng ngày nay.<br />
Oronte : Còn tôi, thì tôi vẫn cứ cho là những vần thơ của tôi rất hay.<br />
Alceste : Tất nhiên ông có lý do của ông để nghĩ như thế cho những vần thơ của ông, nhưng hãy cho<br />
phép tôi có quan điểm của tôi, mà mạn phép ông, sẽ tiếp tục là quan điểm độc lập.<br />
Oronte : Với tôi thì cứ những người khác khen tặng những bài thơ đó là đủ rồi.<br />
Alceste : Thưa vâng. Đó là vì họ có tài che đậy còn tôi thì không.<br />
Oronte : Vậy ông có thật sự tin rằng ông có được ban cho trí thông minh nhiều đến thế chăng?
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 196<br />
Alceste : Nếu tôi ca tụng thơ ông, thì tôi sẽ còn có đuợc nhiều hơn đấy.<br />
Oronte : Tôi sẽ đạt được kết quả tốt mà không cần sự tán thành của ông.<br />
Alceste : Để vừa ý ông thì ông cần phải được tán thành mà không có ý kiến của tôi.<br />
Oronte : Tôi thật muốn được thấy ông viết bài thơ với cùng đề tài, chỉ để có đuợc một bản mẫu lối<br />
hành văn của ông.<br />
Alceste : Tôi rất có thể, không may, làm bài thơ cũng không hay như thế; nhưng tôi sẽ cẩn thận giữ để<br />
không cho ai phải đọc nó.<br />
Oronte : Ông đã nói với tôi thật cứng rắn; và điều này quá đủ để…<br />
Alceste : Xin ông hãy tìm người khác để xu nịnh ông, và chớ tìm tôi.<br />
Oronte : Nào nào, ông bé nhỏ của tôi ơi, hãy bỏ cái giọng tự cao tư đại đó đi.<br />
Alceste : Nói thực thì ông lớn của tôi ơi, tôi sẽ làm điều tôi thích.<br />
Philinte : (tiến vào đứng giữa hai người). Ngưng lại đi, hai ông. Như vậy là chuyện đi quá lố rồi đó.<br />
Xin các ông ngưng lại đi thôi.<br />
Oronte : Ô, tôi lầm, tôi thú nhận; và tôi xin rời nơi đây. Tôi là người hầu của ông, thưa ông, bằng trọn<br />
tấm lòng tôi.<br />
Alceste : Và tôi, thưa ông, là người hầu hạ khiêm nhường của ông.<br />
CẢNH III<br />
PHILINTE, ALCESTE<br />
Philinte : Này bạn! Anh đã thấy chưa: vì tỏ ra quá thành thực, giờ đây anh lâm vào một vụ rắc rối. Và<br />
tôi nhìn rõ là Oronte, một khi muốn được xu nịnh thì…<br />
Alceste : Thôi, đừng nói với tôi nữa.<br />
Philinte : Nhưng…<br />
Alceste : Không nói chuyện xã hội nữa.<br />
Philinte : Thật là quá đáng…<br />
Alceste : Cứ để mặc tôi.<br />
Philinte : Nếu tôi…<br />
Alceste : Đừng nói thêm nữa.<br />
Philinte : Nhưng thế là thế nào chứ?<br />
Alceste : Tôi không muốn nghe thêm nữa.<br />
Philinte : Nhưng…
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 197<br />
Alceste : Gì nữa đây?<br />
Philinte : Người ta nhục mạ…<br />
Alceste : Trời đất quỷ thần! Thế này thì quá đáng quá. Đừng có theo gót tôi.<br />
Philinte : Anh giỡn với tôi hay sao, tôi không rời anh ra đâu.<br />
MÀN II<br />
CẢNH I<br />
ALCESTE, CÉLIMÈNE<br />
Alceste : Thưa bà, bà có muốn nghe tôi nói thẳng, nói thật không? Vậy thì tôi rất thất vọng về cách<br />
hành xử của bà. Tôi rất bực mình khi nghĩ đến điều đó, và tôi thấy là mình sẽ phải bỏ nhau thôi. Vâng,<br />
tôi sẽ chỉ lừa dối khi lại nói khác đi. Sớm, muộn chuyện mình bỏ nhau là điều không tránh khỏi; và nếu<br />
tôi lại hứa với bà một ngàn lần chuyện ngược lại, thì tôi sẽ không sao giữ lời đuợc đâu.<br />
Célimène : Thì ra vì muốn cãi lẩy với tôi mà ông mới chịu đưa tôi về nhà đấy à?<br />
Alceste : Tôi không cãi nhau. Nhưng chuyện bà cứ dễ dãi sẵn sàng mở rộng tấm lòng bà cho bất cứ kẻ<br />
đầu tiên nào bước tới, rồi bà có quá nhiều nhân tình, vì thế trái tim tôi không thể khứng chịu được nữa.<br />
Célimène : Thế bộ tôi đáng trách là đã có quá nhiều người mến mộ tôi sao? Làm sao tôi có thể ngăn<br />
cản những người thấy tôi dễ thương. Và vì muốn gặp tôi họ đã có những nỗ lực mến trìu, bộ tôi phải<br />
dùng cây gậy xua đuổi họ đi à?<br />
Alceste : Không, thưa bà, bà không cần dùng cây gậy, mà là một trái tim ít dễ dãi và bớt dịu ngọt đi<br />
trước những lời tán tỉnh yêu đương của họ. Tôi biết là sắc đẹp của bà dẫn đưa bà đến được khắp nơi.<br />
Nhưng sự chào đón của bà chiếm lĩnh những ai được mắt bà thu hút. Và sự chào đón dịu dàng được<br />
ban cho những ai đưa cánh tay cho bà khoác, khiến tim họ rộn ràng vì sự duyên dáng lúc đầu của bà.<br />
Hy vọng quá thoải mái bà ban phát làm tăng sự sốt sắng của họ đối với bà; và nếu bà bớt cho thấy sự tự<br />
mãn của mình, thì sẽ xua đuổi được cái đám quá đông người sủng ái bà đấy. Nhưng ít ra, thì bà hãy nói<br />
cho tôi biết, vì sự may mắn nào mà anh chàng Clitandre lại được cái diễm phúc làm vui lòng bà nhiều<br />
đến thế chứ? Dựa vào cái công trạng gì hay vào cái đạo đức tuyệt vời nào để mà bà đã ban phát cho hắn<br />
sự quý mến của bà. Có phải cái móng tay dài trên ngón út của hắn đã đoạt được sự quý trọng của bà?<br />
Hoặc là giống như toàn thể cái thế giới hiện đại, bà cũng đã bị cái bộ tóc giả mầu vàng chói sáng của<br />
hắn mê hoặc chăng? Bộ những lọn tóc lớn của hắn đã làm bà yêu hắn ư? Bộ cái lô ru-băng của hắn mê<br />
hoặc bà sao? Có phải cái quần cụt lớn kiểu Đức hắn mặc đã thu hút và chinh phục được trái tim bà<br />
chăng, trong khi hắn lại giả bộ đóng vai kẻ nô lệ của bà. Hay là cái lối mỉm cười của hắn, cái giọng nói<br />
ỏn ẻn của hắn đã tìm được sự bí mật làm trái tim của bà rung động?<br />
Célimène : Thật là bất công để ông hồ nghi anh ta. Bộ ông không biết tại sao tôi ban ân huệ cho hắn, và<br />
hắn đã hứa sẽ thu hút hết bạn bè hắn cho vụ kiện tụng của tôi.<br />
Alceste : Hãy thua kiện đi bà ạ, với sự kiên trì, và hãy đừng ban ân huệ cho tình địch mà tôi khinh ghét.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 198<br />
Célimène : Nhưng bộ ông nổi ghen với toàn thế giới hay sao đây?<br />
Alceste : Đó chỉ vì toàn thế giới cứ ân cần tiếp đón bà.<br />
Célimène : Thì đó là đỉều duy nhất để làm dịu cái trí tuệ dễ sợ của ông, vì cái thiện chí của tôi đã được<br />
phân phát chung chung: ông sẽ có nhiều lý do hơn để cảm thấy bị xúc phạm nếu ông thấy tôi hoàn toàn<br />
chú trọng vào riêng một người mà thôi.<br />
Alceste : Nhưng còn tôi, người bị bà cáo buộc là ghen tuông thái quá, tôi có được gì hơn bất cứ ai trong<br />
số họ không, mong bà cho biết?<br />
Célimène : Cái hạnh phúc biết rẳng ông được yêu.<br />
Alceste : Vậy căn cứ vào đâu để cho trái tim tương tư của tôi tin được điều đó?<br />
Célimène : Tôi nghĩ rằng tôi đã có lòng nói cho ông biết thế thì một sự thú nhận như vậy hẳn phải làm<br />
ông hài lòng rồi chứ?<br />
Alceste : Nhưng ai có thể bảo đảm với tôi rằng bà sẽ khônbg đồng lúc có thể nói đúng như vậy với mọi<br />
người khác?<br />
Célimène : Chắc chắn đối với một người tình, thì đây là một lời nói yêu đương dễ thương, và ông đã<br />
coi tôi như một phụ nữ dễ mến. Vậy để loại bỏ một sự hồ nghi như thế, ngay bây giờ đây tôi lấy lại<br />
những điều tôi vừa mới nói; và không ai khác ngoài ông, trong tương lai, sẽ tự kỷ ám thị. Hãy hài lòng<br />
đi nào.<br />
Alceste : Trời đất quỷ thần! Sao mà tôi lại yêu bà quá đỗi vậy kìa! Ôi! Phải chi tôi lấy lại được trái tim<br />
tôi từ đôi tay bà thì tôi sẽ tôn vinh Trời cho cái diễm phúc híếm hoi này! Tôi sẽ không nhượng nó đâu,<br />
và tôi sẽ làm hết sức mình để cho tim tôi thoát ra khỏi sự quyến luyến ghê gớm này; nhưng những cố<br />
gắng mạnh nhất của tôi cho đến nay đã chẳng đạt được gì; và chính vì những tội lỗi của tôi mà tôi đã<br />
yêu bà như thế.<br />
Célimène : Đúng như thế, tình cảm nồng nàn của ông đối với tôi có một không hai.<br />
Alceste : Vâng, về điểm này thì tôi có thể thách thức cả thế giới. Tình yêu của tôi với bà thì không thể<br />
tưởng tượng được; và không bao giờ đâu, bà ạ, bất cứ một người nào lại đã yêu như tôi.<br />
Célimène : Tuy nhiên, cung cách yêu của ông thì hoàn toàn mới mẻ, vì ông yêu người chỉ để mà cãi lẩy<br />
với họ; chỉ có những lời giận dữ mới phát xuất đươc tình cảm nồng nàn của ông, và người ta chưa từng<br />
thấy một người tình nào cằn nhằn như thế.<br />
Alceste : Nhưng chỉ còn tuỳ vào bà mà thôi để làm tan biến niềm phiền muộn của hắn ta. Để cho yên<br />
ổn chúng ta hãy chấm dứt mọi sự cãi lộn này để công khai giải quyết với nhau, và cố gắng làm<br />
ngưng…<br />
Célìmène : Có chuyện gì?<br />
CẢNH II<br />
CÉLIMÈNE, ALCESTE, BASQUE
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 199<br />
Basque : Acaste đang chờ dưới nhà..<br />
Célìmène : Thì mời ông ta lên đi.<br />
Alceste : Cái gì? Bộ người ta không bao giờ có thể nói chuyện riêng mặt giáp mặt với bà được à? Đón<br />
tiếp mọi ngưới thì lúc nảo bà cũng sẵn sàng sao? Và bà không thể, có một lúc nào, quyết định là bà<br />
“không có nhà” được sao?<br />
Célimène : Bộ ông muốn tôi gây lộn với Acaste hay sao đây?<br />
Alceste : Bà có cái lòng quý trọng mà tôi thật sự không ưa.<br />
Célimène : Anh ta là người sẽ không bao giờ tha lỗi cho tôi, nếu anh ta biết rằng sự hiện diện của anh ta<br />
sẽ có thể gây phiền toái cho tôi.<br />
Alceste : Thế còn với bà thì sao, tự gây phiền cho mình như vậy …<br />
Célimène : Nhưng, trời cao đất dầy ơi! Tình bằng hữu của một người quan trọng như thế, họ là một loại<br />
người mà, tôi không hiểu làm sao lại đạt được cái quyền được triều đình nghe. Họ tham dự vào mọi<br />
cuộc chuyện trò; họ không thể làm điều gì tốt cho bạn, nhưng họ rất có thể hại bạn; và dù bạn có thể<br />
tìm được sự hậu thuẫn ở nơi nào khác đi nữa, thì chẳng nên có mối giao hảo không tốt với những con<br />
người ồn ào đó.<br />
Alceste : Tóm lại, bất cứ điều gì người ta nói hay làm, bà luôn luôn tìm được lý do để chịu đựng với bất<br />
cứ ai; và sự xét đoán rất thận trọng của bà…<br />
CẢNH III<br />
BASQUE, ALCESTE, CÉLIMÈNE<br />
Basque : Và đây lại cả Clitandre nữa, thưa bà.<br />
Alceste : Thì đúng là thế rồi. (muốn bỏ đi)<br />
Célimène : Anh chạy đi đâu thế hả?<br />
Alceste : Tôi đi về đây.<br />
Célimène : Ở lại đi.<br />
Alceste : Để làm gì cơ chứ?<br />
Célimène : Ở lại đi.<br />
Alceste : Tôi không thể.<br />
Célimène : Tôi muốn ông ở lại.<br />
Alceste : Tôi sẽ không ở lại. Những cuộc chuyện trò đó chỉ làm tôi mệt mỏi, và bà thật xấu bụng muốn<br />
tôi phải chịu đựng chúng.<br />
Célimène : Tôi muốn thế. Tôi muốn thế.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 200<br />
Alceste : Không. Tôi không thể ở lại được.<br />
Célimène : Vậy thì được rồi, đi đi, về đi; ông có thể làm theo ý ông mà.<br />
CẢNH IV<br />
ÉLIANTE, PHILINTE, ACASTE, CLITANDRE, ALCESTE, CÉLIMÈNE, BASQUE<br />
Éliante : (nói với Célimène) Đây là hai hầu tước cùng lên chơi với chúng ta. Có ai nói cho bà hay<br />
chưa?<br />
Célimène : Có ạ (nói với Basque) Hãy kéo ghế mời mọi người ngồi đi. (Basque kéo ghế mời rồi đi ra).<br />
Célimène nói vói Alceste : Bộ ông chưa bỏ về sao?<br />
Alceste : Chưa, nhưng thưa bà, tôi muốn, bà hãy giãi bầy tấm lòng bà, hoặc là với họ hay là với tôi.<br />
Célimène : Anh im đi có được không nào?<br />
Alceste : Trong chính ngày hôm nay bà hãy giãi bầy đi.<br />
Célimène : Bộ anh mất trí rồi sao?<br />
Alceste : Hoàn toàn không. Bà sẽ phải tự giải tỏ.<br />
Célimène : Thật tình!<br />
Alceste : Bà phải bầy tỏ lập trường của mình.<br />
Célimène : Ôi trời!<br />
Alceste : Bà cần nói rõ bà về phe ai.<br />
Célimène : Ông nói giỡn đó chứ, phải không nào?<br />
Alceste : Không đâu, nhưng bà sẽ lựa chọn; tôi kiên nhẫn quá lâu rồi.<br />
Clitande : Trời ạ! Tôi vừa đến từ viện bảo tàng Louvre, nơi sáng nay Cléonte đã cư xử hết sức kỳ cục.<br />
Bộ hắn ta không có người bạn nào có thể mở từ tâm chỉ dậy cho hắn phép lịch sự sao?<br />
Célimène : Sự thực thì hắn tự liên lụy mình rất nhiều vào xã hội; đâu đâu hắn cũng tự mang một cái vẻ<br />
mà mới đầu được người ta chú ý, và rồi sau một dạo ngắn vắng mặt, bạn gặp lại hắn, thì hắn lại còn có<br />
thái độ phi lý hơn bao giờ.<br />
Acaste : Trời ơi! Nếu phải nói về những con người phi lý, thì mới đây thôi, một trong những người vô<br />
duyên nhất đã làm phiền tôi. Anh chàng lý luận Damon đã nắm được tôi trọn một tiếng đồng hồ dưới<br />
ánh nắng nóng bỏng, xa chiếc ghế Sedan của tôi, chắc quý vị cảm phiền.<br />
Célimène : Anh ta là một người nói năng kỳ cục, và là một trong những người luôn tìm được cách nói<br />
vòng vo tam quốc với bạn mà chẳng mang lại ý nghĩa gì. Chẳng có ý nghĩa gì trong những lòi nói lanh<br />
cha lanh chanh của anh ta, và tất cả mình có thể nghe chỉ là tiếng động.<br />
Eliante (nói vói Philinte): Sự khởi đầu này hay đấy; và câu chuyện chuyển theo một chiều hướng đủ<br />
thoải mái nói về xóm giềng của chúng ta.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 201<br />
Clitandre : Timante nữa, thưa bà, là một con người có tư cách đấy chứ.<br />
Célimène : Đó là một con người huyền bí từ đầu đến chân mà khi đi ngang bạn, sẽ ném cái nhìn bối<br />
rối, và là người dủ chẳng làm gì hết, nhưng lúc nào lại cũng bận rộn. Bất cừ điều gì anh ta thốt ra đều<br />
kèm theo những nét nhăn nhó, những điệu đàng của anh ta làm mọi người bị khá ngộp thở. Để gây gián<br />
đoạn cho một câu chuyện, anh ta luôn luôn có một bí mật để thì thầm vào tai bạn, và điều bật mí ấy té<br />
ra lại chẳng có gì là bí mật cả. Từ chuyện bé tí anh ta xé ra to, và cứ thầm thì mọi chuyện vào tai bạn,<br />
ngay cả khi chỉ là lời chào “chúc một ngày tốt đẹp”.<br />
Acaste : Vậy còn Geralde thì sao, thưa bà.<br />
Célimène : Cái anh chàng kể chuyện chán ngấy! Anh ta chẳng khi nào bước xuống khỏi cái bục con<br />
người quý phái của mình; anh ta tiếp tục trà trộn với xã hội bán buôn thượng đẳng, và không bao giờ<br />
trích lời ai ở dưới đẳng cấp Quận công, Hoàng tử hay Công chúa. Đẳng cấp là sở thích của anh ta và<br />
những câu chuyện của anh ta thì không gì ngoài những chú ngựa, những cỗ xe, và những con chó. Anh<br />
ta nói chuyện xưng anh, anh, tôi, tôi với những người ở đẳng cấp tối cao, và tiếng Ngài thì có tính cách<br />
hoàn toàn lỗi thời đối với anh ta.<br />
Clitandre : Nghe nói anh ta có mối giao hảo tốt với Bélise?<br />
Célimène : Một phụ nữ khù khờ tội nghiêp, và viếng khách nhàm chán nhất. Khi bà ta đến thăm tôi, tôi<br />
đau khổ như người phải tội: tôi cứ luôn luôn phải cố moi óc xem nên nói gì với bà ta, và vì bà ta<br />
khônbg sao bầy tỏ nổi những cảm nghĩ của bà ta nên câu chuyện cứ ngưng lại ngang xương. Dù bạn cố<br />
gắng vượt qua sự im lặng ngốc nghếch của bà ta bằng cách giúp đề cập đến nhữmg đề tài tào lao nhất<br />
thì cũng vô ích thôi: ngay cả những đề tài về thời tiết như trời đẹp, trời mưa, trời nóng và trời lạnh cũng<br />
thế, với bà ta thì cũng mau chóng tới hồi kết thúc. Đã thế, nhữmg lần thăm víếng của bà ta tuy đã là<br />
một cực hình, mà lại còn bị kéo dài đến không thể chịu đựng nổi; và bạn rất có thể nhìn đồng hồ hay<br />
ngáp hai mươi lần, thì bà ta vẫn cứ ngồi trơ ra như khúc củi vậy.<br />
Arcaste : Thế còn Adraste thì sao?<br />
Célimène : Ôi chao! Còn sự kiêu ngạo tuyệt đối nào hơn nữa đây! Ông này đúng là một con người đầy<br />
tự cao tự đại, công trạng của ông ta với triều đình không bao giờ được ông ta coi là được ban thưởng<br />
thỏa đáng, và hàng ngày ông ta cứ than van với triều đình về chuyện này, và bất cứ khi nào có một<br />
chức vị, một chỗ, hay một ân huệ được ban phát cho ai, là chắc chắn ông ta nghĩ là mình đã bị ngược<br />
đãi bất công.<br />
Clitandre : Nhưng còn chàng trai trẻ Cléon mà những người quý trọng thường đến gặp thì bà nghĩ sao?<br />
Célimène : Ấy chính nhờ anh bếp của anh ta mà anh ta mới được mọi người chú ý đấy chứ, và người ta<br />
đến là vì cái bàn ăn của anh ta thôi.<br />
Éliante : Anh ta rất cố gắng cung ứng những món ăn thanh nhã, khoái khẩu.<br />
Célimène : Đúng, nhưng tôi sẽ sung sướng thấy anh ta đừng ra mặt phục dịch , con người khờ khạo<br />
của anh ta là một món dở ẹc, mà theo ý tôi làm hư mọi bữa tiệc anh ta khoản đãi.<br />
Philinte : Ông chú Damis của anh ta thì rất được người ta nhắc tới, thế bà nghĩ sao về ông này, thưa bà.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 202<br />
Célimène : Ông ta là một trong những người bạn của tôi.<br />
Philinte : Tôi thấy ông ta là một con người hoàn toàn trung trực với một phong thái khôn ngoan.<br />
Célimène : Đúng vậy. Nhưng ông ta tự cho mình quá nhiều trí tuệ khiến tôi khó chịu; ông ta luôn luôn<br />
khoa trương, và trong hết thẩy những cuộc chuyện trò của ông ta, người ta có thể thấy ông ta cố gắng<br />
để nói những lời thông thái. Vì ông ta cứ tự coi mình là người thông mẫn nên rất khó mà làm ông ta hài<br />
lòng, và chẳng có gì hợp với sở thích của ông ta. Ông ta cần tìm ra những sai lầm trong những tác<br />
phẩm của bạn, và cho rằng đưa ra lời khen tặng thì không phải là người có kiến thức, rằng vạch ra<br />
những sai lầm mới là người thông thái, rằng chỉ có kẻ khờ mới ngưỡng mộ chuyện nực cười, và rằng<br />
bằng cách không chấp nhận bất cứ điều gì trong những tác phẩm đương đại, ông ta đứng trên tất cả mọi<br />
người khác. Ngay cả trong những cuộc trò chuyện, ông ta cũng tìm thấy đìều gì đó để chê bai: đó là<br />
những đề tài quá tầm thường ông không hạ mình để đề cập, và với đôi cánh tay khoanh trước ngực, từ<br />
đỉnh cao trí tuệ của mình, ông nhìn xuống với lòng thương hại đối với bất cứ điều gì mỗi người bầy tỏ.<br />
Acaste : Xin Chúa trừng phạt con, nhưng đó đúng là hình ảnh của ông ta!<br />
Clitandre : Bà quả là có tài mô tả trúng phóc từng người.<br />
Alceste : Nào nào, thúc đẩy mạnh đi, các bạn tâm giao của tôi ơi; các bạn chẳng tha một ai, và ai cũng<br />
tới lượt hết. Ấy vậy mà, cứ để bất cứ ai trong số người đó xuất hiện, là sẽ thấy các bạn nhào tới để gặp,<br />
đưa tay ra chào đón, với một nụ hôn nịnh bợ, nhấn mạnh cho những lời thề của mình để làm đầy tớ cho<br />
họ.<br />
Clitandre : Tại sao lại nhắm vào chúng tôi chứ? Nếu những gì vừa nói ra đã xúc phạm bạn, thì sự trách<br />
móc phải nhắm vào bà đây chứ!<br />
Alceste : Trời đất quỷ thần! Không đâu, lời trách cứ là cho quý vị đấy, vì những tiếng cười thích thú của<br />
quý vị đã làm bà ta rút tỉa từ trí óc của mình để đưa ra những lời nhận xét dèm pha vu khống kia. Cái<br />
óc trào phúng của bà ấy đã được sự nịnh hót tội lỗi của quý vị không ngừng nuôi dưỡng, và trí óc bà ấy<br />
sẽ bớt những lời chế diễu nếu bà ta thấy chẳng có ai hưởng ứng. Vì thế chúng ta phải quy tội những tật<br />
xấu của những phường xu nịnh ở khắp nơi mà đã gieo rắc trong nhân loại.<br />
Philinte : Nhưng hà cớ chi mà anh lại quan tâm nhiều như thế đến những con người đó chứ, vì anh lên<br />
án chính những điều mà họ đang bị quy lỗi cơ mà?<br />
Célimène : Phải chăng ông ta đây có ý nói ngược lại; quý vị có muốn đưa ý của ông ta ra trước công<br />
luận, và để ông ta truyền bá ra khắp nơi cái tinh thần phản đối trời đã ban cho ông ta chăng? Cảm nghĩ<br />
của người khác không bao giờ làm ông ta hài lòng; ông ta luôn luôn có sẵn quan điểm trái ngược, và<br />
ông ta cứ cho mình là thuộc về lớp bình dân, nếu ông ta bị quan sát là theo quan điểm của ai đó thì<br />
cái vinh dự của việc nói ngược lại có tính cách rất thu hút đối với ông đến nỗi ông đã tự mâu thuẫn:<br />
ông sẽ tự chống lại quan điểm của chính mình ngay khi ông nghe thấy những quan diểm đó được nói ra<br />
từ miệng một người khác.<br />
Alceste : Nói gọn lại thì thưa bà, những người cười cợt kia là thuộc phe bà, và bà có thể đẩy đưa trò<br />
trào phúng chống lại tôi đấy.<br />
Philinte : Nhưng quả có đúng là trí óc anh luôn canh chừng để chống lại mọi điều người ngoài nói, và
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 203<br />
rằng vì một niềm ưu uất đươc anh tự thú nên anh không khứng chịu người ta khen hay chê.<br />
