Firmament - Le Cercle Littéraire - Thế Hữu VÄn Äà n - The Literary ...
Firmament - Le Cercle Littéraire - Thế Hữu VÄn Äà n - The Literary ...
Firmament - Le Cercle Littéraire - Thế Hữu VÄn Äà n - The Literary ...
Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 1<br />
<strong>The</strong><br />
<strong>Firmament</strong><br />
<strong>Literary</strong> Journal<br />
Th‰ H»u Væn ñàn<br />
April 2012
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 2<br />
Contents<br />
To <strong>The</strong> Reader 4<br />
Bính Hữu Phạm. Xưng Tội 5<br />
Ðàm Trung Pháp. Khi Tiếng Anh Nhuốm Màu Đia Phương 11<br />
Sóng Việt Đàm Giang. Rồng 15<br />
Diễm Âu. Lama 22<br />
Nguyễn Văn Sở. Kỳ Vọng Của Ân Sư Tôi 32<br />
David Lý Lãng Nhân. Rập Rình Thi Ca 36<br />
Phạm Trọng Lệ. Vietnamese-American Woman Writer's First Novel in Poetry 39<br />
Ðàm Trung Pháp. Giới Thiệu Tập Truyện Quê Hương Vụn Vỡ Của Nguyễn Văn Sâm 47<br />
David Lý Lãng Nhân. <strong>The</strong> <strong>Le</strong>gacy of Kwai Chang 50<br />
Minh Thu. Australian Modern Masterpieces from <strong>The</strong> Art Museum of New South Wales 53<br />
Sóng Việt Đàm Giang. Cây Rồng Và Cây Máu Rồng 62<br />
David Lý Lãng Nhân. For Your Eyes Only 66<br />
Thanh Trà Tiên Tử. Hai Bài Thơ Thiền 67<br />
Tương Mai Cư Sĩ. A Spring Night Dream 70<br />
Dã Thảo. Jacques-Yves Cousteau: Một Truyền Thuyết Về Biển Cả 71<br />
Poetry Corner 79<br />
Dã Thảo. Ngày Đó...Bây Giờ 79<br />
David Lý Lãng Nhân. Tháng Bảy Mưa Dầm 81<br />
David Lý Lãng Nhân. Vạt Áo Dài Truyền Kiếp 82<br />
David Lý Lãng Nhân. Làm Thơ 83<br />
David Lý Lãng Nhân. Xuân Mấy Độ Sầu 83<br />
David Lý Lãng Nhân. Old Wine of Burgundy 84<br />
David Lý Lãng Nhân. Rượu Cũ Xứ Buộc-găn-đy 84<br />
Nguyễn Ngọc Cảnh. Cô Láng Giềng 85<br />
Minh Thu. Tình Suông 86<br />
Minh Thu. Mãn Tang 87<br />
Thanh Trà Tiên Tử. Thư Phòng Một Đêm Xuân 88<br />
Thanh Trà Tiên Tử. Đêm Thao Thức 89<br />
Haiku Poetry 90<br />
Kim Châu. Mẹ Già 90<br />
Kim Châu. Cơ Cực 91<br />
Kim Châu. Sân Ga 91<br />
Kim Châu. Chia Ly 92<br />
Kim Châu. Cánh Buồm 92<br />
Kim Châu. Thiền 93<br />
Kim Châu. Tâm Từ 93<br />
Kim Châu. Tâm Bi 93<br />
Minh Thu. Bốn Mùa 94<br />
Corneille. <strong>Le</strong> Cid (suite et fin) 95<br />
Minh Thu. (tr.). <strong>Le</strong> Cid (tiếp theo và hết) 133<br />
Sóng Việt Đàm Giang. Du Lịch Liên Bang Nga Và Bắc Âu, Phần II (tiếp theo) 155<br />
Minh Thu. Nghệ Thuật Cắm Hoa Ikebana Của Người Nhật 168<br />
Dã Thảo. Cảnh Đẹp Paris 175<br />
Dã Thảo. Tình Của Cỏ 187<br />
Mưa Trong Vườn Nhà Em 188
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 3<br />
Thở Dài 188<br />
Vườn Hoang 189<br />
Æsop. Fables : 190<br />
<strong>The</strong> Kingdom of the Lion 190<br />
<strong>The</strong> Wolf and the Crane 190<br />
<strong>The</strong> Fisherman Piping 190<br />
Thomas D. <strong>Le</strong>. Fire and Ice: Robert Frost and Cosmology (continued) 191<br />
Sóng Việt Đàm Giang. Phượng Hoàng: Một Loại Cây “Mới” Ở Việt Nam 213
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 4<br />
To <strong>The</strong> Reader<br />
Dear Friend and Reader,<br />
He routed the Moors and saved Castilla. She still demanded justice, his head, but feared to get<br />
it. He submitted to her will and said goodbye. She chastised him. How could the terror of Castilla's<br />
foe want so easily to give up his life in an unequal duel? To please you, my sweetheart! He was<br />
Rodrigue, the pillar of his country; and she Chimène, whose father her lover killed. Relax. Enjoy the<br />
verbal duel between lovers, and the dénouement of Corneille's delicious drama, thanks to Minh Thu.<br />
<strong>The</strong> Year of the Dragon should never be allowed to slip in quietly without Sóng Việt Đàm Giang<br />
whipping up the excitement with her research on the dragon in both East and West, and some thoughts<br />
about the dragon-blood plant, a botanical tidbit which her pharmacist background enriches with curious<br />
but not forgotten lore.<br />
English, as the world's lingua franca, constantly undergoes changes in surprising ways. In a<br />
highly readable essay, our linguistics professor Ðàm Trung Pháp entertains you with years of<br />
accumulated tales of linguistic variations.<br />
Two book reviews by academics should give us plenty of food for thought. Ðàm Trung Pháp<br />
delves into the drama of a shattered fatherland which an old colleague of his penetratingly probed with<br />
poignant vignettes laden with morals. Phạm Trọng Lệ digs beneath the surface to lay bare the reasons<br />
for the success of a prize-winning children's book by a Vietnamese-American who had reached these<br />
shores only a few short decades ago.<br />
Bính Hữu Phạm, master of surprise endings, tells a tale of violence and redemption while<br />
conteur David Lý Lãng Nhân one of courage and friendship. Dã Thảo paints another compelling<br />
portrait in the person of a great ecologist whose name is synonymous with ocean exploration and<br />
preservation. And Nguyễn Văn Sở reminisces about the teachers to whom he owed so much.<br />
Minh Thu surprises you with the richness of Australia's art scene and at the next breath<br />
showcases the Japanese art of flower arranging. Whether in Haiku or flower arranging, the Japanese<br />
excel in doing more with less. Compare a vase of flowers arranged by a western hand and that arranged<br />
by a Japanese to appreciate the difference.<br />
Linguistic imbroglio or word play occupies the mind of the young Diễm Âu, who grew up with<br />
the puzzle, but finally succeeded in linking two totally incongruous concepts in unexpected ways.<br />
<strong>The</strong>re is never one dull moment in our Poetry land, whose denizens have so much to say in so<br />
few words: Kim Châu, Dã Thảo, Minh Thu, David Lý Lãng Nhân, Nguyễn Ngọc Cảnh, Thanh Trà Tiên<br />
Tử, Tương Mai Cư Sĩ, all can delight, sadden, enliven, and stir our emotions. <strong>Le</strong>t your heart connect<br />
with their hearts and enjoy the tenderness and charm of their expansions.<br />
Go, go with them, with the peripatetic Sóng Việt Đàm Giang to St. Petersburg, Moscow, and<br />
Novgorod, and with Dã Thảo to her Paris secret hideaways of the Buttes of Chaumont, <strong>Le</strong> Marais, and<br />
the Château of Vincennes, each glowing with its unspeakable charm.<br />
And when you are satiated with too much fun, come back here to listen to the voice from days<br />
gone by as recorded by Thomas <strong>Le</strong>, who brings you the <strong>The</strong>ory of the Heartland.<br />
Yes, spring will not be spring unless its charm is shared and beauty savored. <strong>Le</strong>t us then raise<br />
our cups to life, which Spring brings forth. Viva Primavera! Viva <strong>Firmament</strong>! ■<br />
Thomas D. <strong>Le</strong><br />
April 2012<br />
To join Thế Hữu Vǎn Ðàn, please link to: http://groups.yahoo.com/group/thehuuvandan/join<br />
Thế Hữu Vǎn Ðàn web site: http://thehuuvandan.org.<br />
Send comments and submissions to: thomasle22@yahoo.com.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 5<br />
XÜng Ti<br />
Bính H»u Phåm<br />
Thánh Lễ cuối cùng ngày Chủ Nhật chấm dứt. Giáo dân lũ lượt kéo nhau ra về. Có những ông bà già<br />
đi chầm chậm, vừa đi vừa dìu nhau. Có những cặp vợ chồng trẻ, dắt díu mấy con nhỏ, khuôn mặt sáng<br />
ngời, thủ thỉ chuyện trò. Có những thanh niên, thiếu nữ quàng tay qua lưng nhau, mặt nhìn mặt say sưa,<br />
đắm đuối.<br />
Cha Dominic Lê Thanh Liêm cứ mặc nguyên áo lễ ra đứng trước thềm nhà thờ, tươi cười bắt<br />
tay tiễn chào các giáo dân. Có người đoán Cha Dominic năm nay chừng 27 hay 28 tuổi. Cha cao lớn<br />
hơn bât cứ người Việt nào trong giáo sứ này. Với vừng trán rộng, cặp lông mày rậm, đôi mắt sáng<br />
trong, nước da trắng ngà và mái tóc đen rẽ ngôi giữa, Cha Dominic giống như một tài tử màn bạc hơn<br />