Alceste : Trời đất quỷ thần! Đó là vì không bao giờ con người lại đúng, niềm ưu uất chống lại nhân loại<br />
là điều ta làm lúc thích nghi, và theo cái nhìn của tôi thì con người không đúng trong mọi vấn đề, hoặc<br />
họ là những người ca tụng không đúng lúc hay những người chê bai táo tợn.<br />
Célimène : Nhưng…<br />
Alceste : Không, thưa bà, không, dẫu cho tôi phải chết đi nữa về chuyện này, thì bà có những thú tiêu<br />
khiển tôi không thể nào dung túng được,và người ta thật hết sức lầm lẫn để cứ nuôi dưỡng trong lòng<br />
bà sự quyến luyến lớn lao ấy đối với chính những sai lầm mà họ trách cứ.<br />
Clitandre : Còn riêng tôi thì tôi không biết, nhưng tôi phải công khai thừa nhận rằng, cho đến nay thì<br />
tôi thấy bà đây không có lỗi gì hết.<br />
Acaste : Tôi thì thấy bà ta đầy duyên dáng cùng những nét quyến rũ; còn những sai lầm mà bà ta có thì<br />
tôi không nhìn thấy.<br />
Alceste : Với tôi thì tôi càng thấy rõ những sai lầm đó, và tôi không dấu giếm , bà ta biết là tôi quan<br />
tâm tới chuyện trách cứ bà ta về những điều đó. Càng yêu ai, ta càng ít ca tụng người đó. Tình yêu chân<br />
thực là cho thấy không bỏ qua, tha thứ điều gì. Và nếu tôi là một phụ nữ thì tôi sẽ cấm cửa tất cà những<br />
tình nhân hèn hạ nào chịu phép trước mọi quan điểm của tôi, và những sự phụ họa yếu ớt của họ bất cứ<br />
lúc nào sẽ tạo ra lời nịnh hót những sự phí phạm của tôi.<br />
Célimène : Tóm lại, nếu áp dụng những điều ông nói cho những cuộc tình, thì muốn yêu cho tốt, phải<br />
từ bỏ những mến trìu, và tình yêu tuyệt hảo đặt danh dự tối thượng vào hành động gây hấn cho những<br />
người mình yêu.<br />
Éliante : Tình yêu, nói chung, thì thật là không theo những quy tắc này. Và ta thấy những nhân tình<br />
luôn ca ngợi người họ chọn; tình yêu của họ chẳng bao giờ thấy điều cần trách móc, và chỉ thấy ở<br />
người mình yêu những điều đáng yêu; họ lại coi những khuyết điểm là những ưu điểm, và dành cho<br />
những ưu điểm này những danh từ mỹ miều : nét xanh xao được ví với mầu trắng của hoa nhài; da đen<br />
như củ súng, trông phát hoảng, thì lại gọi là da nâu dễ mến; người gầy như con mắm trở thành mình<br />
thanh mảnh nhẹ nhàng; em to béo bồ tượng thì thành người có dáng vóc trang nghiêm; người dơ dáy,<br />
chẳng có gì duyên dáng, được gọi là sắc đẹp hoang dại; nàng khổng lồ đối với mắt họ trở thành nữ<br />
thần; người lùn trở thành toát yếu của mọi kỳ quan của hóa công; người tự ái có một tâm hồn đáng đeo<br />
vương miện; nàng nghệ sĩ thì đầy trí tuệ; kẻ kỳ cục thì được coi là rất tốt tính; cô lắm miệng là người<br />
cởi mở dễ thương. và nàng ít lời là người khiêm tốn và kín đáo. Cứ như thế những tình nhân yêu ngay<br />
cả những khuyết điểm của nguời họ đang say mê.<br />
Alceste : và tôi vẫn duy trì là …<br />
Célimène : Thôi chúng ta hãy bỏ đề tài này đi, và cùng nhau đánh một vòng đi thăm phòng triển lãm<br />
đi. Sao? Các ông về à?<br />
Clitandre và Acaste : Thưa bà, không.<br />
Alceste : Nỗi sợ họ bỏ về bận lòng bà lắm nhỉ; khi nào muốn thì mời các ông cứ ra về, nhưng tôi xin<br />
cảnh báo trước là tôi sẽ chỉ đi sau khi các ông đã về mà thôi.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 204<br />
Acaste : Trừ phi điều đó gây phiền cho bà đây, thì tôi chẳng có chuyện gì phải đi đâu hết trọn hôm nay.<br />
Clitandre : Còn tôi, trừ phi tôi phải có mặt khi nhà Vua mãn triều để đi nghỉ, thì tôi không có việc gì<br />
phải đi đâu cả.<br />
Célimène (nói với Alceste): Tôi đoán là ông chỉ nói giỡn thôi đấy chư.<br />
Alceste : Hoàn toàn không đâu. Chúng ta sẽ chờ xem liệu có phải tôi là người bà muốn thấy biến đi<br />
chăng?<br />
CẢNH V<br />
BASQUE, ALCESTE, CÉLIMÈNE.<br />
Basque : (nói với Alceste) Thưa ông, có một ông muốn được nói chuyện với ông về vấn đề mà ông ta<br />
nói không thể trì hoãn được.<br />
Alceste : Nói với ông ta là tôi chẳng có chuyện gì gấp rút như vậy cả.<br />
Basque : Ông ta mặc một áo vét với chiềc váy rộng, xếp gấp, thêu chỉ vàng.<br />
Célimène (với Alceste): Thì ông ra xem có chuỵện gì, hoặc là mời ông ta vào.<br />
Alceste : (đi gặp người khách) Có chuyện gì vậy thưa ông, mời ông vào.<br />
CẢNH VI<br />
GARDE, ALCESTE, CÉLIMÈNE, PHILINTE, ÉLIANTE, ACASTE, CLITANDRE.<br />
Garde : Thưa ông, tôi có đôi lời muốn nói với ông.<br />
Alceste : Thưa ông, ông có thể cứ nói lớn tiếng cho tôi biết.<br />
Garde : Các vị Thống Chế tài phán, giao cho tôi trọng trách đòi ông đến gặp các vị đó ngay, thưa ông.<br />
Alceste : Ai? Tôi à, thưa ông?<br />
Garde : Thưa, chính ông.<br />
Alceste : Mà để làm gì mới được chứ?<br />
Philinte : Thì là Oronte với anh qua chuyện nực cười đó chứ gì nữa.<br />
Célimène : Chuyện gì thế?<br />
Philinte : Oronte và Alceste đã nhục mạ nhau hồi mới đây về mấy câu thơ vớ vẩn mà Alceste không<br />
thích; và các vị Thống chế tài phán muốn rập tắt vụ này trong trứng nước đấy mà.<br />
Alceste : Tôi ấy à, tôi sẽ không hèn hạ làm vừa lòng ai đâu nhé.<br />
Philinte : Nhưng anh phải tuân theo trát tòa : thôi, sửa soạn đi đi.<br />
Alceste : Họ sẽ làm cách nào để hòa giải giữa chúng tôi? Liệu quan điểm của các ông này có buộc tôi<br />
phải chấp nhận những vần thơ đã gây ra cuộc cãi lộn giữa chúng tôi chăng? Tôi sẽ không lấy lại những<br />
gì tôi đã nói đâu : tôi thấy những câu thơ đó đáng ghét.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 205<br />
Philinte : Nhưng với một giọng điệu ôn hòa hơn…<br />
Alceste : Tôi sẽ không nhượng bộ đâu; những câu thơ đó đáng ghét.<br />
Philinte : Anh cần phải cho thấy một tinh thần thích nghi hơn. Thôi đi đi.<br />
Alceste : Thì tôi đi, nhưng không có gì dụ được tôi lấy lại lời đã nói đâu.<br />
Philinte : Thì đi bầy tỏ với họ đi.<br />
Alceste : Trừ phi một khẩn lệnh của chính quân vương bắt tôi chấp thuận những câu thơ đã gây ra trọn<br />
vụ rắc rối này, thì tôi sẽ suốt đời duy trỉ, trời đất ạ, rằng những vần thơ đó dở ẹc, và người viết những<br />
vần thơ đó đáng bị treo cổ. (Với Clitandre và Acaste mà đang rũ ra cười) Cái gì thế kia! Nào, quý ông,<br />
tôi không nghĩ tôi là trò tiêu khiển đến thế cho các ông đâu nhé.<br />
Célimène : Thôi thì ông hãy đi lẹ đến nơi ông phải tới đi.<br />
Alceste : Tôi đi đây, thưa bà, nhưng rồi tôi sẽ trờ về để tiếp tục cuộc thảo luận của chúng ta. ■<br />
HẾT MÀN II—CÒN TIẾP KỲ SAU
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 206
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 207<br />
Réveil<br />
Par Guy de Maupassant<br />
Depuis trois ans qu'elle était mariée, elle n'avait point quitté le val de Ciré, où son mari possédait<br />
deux filatures. Elle vivait tranquille, sans enfants, heureuse dans sa maison cachée sous les arbres, et<br />
que les ouvriers appelaient «le château».<br />
M. Vasseur, bien plus vieux qu'elle, était bon. Elle l'aimait; et jamais une pensée coupable<br />
n'avait pénétré dans son coeur. Sa mère venait passer tous les étés à Ciré, puis retournait s'installer à<br />
Paris pour l'hiver, dès que les feuilles commençaient à tomber.<br />
Chaque automne Jeanne toussait un peu. La vallée étroite où serpentait la rivière s'embrumait<br />
alors pendant cinq mois. Des brouillards légers flottaient d'abord sur les prairies, rendant tous les fonds<br />
pareils à un grand étang d'où émergeaient les toits des maisons. Puis cette nuée blanche, montant<br />
comme une marée, enveloppait tout, faisait de ce vallon un pays de fantômes où les hommes glissaient<br />
comme des ombres sans se reconnaître à dix pas. Les arbres, drapés de vapeurs, se dressaient, moisis<br />
dans cette humidité.<br />
Mais les gens qui passaient sur les côtes voisines, et qui regardaient le trou blanc de la vallée,<br />
voyaient surgir au-dessus des brumes accumulées au niveau des collines, les deux cheminées géantes<br />
des établissements de M. Vasseur, qui vomissaient nuit et jour à travers le ciel deux serpents de fumée<br />
noire.<br />
Cela seul indiquait qu'on vivait dans ce creux qui semblait rempli d'un nuage de coton.<br />
Or, cette année-là, quand revint octobre, le médecin conseilla à la jeune femme d'aller passer<br />
l'hiver à Paris chez sa mère, l'air du vallon devenant dangereux pour sa poitrine.<br />
Elle partit.<br />
Pendant les premiers mois elle pensa sans cesse à la maison abandonnée où s'étaient enracinées<br />
ses habitudes, dont elle aimait les meubles familiers et l'allure tranquille. Puis elle s'accoutuma à sa vie<br />
nouvelle et prit goût aux fêtes, aux dîners, aux soirées, à la danse.<br />
Elle avait conservé jusque-là ses manières de jeune fille, quelque chose d'indécis et d'endormi,<br />
une marche un peu traînante, un sourire un peu las. Elle devint vive, gaie, toujours prête aux plaisirs.<br />
Des hommes lui firent la cour. Elle s'amusait de leurs bavardages, jouait avec leurs galanteries, sûre de<br />
sa résistance, un peu dégoûtée de l'amour par ce qu'elle en avait appris dans le mariage.<br />
La pensée de livrer son corps aux grossières caresses de ces êtres barbus la faisait rire de pitié et<br />
frissonner un peu de répugnance. Elle se demandait avec stupeur comment des femmes pouvaient<br />
consentir à ces contacts dégradants avec des étrangers, alors qu'elles y étaient déjà contraintes avec<br />
l'époux légitime. Elle eût aimé plus tendrement son mari s'ils avaient vécu comme deux amis, s'en<br />
tenant aux chastes baisers qui sont les caresses des âmes.<br />
Mais elle s'amusait beaucoup des compliments, des désirs apparus dans les yeux et qu'elle ne<br />
partageait point, des attaques directes, des déclarations jetées dans l'oreille quand on repassait au salon<br />
après les fins dîners, des paroles balbutiées si bas qu'il les fallait presque deviner, et qui lui laissaient la<br />
chair froide, le coeur tranquille, tout en chatouillant sa coquetterie inconsciente, en allumant au fond<br />
d'elle une flamme de contentement, en faisant s'épanouir sa lèvre, briller son regard, frissonner son âme<br />
de femme à qui les adorations sont dues.<br />
Elle aimait ces tête-à-tête des soirs tombants, au coin du feu, dans le salon déjà sombre, alors<br />
que l'homme devient pressant, balbutie, tremble et tombe à genoux. C'était pour elle une joie exquise et<br />
nouvelle de sentir cette passion qui ne l'effleurait pas, de dire non de la tête et des lèvres, de retirer ses<br />
mains, de se lever, et de sonner avec sang-froid pour demander les lampes, et de voir se redresser<br />
confus et rageant, en entendant venir le valet, celui qui tremblait à ses pieds.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 208<br />
Elle avait des rires secs qui glaçaient les paroles brûlantes, des mots durs tombant comme un<br />
jet d'eau glacée sur les protestations ardentes, des intonations à faire se tuer celui qui l'eût adorée<br />
éperdument.<br />
Deux jeunes gens surtout la poursuivaient avec obstination. Ils ne se ressemblaient guère.<br />
L'un, M. Paul Péronel, était un grand garçon mondain, galant et hardi, homme à bonnes<br />
fortunes, qui savait attendre et choisir ses heures.<br />
L'autre, M. d'Avancelle, frémissait en l'approchant, osait à peine deviner sa tendresse, mais la<br />
suivait comme son ombre, disant son désir désespéré par des regards éperdus et par l'assiduité de sa<br />
présence auprès d'elle.<br />
Elle appelait le premier le «Capitaine Fracasse» et le second «Mouton Fidèle»; elle finit par<br />
faire de celui-ci une sorte d'esclave attaché à ses pas, dont elle usait comme d'un domestique.<br />
Elle eût bien ri si on lui eût dit qu'elle l'aimerait.<br />
Elle l'aima pourtant d'une singulière façon. Comme elle le voyait sans cesse, elle avait pris<br />
l'habitude de sa voix, de ses gestes, de toute l'allure de sa personne, comme on prend l'habitude de ceux<br />
près de qui on vit continuellement.<br />
Bien souvent en ses rêves son visage la hantait; elle le revoyait tel qu'il était dans la vie, doux,<br />
délicat, humblement passionné; et elle s'éveillait obsédée du souvenir de ces songes, croyant l'entendre<br />
encore, et le sentir près d'elle. Or, une nuit (elle avait la fièvre peut-être), elle se vit seule avec lui, dans<br />
un petit bois, assis tous deux sur l'herbe.<br />
Il lui disait des choses charmantes en lui pressant les mains et les baisant. Elle sentait la chaleur<br />
de sa peau et le souffle de son haleine; et, d'une façon naturelle, elle lui caressait les cheveux.<br />
On est, dans le rêve, tout autre que dans la vie. Elle se sentait pleine de tendresse pour lui, d'une<br />
tendresse calme et profonde, heureuse de toucher son front et de le tenir contre elle.<br />
Peu à peu il l'enlaçait de ses bras, lui baisait les joues et les yeux sans qu'elle fit rien pour lui<br />
échapper, et leurs lèvres se rencontrèrent. Elle s'abandonna.<br />
Ce fut (la réalité n'a pas de ces extases), ce fut une seconde d'un bonheur suraigu et surhumain,<br />
idéal et charnel, affolant, inoubliable.<br />
Elle s'éveilla, vibrante, éperdue, et ne put se rendormir, tant elle se sentait obsédée, possédée<br />
toujours par lui.<br />
Et quand elle le revit, ignorant du trouble qu'il avait produit, elle se sentit rougir; et pendant<br />
qu'il lui parlait timidement de son amour, elle se rappelait sans cesse, sans pouvoir rejeter cette pensée,<br />
elle se rappelait l'enlacement délicieux de son rêve.<br />
Elle l'aima, elle l'aima d'une étrange tendresse, raffinée et sensuelle, faite surtout du souvenir de<br />
ce songe, bien qu'elle redoutât l'accomplissement du désir qui s'était éveillé dans son âme.<br />
Il s'en aperçut enfin. Et elle lui dit tout, jusqu'à la peur qu'elle avait de ses baisers. Elle lui fit<br />
jurer qu'il la respecterait.<br />
Il la respecta. Ils passaient ensemble de longues heures d'amour exalté, où les âmes seules<br />
s'étreignaient. Et ils se séparaient ensuite énervés, défaillants, enfiévrés.<br />
Leurs lèvres parfois se joignaient; et, fermant les yeux, ils savouraient cette caresse longue,<br />
mais chaste quand même.<br />
Elle comprit qu'elle ne résisterait plus longtemps; et, comme elle ne voulait pas faillir, elle<br />
écrivit à son mari qu'elle désirait retourner près de lui et reprendre sa vie tranquille et solitaire.<br />
Il répondit une lettre excellente, en la dissuadant de revenir en plein hiver, de s'exposer à ce<br />
brusque dépaysement, aux brumes glaciales de la vallée.<br />
Elle fut altérée et indignée contre cet homme confiant, qui ne comprenait pas, qui ne devinait<br />
pas les luttes de son coeur.<br />
Février était clair et doux, et bien qu'elle évitât maintenant de se trouver longtemps seule avec
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 209<br />
Mouton Fidèle, elle acceptait parfois de faire en voiture, avec lui, une promenade autour du lac, au<br />
crépuscule.<br />
On eût dit ce soir-là que toutes les sèves s'éveillaient, tant les souffles de l'air étaient tièdes. Le<br />
petit coupé allait au pas; la nuit tombait; ils se tenaient les mains, serrés l'un contre l'autre. Elle se<br />
disait: «C'est fini, c'est fini, je suis perdue», sentant en elle un soulèvement de désirs, l'impérieux<br />
besoin de cette suprême étreinte qu'elle avait ressentie si complète en un rêve. Leurs bouches à tout<br />
instant se cherchaient, s'attachaient l'une à l'autre, et se repoussaient pour se retrouver aussitôt.<br />
Il n'osa pas la reconduire chez elle, et la laissa sur sa porte, affolée et défaillante.<br />
M. Paul Péronel l'attendait dans le petit salon sans lumière.<br />
En lui touchant la main, il sentit qu'une fièvre la brûlait. Il se mit à causer à mi-voix, tendre et<br />
galant, berçant cette âme épuisée au charme de paroles amoureuses. Elle l'écoutait sans répondre,<br />
pensant à l'autre, croyant entendre l'autre, croyant le sentir contre elle, dans une sorte d'hallucination.<br />
Elle ne voyait que lui, ne se rappelait plus qu'il existait un autre homme au monde; et quand son oreille<br />
tressaillait à ces trois syllabes: «Je vous aime», c'était lui, l'autre, qui les disait, qui baisait ses doigts,<br />
c'était lui qui serrait sa poitrine comme tout à l'heure dans le coupé, c'était lui qui jetait sur ses lèvres<br />
ces caresses victorieuses, c'était lui qu'elle étreignait, qu'elle enlaçait, qu'elle appelait de tout l'élan de<br />
son coeur, de toute l'ardeur exaspérée de son corps.<br />
Quand elle s'éveilla de ce songe, elle poussa un cri épouvantable.<br />
Le capitaine Fracasse, à genoux près d'elle, la remerciait passionnément en couvrant de baisers<br />
ses cheveux dénoués. Elle cria: «Allez-vous-en, allez-vous-en, allez-vous-en!»<br />
Et comme il ne comprenait pas et cherchait à ressaisir sa taille, elle se tordit en bégayant:<br />
«Vous êtes infâme, je vous hais, vous m'avez volée, allez-vous-en.»<br />
Il se releva, abasourdi, prit son chapeau et s'en alla.<br />
Le lendemain, elle retournait au Val de Ciré. Son mari, surpris, lui reprocha ce coup de tête. «Je<br />
ne pouvais plus vivre loin de toi», dit-elle.<br />
Il la trouva changée de caractère, plus triste qu'autrefois; et quand il lui demandait: «Qu'as-tu<br />
donc? Tu sembles malheureuse. Que désires-tu?» Elle répondait: «Rien. Il n'y a que les rêves de bons<br />
dans la vie.»<br />
Mouton Fidèle vint la voir l'été suivant.<br />
Elle le reçut sans trouble et sans regrets, comprenant soudain qu'elle ne l'avait jamais aimé qu'en<br />
un songe dont Paul Péronel l'avait brutalement réveillée.<br />
Mais le jeune homme, qui l'adorait toujours, pensait en s'en retournant: «Les femmes sont<br />
vraiment bien bizarres, compliquées et inexplicables.» ■<br />
&<br />
BØng TÌnh<br />
Tác giä: Guy de Maupassant<br />
Minh Thu chuy‹n ng»<br />
Từ khi lấy chồng được ba năm nay, nàng không hề rời khỏi thung lũng Ciré, nơi chồng nàng sở hữu<br />
hai nhà máy sợi. Nàng sống bình lặng, không con cái, hạnh phúc trong ngôi nhà của nàng ẩn dưới hàng<br />
cây được những người thợ gọi là “tòa lâu đài”.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 210<br />
Ông Vasseur, lớn tuổi hơn nàng nhiều, thì là một con người tốt bụng. Nàng yêu chồng, và không<br />
một tư tưởng tội lỗi nào đã hề lén đi vào tâm tư nàng. Cứ Hè đến là mẹ nàng tới Ciré để rồi lại trở về<br />
sống ở Paris vào mùa Đông khi lá vàng bắt đẩu rơi rụng.<br />
Cứ Thu tới là Jeanne lại húng hắng ho. Cái thung lũng hẹp, nơi con sông vòng vèo uốn khúc thì<br />
bị sương mù phủ trong năm tháng. Những lớp sương mù nhẹ lan tỏa trước hết trên những cánh đồng cỏ<br />
khiến lòng thung lũng trông tựa một đầm nước lớn với những mái nhà trồi nổi lên. Rồi cái lớp sương<br />
trắng đó như thủy triều lan tỏa, trùm phủ lên tất cả khiến thung lũng trông tựa một ma thôn, nơi người<br />
ta lướt đi như những chiếc bóng không nhận diện được từ khoảng cách mươi bước chân. Cây cối bị hơi<br />
sương bao trùm trở nên ẩm ướt rêu phong trong cái không khí ẩm thấp đó.<br />
Nhưng những ai đi ở phía bên kia đồi nhìn thung lũng như cái lỗ phủ mây trắng, thì trông thấy,<br />
phía trên những lớp sương mù tụ hợp trên các ngọn đồi, trồi lên hai ống khói khổng lồ của cơ xưởng<br />
của ông Vasseur, ngày đêm tuôn lên trời hai cuộn khói đen.<br />
Cảnh tượng duy nhất này cho thấy có người ta sinh sống trong cái khoảng rỗng mà có vẻ như<br />
chứa đầy một đám mây trắng như bông gòn.<br />
Vì thế năm đó, khi tháng mười tới, viên y sĩ đã khuyên người phụ nữ trẻ hãy đi nghỉ ở nhà mẹ<br />
nàng tại Paris, vì không khí ở thung lũng trở nên nguy hiểm cho buồng phồi của nàng.<br />
Nàng ra di.<br />
Trong mấy tháng đầu nàng đã không ngừng nghĩ đến ngôi nhà bị bỏ lại, nơi những thói quen<br />
của nàng đã ăn mầm mọc rễ khiến nàng yêu mến những đồ đạc quen thuộc và lối sống bình lặng.<br />
Rồi thì nàng cũng quen với đời sống mới của nàng, và thích thú hội hè, những bữa cơm chiều cùng<br />
những buổi tối trò chuyện và khiêu vũ.<br />
Cho đến khi đó thì nàng vẫn giữ những điệu đàng của cô gái trẻ, một vẻ gì đó bất định và mơ<br />
màng, với bước đi hơi lê gót, một nụ cười hơi mệt mỏi.<br />
Rồi nàng trở nên sống động, luôn luôn sẵn sàng cho những thú giải trí. Những anh đàn ông tán<br />
tỉnh nàng. Nàng tiêu khiển đùa vui với những câu chuyện của họ. bỡn cợt với những lời tâng bốc của<br />
họ, tự tin về sự tự chủ của mình, hơi chán chường chuyện yêu đương vì nàng vốn đã được biết chuyện<br />
đó trong hôn nhân rồi.<br />
Ý nghĩ để những anh chàng râu ria kia bờm xơm ve vuốt làm nàng phì cười và hơi rùng mình<br />
góm ghiếc.<br />
Nàng sững sờ tự hỏi làm sao mà phụ nữ lại có thể bằng lòng chịu đựng những va chạm làm<br />
giảm giá họ với những con người xa lạ, trong khi nàng thì vốn đã cảm thấy bị ép buộc làm như thế với<br />
người chồng hợp pháp của mình. Nàng hẳn sẽ yêu chồng trìu mến hơn nếu họ sống như những người<br />
bạn, bằng lòng với những chiếc hôn trong sáng, mà là những mơn trớn vuốt ve của tâm hồn.<br />
Nhưng nàng rất vui với những lời tán tụng, những ham muốn trong những cặp mắt mà nàng không hề<br />
tham gia, những lời tán tỉnh thẳng thừng, những lời tỏ tình ném vào bên tai khi người ta tiến sang<br />
phòng khách sau những bữa cơm tối thịnh soạn, những lời nói thì thầm quá nhỏ khiến hầu như người<br />
nghe phải cố đoán ra; tất cả vẫn làm da thịt nàng lạnh tanh, trái tim bình thản dù rằng đã chọc ghẹo tính<br />
lẳng lơ vô tình vô ý của nàng, nhúm lên trong đáy lòng nàng một ngọn lửa mãn nguyện, khiến môi<br />
nàng bóng mỡ, mắt rực sáng, làm rung động cái tâm hồn phụ nữ của nàng mà đáng được hưởng những<br />
sự sủng ái đó.<br />
Nàng ưa thích những buổi chiều ngồi đối diện, bên lò sưởi, trong phòng khách ánh đèn mờ ảo,<br />
khi anh đàn ông cấp bách, lắp bắp, run rẩy và quỳ gối dưới chân nàng. Đối với nàng đó là một niềm vui<br />
tuyệt diệu và mới mẻ khi cảm thấy niềm si mê đó không chạm được tới nàng, khi nàng khước từ bằng<br />
cái lắc đầu hay bằng lời nói, và rút bàn tay của mình lại, rồi đứng lên lạnh lùng rung chuông gọi người<br />
hầu mang cây đèn tới, và thấy cái anh chàng đang run rẩy dưới chân nàng kia hoang mang tức tối đứng<br />
dậy, trong khi người hầu bước tới.<br />
Nàng cất tiếng cười khan làm băng giá những lời nói nóng bỏng, và lời nói cứng cỏi của nàng
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 211<br />
bắn ra như một tia nước lạnh ngắt vào những lời phản đối nồng nhiệt, giọng nói lạnh tanh của nàng làm<br />
những chàng si mê nàng phải nghĩ đến chuyện tự vẫn cho rồi.<br />
Trên hết thì có hai chàng trẻ tuổi đã quyết tâm theo đuổi nàng. Họ hoàn toàn tương phản nhau.<br />
Người thứ nhất là Paul Peronel, một anh chàng lịch lãm cao ráo, lịch thiệp và táo bạo, có tiền của, lại<br />
biết chờ thời cơ của mình.<br />
Người kia M. d’Avancelle, thì cứ lẩy bẩy tiến đến bên nàng, chẳng hề dám tưởng tượng đến sự<br />
trìu mến của nàng, nhưng lại cứ bám lấy nàng như bóng với hình, bầy tỏ niềm si mê vô vọng của mình<br />
bằng những cái nhìn mê muội và bằng sự hiện diện chăm chỉ của mình bên nàng.<br />
Nàng gọi chàng thứ nhất là “Đại úy om xòm” và chàng thứ nhì là “Con cừu trung thành”. Sau<br />
cùng thì nàng coi anh chàng này như một thứ nô lệ theo bén gót nàng, để nàng xử dụng như một tên<br />
đầy tớ.<br />
Nàng hẳn sẽ cười nhiều đấy nếu người ta nói với nàng rằng nàng sẽ yêu anh ta.<br />
Tuy vậy thì nàng đã yêu anh ta theo một cung cách riêng. Vì thường xuyên gặp anh ta nên nàng bén<br />
tiếng nói của anh ta, những cử chỉ của anh ta, trọn dáng dấp của anh ta y như người ta quen hơi bén<br />
tiếng với những ai người ta thường xuyên gặp mặt.<br />
Thường khi trong những giấc mơ của nàng, khuôn mặt anh ta đã ám ảnh nàng; nàng đã trông<br />
thấy lại anh ta : dịu dàng, nhẹ nhàng, khiêm cung si đắm như nàng đã thấy anh ta ở ngoài đời; và nàng<br />
tỉnh dậy bị ám ảnh bởi kỷ niệm của những giấc mơ, tưởng như còn nghe tiếng anh ta, và cảm thấy anh<br />
ta ở bên nàng.Rồi một đêm kia (có thể là nàng bị một cơn sốt), nàng thấy nàng có một mình ở bên anh<br />
ta trong một cánh rừng thưa, cùng nhau ngồi trên thảm cỏ.<br />
Anh ta nói với nàng những lời duyên dáng, quyến rũ, đồng lúc siết tay nàng và hôn tay nàng.<br />
Nàng cảm thấy hơi ấm từ da thịt anh ta, hơi thở của anh ta, và với một cử chỉ đương nhiên nàng mơn<br />
trớn vuốt ve mái tóc anh ta.<br />
Họ đang trong giấc mơ khác hẳn với ngoài đời. Nàng cảm thấy đầy sự trìu mến đối với anh ta,<br />
một sự trìu mến thầm lắng và sâu xa, sung sướng vuốt trán anh ta và ôm đầu anh ta vào ngực.<br />
Dần dần anh ta ôm riết nàng, hôn lên má lên mắt nàng mà nàng chẳng có hành động gì để tránh né, rồi<br />
đôi môi họ gặp nhau và nàng tự buông thả.<br />
Đó là (sự thực thì không có những si mê như thế đâu) đó là phút giây của một niềm hạnh phúc<br />
siêu sâu sắc và siêu phàm, vừa lý tưởng, vừa thú dục, đắm đuối khó quên.<br />
Nàng tỉnh giấc, dao động, mơ màng và không sao ngủ lại được vì nàng cảm thấy luôn luôn hết<br />
sức bị anh ta ám ảnh, sở hữu. Và khi nàng gặp lại anh ta, người chẳng hề biết về những gì mình gây ra,<br />
thì mặt nàng ửng hồng, và trong khi anh ta nhút nhát tỏ tình với nàng thì nàng cứ nhớ lại, mà không sao<br />
dứt bỏ được ý nghĩ đó, nàng cứ tự nhớ lại lần ôm ấp thú vị trong giấc mơ của nàng.<br />
Nàng đã yêu anh ta, nàng đã yêu anh ta với sự trìu mến kỳ lạ, tao nhã lẫn thú dục, trên hết do kỷ<br />
niệm của giấc mơ tạo ra, dẫu rằng nàng thực sự hồ nghi chuyện thể hiện toàn vẹn niềm ham muốn đã<br />
bùng dậy trong lòng nàng.<br />
Sau cùng thì anh ta đã nhận ra, và nàng kể hết cho anh ta nghe, kể cả nỗi sợ hãi của nàng trước<br />
những nụ hôn của anh ta. Nàng bắt anh ta thề sẽ tôn trọng nàng.<br />
Anh ta đã tôn trọng nàng. Họ đã cùng nhau trải qua hàng giờ đắm đuối trong tình yêu nơi chỉ có<br />
hai tâm hồn quấn quyện để rồi sau đó rời nhau ra trong suy nhược, mệt lả, say sưa.<br />
Đôi khi môi họ quấn lấy nhau, và họ nhắm mắt tận hưởng cái mơn trớn kéo dài mà dù sao thì<br />
vẫn trong sáng.<br />
Nàng hiểu rằng nàng không còn cưỡng lại được lâu nữa, và vì nàng không muốn sa ngã, nàng<br />
viết cho chồng rằng nàng muốn trở về sống bên ông để trở lại cuộc sống bình lặng và hiu quạnh của<br />
nàng.<br />
Chồng nàng trả lời bằng một lá thư tuyệt hảo cố thuyết phục nàng đừng trở về vào lúc trọng<br />
Đông với những màn sương giá lạnh của thung lũng.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 212<br />
Nàng khó chịu và phẫn uất trước cái con người cả tin kia mà chẳng hiểu gì cả, chẳng đoán ra được<br />
những phấn đấu trong lòng nàng.<br />
Tháng Hai trời trong và dịu, và dù nàng cố tránh cảnh có một mình với “con cừu trung thành”<br />
thì đôi khi nàng đã nhận lời đi dạo xe hơi một vòng quanh hồ với anh ta vào lúc chiều xuống.<br />
Người ta có thể nói chiều hôm đó tất cả nhữmg cây cối đều sống dậy và những ngọn gió thì thật<br />
là dịu ấm. Chiếc xe hơi bỏ mui, hai chỗ ngồi, chạy chầm chậm; màn đêm buông xuống, họ cầm tay<br />
nhau, siết lấy nhau. Nàng tự nhủ :”Thật là hết. thật là hết. Mình chịu thua rồi.” khi cảm thấy trong lòng<br />
nàng dâng lên những ham muốn, sự cần thiết khẩn cấp cái ôm ấp tối thượng ấy mà nàng đã cảm thấy<br />
thật trọn vẹn trong một giấc mơ. Môi họ luôn tìm nhau, quyện lấy nhau, và rời nhau ra để lại tức khắc<br />
tìm lại nhau.<br />
Anh ta không dám đưa nàng vào nhà và để nàng ở ngưỡng cửa trong trạng thái say đắm cuồng<br />
si.<br />
Trong gian phòng khách nhỏ tối mò, Paul Petronel đang chờ nàng.<br />
Khi sờ tay nàng hắn cảm thấy nàng như đang trong cơn sốt. Hắn bèn nói thủ thỉ tỉ tê những lời<br />
tán tỉnh, ru ngủ cái tâm hồn rã rời kia bằng những lời nói yêu đương. Nàng im lặng nghe hắn nói vì<br />
nàng đang nghĩ đến anh kia, tưởng như đang nghe anh kia, tưởng như anh kia đang ôm nàng. Trong<br />
một trạng thái hoang tưởng nàng chỉ thấy anh kia, không nhận thức ra rằng trên đời này còn một người<br />
đàn ông khác, và khi tai nàng nghe thấy ba tiếng :”Anh yêu em”, thì là anh kia, người đã nói thế, đã<br />
hôn những ngón tay nàng, chính là anh kia đã ôm sát ngực nàng như vừa rồi trong xe hơi, chính là anh<br />
kia đã gắn lên cặp môi nàng những chiếc hôn đắc thắng, chính là anh kia mà nàng đang siết chặt, ôm<br />
ấp, mời gọi với tất cả sự vồ vập của con tim, với tất cả sự nồng nàn từ cơ thể nàng.<br />
Rồi khi nàng bừng tỉnh từ giấc mộng này, nàng thốt lên một tiếng kêu hãi hùng.<br />
“Đại úy om xòm”, đang quỳ gối bên nàng say sưa cám ơn nàng bằng những chiếc hôn lên mớ<br />
tóc xõa tung của nàng.<br />
Nàng la lên :”Hãy cút đi! Hãy cút đi! Hãy cút đi!”<br />
Và vì hắn không hiểu gì và đang lại muốn ôm eo nàng, nên nàng cứng người lại và lắp bắp:<br />
“Ông là đồ khốn kiếp. Tôi ghét ông. Ông đã xâm phạm tôi. Hãy cút đi.”<br />
Hắn ngỡ ngàng đứng lên, cầm lấy chiếc mũ và ra về.<br />
Ngày hôm sau nàng trở lại thung lũng Ciré. Chồng nàng ngạc nhiên và trách nàng sao trở về bất<br />
tử trong một hành động nhất thời như thế. Nàng nói : “Em không còn có thể sống xa anh lâu hơn nữa.”<br />
Chồng nàng thấy tính tình nàng thay đổi, buồn bã hơn trước, và khi ông hỏi nàng : “Em sao thế? Em có<br />
vẻ khổ sở. Em muốn gì nào?” thì nàng trả lời : “Không gì hết. Chỉ có những giấc mộng là đẹp trong<br />
đời.”<br />
“Con cừu trung thành” đến thăm nàng mùa Hè tiếp đó.<br />
Nàng tiếp anh ta không khó khăn và không luyến tiếc. Bỗng nhiên nàng hiểu ra rằng nàng<br />
không hề yêu anh ta hơn gì một giấc mộng mà Paul Petronel đã tàn nhẫn làm nàng bừng tỉnh.<br />
Nhưng anh đàn ông trẻ mà còn mãi si mê sủng ái nàng thì quay gót ra đi và băn khoăn : “Đàn bà<br />
thật là kỳ cục, phức tạp, chẳng biết đàng nào mà lần.” ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne, 04/2010
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 213<br />
Frédéric Chopin :<br />
Mt ñÎnh MŒnh Siêu Phàm - Mt LuÒng Gió Lãng Mån<br />
Dã Thäo<br />
Nhiều người đã viết về Frédéric CHOPIN, viết rất hay, soạn rất đầy đủ, chi tiết, bài nầy của Dã Thảo<br />
chỉ là « những hạt bụi bên đường nhè nhẹ rơi bên cạnh cuộc đời của một bậc anh tài, đã một thời<br />
mang đến nguồn cảm hứng lãng mạn vào nghệ thuật của dương cầm và âm nhạc ở thế kỷ 19, cũng như<br />
một ít lượm lặt góp phần thêm hương hoa cho một mối tình bất hủ CHOPIN/GEORGE SAND, để mãi<br />
mãi về sau, văn học sẽ còn luôn luôn nhắc tới… » Ở đây, Dã Thảo không có tham vọng làm một<br />
chuyện sưu tầm về Chopin, nhưng hãy cứ xem như là một chuyện kể….kể về Sand, về Chopin, hai<br />
thiên tài, vĩnh viễn liên kết với nhau bởi một thứ tình yêu gần như hoang tưởng.<br />
Frédéric Chopin, một công tử bột, thích làm đỏm, tình tứ, giàu lòng yêu nước, giống như Frantz<br />
Liszt, một người bạn của ông, siêu sao của thế kỷ 19, Chopin đã chào đời 200 năm trước tại Balan, đã<br />
cách mạng hóa nghệ thuật của dương cầm và đã bổ sung vào đó thêm một phần linh hồn cốt lõi cho<br />
âm nhạc…Người nghệ sĩ Balan, bạn của Delacroix, Liszt, Hugo, tuy sống một phần lớn đời mình trên<br />
đất Pháp, nhưng vẫn gắn bó sâu sắc với quê hương của chính mình.<br />
« Chip Chip » đưa cặp mắt nhìn vào khoảng không vô định, bàn tay dài lướt nhẹ lên bàn<br />
phím, trong khi đó một nếp nhăn âu lo như chắn ngang lên vầng trán rộng. Frédéric Chopin đang thả<br />
hồn về Balan. Từ khi ẩn náu ở Nohant, giáp giới với La Châtre, thuộc vùng Berry, chàng như tự trang<br />
bị bấy nhiêu nốt móc và nốt trắng của mình tương đương với những đạn đại bác để chống đối lại người<br />
Nga đang chiếm đóng quê huơng của chàng. Ở phòng kế bên, nghiêng mình lên tráp bút mực, George<br />
Sand lắng nghe sự ra đời của một điệu nhạc mới, làm nền tảng cho điệu vũ dân tộc Balan (các bản<br />
polonaises của Chopin), như chứa đựng cả một sự ham muốn cuồng nhiệt về tự do.. Chính người đàn<br />
bà nầy đã đặt cái biệt danh Chip Chip cho người bạn tình của mình, hầu làm dịu bớt tính bi kịch của<br />
không khí, đôi khi rất nặng nề ngột ngạt đang bao quanh người nhạc sĩ tài hoa đa cảm, mà trong đó,<br />
mỗi sáng tạo như bềnh bồng phất phới về nơi bờ cõi của hai nền văn hóa. Lúc ấy, chàng cũng đang<br />
chống chọi mỗi ngày với bịnh lao phổi đã cướp chàng đi vài năm sau đó….<br />
Trở lại về cuộc đời của Frédéric Chopin. Sự xuất hiện của một thiên tài trong cõi tạm nầy lắm<br />
khi chỉ dính dáng với rất ít việc. Năm 1795, Nicolas Chopin, một chàng trai trẻ thuộc vùng Lorraine,<br />
cư ngụ ở Balan từ tám năm qua, đang chuẩn bị leo lên xe ngựa để trở về Pháp sau khi bị thương trong<br />
một cuộc nổi loạn bất thành ở Varsovie, để chống đối lại đội quân của Nga đang chiếm đóng thành<br />
phố. Nhưng rủi thay, một cơn bịnh phổi đột ngột buộc ông phải ở lại. Từ đó, ông trở thành giáo sư<br />
riêng cho những gia đình quý tộc bản xứ.<br />
Năm 1806, Nicolas Chopin thành hôn với một cô gái Balan, Justyna, và từ hôn nhân ấy, ngày<br />
hai mươi hai tháng hai năm 1810 được sinh ra ở Zelazowa Wola, một lãnh địa của Varsovie, đứa con<br />
thứ hai trong bốn người con, đó là Fryderjk Franciszek, được mọi người biết nhiều hơn dưới tên riêng<br />
là Frédéric, và kể từ ngày ấy, truyền thuyết bắt đầu….<br />
Lên năm, cậu bé Frédéric lặp lại theo bản năng những giai điệu mà mẹ cậu đã diễn tấu trên cây<br />
đàn dương cầm gia tộc. Lúc bảy tuổi, Frédéric soạn tác phẩm đầu tiên : « một điệu vũ dân tộc Ba Lan »<br />
nốt gam thứ, (polonaise en sol mineur). Cậu chơi đàn cho quận công Constantin, anh của sa hoàng<br />
Nicolas 1 er . Hoàng đế như bị mê hoặc, lắng nghe cậu bé suốt nhiều giờ và còn bắt đội vệ binh hoàng<br />
gia diễn hành theo nhạc âm, một điệu hành quân, sáng tác bởi Frédéric. Với nửa thế kỷ khoảng cách,<br />
người ta đã so sánh Frédéric với Mozart. Nhưng Nicolas Chopin, với đầu óc vững vàng, sáng suốt, cố<br />
bảo vệ tối đa con mình khỏi những sự tán tỉnh quá trớn.<br />
Khi mười chín tuổi, Frédéric Chopin đã trở thành một thanh niên có ngoại hình thanh lịch, lại
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 214<br />
ham thích kịch nghệ và sử học, sẵn trời phú cho óc hài hước châm chọc một cách chua cay và cũng là<br />
một nhạc công dương cầm điêu luyện, thế mà từ tuổi ấu thơ, Frédéric đã có một thể tạng yếu ớt, khiến<br />
cha mẹ cậu phải gửi cậu đi hè về gia đình bên ngoại ở đồng quê, trong vùng Mazovie, vài dặm cách<br />
Varsovie để nghỉ ngơi. Nơi ấy, cậu quan tâm đến nhạc điệu mazurkas, nguồn gốc từ Balan, một điệu<br />
nhảy với âm nhạc nhịp nhàng cuả tỉnh lỵ, mà Frédéric đã làm say mê mọi người qua những sáng tác<br />
của cậu.<br />
Năm 1830, ở Vienne cũng như ở Varsovie, thiên hạ chen chúc nhau đến dự những buổi hoà tấu<br />
của Frédéric. Đến tháng ba năm ấy, ở sân khấu quốc gia, cậu đã trình diễn bài « Fantaisie sur des airs<br />
polonais » trước mặt tám trăm công chúng đầy nhiệt tình. Josef Elsner, thầy của Chopin, đã khóc vì<br />
vui sướng, các báo chí đều nhất trí bảo « đây là tên dị giáo của dương cầm ». (Voilà, dit-elle, le<br />
Paganini du piano ).<br />
Nhưng những đám mây nặng nề chồng chất lên bầu trời Varsovie. Sự căng thẳng giữa những<br />
người Balan chủ trương giành độc lập và những người Nga đang chiếm đóng đất nước, càng lúc càng<br />
mạnh mẽ hơn. Chopin là một người yêu nước. Khi Nga Hoàng Nicolas 1 er đến Varsovie tháng tư năm<br />
1830, cậu không chịu chơi nhạc trước sự hiện diện của Nga Hoàng và còn tệ hại hơn, Chopin còn từ<br />
chối tước vị « nhà dương cầm của Hoàng Đế », một vị trí được nhiều người ao ước. Những sự lựa<br />
chọn đó kết hợp với sự nổi loạn đang ầm ỉ cháy, bắt buộc Chopin tự xử lý cho mình bằng con đường<br />
lưu vong. Nhưng rồi cậu lưỡng lự : « hình như nếu tôi rời Varsovie, tôi sẽ chẳng còn bao giờ nhìn lại<br />
căn nhà nầy nữa », cậu đã viết như thế, « tôi nghĩ là tôi sẽ bỏ xác ở nơi xa ». Và ngày hai tháng mười<br />
một năm 1830, chiếc xe ngựa đã mang Chopin đi về Áo Quốc cùng với những tác phẩm của mình.<br />
Cuộc khởi nghĩa Balan nổ bùng vào tháng mười hai . Chopin vì nóng lòng muốn đầu quân đi<br />
đánh người Nga nên có ý định quay trở về, nhưng cha mẹ ông can gián và giải thích : « sứ mạng của<br />
con là phụng sự tổ quốc bằng ngã âm nhạc ». Ở Vienne, Frédéric không cảm thấy thoải mái. Nước Áo<br />
đã chọn lựa chính sách thân Nga, còn quần chúng thì thích những điệu valses của Strauss hơn những<br />
điệu mazurkas của Chopin (nguồn gốc từ Balan). Hơn nữa, chàng thanh niên nầy còn mắc phải bịnh<br />
hoa liễu sau một sự tằng tịu bất cẩn. Tất cả những thứ ấy khiến chàng lấy quyết định ra đi. Đó là cuộc<br />
hành trình về Paris, được mệnh danh là thành phố hải đăng của những nhà dương cầm, qua ngã Đức<br />
Quốc.<br />
Ở Stuttgart, Chopin nhận được hung tin về sự hàng ước của Balan. Chàng như suy sụp, không<br />
còn tin tức của gia đình. « Cha, Mẹ, con cái, tất cả những gì thân yêu nhất của tôi, các người ở đâu ?<br />
Hay là đã chết ? » (Père, mère, enfants, tout ce qui m’est le plus cher, où êtes vous ? Morts, peutêtre<br />
?). Chopin than van trong tập nhật ký của mình. Thật sự ra, mọi người trong gia đình chàng đều an<br />
ổn, nhưng sự kiềm chế của quân Nga chẳng có rủ lòng chẳng có rủ lòng thương tí nào. Tám chục<br />
nghìn người Balan buộc phải đi làm những công việc khổ sai ở Sibérie. Những ngày bi đát ấy đã gợi<br />
cảm hứng cho Frédéric qua hai tác phẩm nổi tiếng nhất, đó là khúc luyện gọi là Révolutionnaire (tạm<br />
dịch là khúc luyện Cách mạng) và Prélude N° 24 (khúc dạo đầu của nhạc số 24), hai bài nầy hoà hợp<br />
cả bạo lực và tuyệt vọng, để kết thành sự tuyệt đỉnh của cái hay.<br />
Tới Paris vào cuối tháng chín, Chopin cư ngụ trong một căn phòng khiêm tốn ở tầng thứ năm<br />
của số 27 Boulevard Poissonnière. “Paris là tất cả những gì người ta muốn có”, (Paris c’est tout ce que<br />
l’on veut). Chopin kêu lên một cách hân hoan. Điều cần biết là ở thủ đô nầy, sự giàu sang phú quý và<br />
sự túng thiếu sát cánh liên tục bên nhau, nhưng người ta vẫn cười, vẫn đùa vui. Người ta có thể vưà<br />
quát tháo, vưà phản kháng, và như thế, dân Pháp, như cũng đã oán giận vua Louis Philippe của họ đã<br />
không trợ lực ủng hộ Balan và Chopin rất mến chuộng “cái tiếng nói hăm dọa của một dân tộc đang<br />
nổi dậy” (la voix menaçante du people soulevé).<br />
Trang bị với bao nhiêu văn thư gửi gấm , Chopin đã đến Câu Lạc Bộ có uy tín của những người<br />
Balan nhập cư, và liên kết nhanh chóng với những đại nhạc công dương cầm của thời ấy như<br />
Kalkbrenner và nhất là Franz Liszt, người thanh niên đầy năng khiếu, gốc Hung Gia Lợi, mà sau nầy
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 215<br />
đồng thời vưà là người bạn thiết và cũng là đối thủ của Chopin. Một buổi hoà tấu trong những phòng<br />