là một linh mục.<br />
Một vài người đàn ông khi đi qua chỗ Cha đang đứng, dừng lại bắt tay Cha Dominic như những<br />
cái máy, nhắc lại những lời chúc tụng mà cha đã nghe cả trăm lần:<br />
- Chúc Cha nghỉ ngơi cuối tuần vui vẻ.<br />
Một số người khác, nắm chặt tay cha vài ba phút, trò chuyện thân mật về những chuyến du lịch,<br />
hay việc học hành của con cái. Có vài ba cô thấy cha cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai thì lợi dụng những lúc<br />
này đến ôm chầm lấy cha, như thể gặp lại được người thân sau nhiều năm xa cách. Một cô táo bạo ghé<br />
vào tai cha nói nhỏ:<br />
- Cha đẹp trai như thế mà đi tu, uổng quá cha ơi!<br />
Cha Dominic đã quen với những thử thách này. Cha không phải là người để các cô có thể bắt<br />
nạt được. Cho nên một hôm trong bài giảng ngày Chủ Nhật Cha đã bắt đầu như thế này:<br />
- Có một số giáo dân nghĩ rằng những người đi tu là những người khổ hạnh, thất bại trên đường<br />
đời, nhất là về tình duyên. Để trả lời chung cho quí vị này, tôi xin mượn hai câu thơ sau đây:<br />
“Ai bảo đi tu là khổ<br />
“Đi tu sướng lắm chứ.”<br />
Cử toạ phá lên cười. Cha Dominic nói tiếp:<br />
- Quí vị ai cũng có một gia đình. Một linh mục như tôi thì có cả trăm gia đình. Ai trong giáo sứ<br />
này cũng là người thân của tôi, là anh, là chị, là em tôi, là cô, là chú, là bác tôi.<br />
Mọi người nghe mà cảm động.<br />
Cha Dominic vồn vã, thân thương với mọi người. Cha có cách ăn nói duyên dáng, dí dỏm dễ<br />
gây cảm tình với người đối thoại.<br />
Nhưng tất cả những cái đó chỉ là một lớp sơn hào nhoáng bên ngoài. Ít ai thấu hiểu được cái<br />
buồn mênh mang tràn ngập tâm hồn Cha Dominic khi Cha ở một mình. Sau khi người giáo dân cuối<br />
cùng ra khỏi khuôn viên nhà thờ, Cha Dominic trở lại giáo đường, yên lặng đóng cửa, cài then. Cha<br />
bỗng thấy lòng buồn tê tái. Tất cả chung quanh đều yên lặng hoàn toàn. Quay nhìn tứ phía, Cha chỉ<br />
thấy cây thánh giá trên bàn thờ và những hàng ghế lớp lớp trống trơn. Không có một ai để Cha trò<br />
chuyện. Không một ai hỏi han Cha.<br />
Cha biết đám giáo dân của Cha sẽ về nhà quây quần quanh bàn ăn, với những món ăn ngon,<br />
nóng hổi, chuyện trò, đùa cợt với nhau. Những người khác có lẽ sẽ đi ăn tiệm. Nhưng ở đâu họ cũng<br />
cười nói, vui vẻ yêu đời.<br />
Các linh mục khác cũng đã đi thăm cha mẹ, chú bác, anh chị em xa gần. Riêng cha Dominic<br />
không có thân thuộc nào để thăm hỏi. Cha hoàn toàn đơn độc. Cha chỉ nhớ lờ mờ rằng khi còn thơ ấu,<br />
Cha cũng sống trong một gia đình có bố mẹ và nhiều người anh. Cha nhớ Cha cũng được thương yêu,<br />
được ăn no, mặc ấm, được chơi đùa với các anh. Cha nhớ tên Cha lúc đó là Liêm – Lê Thanh Liêm
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 6<br />
Rồi một hôm tất cả những cảnh vui đẹp đó bỗng biến mất. Chú bé Liêm sực tỉnh dậy khi nghe<br />
như có tiếng súng nổ. Có tiếng gọi, tiếng đập cửa, tiếng những người hàng xóm la thất thanh, tiếng còi<br />
hụ của xe cảnh sát hay xe cứu thương. Còn gì nữa xảy ra sau đó, Cha không nhớ. Có lẽ khoảng thời<br />
gian đó quá đau thương nên đã bị xoá mờ đi trong tiềm thức. Ồ mà hình như có ai mang cậu bé Liêm<br />
đến một nơi khác, đến nhà Cô Hường. Ít lâu sau, người ta đưa Liêm đến nhà một người khác tên là Chú<br />
Lân. Ở đâu Liêm cũng chỉ cảm thấy như người ngoài, không ai thực sự săn sóc đến Liêm. Những lúc<br />
vui buồn, Liêm chẳng biết chia sẻ cùng ai.<br />
Một buổi sáng, chú Lân nói với Liêm:<br />
- Chú vừa mất việc. Chú phải sang nhà người quen ở nhờ. Chú không mang cháu theo được.<br />
Chiều nay cơ quan xã hội sẽ đưa cháu đến ở nhà bố mẹ đỡ đầu cho cháu. Chú đã sắp sẵn quần áo cho<br />
cháu ở trong sách tay này.<br />
Rồi chú Lân lấy ở trong túi áo ra một tấm hình mầu, đưa cho Liêm:<br />
- Đây là tấm hình duy nhất của gia đình cháu mà chú còn giữ được. Chú cho cháu để cháu giữ<br />
làm kỷ niệm.<br />
Liêm trông vào tấm ảnh và nhận ra mọi người : Bố Liêm, mẹ Liêm và bốn anh em Minh,<br />