khách hoà nhạc Pleyel vào năm 1832, đã khai khẩn cho Chopin những ân huệ và chiếu cố của giới báo<br />
chí. Cùng vào năm ấy, chàng đã làm cho giai cấp đại trưởng giả của Paris thán phục, nhân một buổi<br />
tiếp tân nơi nhà Nam Tước James de Rothschild. Từ đó, chàng trở thành người giáo sư dương cầm<br />
được ưa chuộng và tìm kiếm nhất thủ đô. Với hai mươi quan vàng một giờ dạy học, Chopin bắt đầu<br />
một cuộc sống sung túc của một công tử bột và ông đã tận hưởng nó một cách trọn vẹn.<br />
Chopin được mời mọc cùng khắp và cũng không để bị lợi dụng. Ông đã viết cho một người bạn<br />
vào tháng giêng 1833 những gì người ta đã nghĩ và nói với ông. “Tiếc thay, anh sẽ có một khả năng<br />
trội hơn nếu như anh được khán thính giả ở Toà Đại Sứ Anh hoặc Áo Quốc thưởng thức ngón đàn của<br />
anh. Anh sẽ chơi giỏi hơn nếu như Công Chúa của Vaudémont bảo trợ cho anh”. (Tu as un talent plus<br />
grand si tu as été entendu à l’Ambassade d’Angleterre ou à celle d’Autriche. Tu joues beaucoup mieux<br />
si la princesse de Vaudémont t’a protégé).<br />
Năm ấy, Frédéric Chopin được hai mươi ba tuổi. Trán cao và cái nhìn nóng bỏng, ăn mặc với<br />
mốt mới nhất, chàng đã phải trả rất đắt cho cái túi thủng của mình. Chopin đã làm mê hồn các cô gái<br />
trẻ qua tiếng nói có pha lẫn chút âm điệu nhẹ nhàng của giọng slave của ông, cũng như qua những<br />
ngón chơi kỳ tình trên phím đàn. Franz Liszt đã phải thốt lên một cách thán phục “Chopin làm cho<br />
dương cầm hát” hoặc có thể nói một cách khác là “cây dương cầm đang hát với Chopin” (Chopin fait<br />
chanter le piano). Chàng vẫn không ngưng tiếp tục sáng tác vì hiểu được rằng tác phẩm của mình phải<br />
hoàn toàn đồng nhất hóa với khí cụ, và đó chính là ma lực tác động nhiều nhất nơi thính giả. Và<br />
Chopin đã tự mình sáng chế một kiểu chơi mới mẻ mà những nhà dương cầm cho đến ngày nay vẫn<br />
còn áp dụng. Liszt vẫn nói rằng : “Tôi phải cho bốn năm sống của tôi để có thể trở thành tác giả của<br />
khúc luyện số 3” ! (J’aurais donné quatre ans de ma vie pour être l’auteur de l’Etude N° 3) !<br />
Năm 1836, Chopin viết thư về cho cha mẹ ở Balan và khoe rằng : « Con đã làm quen với một<br />
danh nhân, bà Dudevant, mà ai cũng biết dưới cái tên George Sand ». ( J’ai fait connaissance d’une<br />
grande célébrité, Madame Dudevant, connue sous le nom de George Sand) . Thật sự ra, mọi chuyện<br />
lúc đầu cũng không diễn tiến một cách tốt đẹp giữa hai nhân vật nầy. Sand vưà mới ly thân với chồng,<br />
Nam Tước Casimir Dudevant mà bà đã có hai con. Người đàn bà tự do ba mươi bốn tuổi ấy là một tiểu<br />
thuyết gia được thưà nhận bởi những bạn bè như Balzac, Delacroix, Hugo, Musset. Thoạt tiên, Chopin<br />
đã có một cảm giác rất khó chịu vơí những quần aó kiểu nam giới mà Sand thường mặc, và chàng hay<br />
viết một cách bất thiện ý, tự hỏi xem bà ấy có đúng là một nữ nhân hay không, nhưng hai năm sau đó,<br />
Chopin đã để cho sự đam mê xâm chiếm với người đàn bà Nohant. Eugène Delacroix đã từng vẽ hai<br />
người chung với nhau tại xưởng làm việc ở đường Rue des Marais-Saint Germain. Dưới họa pháp của<br />
bậc thầy, Sand, điếu thuốc kẹp ở giữa những ngón tay, đang thả hồn nghe chăm chú tiếng dương cầm<br />
của Chopin….<br />
Sự mơ mộng vô cùng lãng mạn tay đôi đó đã không cho hậu thế thưởng thức một cách trọn vẹn<br />
một chuyện tình đã trở thành như huyền thoại. Năm 1874, một bàn tay vô danh đã tách đôi cặp tình<br />
nhân bằng cách cắt ra làm hai mảnh bức họa vải kia. George Sand ngày nay nằm trong bảo tàng viện ở<br />
Copenhague, còn Frédéric Chopin thì ở Louvre. Từ đó, Sand đã vưà là tình nhân, bạn thiết, chị em gái<br />
và là mẹ của nhà soạn nhạc mà tình trạng sức khỏe rất mỏng manh. Hai người đã sống chung muà hè<br />
1838 tại Paris, rồi thì nhà nữ sĩ bắt buộc phải dắt đứa con trai của mình là Maurice về một xứ nào đó<br />
có khí hậu nóng như Baléares, bèn đề nghị với Chopin đi cùng với nàng để chung sống qua muà<br />
đông….<br />
Khởi đầu nơi nghỉ ấy rất là quyến rũ với Chopin, hằng ngày tắm mình dưới nắng hanh vàng của<br />
vùng Palma de Majorque, rồi thì những trận mưa như thác lũ nổ bùng lên. Chàng ốm nặng và khạc ra<br />
máu. Bịnh lao phổi được chẩn đoán. Bị trục xuất ra khỏi vùng Palma bởi sợ bị truyền nhiễm, Sand ,<br />
các con nàng và Chopin tìm nơi ẩn náu trong một tu viện xưa cũ ở Valldemossa, được xây cất theo<br />
triền núi. Dù đã bị suy yếu, Frédéric vẫn làm việc không ngừng tay một cách say mê. Chàng đã hoàn
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 216<br />
tất trên cây dương cầm của tu viện một loạt hai mươi bốn khúc nhạc dạo đầu (série des Vingt-Quatre<br />
Préludes), như những khúc nhạc ngắn, diễn tả cả một khuôn thước những cảm xúc đã đi qua đời mình<br />
trong giai đoạn ấy. Nhưng sức khỏe của Chopin không cải tiến được và Sand đành mang « ba đứa<br />
con » của mình trở lại Pháp.<br />
Về đây, Chopin phát hiện một cách thích thú một nơi ở tuyệt vời của George Sand tại Nohant,<br />
trong vùng Berry. « Một vùng đồng quê thanh bình, đẹp đẽ, có chim họa mi, sơn ca líu lo cả ngày… ».<br />
(Joli campagne, rossignols, alouettes….) Chàng đã viết như thế. Tất nhiên đang bị cô đơn dày vò vì xa<br />
cách với những người thân của mình từ rất lâu, bỗng dưng chàng đã tìm lại được một mái ấm gia đình<br />
với những trẻ con chạy nhảy cùng khắp, và những bạn hữu được mời mọc tập hợp trong những buổi<br />
tối để cùng nhau cười đùa, chơi đóng kịch hay đàn hát. Chopin tự cảm thấy rất thoải mái như chính<br />
đang sống ở tại nhà của mình.<br />
Thêm một lần nữa, Chopin lại tiếp tục sáng tác những thể nhạc điệu mazurkas, quay cuồng hào<br />
hứng, gợi lại những lần nghỉ hè của tuổi ấu thơ của mình ở Mazovie, và như thế, cũng làm dịu đi trong<br />
khoảng thời gian nầy nỗi buồn xa xứ Balan. Nhưng đến tháng mười, chàng trở về Paris để tìm lại<br />
những học sinh và những giáo trình của mình. Đàng nào cũng phải tiếp tục một cuộc sống vui và đầy<br />
đủ, phong phú…. Nghĩ như thế, Chopin đã đảm đương cái nhiệm vụ giáo sư của mình một cách rất<br />
tâm thành, thích thú : với sự kiên nhẫn, chàng sửa chưã cho đúng những sai lầm của bàn tay trên phím<br />
đàn, uốn nắn những khuyết điểm trong cách đặt tay để chơi, dạy đi dạy lại cho học sinh những phương<br />
pháp để tiến triễn.<br />
Ngày hai mươi sáu tháng tư năm 1841, George Sand tổ chức cho Chopin một buổi trình diễn<br />
hoà nhạc ở những phòng khách thính Pleyel. Đấy là một sự thành công rực rỡ, một thắng lợi huy<br />
hoàng cho Chopin, mặc dù lòng vẫn cảm thấy một chút lo sợ làm nghẹn thở, mỗi khi nhà soạn nhạc<br />
phải chơi trong một thính phòng lớn như thế. « Anh ấy thường khiếp sợ vì bao nhiêu chuyện, nên tôi<br />
đề nghị anh ấy nên chơi đàn trong một phòng không cần nến và cũng không có thính giả, trên một<br />
chiếc dương cầm câm lặng », (Il est effrayé de tant de choses que je lui propose de jouer sans<br />
chandelles et sans auditeurs, sur un piano muet), George Sand nói một cách châm biếm như thế.<br />
Rồi muà hè trở lại, mọi người đều về Nohant. Nơi ấy, xa các học sinh và cuộc sống kích động<br />
của Paris, Chopin có thể soạn nhạc một cách nhàn nhã, thảnh thơi, viết lại mỗi động tác cho đến hoàn<br />
hảo. « ba hàng gạch xoá trên bốn, đó mới đích thực, đơn thuần là Chip Chip». (Trois lignes raturées<br />
sur quatre, voilà du vrai, du pur Chip Chip), Georges Sand đã viết như thế. Ban ngày, chàng tự giam<br />
mình trong phòng ngủ, nhưng đêm về, vào giờ cơm tối, Frédéric có thể, mặc dù với sức khỏe bấp<br />
bênh, trở lại thành một diễn viên hài của những năm tháng trung học : Với một cái nhăn mặt, chàng đã<br />
có thể biến dạng thành một con người hào hoa phong nhã Anh quốc, hiền lành nhu nhược, đang đương<br />
đầu với văn ngữ Pháp văn, làm cho những người bạn thường được mời mọc như Delacroix, Hugo hay<br />
Balzac có được những trận cười thích thú.<br />
Đến năm 1846, mọi chuyện đều thay đổi. Những sự va chạm xuất hiện đột ngột giữa cặp nầy.<br />
George Sand mệt mỏi để tiếp tục chơi cái trò vưà là y tá, vưà là hộ lý trông coi bệnh nhân, và cũng vưà<br />
là người bạn tâm tình. Sand sợ hãi bị gắn bó và giam hãm như tù binh đến trọn đời với một người đàn<br />
ông đau yếu, bệnh hoạn, cho dù hắn ta có là nhân tài lỗi lạc xuất chúng !<br />
Là một nữ văn sĩ, trước tiên Sand đã mô tả tình trạng nầy qua những nhân vật trong tiểu thuyết<br />
« Lucrezia Floriani » của nàng. Quyển sách của muà hè 1846 ấy, đã báo trước điểm cuối cùng của<br />
mối diễm tình thơ ngây, vô tội vạ nầy. Chopin trả lời lại bằng một bài « Polonaise-Fantaisie » (một<br />
điệu nhạc làm nền cho điệu vũ dân tộc Balan), với cả một tâm sự phiền muộn, sầu não rất lớn. Sự chia<br />
tay đã tác động vào năm sau đó, với một cớ hết sức nhỏ nhoi, để che giấu lý do thật sự, đó là hôn nhân<br />
của Solange, con gái của Sand với điêu khắc gia Clésinger. Nhà văn sĩ giận con gái của mình và<br />
Chopin thì bảo vệ cho cô ấy. Chỉ có chừng ấy nguyên do. Thế là chàng nhận được bức thư tuyệt giao<br />
của Sand vào tháng tám năm 1847 với một câu sau cùng : « Hãy thỉnh thoảng cho em tin tức của anh,
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 217<br />
ngoài ra, những chuyện còn lại chẳng cần phải nhắc tới ». (Donnez-moi quelquefois de vos nouvelles.<br />
Il est inutile de revenir sur le reste). Như thế, hai người chỉ gặp lại nhau một lần vào năm 1848, khi<br />
Chopin, vì còn giữ mối quan hệ tốt đẹp với Solange, đã báo tin cho George Sand sự chào đời của đứa<br />
cháu ngoại của nàng.<br />
Muà hè 1848, Chopin đi dạy học ở Luân Đôn, nơi đó, khói từ bụi than đá đã hành hạ những lá<br />
phổi của chàng. Vẫn mơ mộng đến một cuộc đời mới, nhưng vốn không ảo tưởng, chàng vẫn nói :<br />
« Giá như ta không còn khạc ra máu mỗi ngày…. » (Si seulement je ne crachais pas le sang tous les<br />
jours…) Ở Anh Quốc hay ở Ecosse, Chopin, dù sức khoẻ đã suy kiệt, nhưng vẫn tự trói buộc mình với<br />
những lớp học, những buổi dạ tiệc và những buổi độc tấu không ngừng. Trở lại Paris, chàng không còn<br />
sức để sáng tác nữa. Tháng sáu 1849, người ta đã phát hiện ra cái chặng đường cuối cùng của bệnh lao<br />
phổi của chàng nhạc sĩ tài hoa nầy. Và niềm hân hoan to lớn cuối đời của Chopin là còn nhìn lại được<br />
khuôn mặt thân yêu của người chị của mình, bà Ludwika, đã từ Balan nhanh chân chạy tới thăm cậu<br />
em thân yêu.<br />
Frédéric Chopin lịm dần và ra đi vào ngày mười bảy tháng mười năm 1849. Ở nghĩa trang Père<br />
Lachaise, nơi chàng an nghỉ, tấm bia trang trí trên nấm mộ đã có chứa đựng một ít bụi đất Balan. Con<br />
tim của nhà thiên tài đã từng một thời cách mạng hóa nghệ thuật dương cầm, được mang trả về Balan<br />
theo ý nguyện của chàng. Trái tim ấy đã được dấu kín trong những bức tường của giáo đường Sainte<br />
Croix ở Varsovie. Một đời người phù du đã đi qua, còn chăng, đấy là vô số những tác phẩm nghệ thuật<br />
để lại cho hậu thế, đã đưa Chopin về xếp hạng bên cạnh Mozart, Bach hay Beethoven. Và còn những<br />
lời của Sand đã gợi lại một cách tài tình cái âm hưởng về âm nhạc khi Chopin dạo đàn ở Nohant : « Và<br />
rồi nốt nhạc xanh vang âm, thế là chúng ta, trong cái màu da trời thuỷ tinh của màn đêm. Những áng<br />
mây nhẹ nhàng bùng lên ôm lấy tất cả những hình dạng độc đáo nhất, chúng lấp đầy bầu trời, chúng đã<br />
giục giã kéo tới ôm quanh chị Hằng khi chị ném trở lại những vầng trăng rộng màu trắng sữa, làm<br />
sống lại cái màu sắc như đã lừ đừ thiếp đi. Anh và em, chúng ta đã mơ ước một đêm hè và chúng ta<br />
chờ đợi chim họa mi. » (Et puis la note bleue résonne et nous voilà dans l’azur de la nuit<br />
transparente. Des nuages légers prennent toutes les formes de la fantaisie ; ils remplissent le ciel ; ils<br />
viennent se presser autour de la lune qui leur jette de grands disques d’opale et réveille la couleur<br />
endormie. Nous rêvons d’une nuit d’été : nous attendons le rossignol ). ■<br />
Dã -Thảo. Paris, ngày 14/11/2010.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 218<br />
<strong>The</strong> Seeds of Time<br />
By David Lš Lãng Nhân<br />
Four hundred years ago, Shakespeare wrote these puzzling lines in his famous play Macbeth:<br />
“If you can look into the seeds of time and say which grain will grow and which will not, speak<br />
then to me.”<br />
What a provocative thought! “If you can look into the seeds of time. . . .” But how can you?<br />
Time is something you cannot see, you cannot touch. Yet you know it’s there. It is a sure thing. Sure<br />
as the sunrise. It is inevitable. Inevitable as the golden leaves falling from the trees in the Autumn.<br />
Inevitable as the long and cold night of the Winter. And the re-birth of the Spring, when Life<br />
germinates and grows.<br />
“If you can look into the seeds of time and say which grain will grow. . . .” Yes, if time had<br />
seeds, it certainly would germinate and grow strong during the Spring. When you are young and full of<br />
life, of hopes and dreams, you are in the Spring of your time. As the diligent farmer plowing through<br />
the warm and sunny field during the Spring, you work hard to secure a sound knowledge for your soul.<br />
Your education, in other words, is the most important element for your seeds of time to grow. A Greek<br />
philosopher once said: “Only the educated is free.” Free in his choice of a meaningful profession.<br />
Free from prejudice, from fear and frustration. And free from his own prison of ignorance. Yes,<br />
education sets you free and helps you grow.<br />
But just like a well-prepared field, a well-prepared mind is not all you need for your seeds of<br />
time to grow. Failures, setbacks, and suffering are also necessary for your growth as rainwater is<br />
necessary for green pasture and trees. Yes, adversity is the April shower that irrigates the fields and<br />
helps the sap flow through the veins of the emerald green buds which will burst into the gorgeous<br />
blooms of May. If there is a time to celebrate your success, there is a time to mourn your defeat and let<br />
it sink in. <strong>The</strong>re is a time for the pain to pass; the sorrow to be hung up and dripped dry; the time to<br />
grow. Inside. Deep down. As roots are taking hold. As one is becoming a mature and refined<br />
individual.<br />
Oh yes, education broadens your knowledge and perception, but adversity breeds your character<br />
and personality. However, in order for your soul to reach its full bloom, you need the sunshine of love.<br />
<strong>The</strong> love from your family and the love from your friends. For without love, your knowledge, your<br />
fame, and your most prized material possessions will only make you a vain person. With no one to<br />
share, no one to care, your life would not be very meaningful and rewarding. Would it?<br />
“If you can look into the seeds of time. . . .” You cannot see time. But you can hear it ticking<br />
away. As punctual as a mysterious clock somewhere out there. As indifferent as the raindrops beating<br />
on your chimney in a cold and lonely night. And you can feel it dripping away for the good seeds to<br />
grow.<br />
Oh yes, time changes things and people. Slowly but surely. As the tide rises. And sometimes<br />
with amazing results. What was dull may become sharp. What was useless may become valuable.<br />
Time ages wine. Time matures man. Time changes things and people; yet true love never fades. It just<br />
gets sweeter.<br />
Last week, my wife and I finally cleaned up our garage. We found an old cardboard box with a<br />
few monetarily worthless things that were, however, emotionally invaluable to us: faded pictures and<br />
letters during our courting days, wedding ring receipts, and anniversary cards -- tokens of our shared<br />
dreams and commitment over 40 years. And there was a small Teddy bear. Old toys and souvenirs<br />
always conjure up nostalgic thoughts of earlier days. Yes, the last time we looked, we had two small
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 219<br />
children, a small dog, and a couple of squirrels in the back yard. <strong>The</strong> house was much smaller, but<br />
filled with laughter and love. Time flies. Now the children are grown up; the pets long gone: time<br />
changes things and people. Yet our love for our children just gets sweeter.<br />
“If you can look into the seeds of time and say which grain will grow and which will not, speak<br />
then to me.” My friends, I have looked into the seeds of my time and have no doubt in my mind that<br />
EDUCATION, ADVERSITY, and LOVE are the three key elements that definitely help our seeds of<br />
time to grow. Education sharpens our minds. Adversity strengthens our character. Love warms our<br />
hearts, frees our souls, and gives us the best reason to be living. Don’t you agree? ■<br />
Madison, AL, October 2010<br />
<br />
Án Mång ThÙ BÄy MÜa DÀm<br />
Tác giä: Minh Thu<br />
ñó là một ngày thứ bẩy, trời mưa dầm dề trong đầu tháng Chạp dương lịch tại Đà lạt. Họ đang bị cầm<br />
tù trong ngôi nhà nằm bò dài giữa những tiếng róc rách, và nhiều tiếng động hỗn tạp khác do mưa tạo<br />
ra. Họ đang ngồi trong phòng khách. Ngôi nhà tối tăm, ảm đạm với một lối kiến trúc coi hơi kỳ cục, thì<br />
tọa lạc gần trại Sim trong khu Du Sinh do cha Bửu Dưỡng tạo lập cho lớp giáo dân công giáo trú ngụ.<br />
Ngôi nhà không được chăm sóc này là nơi trú ẩn cần thiết cho ông Phiệt, một người ghét cả vợ<br />
lẫn con gái, và đứa con trai thô kệch của mình. Đời ông Phiệt là những buổi đi qua quận lỵ, khẽ nhấc<br />
mũ chào mọi người, miệng không nở nụ cười. Niềm sung sướng âm thầm của ông chỉ là nhớ lại những<br />
thoáng kỷ niệm của những mùa Hạ vô cùng xa xưa trong thời ấu thơ của ông.<br />
Nhưng nay thì cái vị thế danh giá của ông trong quận lỵ này, sự ưa mến không thể tả được của<br />
ông đối với ngôi nhà này đang bị đe dọa. Tất cả chỉ vì cái con Miên, đứa con gái quê mùa của ông. Cái<br />
con Miên khùng đó đã làm chuyện điên không thể tưởng tượng được.<br />
Ông Phiệt quay mặt đi, không buồn nhìn con vì thấy tởm lợm, và hướng tới vợ rồi nói : “Người<br />
ta sẽ đưa nó vào dưỡng trí viện mất thôi. Viện dưỡng trí cho những tội phạm đó, bà có biết không?<br />
Chúng ta sẽ phải dọn đi nơi khác. Chúng ta không thể nào để điều này xẩy ra được.”<br />
Miên bắt đầu run lên cầm cập : “Con sẽ tự tử.” Cô ả nói.<br />
“Im đi.” Ông Phiệt nói “chúng ta còn ít thì giờ lắm. Không phải là lúc để nói lăng nhăng. Tao<br />
phải giải quyết vụ này.”<br />
Ông lên tiếng gọi con trai trong lúc cậu ta đang đứng nhìn ra cửa sổ : “Duật, lại đây. Nào, mày<br />
học thuốc đến bậc nào thì bị người ta tống cổ ra khỏi trường vì quá dở thế hả?”<br />
“Thầy thừa biết rồi mà…” Duật trả lời.<br />
“Thế mày đã hiểu biết đủ chưa? Liệu người ta đã nhồi đủ vào óc mày để có thể biết là một bác<br />
sĩ kinh nghiệm sẽ có thể giải thích như thế nào về một vết thương như vậy không?”<br />
“À vết thương đó trông như bị hất ngã hay bị đập đó mà.”<br />
“Thế liệu người ta có nghĩ là vì một viên ngói từ mái nhà rơi xuống trúng phải không?”<br />
“À không hẳn thế đâu thầy.”<br />
“Thì liệu nói thế có được không?”