Hoàng, Thứ và Liêm. Tất cả đều tươi cười. Nhưng tất cả bỗng biến đi đâu mà giờ này chỉ còn một mình<br />
Liêm ở đây. Liêm không hỏi chú Lân vì Liêm biết chú Lân sẽ không nói, cũng như cô Hường đã không<br />
nói cho Liêm biết.<br />
Rồi Liêm nghĩ ra: Tất cả đã chết. Liêm nhớ cô Hường có bế Liêm đến nhà thờ. Liêm đã thấy<br />
bốn cái hòm. Liêm hiểu lờ mờ rằng những hòm đó dùng cho người chết.<br />
Thời gian qua đi. Liêm được chuyển từ cha mẹ đỡ đầu này đến cha mẹ đỡ đầu khác. Liêm vừa<br />
làm quen được vài người bạn trong xóm thì lại phải thay đổi chỗ ở, lại phải khởi sự với con số không.<br />
Có những cha mẹ đỡ đầu hay la lối làm Liêm sợ xanh mặt. Có những cha mẹ đỡ đầu thờ ơ, cả ngày<br />
chẳng nói một câu với Liêm. Để tìm quên lãng, Liêm đã vùi đầu vào với sách vở hay các môn thể thao.<br />
Năm mười bốn tuổi, Liêm được đưa đến ở với ông bà Miller, một gia đình công giáo. Thấy<br />
Liêm ham học, ông bà Miller cho Liêm vào học trường Đạo. Các nữ tu dạy ở trường khuyến khích<br />
Liêm học để làm linh mục. Ở lớp nào Liêm cũng được thày yêu, bạn mến. Học hết trung học, Liêm học<br />
thêm tám năm nữa mới đủ điều kiện làm linh mục. Bốn năm đầu Liêm học các môn như các sinh viên<br />
đại học khác. Bốn năm sau, Liêm học các môn thần học, lịch sử giáo hội, tâm lý, xã hội, nói trước công<br />
chúng. Liêm học cách quản trị một giáo sứ và thực tập làm linh mục.<br />
Liêm vui tươi, hăng hái trong giờ học bao nhiêu thì Liêm càng cảm thấy cô đơn hơn khi về<br />
phòng riêng bấy nhiêu. Mọi người chung quanh ai cũng ngong ngóng mong đến ngày lễ, ngày nghỉ.<br />
Riêng môt mình Liêm sợ những ngày nghỉ và ngày cuối tuần vì đây là lúc mà cái cô đơn của Liêm hiện<br />
rõ hơn bao giờ hết. Có những lúc thèm khát một gia đình, Liêm lại lấy tấm ảnh mà chú Lân cho ra xem.<br />
Liêm tưởng tượng nếu những người trong tấm ảnh còn sống thì giờ này chắc họ sẽ lấy làm hãnh diện<br />
về những thành quả của Liêm. À mà biết đâu Liêm chẳng thuyết phục được một người anh của Liêm<br />
vào học làm linh mục như Liêm.<br />
Năm hai mươi sáu tuổi, Liêm thụ phong chức linh mục. Ngày lễ thụ phong, Liêm đã mời ông bà<br />
Miller và các nữ tu ở trường cũ đến dự. Bây giờ mọi người không gọi Liêm bằng tên riêng nữa. Ai cũng<br />
gọi Liêm là Cha Dominic. kể cả Đức Tổng Giám Mục.<br />
Cha Dominic được cử về làm việc như một phó tế ở Giáo Sứ Saint Bridget này là nơi có nhiều<br />
giáo dân người Việt. Cha bận rộn suốt ngày. Cha dậy từ năm giờ sáng để làm thánh lễ, ngày thường<br />
cũng như ngày Chủ Nhật. Cha phải soạn bài giảng trong các thánh lễ, phải dạy giáo lý cho những người<br />
muốn trở lại đạo, và nhiều việc không tên nữa. Cũng như ngày còn đi học, Cha Dominic bỏ cả tâm trí<br />
vào từng việc, dù lớn hay nhỏ. Nhưng trong tất cả các nhiệm vụ mà Cha phải gánh vác, nhiệm vụ đem<br />
lại cho Cha nhiều an ủi, sảng khoái tinh thần có lẽ là nhiệm vụ ngồi toà giải tội trước mỗi thánh lễ hay<br />
từ ba giờ đến năm giờ chiều ngày Thứ Sáu.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 7<br />
Cha Dominic còn nhớ ngày Cha đi xưng tội lần đầu khi được mười lăm tuổi. Lúc đó Cha còn là<br />
cậu học sinh tên Liêm. Khi bước đến trước cửa phòng giải tôi, Liêm kính cẩn quì xuống, chờ đợi. Có<br />
tiếng người từ sau màn che màu đen hỏi:<br />
- Con xưng tôi lần cuối cùng là bao giờ?<br />
Liêm run run thưa:<br />
- Đây là lần đầu tiên con đi xưng tội. Xin cha giúp con xét mình.<br />
Tiếng người sau màn che nhỏ nhẹ:<br />
- Để cha giúp con. Con cứ thành thật mà trả lời những câu hỏi của cha. Con có thờ phụng một<br />
thánh thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời ra không?<br />
- Dạ. Không.<br />
- Con có kính mến bố mẹ con không?<br />
- Con không biết, vì con không có bố mẹ<br />
- Con có ăn gian, nói dối không?<br />
- Dạ. Không.<br />
- Con có giết người không?<br />
- Chắc chắn là không.<br />
- Con có ham muốn vợ chồng người khác không?<br />