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 220<br />
“Không đâu, thưa thầy.”<br />
“Tại sao không?”<br />
“Thì bởi vì nó đập hắn ta nhiều lần.”<br />
“Tôi không chịu nổi nữa đâu.” Bà Phiệt nói.<br />
“Bà phải chịu chứ làm sao bây giờ.” Chồng bà nói. “Và bà hãy cố giữ cho giọng nói đừng xen<br />
lẫn sợ hãi. Phải nhớ là chúng ta chỉ đang nói về thời tiết mà thôi. Nào bây giờ mình phải diễn lại vụ đó.<br />
Nào, Miên…”<br />
“Thôi, thôi, con xin thầy.” Miên van nài bố nó.<br />
“Miên, mình phải diễn lại. Có thể là mày đã quên một chi tiết nào đó. Một chi tiết nhỏ xíu<br />
không đáng kể rất có thể lại cứu được cả nhà thoát khỏi tai tiếng đấy con ạ. Nhất là mày đó, Miên. Mày<br />
không muốn người ta nhốt mày vào dưỡng trí viện chứ? Hay là bị treo cổ? Ngươi ta có thể treo cổ mày<br />
đấy nhé, Miên! Đừng có run như cầy xấy nữa, và phải giữ cho giọng nói bình tĩnh. Nên nhớ là mình chỉ<br />
đang nói về thời tiết đấy thôi… Nào, nói đi nghe…”<br />
“Con chịu thôi, Thầy, con… con… xin Thầy mà.” Miên van lơn.<br />
“Nói đi, con kia, nói đi.” Ông Phiệt cao giọng.<br />
Ông đưa khuôn mặt dài và lạnh của ông tới sát mặt con gái. Ông cảm thấy ông đang ghê tởm nó. Hình<br />
thể con Miên dầy nình nịch, chiếc cầm nặng nề, cả thân hình nó đồ xộ đến phát tởm.<br />
“Trả lời tao đi.” Ông nói “Khi đó mày đang ở trong nhà kiếng ngoài vườn, phải không?”<br />
“Vâng.”<br />
“Khoan đã. Có ai biết là mày yêu thầy Uyển không?”<br />
“Không ai hết. Con không hề nói với ai…”<br />
“Thôi đi cô ơi.” Duật lên tiếng. “Cả cái quận khốn nạn này đều biết. người ta đã xì xầm về<br />
chuyện này trong quận cả ba năm nay rồi.”<br />
“Có thể lắm.” Ông Phiệt nói “Có thể lắm, thật là bẩn thỉu.” Tay ông cử động dường như để phủi<br />
vết bẩn gì đó trên mu bàn tay của ông. “Nào mình tiếp tục. Mày đang cất cái vồ phải không? “Vâng.”<br />
“Mày đặt cây vồ vào góc nhà kiếng.” “Vâng.” “Rồi mày nghe tiếng chân người bước ngoài sân?<br />
“Vâng.” “Đó là thầy Uyển.” Vâng.” “Thế mày gọi thầy ấy lại à?” “Vâng.” “Gọi có to không? Liệu có<br />
ai khác nghe thấy không?”<br />
“Không, thưa Thầy, con chắc chắn là không. Mà thật ra thì con không gọi. Anh ta trông thấy<br />
con khi con đi ra khỏi nhà kiếng. Anh ta giơ tay vẫy con, rồi bước tới.”<br />
“Thế rồi cả hai chúng mày vào nhà kiếng à?” “Vâng, vì trời mưa to quá.” Miên đáp.<br />
“Thế nó nói gì?” Miên nói : “Anh ấy chào con, và xin lỗi là đã vào cổng sau, nhưng anh ta cho<br />
biết là anh ta muốn đi qua sân nhà mình để đến nhà ông bà Lịch.” “Ờ, rồi sao nữa?” Ông Phiệt hỏi.<br />
“Rồi anh ta nói khi đi ngang qua công viên anh ta trông thấy nhà mình, và anh ta bất chợt nghĩ<br />
tới con, và anh ta thấy nên đến một vài phút để cho con biết một tin vui. Anh ta nói anh ta rất vui mừng<br />
và bắt đầu nói lắp bắp là anh ta sắp lấy vợ, và con cứ nghĩ là anh ta ám chỉ con.”<br />
“Đừng nói điều mày nghĩ với tao, mà hãy nhớ lại kỹ lời nó nói với mày.”<br />
“Trời ơi, khổ quá…” Miên rên rỉ. “Đừng khóc lóc nữa con ạ. Đó là điều mày không thể cho<br />
phép làm lúc này, mày có biết không? Nào câu chuyện tiếp tục ra sao?”<br />
“Anh ta nói rằng người anh ta định lấy là con Yến, và anh ta xin lỗi con. Chỉ có thế thôi và anh<br />
ta sắp sửa ra về.” Ông Phiệt hỏi : “Rồi sao nữa?”<br />
“Con điên tiết lên. Anh ta quay lưng lại, trong khi tay con nắm lấy cây vồ.”<br />
“Thế mày có la lối gì không lúc mày đập nó…” “Không, con chắc chắn là không.”<br />
“Thế nó có rên la gì không, nói cho tao biết…” “Thưa Thầy, không.”<br />
“Thế rồi sao nữa?” Miên đáp : “Con buông cây vồ xuống, rồi con lên thẳng nhà trên. Chỉ có thế<br />
thôi. Bây giờ thì con ước gì con chết đi cho xong!”<br />
“Này Duật,” ông Phiệt nói với con trai “có lẽ thằng đó nói với mọi người là nó đi sang nhà ông
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 221<br />
bà Lịch. Thế thì chắc chắn không ai biết là nó đã đến đây đâu. Nó rất có thể bị ai đánh trong rừng<br />
thông. Mình phải xét từng chi tiết. Hừm, một thầy giáo bị đập vỡ đầu.”<br />
“Thôi, Thầy đừng nói nữa.” Miên kêu lên.<br />
“Bộ mày muốn bị treo cổ sao chứ? Một thầy giáo đầu bị đập vỡ nằm trong rừng thông. Nào liệu<br />
có ai muốn giết thầy Uyền không nhỉ?”<br />
Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa, và cửa mở ra tức thì. Đó là Đại úy Một, người không bao giờ theo phép<br />
lịch sự chờ người ta mời mới bước vào. “Ai muốn giết thầy giáo Uyển à.?” Đại úy hỏi rồi nói : “Tôi<br />
chứ còn ai, tôi sẽ sung sướng giết hắn. Xin chào bà Phiệt.”<br />
Miên rên lên : “Đại úy Một nghe tiếng thầy nói rồi!”<br />
“Con ơi, ai cũng có thể nói đùa một chút mà” Cha cô nói “Đừng giả đò sợ hãi nữa. Đây<br />
chỉ là vụ giết thầy giáo trên lý thuyết thôi. Này Đại úy, có phải thời nay người ta không nói chuyện gì<br />
khác ngoài những chuyện rùng rợn không nhỉ?”<br />
“Giết thầy Uyển,” Đại úy Một nói “Giết thầy Uyển. Thích đáng lắm chứ. Ờ hai bác có nghe<br />
nói về cô Yến không? Tôi sẽ bị thiên hạ cười cho thối óc mất thôi.”<br />
“Tại sao ông lại bị thiên hạ cười chứ?” Ông Phiệt hỏi Đại úy Một.<br />
“Vì tôi đã hỏi cưới cô ta, và cô ta đã nhận lời cầu hôn của tôi rồi! Bộ không ai nghe thấy<br />
chuyện gì sao? Cô ta có nói với hầu hết mọi người mà. Bây giờ thì dường như tôi bị cô ta cho rơi chỉ vì<br />
cái anh chàng thầy giáo trẻ hơn kia.”<br />
“Đáng buồn nhỉ?” Ông Phiệt nói. “Thật là không may vậy thôi.” Đại úy Một đáp.<br />
“Đại úy ngồi chơi đi” Ông Phiệt mời : “Nào bà và con Miên hãy an ủi Đại úy bằng những<br />
chuyện vui hay nhất đi. Tôi và thằng Duật phải lo một chuỵên này đã. Tụi tôi sẽ trở lại trong chốc lát<br />
Đại úy nhé. Nào,ta đi thôi, Duật.”<br />
Đúng năm phút sau thì ông Phiệt và Duật trở về : “A, Đại úy, mời ông xuống nhà kiếng với<br />
chúng tôi vài phút được không?” Ông Phiệt hỏi rồi nói tiếp “tôi muốn cho ông xem cái này hay lắm.”<br />
Ba người đàn ông đi xuống nhà kiếng. Đại úy Một bước vào trước nhất, kế đó là Duật, còn ông<br />
Phiệt bước vào sau chót. Trong khi đóng cửa ông Phiệt cầm lấy một khẩu súng hai nòng dựng ở đằng<br />
sau cánh cửa. Ông nói :<br />
“Này Đại úy, chúng ta xuống đây để bắn con chuột mà thằng Duật nghe thấy kêu chí chóe ở<br />
dưới gầm chiếc thùng tắm kia. Bây giờ ông hẵy nghe lời tôi nhé, nếu không ông sẽ bị bắn lầm phải đấy.<br />
Tôi không nói rỡn đâu nghe!<br />
Đại úy Một ngỡ ngàng ngó ông Phiệt : “Vâng, không sao, ông cứ nói tiếp đi.”<br />
“Một chuyện hết sức bi thảm đã xẩy ra xế trưa nay.” Ông Phiệt nói. “Chuyện này sẽ còn thảm<br />
thiết hơn nữa nếu không được giải quyết sao cho êm thấm.” “Vậy sao?” Đại úy Một hỏi.<br />
Ông Phiệt nói : “Ông đã nghe thấy chúng tôi hỏi nhau liệu có ai muốn giết chết thầy Uyển<br />
chăng? Và ông đã nghe được con Miên thốt ra một lời vô ý.”<br />
“Vâng, vậy thì sao chứ?” Đại úy Một ngớ ngẩn hỏi.<br />
“Cũng chẳng sao hết.” Ông Phiệt đáp “trừ phi ông nghe được tin là thầy Uyển đã gặp phải một<br />
cái chết đột ngột xế trưa nay. Và tin đó là tin ông đang nghe đây đấy ông bạn ạ!”<br />
“Bộ ông đã giết thầy ta đấy à?” Đại úy Một hốt hoảng hỏi. “Không, con Miên đó ông ạ.” Ông<br />
Phiệt trả lời. “Khốn nạn chưa kìa!” Đại úy Một thốt lên.<br />
“Vâng, thật là khốn nạn, và hẳn là ông sẽ nhớ lại và đoán ra chuyện giết người mất!”<br />
“Ơ, a.., rất có thể như thế” Một trả lời. “Ơ, mà có thể như thế lắm chứ.!”<br />
Ông Phiệt lên tiếng : “Chính vì vậy mà ông trở thành một vấn đề cho chúng tôi.”<br />
“Thế tại sao Miên nó lại giết thầy ta chứ?” Một hỏi.<br />
“Đó là một trong những chuyện đáng ghê tởm, và cũng đáng ái ngại nữa. Số là con Miên tự lừa<br />
dối nó rằng thầy Uyển yêu nó. Nhưng thầy Uyển lại bảo với nó là thầy ta sắp lấy con Yến.”<br />
“À ra thế.” Một nói. Ông Phiệt nói thêm : “Tôi không muốn thấy con Miên bị coi là khùng hay
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 222<br />
là kẻ sát nhân, vì tôi sẽ không thể nào tiếp tục sống ở quận lỵ này nữa.”<br />
“Vâng chắc chắn là vậy.” Một đáp. Ông Phiệt lạnh lùng nói : “Mặt khác Đại úy lại biết chuyện<br />
này.”<br />
“Vâng, và tôi tự hỏi liệu tôi có giữ kín miệng được chăng?” Một đáp. “Nhưng nếu tôi hứa …”<br />
Ông Phiệt nói : “Nhưng tôi tư hỏi liệu tôi có thể tin ông được không?” “Tôi hứa mà.” Một<br />
tuyệt vọng đáp.<br />
“Đó là nếu mọi sự trôi chẩy êm thấm” Ông Phiệt nói “Còn như nếu có sự nghi kỵ, hay có cuộc<br />
điều tra thì Đại úy hẳn sẽ e ngại vì bị coi là một đồng lõa, phải không nào? Vậy chúng ta phải làm gì<br />
bây giờ đây?”<br />
Đại úy một nói; “Tôi không thấy có cách nào khác ngoài việc ông nhận lời hứa giữ kín miệng<br />
của tôi. Vì nếu ông giết tôi đi thì thật là khờ dại. Làm sao mà ông dấu nổi hai xác chết chứ?”<br />
“Ấy vậy mà tôi lại cho là làm như vậy an tòan hơn đấy. Rất có thể đó là một tai nạn. Hay ông và<br />
thầy Uyển rất có thể cùng bị mất tích. Ờ chuyện đó có thể xẩy ra lắm chứ.”<br />
“Ông Phiệt, ông nghe đây ông không thể nào…”<br />
“Ông nghe tôi thì có, ông Một. May ra có lối thoát cho ông. Ồ, mà có lối thoát thật đấy, Một ạ,<br />
vì chính ông đã cho tôi ý tưởng đó lúc ông mới đến đây. Ông nói ông muốn giết thầy Uyển mà, bởi vì<br />
ông có lý do để làm như thế, phải không nào?”<br />
“À, đó là tôi nói đùa đấy chứ!” Một đáp.<br />
“Ồ, lúc nào mà ông chẳng nói đùa nhỉ? Ông nói đùa mãi khiến mọi người phải nghĩ là chắc phải<br />
có gì đằng sau những lời nói đùa đó chứ? Này, ông Một, nghe đây, tôi không thể nào tin ông được,<br />
nhưng ông thì phải tin lời tôi. Nếu không tôi sẽ giết ông tức khắc. Tôi không đùa đâu. Ông có thể chọn<br />
giữa cái sống và cái chết.<br />
Đại úy Một do dự nói : “Ông cứ nói tiếp để xem ý định của ông ra sao đã.” .<br />
“À, chỗ này có cái cống nước.” Ông Phiệt nói nhanh và hăng hái. “Đó là chỗ tôi sẽ dấu xác thầy<br />
Uyển. Không ai khác sẽ vào đây để kiếm xác hắn trừ phi Đại úy nói ra. Vì thế Đại úy phải cho tôi bằng<br />
chứng là Đại úy đã giết thầy Uyển.”<br />
“Ông nói chi lạ vậy?” Một hốt hoảng la lên.<br />
“Như thế tôi mới biết chắc là ông sẽ không bao giờ hé miệng về chuyện này.” Ông Phiệt nói.<br />
“Bằng chứng gì mới được chứ? Một lo sợ hỏi.<br />
“Duật, hãy đấm mạnh vào mặt Đại úy đi con” Ông Phiệt ra lệnh cho con trai.<br />
“Ối trời ơi! Một kêu lên.<br />
“Đấm nữa đi con, Duật, nhưng đừng mạnh quá đến nỗi những đốt ngón tay của con bị bầm rập<br />
nhé.” Ông Phiệt nói với con trai rồi hướng về phía Một :<br />
“Xin lỗi Đại úy nhé. Nhưng mà mình cần phải có dấu vết của một cuộc ẩu đả giữa ông và thầy<br />
Uyển. Như vậy để ông thấy là ông không thể nào tới bót cảnh sát mà lại không bị tình nghi…”<br />
“Bộ ông không tin được lời tôi hay sao?’ Một phẫn uất hỏi.<br />
“Có chứ, nhưng chỉ sau khi tôi đã dàn cảnh xong suôi mà thôi. Này Duật, cầm lấy chiếc vồ kia<br />
lại đây đưa cho Đại úy đi con, nhớ lót khăn tay vào để không có dấu tay của con nhé. Nào Đại úy Một,<br />
như tôi đã nói với Đại úy rồi đó, vậy Đại úy hãy nắm giùm hai tay vào cán của cây vồ này đi. Này, tôi<br />
sẽ bắn nếu Đại úy không làm theo lời tôi đấy nhé.”<br />
“Trời ơi, khổ quá.” Một vừa than vừa làm theo lời ông Phiệt. “Nào Duật,” ông Phiệt nhắc con, “<br />
hãy nhổ hai sợi tóc của Đại úy rồi làm như tao nói hồi nãy, dính chúng vào cán cây vồ đó, nhớ chưa?<br />
Bây giờ thì ông Một, ông làm ơn nhấc chiếc nắp cống này lên. Xác thầy Uyển nằm sau chiếc kệ kia,<br />
ông hãy kéo xác hắn và đặt xuống cống này giùm chút.”<br />
“Tôi không đụng tới xác hắn đâu.” Một mạnh mẽ phản đối. “Nào Duật, tránh ra con.” Ông Phiệt<br />
vừa nói vừa đỡ cây súng hai nòng lên và nhắm vào đầu Một.<br />
“Khoan đã, đừng, đừng bắn.” Một hốt hoảng la lên và miễn cưỡng làm theo lời ông Phiệt.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 223<br />
Ông Phiệt lấy tay quệt mồ hôi trên trán mình rồi nói : “Thế là mọi sự hoàn hảo lắm rồi. Nào<br />
chúng ta phải nhớ rằng không một ai biết là thầy Uyển đã tới đây. Ai cũng nghĩ là thầy ta tới nhà ông bà<br />
Lịch. Nghĩa là cách đây những năm cây số, và chẳng ai lại tìm kiếm xa đến tận đây đâu. Người ta sẽ<br />
không bao giờ mở ống cống nhà này lên để tìm kiếm đâu. Ông có thấy chúng mình được an toàn chưa<br />
nào?”<br />
“Có lẽ vậy.” Một đáp.<br />
“Thôi chúng ta lên nhà trên đi.” Ông Phiệt nói, rồi cả ba người ra khỏi nhà kiếng lên nhà trên<br />
vào phòng khách khi ông Phiệt nói với vợ :<br />
“Mình à tôi và thằng Duật đi xuống nhà kiếng để bắn con chuột ranh đó và thấy Đại úy Một ở đó.”<br />
“Thế Đại úy đi lối cổng sau tới hay sao?” Bà Phiệt ngây thơ hỏi Một.<br />
“Vâng, vâng, đúng thế.” Đại úy trả lời với vẻ hoang mang.<br />
“Kìa sao môi Đại úy lại bị chẩy máu thế kia?” Duật ân cần hỏi.<br />
“À tôi cắt phải khi cạo râu sáng nay đấy mà.”<br />
Đến lượt ông Phiệt nói : “Đại úy Một thật là tốt, mình ạ. Ông hiểu nỗi lo lắng của nhà mình.<br />
Chúng ta có thể tin vào lời Đại úy. Lời nói của Đại úy như đinh đóng cột.”<br />
“Thật vậy sao? Trời, đa tạ Đại úy. Ông là người tốt bụng.” Bà Phiệt nói với lòng tri ân.<br />
“Thôi, ông bạn không phải lo lắng gì nhé. Không ai tìm ra đâu mà sợ.” Ông Phiệt vừa nói vừa vỗ vai<br />
Đại úy Một.<br />
Sau đó Một ra về. Bà Phiệt ân cần cảm ơn ông ta lần nữa với đôi mắt rưng rưng. Cả ba người<br />
nhìn theo Đại úy bước đi trên con đường ra cổng. Rồi ông Phiệt vội vã thuật lại cho vợ biết chuyện gì<br />
đã xẩy ra ở nhà kiếng hồi nãy. Sau đó hai ông bà lên gác và lại nói lao xao với Miên một lúc. Ngay sau<br />
đó trời tạnh mưa. Ông Phiệt làm một vòng tản bộ xuống nhà kiếng.<br />
Khi trở lên nhà trên ông quay giây nói gọi bót cảnh sát quận lỵ : “A-lô, trạm cảnh sát đó phải<br />
không? Tôi là Phiệt ở gần trại Sim đây. Có chuyện khủng khiếp vừa xẩy ra ở đây! Trung sĩ có thể cử ai<br />
đến tức khắc để điều tra không? ■<br />
Minh Thu<br />
viết cuối Xuân<br />
Melbourne (11/1982 )<br />
(sửa , viết lại tháng 10/2010)<br />
Ghi chú : chuyện này đã được đăng phần tiếng Việt trong Nguyệt San QUÊ MẸ (Úc châu) số tháng<br />
3/1983 dưới bút danh TRẦM MẶC, một trong những bút danh khác của Minh Thu.<br />
&<br />
Murder on a Wet Saturday<br />
By Minh Thu<br />
It was one wet Saturday in early December in Dalat. In the sprawling house they were imprisoned by<br />
the swish and the gurgle and all the hundred sounds of rain. <strong>The</strong>y were in the drawing room. <strong>The</strong> house,<br />
damp and dark with a quaint look was situated near the Sim farm in the Du Sinh compound established<br />
by Father Bửu Dưỡng to house his congregation.<br />
This ill-kept house was necessary to Mr. Phiệt, who detested his wife, his daughter and his
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 224<br />
sulking son. His life is to walk through the district touching his hat not smiling when greeting<br />
acquaintances. His cold pleasure was to recapture snapshot memories of the remote summers of his<br />
childhood.<br />
But now his pride of position in the district, his passionate attachment to the house were<br />
threatened, and all because Miên, his clumsy daughter, had done this shocking and incredibly stupid<br />
thing. Mr. Phiệt turned from her with disgust and spoke to his wife.<br />
“<strong>The</strong>y’d send her to a lunatic asylum” he said. “A criminal lunatic asylum. We should have to<br />
move. It would be impossible.”<br />
His daughter began to shake. “I’ll kill myself,” she said.<br />
“Be quiet” said Mr. Phiệt. “We have very little time. No time for nonsense. I’ll deal with this.”<br />
He called out to his son, who stood looking out of the window. “ Duật, come here. Listen, how far did<br />
you get with your medicine before they threw you out as hopeless?”<br />
“You know well already…,” said Duật.<br />
“Do you know enough – did they drive enough into your head for you to be able to guess what a<br />
competent doctor could tell about such a wound?”<br />
“Well, it’s a … it’s a knock or blow.”<br />
“If a tile fell from the roof crashing down on … “<br />
“Well, dad, you see, it’s like this…”<br />
“Is it possible?”<br />
“No.”<br />
“Why not?”<br />
“Oh, because she hit him several times.”<br />
“I can’t stand it,” said Mrs. Phiệt.<br />
“You have got to stand it, my dear,” said her husband. “And keep that hysterical note out of<br />
your voice. It might be overheard. We’re only talking about the weather here. Well, now we must go<br />
over it again. Now, Miên…” said Mr. Phiệt.<br />
“No! No! I beg you…” Miên said.<br />
“Miên, we must go over it all again. Perhaps you have forgotten something. One tiny irrelevant<br />
detail may save or ruin us. Particularly you, Miên. You don’t want to be put in an asylum, do you? <strong>The</strong>y<br />
might hang you, Miên. You must stop that shaking. You must keep your voice quiet. We are only<br />
talking of the weather here. Now, Miên can you…”<br />
“I can’t, please Father, I beg you…I can’t…”<br />
“Speak child… tell me…”<br />
Mr. Phiệt put his long, cold face very near to his daughter’s. He found himself horribly<br />
revolting by her. Her features are thick, her jaw heavy, her whole figure repellently powerful.<br />
“Answer me,” he said. “You were in the green house in the garden?”<br />
“Yes.”<br />
“One moment, though. Who knew you were in love with Uyển?”<br />
“No one, I have never said a…”<br />
“Don’t worry,” said Duật. “<strong>The</strong> whole god-damned district knows. <strong>The</strong>y’ve been sniggering<br />
about in the district for three years past.”<br />
“Likely enough,” said Mr. Phiệt. “Likely enough. What filth!” He made as if to wipe something<br />
off the backs of his hands. “Well, now we continue. You were in the green house.” “Yes.”<br />
“You’re putting the garden mallet away.” “Yes.”<br />
“Your heard someone crossing the yard.” “Yes.”<br />
“It’s was teacher Uyển.” “Yes.” “So, you called him.” “Yes.”<br />
“Loudly? Did you call him loudly? Could any one have heard?”
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 225<br />
“No, Father. I’m sure not. By the way, I didn’t call him. He saw me as I went to the door. He<br />
just waved his hand and came over.”<br />
“So you both went into the green house?”<br />
“Yes. It was raining hard.”<br />
“What did he say?”<br />
He said “Hullo Miên.” And to excuse him coming in the back way, but he’d set out to walk over<br />
to Mr. and Mrs. Lịch’s place.”<br />
“Yes, then…”<br />
“And he said, passing the park, he’d seen the house and suddenly he thought of me and he<br />
thought he’d look in for a minute, just to tell me something. He said he was so happy to be getting<br />
married. And I thought he meant me.”<br />
“Don’t tell me what you thought. Exactly what he said. Nothing else.” “ Well…”<br />
“Don’t cry. It’s a luxury you cannot afford. Tell me.”<br />
“ He said no. It wasn’t me. It’s Yến. And he was sorry. <strong>The</strong>n he went to go.”<br />
“And then?”<br />
“I went mad. He turned his back. I took the mallet in my hand.”<br />
“Did you shout or scream? I mean as you hit him?”<br />
“No. I’m sure I didn’t.”<br />
“Did he? Come on. Tell me.”<br />
“No. Father.”<br />
“And then?”<br />
“I threw it down. I came straight into the house. That’s all. I wish I were dead.”<br />
“Duật, he probably told people he was going to the Lịch’s. Certainly, no one knows he came<br />
here. He might have been attacked in the woods. We must consider every detail…”<br />
“Don’t, Father.” Cried Miên.<br />
“Do you want to be hanged?” “Who would want to kill teacher Uyển?”<br />
<strong>The</strong>re was a tap on the door which opened immediately. It was Captain Một who just walked in<br />
without being invited in first.. “Who’d kill teacher Uyển?” said he “I would, with pleasure. How do<br />
you do Mrs. Phiệt.”<br />
‘He heard you, Father.” moaned Miên.<br />
“My dear, we can all have our little joke.” said her father. “Don’t pretend to be shocked. A little<br />
theoretical killing, Captain Một, in these days we talk nothing but thrillers.”<br />
“Killing teacher Uyển. Justifiable. Have you heard about Yến. I shall be laughed at yet.”<br />
“Why?” asked Mr. Phiệt “Why should you be laughed at?”<br />
“I asked her to marry me. Captain Một said, “She had said yes, too. Hadn’t you heard? She told<br />
most people. Now it’ll look as if I got turned down for that younger teacher.”<br />
“Too bad!” said Mr. Phiệt.<br />
“Sit down, Captain.” Said Mr. Phiệt. “Mother, Miên, console Captain Một with your best light<br />
conversation. Duật and I have something to look to. We shall be back in a minute or two. Come, Duật.”<br />
It was actually five minutes before Mr. Phiệt and his son returned.<br />
“Captain Một’ said Mr. Phiệt, “will you come round to the green house for a moment? <strong>The</strong>re’s<br />
something I want to show you.”<br />
<strong>The</strong>y went into the green house. Captain Một entered. Duật followed him. Mr. Phiệt entered<br />
last. As he closed the door he took up a gun which stood behind it. “Captain Một” said he, “we have<br />
come out to shoot a rat which Duật heard squeaking under that tub. Now, you must listen to me very<br />
carefully or you will be shot by accident. I mean that.”<br />
Captain Một looked at him. “Very well,” said he, “go on.”
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 226<br />
“A very tragic happening has taken place this afternoon,” said Mr. Phiệt. “It will be more tragic<br />
unless it is solved somewhat.”<br />
“Oh?” said Captain Một.<br />
“You heard me ask,” said Mr. Phiệt “who would kill teacher Uyển. You heard Miên make a<br />
comment, an unguarded comment.”<br />
“Well?” asked Captain Một incredulously “What of it?”<br />
“Very little,” said Mr. Phiệt. “Unless you heard that Uyển had met a violent end this very<br />
afternoon. And that my dear Captain, is what you are going to hear.”<br />
“Have you killed him?” asked Captain Một.<br />
“Miên has,” Mr. Phiệt answered.<br />
“Hell!” said Captain Một.<br />
“It is hell” said Mr. Phiệt. “You would have remembered – and guessed.”<br />
“Maybe,” said Một. “Yes, I suppose I should.”<br />
“<strong>The</strong>refore, you constitute a problem.” said Mr. Phiệt.<br />
“Why did she kill him?” asked Một.<br />
“She deluded herself that he was in love with her. And he told her about Yến. I have no wish<br />
that she should be proved either a lunatic or a murderess. I could hardly live here after that.”<br />
“I suppose not,” said Captain Một.<br />
“On the other hand, YOU know about it.”<br />
“Yes,” said Một. “I am wondering if I could keep my mouth shut. If I promise you…”<br />
“I am wondering if I could believe you,’ said Mr. Phiệt.<br />
“If I promise,” said Một.<br />
“If things went smoothly,” said Mr. Phiệt. “but not if there was any sort of suspicion, any<br />
questioning. You would be afraid of being an accessory.”<br />
“I don’t know,” said bewildered Một.<br />
“I do,” said Mr. Phiệt.<br />
“What are we going to do? I can’t see anything else.” Một said. “You’ll never be fool enough<br />
to do me in. You can’t get rid of two corpses.”<br />
“I regard it as a better risk than the other,” said Mr. Phiệt, “It could be an accident. Or you and<br />
Uyển could both disappear. <strong>The</strong>re are possibilities in that.”<br />
“Listen,” said Một, “you can’t…”<br />
“Listen,” said Mr. Phiệt, “<strong>The</strong>re may be a way out. <strong>The</strong>re IS a way out, Một. you yourself gave<br />
me the idea.”<br />
“Did I?” asked Một, “What?”<br />
“You said you would kill teacher Uyển. You have a motive.” said Mr. Phiệt.<br />
“I was joking,” said Một, desperately.<br />
“You are always joking,” said Mr. Phiệt, “People think there must be something behind it.<br />
“Listen, Một, I can’t trust you, but you must trust me. Or I will kill you now, in the next minute.<br />
I mean that. You can choose between dying and living.”<br />
“Go on.” Một hesitantly said.<br />
“<strong>The</strong>re is a sewer here,” Mr. Phiệt spoke fast and forcefully. “That is where I’m going to put<br />
Uyển’s body. No outsider knows that he has come up here this afternoon. You must give me evidence<br />
that you have murdered him.”<br />
“Why?” Asked Một.<br />
“So that I shall be dead sure that you will never open your lips on the matter,” said Mr. Phiệt.<br />
“What evidence?” asked Một fearfully.<br />
“Duật, hit him on the face hard.” Mr. Phiệt gave order to his son.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 227<br />
“Good God!” cried Một.<br />
“Again, and don’t bruise your knuckles.” Mr. Phiệt told his son and turned to Một, Mr. Phiệt<br />
said: “I’m sorry, but there must be traces of a struggle between you and Uyển. <strong>The</strong>n it will not be<br />
altogether safe for you to go to the police.”<br />
Một pleaded indignantly: “Why won’t you take my word?”<br />
‘I will when we’ve finished.” Mr. Phiệt said while ordering his son : “Duật, get that garden<br />
mallet. Take your handkerchief to it so that you don’t leave any of your fingerprints on it.<br />
“Now, Một just grasp the end of this mallet. I shall shoot you if you don’t.”<br />
“Oh, hell, all right.” Một reluctantly did it.<br />
Mr. Phiệt reminded his son : “Duật, pull two hairs out of his head, and remember what I told<br />
you to do with them, stick them on the handle of the mallet. Now Một, you raise the big flag stone,<br />
Uyển’s body is in the next stall. You’ve got to drag it through and dump it in.”<br />
“I won’t touch it” Một protested vehemently..<br />
“Duật, tránh ra” Mr. Phiệt said while raising his gun to aim at Một’s head.<br />
“Wait a minute, don’t shoot” panicky, cried Một “don’t shoot!.” And reluctantly did as he was<br />
told.<br />
Mr. Phiệt wiped his brow “Look here,” said he.”Everything is perfectly safe. Remember, no one<br />
knows that Uyển came here. Everyone thinks he walked over to the Lich’s place. That’s five kilometres<br />
of country to search. <strong>The</strong>y’ll never look in our sewer. Do you see how safe it is?”<br />
“I suppose it is,” said Một.<br />
“Now let’s come into the house.” Said Mr. Phiệt.<br />
<strong>The</strong>y went into the drawing room and Mr. Phiệt said to his wife : “See, my dear, we went to<br />
shoot a rat in the garden shed and we found Captain Một.”<br />
“You must have walked up the back drive,’ said Mrs. Phiệt innocently.<br />
“Yes, yes, that was it.” said Một somehow confused.<br />
“You cut your lip” said Duật with some concern.<br />
“Yes, I… I just cut it while shaving this morning. ”<br />
“Captain was very kind.” Said Mr Phiệt “He knows all our trouble. We can rely on him. We<br />
have his word.”<br />
“Oh have we, Captain Một, You are a good man.” Said Mrs.Phiệt with gratitude.<br />
“Don’t worry, old fellow, they will never find anything.” Her husband said.<br />
Pretty soon Một took his leave. Mrs. Phiệt pressed his hand very hard with tears in her eyes. All<br />
three of them watched him go down the drive. <strong>The</strong>n Mr. Phiệt spoke very earnestly to his wife for a few<br />
minutes about what happened in the green house a while back and the two of them went upstairs and<br />
spoke still more earnestly to Miên. Soon after the rain having ceased, Mr. Phiệt took a stroll around the<br />
green house.<br />
He came back to the house and went to the telephone : “ Hullo is that the police station? This is<br />
Mr. Phiệt near the Sim farm. I’m afraid something rather terrible has happened up here. Can you send<br />
someone at once to investigate.” ■
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 228<br />
Tình Cûa CÕ<br />
Dã Thäo<br />
Cho Con 24 Tu°i<br />
24 tuổi, tuổi hoa cài trên tóc<br />
Tuổi thì thầm nghe trăng gió xôn xao<br />
Tuổi vu vơ, tiếc ngày tháng qua mau<br />
Tuổi suy nghĩ để bước làm người lớn.<br />
Chớ vội bỏ những thơ ngây mơn mởn<br />
Đừng mong chờ tiếng réo gọi chân mây<br />
Mộng giang hồ nên xa khỏi tầm tay<br />
Đời chỉ ấm khi Mẹ còn ôm ấp.<br />
Con hãy sống trong ơn đền nghĩa đáp<br />
Người bạc tình như gỗ đá ngu ngơ<br />
Có nghĩa chi mang kiếp sống thờ ơ<br />
Tim héo hon chẳng mở lòng thương mến.<br />
Mẹ mong con nhìn tương lai đang đến<br />
Bằng nghĩ suy, bằng tình cảm chân tâm<br />
Cố vươn lên, sống với những sâu thâm<br />
Đời đạo hạnh vẫn là đời đáng sống.<br />
Xin vui thú thoát ra vòng vuốt móng<br />
Những tầm thường, hèn hạ của thế nhân<br />
Hãy mở rộng, ôm gọn những tình thân<br />
Hoa bình yên trồng lên đường Hạnh Phúc.<br />
Rồi một ngày ta ra đi vừa lúc<br />
Trả thế tình, trả luôn cả xác thân<br />
Đôi chim uyên hoà khúc hát ái ân<br />
Không nuối tiếc, con đường ta vưà dứt.<br />
24 tuổi, tuổi hoa mơ, hoa cúc<br />
Mẹ chợt buồn nhìn con đã lớn mau<br />
Chải tóc con, cài lên những vì sao<br />
Mà ước mơ đời con hằng đẹp mãi. ■<br />
(Tặng sinh nhật thứ 24 của Chouchou) – Paris 24/8/1988<br />
Dã Thảo. Paris (THƠ : TÌNH CỦA CỎ)
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 229<br />
Mt LÀn Sang Sông<br />
Em sang ngang chưa đầy hai mươi mốt tuổi<br />
Tuổi nhìn đời qua lăng kính thơ ngây<br />
Tuổi mắt tròn màu má đỏ hây hây<br />
Tuổi phong nhụy còn hờn ghen hoa bướm.<br />
Em ngơ ngác bỗng nhìn mình chuyển hướng<br />
Bỏ lại rồi thời thanh nữ xanh xao<br />
Mắt đã sầu từ khi đếm trăng sao<br />
Sao nào sáng để ta về nương náu.<br />
Lần sang sông với tim hồng rướm máu<br />
Chẳng nợ tình cũng không tiếc một ai<br />
Thật dửng dưng trong đáy vực cuồng quay<br />
Em lạnh ngắt bước chân vào đời mới.<br />
Yêu hay ghét cho tình mình phơi phới ?<br />
Buồn hay vui thêm hương vị cuộc đời ?<br />
Rồi hết ngày cũng hết tháng lại thôi<br />
Nghe lẳng lặng qua đi đời thiếu phụ.<br />
Những ngày chết theo bốn mùa vần vũ<br />
Những đêm buồn cùng năm tháng đi qua<br />
Nổi đồng sàng trong dị mộng yêu ma<br />
Ôi hạnh phúc như tiếng buồn một kiếp<br />
Rồi chuỗi sầu vẫn miệt mài nối tiếp<br />
Thấy đêm về miền chăn gối lạnh tanh<br />
Ta chết dần nỗi cảm xúc chênh vênh<br />
Để thân xác thành khối đồng giá buốt.<br />
Thương cho Em thèm bàn tay nhẹ vuốt<br />
Lưng cong vòng nằm co quắp buồn tênh<br />
Tội cho Anh trong giận dữ lênh đênh<br />
Nghe bất lực xây lầu vàng hạnh phúc.<br />
Rồi tình nghĩa như nhịp cầu gãy khúc<br />
Nợ ân tình nghe phẳng lặng vô duyên<br />
Chiếc lồng son không giữ nổi chim khuyên<br />
Tưởng như đó một đời dài tù ngục.<br />
Em thèm khát cảnh gió trời du mục<br />
Sợ vô cùng những chiếm đoạt bủa vây<br />
Có bao giờ ai nhốt áng mây bay<br />
Mà giữ đó làm chăn tình anh đắp ?