- Dạ. Cũng không. Nhưng đêm qua con bị xuất tinh ướt cả quần. Con không biết trong khi ngủ<br />
con có mơ điều gì xấu xa không.<br />
- Con có đọc những sách mà Hội Thánh cấm đọc không?<br />
- Con đọc những sách mà các thày giáo bảo con phải đọc. Con cũng đọc những sách khác mà<br />
con thích tuy các thày không đòi hỏi con phải đọc. Con không biết sách nào là sách mà Hội Thánh cấm<br />
đọc.<br />
- Con đã thành thật trả lời những câu hỏi của cha. Cha tha tội cho con nhân danh Đức Chúa<br />
Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần. Con hãy ra về bình an và đọc năm kinh Lạy Cha và<br />
năm kinh Kính Mừng.<br />
Liêm đứng lên ra về, lòng tràn trề một niềm hoan hỉ. Liêm cảm thấy Liêm là một con người<br />
hoàn toàn mới, trong trắng, thanh khiết, không vướng một chút bụi trần gian, Liêm cảm thấy như mình<br />
có thể bay bổng lên không được.<br />
Bây giờ thì Cha Dominic là người ngồi sau màn che, lắng nghe những lời xưng tội của các con<br />
chiên. Ngồi đây Cha Dominic cảm thấy Hội Thánh La-Mã đã ban cho các linh mục một quyền lực quá<br />
lớn lao, được đòi hỏi tất cả các con chiên, từ những người già cả trăm tuổi đến các thiếu nhi vừa chịu<br />
phép Thêm Sức, tất cả mọi con chiên - từ những người cao uy quyền thế đến những kẻ vô danh, tiểu<br />
tốt - phải đi xưng tội với một linh mục, ít nhất là mỗi năm một lần. Quì trước toà giải tội, người ta thổ<br />
lộ ra những bí ẩn đã chôn sâu tận đáy lòng, những bí ẩn mà người ta không dám nói ra với ai, kể cả<br />
những người thân yêu nhất như bố, mẹ, anh, chị, em ruột thịt, không hẳn vì người ta mong được lên<br />
Thiên Đàng hay sợ sẽ bị đày xuống Địa Ngục mà vì bị lương tâm cắn rứt.<br />
Cái lương tâm ở trong mỗi người, ngay cả những người cả đời chưa bao giờ đi nhà thờ hay đi lễ<br />
chùa, ngay cả ở những người chưa bao giờ đọc sách về luân thường, đạo lý, làm Cha Dominic tin tưởng<br />
rằng Thượng Đế đã đặt sẵn lương tâm đó ở sâu trong tâm hồn mỗi người.<br />
Cha Dominic còn nhớ có xem trên TiVi một chuyện xảy ra ở Philadelphia, Pennsylvania. Cảnh<br />
sát được tin có một người đàn ông chết, nằm ở góc Đường Walnut và Đường 52. Khi đến nơi, cảnh sát<br />
đã khám phá ra là người đàn ông đó có tên là George, một người vô gia cư, sống lăn lóc ở đầu đường,<br />
xó chợ quanh khu này mà ai cũng biết. George đã tự vẫn bằng cách lấy dao nhọn đâm vào tim. Có điều<br />
lạ là trước khi tự vẫn, George đã cắt đầu ngón tay lấy máu viết lên tường một câu vắn tắt: “I am sorry”<br />
(Tôi ân hận). Cảnh sát không hiểu anh ta ân hận về cái gì mà tự vẫn.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 8<br />
Một giờ sau, cảnh sát lại được tin báo có một án mạng cách đó chừng hai dặm. Một người đàn<br />
bà tám mươi hai tuổi tên là Jackie Lawson bị đâm chết. Phòng ngủ của bà ấy bị lục lọi tung toé, chứng<br />
tỏ đã có kẻ gian vào tìm tòi tiền bạc. Dấu tay còn đẫm máu in trên cửa và lối ra vào cho thấy kẻ giết bà<br />
Jackie Lawson chính là George. Những người ở khu đó cho cảnh sát biết bà Jackie Lawson là mẹ nuôi<br />
của George trong nhiều năm qua. George ở với bà ấy được ít lâu rồi lại bỏ đi lang thang. Khi khốn khổ<br />
quá thì lại mò về xin tiền hay đồ ăn. Lần này chắc là bà Jackie Lawson không có tiền cho hắn nên hắn<br />
nổi sùng mà giết bà ấy. Nhưng khi nguôi cơn giận thì George đã hối hận và tự vẫn luôn. Một người như<br />
George mà còn biết hối hận thì đủ chứng tỏ rằng anh ta cũng có một lương tâm.<br />
Cha Dominic đã thấy có nhiều con chiên đến xưng tội, trút bỏ được những u sầu, ân hận chứa<br />
chất trong lòng từ bao lâu, khi được giải tội ra về thì vui tươi, hớn hở, như người chết sống lại. Đây là<br />
niềm hân hoan, đây là niềm an ủi nhất cho Cha trong nhiệm vụ một linh mục.<br />
Cũng có những con chiên đến xưng tội một cách ngớ ngẩn hay không thực lòng ăn năn. Một<br />
thiếu nữ đã xưng tội như thế này:<br />
- Thưa cha, con đã phạm tội dâm đãng.<br />
Cha Dominic hỏi:<br />