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 230<br />
Chớ oán nhau cho nến vàng ta thắp<br />
Khỏi tủi hờn thêm leo lét tình ta<br />
Xin oan khiên hãy nhẹ cánh buông tha<br />
Để em mãi tiếc thương người đã lấy.<br />
Bao thu rồi tình vui kia chưa thấy<br />
Núi cũng sầu nhìn biển rộng mông mênh<br />
Một đời thuyền như cánh lá lênh đênh<br />
Rồi hai đứa vẫn buồn ôm gối chiếc.<br />
Anh nào hiểu Em vẫn hoài tha thiết<br />
Quý Anh nhiều trong tình nghĩa sạch trong<br />
Không tình yêu nên tình mãi lưu vong<br />
Mang tên Anh mà sống đời đơn giá.<br />
Từng thu về Em ngậm ngùi đếm lá<br />
Mỗi lá vàng là chuỗi đắng ngày đen<br />
Gom bâng khuâng mà ngầy ngật hơi men<br />
Hoài chẳng hiểu chuyện đời mình vô lý. ■<br />
(Viết để ôn lại những phi lý của đời mình) – mùa Thu Paris 1988)<br />
Dã Thảo. Paris (THƠ – TÌNH CỦA CỎ)
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 231<br />
Fables<br />
Æsop (Sixth century B.C.)<br />
A NEW TRANSLATION BY<br />
V. S. VERNON JONES<br />
<strong>The</strong> Fox and the Grapes<br />
A hungry Fox saw some fine bunches of Grapes hanging from a vine that was trained along a high<br />
trellis, and did his best to reach them by jumping as high as he could into the air. But it was all in vain,<br />
for they were just out of reach: so he gave up trying, and walked away with an air of dignity and<br />
unconcern, remarking, "I thought those Grapes were ripe, but I see now they are quite sour." ■<br />
<br />
<strong>The</strong> Goose that Laid the Golden Eggs<br />
A Man and his Wife had the good fortune to possess a Goose which laid a Golden Egg every day.<br />
Lucky though they were, they soon began to think they were not getting rich fast enough, and,<br />
imagining the bird must be made of gold inside, they decided to kill it in order to secure the whole store<br />
of precious metal at once. But when they cut it open they found it was just like any other goose. Thus,<br />
they neither got rich all at once, as they had hoped, nor enjoyed any longer the daily addition to their<br />
wealth.<br />
Much wants more and loses all. ■<br />
<br />
<strong>The</strong> Cat and the Mice<br />
<strong>The</strong>re was once a house that was overrun with Mice. A Cat heard of this, and said to herself, "That's the<br />
place for me," and off she went and took up her quarters in the house, and caught the Mice one by one<br />
and ate them. At last the Mice could stand it no longer, and they determined to take to their holes and<br />
stay there. "That's awkward," said the Cat to herself: "the only thing to do is to coax them out by a<br />
trick." So she considered a while, and then climbed up the wall and let herself hang down by her hind<br />
legs from a peg, and pretended to be dead. By and by a Mouse peeped out and saw the Cat hanging<br />
there. "Aha!" it cried, "you're very clever, madam, no doubt: but you may turn yourself into a bag of<br />
meal hanging there, if you like, yet you won't catch us coming anywhere near you."<br />
If you are wise you won't be deceived by the innocent airs of those whom you have once found to be<br />
dangerous. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 232<br />
Greek Tragedy: <strong>The</strong> Role of<br />
<strong>The</strong> House of <strong>The</strong>bes<br />
By Thomas D. Le<br />
Introduction<br />
In the age of cyberspace let us look back 2500-3000 years to see if we can find intellectual stimulus<br />
for modern man. What was there in those ages, when myths, legends, religion, politics, art, literature,<br />
philosophy, and what may be called science or proto-science were so integrated in the public and<br />
private lives of the Greeks that appeal to us today? I shall be brief in my response: a great deal. Not<br />
only do we find there a treasure trove of ideas and materials that animate modern scholarly pursuits in<br />
philosophy, politics, religion, law, psychology, art, literature, archaeology, anthropology, and more, but<br />
we cannot begin to appreciate and understand the plethora of works in our museums, our libraries,<br />
without a modicum of knowledge of those ideas that the Greeks had expounded and debated long<br />
before anybody had heard of Western civilization. Should we make a herculean effort to explore some<br />
of those topics that still tantalize modern scholars of all stripes? Or shall our titanic effort, no matter<br />
how heroic, prove in the end Sisyphean? And why do we treat with such reverence in schools and<br />
colleges what is known as the Socratic method? Each of the previous three questions makes sense<br />
only by referring to the seminal world of Greek antiquity. Don’t panic (Remember Pan?). <strong>The</strong> fact is<br />
that the ancient Greeks had left an indelible mark of their genius in our everyday language and way of<br />
thinking. We shall examine just one area of interest that the Greeks bequeathed, and limit this<br />
discussion to one small piece of it: a summary background of Greek tragedy and the role the House of<br />
<strong>The</strong>bes played in it.<br />
What does Greek tragedy teach us<br />
today? Why start a study of tragedy with the<br />
House of <strong>The</strong>bes? What about Athens since<br />
tragedy was first performed there, and we<br />
know that Greek tragedy was really Attic<br />
Greek, or more specifically Athenian? And<br />
why not start with the House of Atreus since it<br />
too contributed substantial material to the<br />
tragedies of Aeschylus, Sophocles, and<br />
Euripides? What about other royal houses? <strong>The</strong><br />
answer is simple: Dionysus, the god whose<br />
altar presided over tragedy performances in<br />
Athens and elsewhere, belonged genealogically<br />
to the House of <strong>The</strong>bes. Dionysus himself,<br />
according to legend, was a grandson of<br />
Cadmus, the founder of <strong>The</strong>bes.<br />
Figure 1. <strong>The</strong> Southern Part of Ancient Greece.<br />
Among Greek legends, perhaps none is better known and discussed than the legend of Oedipus.<br />
And among the Greek city-states, few played such a crucial role in the myths and legends of this<br />
ancient land of Greece as <strong>The</strong>bes, Athens, Corinth and Mycenaea excepted. If Miletus put Ionia on the
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 233<br />
map with its Pre-Socratic natural philosophers Thales, Anaximander and Anaximenes, and Athens<br />
made Attica shine with the illustrious names in Western philosophy of Socrates, Plato, and Aristotle,<br />
<strong>The</strong>bes brought Boeotia into prominence with the myths and legends of the House of <strong>The</strong>bes. Founded<br />
by Cadmus, the city of <strong>The</strong>bes with its associated myths has given inestimable inspiration to poets,<br />
playwrights, sculptors, and painters well into our century.<br />
<strong>The</strong> legends of Cadmus’s descendents permeated so much of the arts, literature, psychology,<br />
and philosophy across the centuries that it is almost impossible to underestimate their enduring role in<br />
modern time. Dionysus (Bacchus in Latin), whose cult in Athens offered a venue for the first Greek<br />
tragedies and satyr plays, illustrates a side of human nature which is associated with unbridled ecstasy,<br />
wild impulsiveness, and primitive spiritual experience. In his essay <strong>The</strong> Birth of Tragedy, Nietzsche<br />
distinguishes two aspects of art, the wild, exuberant, sensual Dionysian celebration of primitive nature<br />
and the rationality, order, light, and measured<br />
intellectual clarity of the Apollonian worldview, the<br />
two being in inseparable opposition with each other.<br />
On Nietzschean view, both of these aspects are<br />
entwined in a work of art, certainly in Greek tragedy.<br />
He associates the Apollonian with dreams and the<br />
Dionysian with music. <strong>The</strong> Oedipus myth central to<br />
Freudian psychoanalytical theory lives today as it did<br />
among the audiences watching Sophocles’s Oedipus<br />
Tyrannus from the theatron of the Dionysus <strong>The</strong>ater in<br />
Athens (Figure 2) some 2500 years ago. In Aristotle’s<br />
Poetics, the first known literary theory work,<br />
Sophocles’s tragedy serves as a paradigm of (Greek)<br />
Figure 2. <strong>The</strong>ater of Dionysus in Athens.<br />
tragedy, whose salutary role in the emotional release from pity and fear introduces the Bacchic concept<br />
of catharsis to the literary tradition of the Western world. Actaeon, the son of Cadmus’s daughter<br />
Autonoë, for accidentally surprising the naked goddess Artemis in her bath, was transformed into a stag<br />
by her splashes and was devoured by his own hunting dogs. Greek gods and goddesses could be so<br />
unjust at times. After the demise of Cadmus’s grandson Pentheus at the hands of the Maenads, among<br />
whom were Cadmus’s own daughters, the kingship of <strong>The</strong>bes passed to a grandson of Cadmus,<br />
Labdacus, whose son Laius was killed by his own son Oedipus. No man suffered so grievously one of<br />
the most horrifying fates that may befall a human. Such is the story of the great House of <strong>The</strong>bes,<br />
which rose to preeminence in the Greek world, only to crash in a most tragic manner.<br />
This brief study provides the background necessary to understand the myth of Oedipus and the<br />
advent of tragedy.<br />
<strong>The</strong> House of Cadmus and the Founding of <strong>The</strong>bes<br />
According to legend (in Smith, 1882, p. 191), <strong>The</strong>bes was founded by Cadmus, whose father Agenor,<br />
the Phoenician king of Tyre, and mother Telephassa, also had two other sons Phoenix and Cilix and a<br />
beautiful daughter, Europa, with whom Zeus fell in love. Agenor was the son of Poseidon and Libya.<br />
Although he was not the founder of the House of <strong>The</strong>bes, Agenor fathered Cadmus, whose descendents<br />
lived under a curse that resulted in its virtual destruction. <strong>The</strong> story of the House of <strong>The</strong>bes is the stuff<br />
of tragedy, a paradigmatic case that Aristotle utilized in his literary theory work <strong>The</strong> Poetics.<br />
<strong>The</strong> chart below (Figure 3) shows the genealogy of the House of <strong>The</strong>bes, which began with its<br />
legendary founder Cadmus. <strong>The</strong> central figure Cadmus married Harmonia, the daughter of Ares and
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 234<br />
Aphrodite. His daughter Semele was one of Zeus’s mortal consorts. <strong>The</strong>ir union gave birth to<br />
Dionysus, who started a religion known as the Dionysian Mysteries, from the practice of which<br />
evolved Greek drama. Another of Cadmus’s daughter, Agave, married Echion and had a son, Pentheus,<br />
whom she killed in a Bacchic frenzy. Pentheus’s son Menoeceus had two children, Creon and Jocasta.<br />
It is puzzling that the records did not show whom Menoeceus married. Jocasta married Laius, the<br />
grandson of Polydorus, who was Agave’s brother and the only son of Cadmus. From Laius and<br />
Jocasta, Oedipus was born. <strong>The</strong> union of Jocasta and her son Oedipus resulted in two sons Polyneices<br />
and Etiocles, and two daughters, Antigone and Ismene. Now we have all the major players in the<br />
Oedipus myth, which Sophocles immortalized in his tragedy Oedipus Tyrannus.<br />
Figure 3. Genealogy of the House of <strong>The</strong>bes. Names of spouses are in parentheses.<br />
We can start the <strong>The</strong>ban saga with the abduction of the beautiful Europa by Zeus. Disguised as<br />
a white bull, Zeus appeared in the meadow where Europa was picking flowers with other maidens. <strong>The</strong><br />
bull was gentle and attractive, and had friendly demeanor. Emboldened, Europa approached him,<br />
stroked him, and finally climbed on his back. As soon as Europa settled on his back, the bull slowly<br />
moved toward the water and soon took off with his precious charge to the island of Crete, where he<br />
revealed his divinity. She bore him three sons, Minos, Rhadamanthus, and Sarpedon. Both Minos and<br />
Rhadamanthus led virtuous enough lives so that when they died they became judges in Hades.<br />
Sarpedon died in the Trojan War at the hands of Patroclus. Even Zeus could not save his son Sarpedon<br />
from death, which had been decreed by fate.<br />
After Europa’s abduction, Agenor sent all his sons to look for their sister, commanding them not<br />
to return without her. Unsuccessful in their search, they never returned. Phoenix settled in Phoenicia,<br />
and Cilix gave his name to Cilicia in Asia Minor (now in Lebanon). Only Cadmus went farther afield<br />
and settled in Thrace. To continue his search he went to consult Apollo’s oracle at Delphi, who told<br />
him to cease his effort, and follow a heifer until she stopped. At that spot he was to build a city.<br />
Leaving Delphi Cadmus espied on the road in Phocis a heifer, which he followed to Boeotia. Here she
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 235<br />
collapsed with exhaustion. At the spot, Cadmus built the city of Cadmeia with the help of the Spartoi.<br />
Cadmeia later became <strong>The</strong>bes. He then wanted to sacrifice the cow to the goddess Athena, who had<br />
been helping him, but since he needed water for libation, he sent some of his companions to a nearby<br />
well to fetch it. <strong>The</strong> well was sacred to Ares, who had it guarded by his offspring a dragon. Upon<br />
seeing the men, the dragon pounced on them and devoured them all. When Cadmus went looking for<br />
his companions, he found the murderous dragon, which he killed with the aid of Athena. On her advice<br />
he sowed the dragon’s teeth in the ground. Immediately there sprang up a host of threatening armed<br />
men. Athena directed him to throw a stone at the men, whereupon they turned their weapons against<br />
one another until only five of them remained alive. Called Spartoi (sown men) they formed the five<br />
original noble families of <strong>The</strong>bes, who helped Cadmus build the city. For his slaying of the dragon<br />
Cadmus paid with eight years of servility to Ares. On regaining his freedom, he was given in marriage<br />
the beautiful Harmonia, daughter of Ares and Aphrodite. <strong>The</strong> wedding took place in the acropolis of<br />
Cadmeia, attended by all the gods. For gifts Harmonia received a necklace and a robe (peplos), which<br />
were to cause untold misery to all who came into their possession. Legend has it that Cadmus had<br />
brought the Greeks the gift of the Phoenician alphabet, which they adapted to create the Greek<br />
alphabet.<br />
Dionysus<br />
Cadmus and Harmonia had four daughters, Autonoë, Semele, Ino, and Agave, and one son, Polydorus.<br />
In one version of the legend, loved by Zeus, Semele was pregnant with child, when Zeus’s consort<br />
Hera, whose legendary jealousy over her husband’s<br />
infidelity is well known, disguised herself as her nurse<br />
Beroë and artfully convinced the mortal woman to see<br />
her lover in his full divine glory. <strong>The</strong> gullible Semele,<br />
tormented by doubt that her lover was a divinity, asked<br />
Zeus to grant her whatever she wished. In love Zeus<br />
swore by the River Styx that he would. But when<br />
Semele asked him to appear to her in all his divine<br />
splendor, Zeus warned Semele against such foolishness<br />
and tried to dissuade her from her desire. She<br />
persisted, and bound by his unbreakable vow to accede<br />
to her wishes, he reluctantly and sadly came to her as<br />
the father of gods and men. <strong>The</strong> overwhelming<br />
presence of his divinity with lightning and thunderbolt<br />
seared the poor mortal (Figure 4). Zeus rescued the<br />
fetus from her lifeless body, sewed it to his thigh, and<br />
carried it to term. Dionysus was thus a Sewed-in god<br />
(Eiraphiôtês), and the only god with a mortal mother.<br />
Dionysus was also called twice-born. Zeus then gave<br />
him to the nymphs of Nysa to be raised. He grew up<br />
amidst the solitude of the mountains and forests,<br />
competed with the beasts, and discovered the vine. His<br />
education was completed by the sage satyr Silenus, son<br />
Figure 4. Gustave Moreau-Zeus and Semele.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 236<br />
of Pan, who also became part of his entourage. As a satyr, Silenus was most of the time drunk, and was<br />
depicted as a fat old man riding a donkey. Once he was captured drunk while sleeping and brought to<br />
King Midas of legendary wealth, mythical founder of the Kingdom of Phrygia. King Midas had always<br />
wanted to capture Silenus to learn from his sagacity. <strong>The</strong> king treated him extremely well at his court.<br />
When asked by the king about the most blessed thing in life, the reluctant Silenus laughed out loud and<br />
asked the king why he wanted to know things that it was in his interest not to know. <strong>The</strong> satyr then said<br />
that the most blessed thing in life is never to have been born, and the second is to die soon. This<br />
statement is emblematic of a Greek sense of pessimism about life. To show appreciation for the king’s<br />
hospitality toward his preceptor, Dionysus granted King Midas one wish. <strong>The</strong> King asked for the power<br />
to transform everything he touched into gold. His wish was immediately granted to the delight of the<br />
avaricious king, who saw his wealth accumulate by a mere touch. His elation lasted only a short while<br />
until, gnawed by hunger and thirst, he found all his food and drink turn to gold. Realizing his mistake,<br />
he implored the god to take away his curse. Dionysus consented and told him to wash his hands in the<br />
Pactolus, a river in Lydia. <strong>The</strong> king’s golden touch dissolved in the water, which henceforth took on<br />
the color of gold. For many years Dionysus, god of agriculture and fertility of nature, and also god of<br />
wine and intoxication, traveled far and wide through Asia Minor and Egypt to spread his religion, the<br />
cultivation of grape and the making of wine. After his worship had been established in India, he came<br />
back to his supposed birthplace, <strong>The</strong>bes, to set up his worship.<br />
Dionysus appeared to be a fusion of two divinities, the Greek god of agriculture, who was<br />
hardly mentioned in the Iliad or the Odyssey, and a Phrygian or Thracian god with a vigorous religious<br />
worship. According to the <strong>Home</strong>ric Hymn to Dionysus, the god’s name came from Zeus (Dios) and the<br />
mountain Nysa, situated variously in Naxos, in Phoenicia, in Arabia, in Egypt, and even in India,<br />
farther still than Phoenicia, This shows him to be an imported god.<br />
Dionysus had a large following made up of<br />
Bacchantes, nymphs, satyrs (Figure 5), fauns,<br />
shepherds, shepherdesses, women, and even men.<br />
He led the march followed by his cortège<br />
screaming, singing, and dancing to the music of<br />
tambourines. <strong>The</strong> group each carried a thyrsus and<br />
wore ivy crowns and grape vines. Dionysiac<br />
worship is characterized by ecstatic frenzy through<br />
music and dance and the possession (atavistic<br />
possession) of adherents by the god. In their wild<br />
ritual orgies, they dismembered the sacrificial<br />
animal (sparagmos) and ate the raw flesh<br />
(omophagia). What happened to Pentheus in<br />
Euripides’s play in part reflected this ritual.<br />
Female devotees, called Maenads, Bacchae, and<br />
Bacchantes, were possessed by the god. <strong>The</strong>y<br />
dressed in fawn skins and carried a vine- or ivycovered<br />
staff, called thyrsus, surmounted by a pine<br />
Figure 5. A Satyr.<br />
cone, which they used as weapon or magic wand. <strong>The</strong>ir orgies or bacchanals took place in the woods<br />
and in the mountains among rocks. <strong>The</strong>ir male counterparts, closely associated with Dionysiac worship,<br />
were satyrs, half man half animal, who sported a goat’s head and beard or a horse’s tail, turned up noses
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 237<br />
and pointed ears. Gods of the wood and also companions of Pan, they loved to dance, made wine to<br />
drink, chased nymphs, and were constantly sexually aroused. Older satyrs are called Sileni. One of<br />
them, wise old Silenus, was Dionysus’s preceptor, as seen above. Mingling sex and religion Bacchic<br />
worship had popular appeal. <strong>The</strong> orgies of devotees of both sexes were notorious for their disorderly<br />
conduct. <strong>The</strong> term “Bacchanalia” arose to denote these wild festivals, and has now been extended to<br />
drunken revelry. Today a form of this cult is recognizable in spectacles of swooning and frenzied<br />
female audiences at rock concerts.<br />
To the emotional, ecstatic, and somewhat primitive nature of Bacchic worship was opposed its<br />
civilizing aspect, for wherever he went, Dionysus taught the cultivation of the vine, founded cities, and<br />
introduced civilized living by establishing a sociable and pleasant way of life, not the least of whose<br />
ingredients must be counted the tragedies, comedies and satyr plays of the Classical period.<br />
<strong>The</strong> god would move into a city to start up Bacchic worship and would severely punish anyone<br />
attempting to resist him. Lycurgus, King of Thrace, scattered the god’s terrified following, and drove<br />
him into the sea. This happened when the god was still young. Fortunately the sea goddess <strong>The</strong>tis<br />
rescued him. For his cruel impiety, Lycurgus was driven to insanity by the god. In his fit of madness<br />
the king killed his own son Dryas, mistaking him for a vine. <strong>The</strong> oracle decreed that Lycurgus’s land<br />
would never regain fertility until he was gone. His people, in desperation, seized him and took him to<br />
Mount Pangaeum, where he was torn to pieces by horses. In his play <strong>The</strong> Bacchae, written in the court<br />
of Macedon’s king Archelaus, Euripides described a Bacchus (Dionysus) sterner than the god who was<br />
worshipped in Athens. Dionysus had the greatest following among women, the maenads, who met in<br />
woods and became frenzied during their worship. Agave, the mother of the <strong>The</strong>ban King Pentheus and<br />
his aunts Autonoë and Ino were maenads. But the young, irreverent, and rash king, who was also the<br />
god’s cousin, refused to grant him his cult. Dionysus took his revenge by luring Pentheus to the forest,<br />
where he met a horrible death at the hands of the maenads. In their trance his mother and aunts<br />
mistook him for a lion and, with the extraordinary strength given by the god, tore him in pieces. Agave<br />
herself tore off her son’s head. It was only later when Agave regained her senses that she realized the<br />
enormity of her crime. <strong>The</strong> play illustrates the danger of sacrilege and blasphemy toward a god’s<br />
religion. This Dionysus is the god of religious zeal and ecstasy, which represent both the bestial and the<br />
sublime sides of human nature, and humans must learn to accommodate. After Pentheus’s death<br />
<strong>The</strong>ban monarchy passed to another descendent of Cadmus, Labdacus, whose offspring Laius and<br />
Pentheus’s grandchildren, Creon and Jocasta, were to play crucial roles in the development of the<br />
Oedipus myth.<br />
In another myth with clear connotations of a mystery religion, Dionysus, here known as<br />
Zagreus, was born of Zeus and his daughter Persephone, the queen of Hades. <strong>The</strong> jealous Hera sent the<br />
Titans to lure Zagreus to his death with toys. <strong>The</strong> Titans cut the infant into pieces and devoured the<br />
dismembered body. His heart, however, was saved by Athena or Demeter, who took it to Zeus. <strong>The</strong><br />
father of gods and men reconstituted his son from the heart and implanted him in Semele. In this<br />
version Dionysus Zagreus was also twice born. <strong>The</strong>re is a version by which, instead of the heart, it is<br />
the god’s phallus that survived. <strong>The</strong> angry Zeus killed all the Titans with his thunderbolt; from their<br />
ashes rose the race of humans. Thus, humans’ original sin stemmed from the crime of murder and<br />
anthropophagy committed by their creators. But this is part of anthropogony, with which we are not<br />
concerned here. In the Zagreus legend, Dionysus’s association with the Orphic cult and Demeter is<br />
clearly drawn. As can be seen, there are united in this account all religious elements of sin, death, life<br />
after death, resurrection, and immortality.<br />
In <strong>The</strong> <strong>Home</strong>ric Hymns to Dionysus VII, an account of his encounter with the pirates shows the<br />
god’s power over humans. While he was resting on the shore wearing a purple robe, his youthful godlike<br />
appearance in full splendor, and his long tresses flying in the wind, a pirate ship sailed by. <strong>The</strong>
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 238<br />
pirates beheld the handsome youth, and wanted to capture him to sell as a slave at the next port or to<br />
extract a ransom from his obviously high-born family. <strong>The</strong> pirates quickly hauled the god on board and<br />