- Con phạm tôi dâm đãng như thế nào?<br />
- Thưa Cha. Con đi xe đạp, yên xe đè vào cửa mình con và con thấy bị khích động tình dục.<br />
Cha Dominic hỏi:<br />
- Năm nay con bao nhiêu tuổi?<br />
- Năm nay con mười bảy tuổi.<br />
Cha Dominic muốn nói “Ở cái tuổi mười bảy mà đôi khi con cảm thấy bị khích động về tình<br />
dục thì là chuyện tự nhiên. Nếu con không bao giờ cảm thấy bị khích động về tình dục thì mới là điều<br />
lo ngại.” Nhưng Cha chỉ nói vắn tắt:<br />
- Cha tha tội cho con nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Con<br />
ra về bình an và đọc ba kinh Lạy Cha và ba kinh Kính Mừng.<br />
Một lần khác, một bà đến xưng tội nói:<br />
- Thưa Cha, con mắc tội gian tham của người. Con đi chợ, mua đồ ăn hết sáu mươi hai đô-la.<br />
Con đưa giấy một trăm đô-la mà người bán hàng thối lại cho con tám mươi tám đô-la. Con biết người<br />
ta nhầm mà cứ lờ đi. Bây giờ con ân hận quá.<br />
Cha Dominic nói<br />
- Cha tha tội cho con nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần với<br />
điều kiện trong vòng một tuần lễ con phải mang trả lại số tiền dư cho người bán hàng kia. Con ra về<br />
bình an và đọc năm kinh Lạy Cha và năm kinh Kính Mừng.<br />
Bà kia ra về vẻ mặt buồn thiu.<br />
Ngày Thứ Năm trước Lễ Phục Sinh là ngày nhiều người đi xưng tội nhất trong năm. Cha<br />
Dominic thấy có đến năm sáu chục người, già, trẻ, lón bé đứng xếp hàng để chờ đến lượt vào xưng tội.<br />
Có những người đã xét mình kỹ lưỡng và sửa soạn sẵn những lời để mô tả tội lỗi của mình, Cha<br />
Dominic yên lặng nghe và thỉnh thoảng “ừ, ừ” , “à, à” để chứng tỏ Cha đang lắng nghe. Cuối cùng Cha<br />
nhắc lại câu thường lệ:<br />
- Cha tha tội cho con nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Con<br />
ra về bình an và đọc ba kinh Lạy Cha và ba kinh Kính Mừng.<br />
Có những con chiên khác vào xưng tội mà nói vòng vo, đầu không ra đầu, cuối không ra cuối,<br />
làm Cha Dominic phải hỏi đi, hỏi lại mà vẫn không hiểu. Nhưng Cha không thể mất thì giờ về một<br />
người để những người khác phải chờ đợi quá lâu. Cha đành chấm dứt người đó bằng câu thường lệ:<br />
- Cha tha tội cho con nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Con<br />
ra về bình an và đọc ba kinh Lạy Cha và ba kinh Kính Mừng.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 9<br />
Sau hơn hai giờ ngồi trong toà giải tội, Cha Dominic bắt đầu thấy bồn chồn, mệt mỏi. Cha chỉ<br />
mong cho chóng đến người cuối cùng để Cha được về nghỉ ngơi ít phút. Một người đàn bà đến quì<br />
trước toà giải tội. Cha Dominic hỏi:<br />
- Còn mấy người đứng đợi đàng sau con?<br />
Người đàn bà thưa:<br />
- Con là người cuối cùng.<br />
Cha Dominic thở phào. Cha nói:<br />
- Con có thể bắt đầu.<br />
Người đàn bà tiếng run run nói:<br />
- Con xưng tội lần cuối cùng cách đây hơn hai mươi năm. Con đã phạm tội ngoại tình và tội giết<br />
người.<br />
Cha Dominic ngồi thẳng mình lên:<br />
- Con hãy nói cặn kẽ cho Cha nghe.<br />
Người đàn bà sụt sùi nói tiếp:<br />
- Ngày ấy con ba mươi sáu tuổi. Con trẻ, đẹp. Con có chồng và bốn đứa con trai. Chồng con<br />
làm nghề sửa máy lạnh. Con làm thợ cắt tóc ở tiệm Hair Cuttery. Gia đình chúng con sống sung túc,<br />
hạnh phúc ở Thành Phố San Augustine, Texas. Một hôm có một thanh niên đến cắt tóc. Thấy con là<br />
anh ấy tỏ lòng say mê, quyến luyến ngay. Anh ấy tên là John Yates, một kỹ sư vừa tốt nghiệp, đang làm<br />
với hãng General Electirc, có văn phòng gần tiệm cắt tóc Hair Cuttery. Mỗi lần đến cắt tóc là anh ấy<br />
mang quà đến tặng con. Khi thì hộp kẹo sô-cô-la, khi thì cái khăn quàng cổ, khi thì lọ nước hoa. Rồi<br />
chúng con yêu nhau vụng trộm, hẹn hò lúc đi ăn trưa. Có những ngày cuối tuần, con nói dối chồng con<br />
là con phải đi làm giờ phụ trội, rồi đi chơi với người tình của con. Cho đến một hôm Thứ Bảy, con<br />
cũng nói dối chồng con là con đi làm để rồi đi chơi với John ở Busch Garden. Lúc về, đường bị kẹt<br />