tried to tie him up with strong bonds. But the bonds fell off in spite of the pirates’ effort to secure him.<br />
A smile in his eyes was Dionysus’s only response to the sailors. Quickly sizing up the situation, the<br />
wise helmsman was alarmed and warned the sailors of dire consequences, for this was no ordinary man<br />
but Zeus or Apollo or Poseidon. He urged them to set him free immediately. But the ship’s master<br />
gave orders to set sail. Soon strange things happened on the ship. A soft fragrant wine flowed<br />
throughout the ship; then from the tops of the mast a vine ran down in clusters, and ivy covered the<br />
mast with blossoms, berries, and garlands hanging everywhere. <strong>The</strong> frightened pirates begged their<br />
helmsman to head to shore. But the god transformed himself into a fierce lion roaring from the bow,<br />
with a bear snarling amidships, and a lion growling in the forepeak. <strong>The</strong> terrified sailors crowded<br />
around the helmsman at the stern for protection. Suddenly the lion leapt, seized the master, and tore<br />
him in pieces, whereupon the sailors one and all jumped overboard and were changed into dolphins.<br />
<strong>The</strong> helmsman was the only one spared by the god.<br />
Together, the god and the steersman sailed on to the island of Naxos, where the King of Crete’s<br />
daughter Ariadne, whom <strong>The</strong>seus had abandoned after she had helped him to escape from the labyrinth,<br />
lay friendless and forsaken on a deserted rock. Charmed by her beauty, Dionysus entreated her, and<br />
Ariadne consented to be his wife. In another version, however, it was Dionysus who persuaded<br />
<strong>The</strong>seus, who was happily married to Ariadne, to relinquish her to the god in accordance with the<br />
prophecy of Apollo.<br />
After establishing his religion in the east and in Greece, Dionysus went down to the realm of<br />
shades to retrieve his mother Semele, whom he took to Olympus, where she was made a goddess under<br />
the new name of Thyone.<br />
Perhaps due to his dual origin, Greek and Middle Eastern, Dionysus was depicted at an earlier<br />
time as a bearded man, with a grave and dignified countenance, dressed as an Eastern monarch, and<br />
riding in a chariot drawn by panthers, tigers, or lions. Later he was represented as a handsome<br />
androgynous youth with his head covered in ivy or vine and his hair falling in graceful curls over his<br />
well-shaped shoulders. He holds a thyrsus in one hand and a double-handled wine cup in the other.<br />
In Roman mythology, Dionysus is known as Bacchus, and the Roman god of vegetation Liber<br />
(freedom) is identified with Dionysus. <strong>The</strong> liberation in Bacchic cult probably resulted from ecstatic<br />
intoxication, a temporary relaxation of social restraints, and reversal of roles during the ceremonies,<br />
when celebrants shed inhibitions and indulged in licentious behavior, which would under normal<br />
circumstances be sanctioned by society.<br />
<strong>The</strong> Beginnings of Tragedy in Athens<br />
<strong>The</strong>re is no attempt here to systematically discuss the origins of tragedy, but in order to place tragedy<br />
and Sophocles’s Oedipus Tyrannus in their proper contexts, we provide a brief exposé of one view of<br />
how tragedy came into being. Since tragedies and satyr plays were first performed during the festivals<br />
of Dionysus, it is apposite to examine the religious practice that furnished the opportunity for the<br />
performance of tragedy. In Athens, Dionysus was worshipped in annual celebrations called Dionysia,<br />
of which there are two: the Rural or Lesser Dionysia, which took place in the month of Poseideon,<br />
which in the Attic calendar corresponds to December/January, and the City or Greater Dionysia, which<br />
took place about three months later in Elaphebolion, corresponding to March/April. <strong>The</strong>se festivals, in<br />
which Athenians and other Greeks outside Athens participated to honor the god Dionysus, are an<br />
essential part of Dionysian Mysteries.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 239<br />
Dionysian Mysteries<br />
Dionysian worship was a mystery religion. In the Greco-Roman world a mystery religion was a<br />
religious cult characterized by the secrecy of the initiation, ritual, and practice of their participants,<br />
which were hidden from all but the initiates. <strong>The</strong> most important and most ancient of them were the<br />
Eleusinian Mysteries, which originated in Eleusis, west of Athens, before the Greek Dark Ages, and<br />
were believed to date to the Mycenaean period (about1500 B.C.). <strong>The</strong>se ceremonies were held every<br />
year for the Lesser Mysteries and every five years for the Greater Mysteries in honor of the goddess of<br />
agriculture and fertility Demeter and her daughter Persephone. <strong>The</strong> myth of Demeter and Persephone,<br />
as in all vegetation cults, accounted for the annual cycle of death and rebirth of nature. For the four<br />
months of dry summer in Greece, when Persephone was kept as queen in Hades, Demeter was so<br />
distraught she caused plants to die of drought and become unproductive. When autumn came,<br />
Persephone returned to her mother, who, now joyful, allowed seeds to germinate with the first rains of<br />
fall, and produce crops again. Persephone’s return to earth is thus symbolic of the fertility of<br />
agriculture on Greek soil for eight months out of a year. <strong>The</strong> initiation rites of the Eleusinian cult held<br />
promises of union with the gods that was believed to confer divine power and rewards in the afterlife.<br />
This led to speculation of use by devotees of psychedelic or entheogenic agents in the cult, for in a state<br />
of trance induced by these agents, they felt possessed by the spirit of the god and hence endowed with<br />
the god’s power. In this respect, Eleusinian cult was akin to Dionysian cult, which also involved spirit<br />
possession like all vegetation cults.<br />
Parallel to Eleusinian Mysteries, Dionysian Mysteries involved intoxication by wine and<br />
primitive behavior facilitated by the relaxing effects of wine. <strong>The</strong> exact date at which Hellenic<br />
Dionysian cult appeared is not known, but it could be surmised to have entered Greece with the spread<br />
of viticulture from either the Zagros mountain region between Mesopotamia and Persia or from Libya,<br />
areas with known wine making dating to 6000 B.C. Dionysian rites still remain a secret, but their<br />
syncretism as an Orphic cult was supported by the possibility of their emergence from Phrygia, Thrace,<br />
Egypt, or other parts of Asia Minor, where local cults were absorbed into the cult. A fair case for the<br />
point of entry of what would become Dionysian Mysteries into Greece (around 1600 B.C., probably in<br />
<strong>The</strong>bes) could be made for Minoan Crete, which had imported wine and with it the wine cult from<br />
Egypt and Phoenicia, and spread it to the mainland Greeks, who would have propagated it to other<br />
parts of the Greek world. <strong>The</strong> question still remains open, however. Regardless of how the cult arrived,<br />
one could discern the evolution of the Dionysian rites from their beginning, when they were tied to the<br />
process of wine production, to a more sophisticated form it ultimately took, entailing a transformation<br />
of Dionysus himself from a chthonic deity to a loftier status, albeit not an Olympian one.<br />
<strong>The</strong> primitive Dionysian rites, especially those practiced by peasants in the mountain recesses<br />
of the Greek countryside, were atavistic in that followers were possessed by animal spirits, and not by<br />
Dionysus himself, which is the preferred form of possession. <strong>The</strong> main theme that ran through atavistic<br />
possession, and its consequent liberation, could be any or all of the relaxation of social norms of a<br />
civilized order, an escape from everyday life’s dreary repressions by saturnalian revelry, a role reversal<br />
in which the lowly had a chance to ridicule and talk back to the high-and-mighty, or a primal return to<br />
chthonic forces. This role inversion and breakdown of the social order, albeit for a short while, made<br />
the cult attractive to the other: the disenfranchised of Greek society, namely, the slave, the woman, the<br />
foreigner, who supplied its leadership from their ranks. Its egalitarianism sometimes horrified the<br />
main-stream establishment, who regarded the cult with hostility as too liberative and too subversive of<br />
the social order, especially in later Roman times. During the Roman Empire, the Senate attempted to<br />
ban the worship and limited its gatherings. Yet the Roman Bacchic cult tended to emphasize only the<br />
sexual aspects, and had no political overtones.
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 240<br />
Be that as it may, in the hands of the Greeks, Dionysian Mysteries reflected an evolutionary<br />
trajectory which, by assimilating foreign myths to domestic myths, ultimately culminated in the more<br />
civilized Dionysia festivals, and atavistic possession was gradually enacted with masks and acting,<br />
paving the way for Attic drama. Bacchic worship lasted beyond the Classical period, and spread to<br />
Rome, where it survived until the reign of Emperor Augustine (354-430 A.D.), two thousand years after<br />
its introduction to Greece.<br />
Dionysian Mysteries had two kinds of rites. <strong>The</strong> private rites, the initiation rites, of more recent<br />
development, were less known in detail. <strong>The</strong>y will not retain our attention. But the public rites were<br />
better known and consisted of two festivals.<br />
<strong>The</strong> Rural or Lesser Dionysia<br />
Of the two Dionysiac festivals, the Rural Dionysia (Dionysia ta kat' agrous) or Lesser Dionysia is the<br />
more ancient one. Since the festival took place in the villages of Attica on different days of the month<br />
of Poseideon (December/January), the celebrants and performers were able to participate in the<br />
proceedings at various locations. Note in passing that the Greeks’ lunar calendar with Greek month<br />
names was very unlike those of the Gregorian calendar in use today. <strong>The</strong> Rural Dionysia was a festival<br />
of vine growing, at the beginning of which a he-goat, which was sacred to the god, was sacrificed.<br />
<strong>The</strong> main event of Rural Dionysia consisted of the pompe or procession led by the phalloi<br />
carriers (phallophoroi), and followed by young basket bearers (kanephoroi) carrying figs, bread bearers<br />
(obeliaphoroi) carrying four-foot-long loaves, water bearers (hydriaphoroi) carrying water jugs, and<br />
wine bearers (askophoroi). It was fitting that a festival in honor of the god of fertility should include a<br />
procession of the phalloi.<br />
<strong>The</strong>n followed singing and dancing contests. <strong>The</strong> choregos (production sponsor) would lead his<br />
chorus in the singing of dithyrambs, which were choral songs in honor of Dionysus. During the revels,<br />
joyful celebrants became boisterous, and indulged in behavior they would normally shun. For<br />
example, they would mock anyone with authority. In some larger towns, there might be dramatic<br />
performances of plays that had been performed during the previous year’s City Dionysia.<br />
<strong>The</strong> City or Greater Dionysia (Dionysia ta en Astei)<br />
It is in the City Dionysia that Athens of the Classical period displayed its wealth, power, and artistic<br />
achievement to the other Greeks and to foreigners. <strong>The</strong> City Dionysia took place about three months<br />
after the Rural Dionysia in Elaphobolion (end of March to beginning of April, when winter storms were<br />
over). <strong>The</strong> original City Dionysia was celebrated in Eleutherae, a village in northern Attica bordering<br />
Boeotia. After the village chose to be part of Attica because it desired Athenian citizenship, the<br />
Dionysiac worship spread throughout Greece, but not before Athens having been punished with a<br />
plague by Dionysus for first rejecting him. Tradition attributed the Athenian Dionysia to the tyrant<br />
Pisistratus, who established it during the sixth century B.C., to showcase the achievement of his<br />
tyranny. Recall that the original term “tyranny” did not have the pejorative connotations it later<br />
acquired. A tyrant was generally a member of the aristocracy who rode popular support into power as<br />
an absolute ruler against other members of the aristocracy. He could do good or evil. But since<br />
absolute power sooner or later engendered absolute corruption, a populist tyrant could turn into a<br />
despot.<br />
As a city, therefore grand, version of the Rural Dionysia, the Great Dionysia was organized as<br />
much for political as for religious purposes, especially after the rout of the Persian forces. Athens of<br />
the mid-fifth century B.C. was at the pinnacle of power. A coalition with other great cities of the
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 241<br />
mainland and the Greek islands of the Aegean Sea in the Hellenic League had allowed Athens to<br />
spearhead the defeat of the mighty Persian army and navy, in the wake of which the Athenian Empire<br />
came into being. Now under Pericles Athens entered its golden age, when democracy ruled, and<br />
embarked on grandiose construction projects with the Parthenon as a supreme symbol of Athenian<br />
architectural genius. Thus, over and above its political, economic, military, and diplomatic ascendency,<br />
Athenian cultural brilliance radiated throughout the Greek world. In art, literature, sculpture,<br />
architecture, Athens dominated the Classical period. <strong>The</strong> four great dramatists, Aeschylus, Sophocles,<br />
Euripides, and Aristophanes, flourished during this era, adding glory and luster to the Athenian<br />
celebration of the festival. It is therefore not surprising that the City Dionysia was intended to dazzle<br />
spectators and attended not only by Attic Greeks, but by Greeks from other states, colonies, and<br />
tributaries as well as foreigners whose trade and diplomatic missions necessitated their presence in the<br />
polis. Even after the Peloponnesian War, the defeated Athens still retained their cultural superiority<br />
over their militaristic Spartan victors and other Greek cities.<br />
<strong>The</strong> City Dionysia was held under the aegis of the eponymous archon who had just been<br />
elected, not under the king (basileus). Assisted by a staff, he organized the festival, which lasted at least<br />
five or six days. He also supervised the contests. On the first day, participants consisting of citizens,<br />
foreigners called metics (alien residents) and representatives from colonies marched into the <strong>The</strong>ater of<br />
Dionysus located at the southern slope of the Acropolis, in a procession or pompe in which a wooden<br />
statue of Dionysus Eleutherus was carried, followed by phalloi bearers, basket bearers, bread bearers,<br />
offering bearers, water bearers, and wine bearers. As in the Rural Dionysia, the phalloi were made<br />
from fig wood, the fig being considered a sexual tree. In addition, a large phallus was pulled on a cart.<br />
During the pompe, a role reversal might take place in which members of the lower class could jeer the<br />
upper class, and women could insult her male relatives. After the pompe the richly dressed choregoi<br />
(production sponsors) and their choruses entered into competitive dithyrambic performances to the<br />
accompaniment of the aulos. <strong>The</strong> dithyrambs glorified Dionysus as the Lord of Indestructible Life<br />
(Zôê). Dionysus had been dismembered then resurrected, a parallel with the wine-making process<br />
during which the grapes were separated and crushed, and were reborn in the form of the potent wine.<br />
<strong>The</strong> bull in the procession, which was another animal sacred to Dionysus, was then sacrificed to<br />
provide viands for a communal feast. <strong>The</strong>n the contest preliminary (proagon) proceedings took place,<br />
at which the judges were selected by lot for the plays to be performed in competition over the next<br />
three days. Three to four judges had been proposed by each of the 10 tribes, but only one from each<br />
tribe was drawn by lot. <strong>The</strong>se 10 judges would cast votes for first, second, and third places. During the<br />
proagon, various public interest announcements were also made. A revel followed in the evening with<br />
much eating and drinking in the streets.<br />
<strong>The</strong> remaining three days were devoted to contests (agones), of which there were two: the<br />
dithyrambic contests and the dramatic contests. Some time before the festival, probably in June, the<br />
archon had chosen the poets/playwrights and assigned them choregoi and chorus members. <strong>The</strong><br />
choregos was a wealthy citizen who sponsored the play and paid all the expenses associated with<br />
rehearsal and production: masks, props, costumes for 3 actors, and for musicians, food. It was a costly<br />
proposition, at some three thousand drachmas. Each of the three days was devoted, for one poet and his<br />
chorus, to the performance of a trilogy of tragedies and a satyr play on the same topic, the whole<br />
amounting to a tetralogy, in the morning, and a comedy in the late afternoon. <strong>The</strong> earliest record of<br />
dramatic competition dated to 534 B.C., when the poet-actor <strong>The</strong>spis (actors are today called<br />
“<strong>The</strong>spians” in his honor) won the contest and was awarded a goat, an animal sacred to Dionysus. He<br />
was the first known actor performing as a character in a written play. By the time of Sophocles, there<br />
were 15 members in the chorus and 3 actors on stage wearing masks and playing all roles including<br />
women, who were not allowed to act. Each poet (for playwrights wrote plays in verse) authored three
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 242<br />
tragedies on a related topic called a trilogy and a satyr play, which was a tragicomedy on the same or<br />
similar mythical theme to provide comic relief with pranks, drunkenness, coarse tricks, horse play, and<br />
even sexuality.<br />
On the day of the contest the theater was purified by the sacrifice of a piglet before the<br />
performance began. <strong>The</strong> idol of Dionysus was already placed on the altar in the middle of the orchestra<br />
(dancing place), where the chorus would perform their songs, dances and dialogues with the actors. <strong>The</strong><br />
archon and judges occupied the front row. <strong>The</strong> most important plays were tragedies. <strong>The</strong> term<br />
“tragedy” (Greek τραγῳ<br />
δία)<br />
is said to have come from the Greek tragos+oidè (meaning he-goat song),<br />
but the true origin is still debatable. Tragedies depict human suffering yet give pleasure to spectators.<br />
According to Aristotle’s Poetics (335 B.C.), the end-result of tragedy is catharsis (purgation) of feelings<br />
of fear and pity which the play’s incidents elicited. On the sixth day, if there were one, five comedies<br />
(falling to three after the fall of the Athenian Empire) were performed. A comedy (κωμῳδία) typically<br />
had a happy ending. It made fun of human foibles, and it was an honor to win a comedic prize. Finally,<br />
the satyr play was an even older form of drama from which tragedy and comedy was said to derive;<br />
satyrs were the part of Dionysus retinue which was characterized by sexuality, unconventionality,<br />
irreverence, and even amorality. <strong>The</strong> structure of a satyr play follows that of a tragedy, but was of<br />
shorter length. Tragedies, comedies, and satyric drama covered a full range of human behavior. If<br />
tragedies by depicting human suffering elevate man above his condition and are thus optimistic, and<br />
comedies by laughing at human frailties lower his standing and are thus pessimistic, satyric drama by<br />
showing man’s bestiality recognizes his serious dignity and thus proffers a balanced view of what<br />
humans are really like. Dithyrambic contests preceded comedic contests when they occurred. A<br />
dithyramb is a hymn or song of an ecstatic nature in honor of Dionysus, and originally was a<br />
vehement dance, which over time became dignified. In the Classical period, Pindar and Bacchilydes<br />
were poets known to have written dithyrambs for choruses. <strong>The</strong> chorus, composed of up to 50 men<br />
originally dressed in satyr clothes, entered the orchestra (dancing area) and danced while singing to the<br />
aulos (double-reed pipe) of the musician, who positioned himself in the center of the orchestra on the<br />
steps of the altar to Dionysus. <strong>The</strong> chorus danced a Circle <strong>Dan</strong>ce around the altar. In his Poetics,<br />
Aristotle attributed the origin of Athenian tragedy to the dithyramb.<br />
After the contest the judges voted, and the herald announced the winner, who received an ivy<br />
crown from the archon. <strong>The</strong> winning choregos received a tripod, which he dedicated to Dionysus, and<br />
his poet was crowned with ivy and ribbons.<br />
.<br />
Conclusion<br />
This survey gave a succinct overview of the background of Greek tragedy, which in essence was Attic<br />
tragedy, and tied it to the illustrious but unfortunate legendary House of <strong>The</strong>bes. Zeus’s love of Europa<br />
led to the founding of the city of <strong>The</strong>bes, the emergence of the House of <strong>The</strong>bes from its Phoenician<br />
progenitor, and the birth of the god of wine and fertility Dionysus, who had an eclectic oriental origin.<br />
<strong>The</strong> complex god Dionysus established a mystery religion which spread internationally from India,<br />
where he was associated with Shiva, through Asia Minor to the far-flung Imperial capital of the Roman<br />
Empire, where he was identified with Liber. Designed as a celebration of the wine god, Dionysia rose<br />
from its grass-roots base in rural Attica to acquire a remarkable creative syncretism. From the frenzied<br />
song and dance written by lyric poets such as Pindar and Bacchilydes, and performed by a chorus to the<br />
music of the aulos, the dithyramb metamorphosed into a dignified form of expression. It should be no<br />
difficult task to transition from the chorus singing and dancing the dithyramb in a Dionysian contest to<br />
the chorus singing and dancing and dialoguing with the audience and actors in the tragedies of<br />
Sophocles. <strong>The</strong> half-man half-animal deities that form part of Dionysus’s train, the satyr (goat-man)
<strong>Firmament</strong> Volume 3, No. 4, January 2011 243<br />
and the silenos (horse-man), while embodying some of the primitive human instincts of sexuality,<br />
hedonism, and lust, also were endowed with a certain wisdom. Dionysus’s preceptor Silenus was a<br />
wise old satyr. <strong>The</strong> satyr play that at first was bawdy and rambunctious gradually acquired<br />
respectability and dignity to serve as a possible entry point to tragedy and comedy. Thus completes the<br />
sketchy picture that we tried to paint if not of the birth of Greek tragedy, at least of the backdrop<br />
against which the birth of tragedy could be tentatively drawn. It must be noted that current scholarship<br />
is still uncertain about the origin of tragedy in the Western world, and this in spite of centuries of<br />
research, study, exegesis, interpretation, speculation, and argument. Regardless, we did show that the<br />
House of <strong>The</strong>bes supplied crucial material to feed and sustain the vitality of Athenian tragedy. ■<br />
30 December 2010.<br />
Bibliography<br />
Berens, E. M. (n.d.). <strong>The</strong> myths and legends of ancient Greece and Rome. New York, NY: Maynard,<br />
Merrill, & Co. Retrieved from http://www.gutenberg.org/files/22381/22381-h/22381-h.htm<br />
<strong>The</strong> context of Ancient theater (Part 2): <strong>The</strong> festival of Dionysus. (n.d.). Retrieved from<br />
http://classics.uc.edu/~johnson/tragedy/festival.html<br />
Dionysian Meditations: <strong>The</strong> City Dionysia (January 24, 2007). Retrieved from<br />
http://web.eecs.utk.edu/~mclennan/BA/JO-CD.html<br />
Dionysian Meditations: <strong>The</strong> Rural Dionysia (January 24, 2007). Retrieved from<br />
http://web.eecs.utk.edu/~mclennan/BA/JO-RD.html<br />
DiYanni, R. (2008). Literature: Approaches to fiction, poetry, and drama. Boston, MA: McGraw-Hill.<br />
Edmonds, R. (1999, April). Tearing apart the Zagreus myth: A few disparaging remarks on Orphism<br />
and original sin. Classical Antiquity, 18 (1). pp. 36-73.<br />
Morford, M.P.O. & Lenardon, R. J. (2003). Classical mythology. New York, NY: Oxford University<br />
Press.<br />
Rougier, M.-R. (Trans.) (2007). Œdipe roi. Paris, France: Hachette Livre.<br />
Smith, W. (ed.). (1882). A smaller classical mythology, 7 th ed. London, UK: John Murray.<br />
Tyrant. (2010). In Encyclopædia Britannica. Retrieved December 04, 2010, from Encyclopædia<br />
Britannica Online: http://www.britannica.com/EBchecked/topic/611899/tyrant