cứng vì có tai nạn xe hơi. Con sợ hãi biết là bao. Con biết không thấy con về, chồng con sẽ đến tiệm<br />
Hair Cuttery tìm con rồi sẽ biết là con đã lừa dối anh ấy. Con sợ anh ấy bắn chết con nên con không<br />
dám về nhà. Con vào một motel ở qua đêm để suy tính. John lúc bấy giờ còn ở chung với bố mẹ. Sáng<br />
hôm sau thì TiVi loan tin chồng con đã bắn chết mấy đứa con rồi tự tử theo. Con hoảng hốt bỏ trốn lên<br />
vùng này vì con sợ bị cảnh sát bắt và bị bà con sỉ vả. Con cũng không có can đảm nào mà về để nhìn<br />
thấy cảnh gia đình tan rã do con gây ra. John cũng sợ bị liên luỵ nên không liên lạc với con nữa. Ít lâu<br />
sau thì con kiếm được việc làm lau chùi nhà cửa và nấu ăn trong một tu viện của các nữ tu dòng Mân-<br />
Côi cách đây mười hai dặm. Con âm thầm về thăm mộ chồng con và các con con mấy tháng sau đó.<br />
Con khóc lóc và quì ở đó cả giờ để khấn vái, xin chồng con và các con con tha thứ cho con. Con nhận<br />
ra là một trong số bốn đứa con con, có một đứa thoát chết vì con chỉ thấy có bốn nấm mồ. Suốt hơn hai<br />
mươi năm qua, không một ngày nào mà con không nghĩ đến cái thảm cảnh gia đình do con gây ra và<br />
đứa con còn sống sót. Nào biết nó lang bạt về đâu, bơ vơ một mình, không một người thân yêu.<br />
Cha Dominic thay đổi cách xưng hô, hỏi:<br />
- Bà có muốn tìm đến đứa con còn sống sót đó không?<br />
Người đàn bà suy nghĩ một giây rồi thưa:<br />
- Con có biết nó ở đâu đâu mà tìm. Con cũng không biết nó có muốn gặp lại con không. Làm<br />
sao con có thể nói cho nó biết vì tội lỗi của con mà cái gia đình đầm ấm của nó tan tành.<br />
Cha Dominic hỏi tiếp:<br />
- Vậy bà còn có ước nguyện gì nữa không?<br />
Người đàn bà suy nghĩ vài giây rồi nói:<br />
- Con chỉ ước sao con tìm được một tấm ảnh gia đình chụp lúc chúng con còn có nhau để con<br />
được nhìn lại mặt người chồng suốt đời cặm cụi lo cho gia đình mà con đã phản bội, để con được nhìn<br />
thấy mặt những đứa con trai kháu khỉnh mà con đã sô đẩy vào chỗ chết.<br />
Cha Dominic, nước mắt chảy ròng ròng, mở cửa toà giải tội, bước ra. Người đàn bà giật bắn
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 10<br />
mình, quay lại, mặt tái xanh. Cha Dominic tiến đến, oà lên khóc, vụng về đưa hai tay để lên vai người<br />
đàn bà, nói qua nước mắt:<br />
- Mẹ ơi. Con là Liêm, đứa con còn sống sót của mẹ đây.<br />
Người đàn bà lùi lại, lắc đầu, không dám tin. Cha Dominic suy nghĩ một giây, rồi đưa tay vào<br />
túi áo lấy ra một tấm ảnh, đưa cho người đàn bà:<br />
- Đây là tấm ảnh gia đình mà Chú Lân cho con. Mẹ có nhận ra những người trong ảnh này<br />
không?<br />
Người đàn bà nhìn tấm ảnh, rồi oà lên khóc, chân tay run rẩy, gục xuống chân Cha Dominic:<br />
- Lạy Chúa tôi. Vậy Cha thật là Liêm. Cha là,..cha là.. người còn sống sót. Xin Cha, ..xin con<br />
tha tội cho mẹ.<br />
Cha Dominic cúi xuống nâng người đàn bà đứng lên:<br />
- Chuyện đã xảy ra hai mươi năm rồi, khi mẹ còn trẻ người, non dạ, khi mẹ bị quyến rũ. Mẹ đã<br />
ăn năn, hối hận suốt hơn hai mươi năm qua. Thế cũng đủ rồi. Con xin Chúa Ba Ngôi tha thứ mọi tội lỗi<br />
cho mẹ.<br />
Rồi Cha Dominic làm dấu Thánh Giá trên mặt mẹ.<br />
Người đàn bà cúi xuống làm dấu Thánh Giá và lẩm bẩm:<br />
- Đa tạ ơn Chúa.<br />
Người đàn bà nhìn đồng hồ đeo tay, hoảng hốt:<br />
- Một Sơ cho mẹ quá giang đến nhà thờ. Sơ hẹn sẽ trở lại đón mẹ. Mẹ phải ra cổng nhà thờ ngay<br />
cho kịp giờ của Sơ.<br />
Cha Dominic đi cùng người đàn bà ra cổng nhà thờ, vừa đi vừa nói:<br />
- Con biết chỗ ở của mẹ rồi. Con sẽ đến tìm mẹ sau.<br />
Người đàn bà thấy chiếc xe đậu ngay sát cổng nhà thờ và chạy vội ra. Cha Dominic đứng đó<br />
nhìn theo cho đến khi chiếc xe khuất sau cuối phố. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 11<br />
Khi Ti‰ng Anh<br />
NhuÓm Màu ñÎa PhÜÖng<br />
ñàm Trung Pháp<br />
Mời ăn “rắn trong lỗ” hay sao đây?<br />
Từ nhiều năm nay tôi thường có một số sinh viên quốc tế theo học lớp ngữ học giáo dục (educational<br />
linguistics) tôi phụ trách tại Texas Woman’s University. Cách nói và viết tiếng Anh khá đặc thù của họ<br />
đã kích thích tính tò mò của tôi và thúc đẩy tôi tìm hiểu thêm về những dạng thức khác nhau của tiếng<br />
Anh ngày nay trên thế giới. Đôi khi tôi thắc mắc và tự hỏi liệu những người nói tiếng Mỹ “tiêu chuẩn”<br />
như quý bạn và tôi có khó khăn gì không khi giao dịch với những người nói tiếng Anh loại này, chẳng<br />
hạn trong trường hợp giả dụ rất có thể xảy ra dưới đây?<br />
Chúng ta đang dự một buổi tiếp tân tại một khách sạn bên Ấn Độ, quê hương của biết bao thứ<br />
mãng xà, và bất chợt nghe vị MC bản xứ dõng dạc nói qua máy vi âm điều gì nghe như thể “Snakes<br />
are now in the hole, please serve yourself!” thì chắc chắn chúng ta sẽ chới với. Khiếp thế, cho ăn món<br />
gì đây? Hổ mang hoa, rắn đeo kính chăng? Thưa không phải như vậy đâu, may thay! Sự hiểu lầm này<br />
xảy ra chỉ vì cách phát âm độc đáo của Anh ngữ Ấn Độ mà thôi. Trong phương ngữ này, người ta giảm<br />
bớt đi một số mẫu âm bằng cách “giết hai con chim bằng một hòn đá”, và vì vậy hai chữ “snack” và<br />
“snake” chứa đựng hai mẫu âm khác nhau một trời một vực đều được phát âm là “snake.” Hai mẫu âm<br />
khác nhau trong chữ “hall” và chữ “hole” cũng cùng chịu chung một số phận ấy, và cùng được phát âm<br />
là “hole”! Thứ tiếng Anh này cũng có một số từ vựng độc đáo, như “co-brother” và “co-sister” chẳng<br />
hạn, ý nghĩa tương đương với “anh em cột chèo” và “chị em dâu” trong ngôn ngữ chúng ta. Quý bạn<br />
nào tôn trọng ngữ pháp tiêu chuẩn trong tiếng Anh, tiếng Mỹ sẽ không khỏi chau mày khi thấy người<br />
nói Anh ngữ Ấn Độ sử dụng các “thời” trong động từ theo quy luật riêng lạ kỳ của nó, như trong hai thí<br />
dụ điển hình sau đây: “We are here since yesterday” (thay cho We have been here since yesterday) và<br />
“<strong>The</strong>y’ve been here 20 years ago” (thay cho We were here 20 years ago). Xin nhớ là những người này<br />
rất có học và sử dụng Anh ngữ Ấn Độ tiêu chuẩn đấy!
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 12<br />
Lingua franca hoàn vũ<br />
Thực khó mà coi nhẹ vai trò tiếng Anh ngày nay trên thế giới. Tiếng Anh hiện được coi là một “lingua<br />
franca” tức là thứ tiếng dùng chung của hằng hà sa số những người không nói cùng một thứ tiếng mẹ<br />
đẻ. David Crystal (1996) ước lượng số người sử dụng tiếng Anh trong 3 khối nhân loại tượng trưng<br />
bằng 3 vòng tròn đồng tâm lan rộng ra như sau: (1) “Vòng tròn trong cùng” gồm những xứ mà đại đa<br />
số dân chúng nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ, như Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi, Úc Đại Lợi, vân vân, có<br />
khoảng từ 320 đến 380 triệu người; (2) “Vòng tròn ngoài” gồm những xứ mà dân chúng sử dụng tiếng<br />
Anh từ lâu như Ấn Độ, Tân Gia Ba, Ghana, vân vân, có khoảng từ 150 đến 300 triệu người; và (3)<br />
“Vòng tròn lan rộng” gồm những xứ như Trung Hoa, Nga, Việt Nam, vân vân, có khoảng từ 100 triệu<br />
đến 1 tỷ người.<br />
Như vậy, con số người nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ nhỏ hơn con số người dùng nó như một<br />
thứ ngôn ngữ thứ hai rất nhiều. Tổng cộng, tối đa có cả thẩy 1 tỷ 680 triệu người hiện dùng tiếng Anh<br />
trên thế giới. Đúng như lời tiên đoán vào năm 1780 của Tổng Thống John Adams (1735-1826) rằng<br />
tiếng Anh sẽ là ngôn ngữ được nể vì nhất trên thế giới và sẽ được đọc và nói nhiều nhất hoàn vũ trong<br />
những thế kỷ kế tiếp.<br />
Hiện tượng bản xứ hóa<br />
Hiển nhiên khi tiếng Anh lan tràn đến một nơi xa lạ, nó sẽ không thoát khỏi ảnh hưởng tiếng nói của<br />
người địa phương, trong tiến trình bản xứ hóa. Hiện tượng trăm hoa đua nở này đã mang lại nhiều<br />
dạng thức khác nhau cho tiếng Anh, đến nỗi ngày nay các nhà nghiên cứu đã dùng số nhiều cho danh từ<br />
“English” cho tập thể “the Englishes of the world”! Hai yếu tố thường được chú ý nhiều nhất trong<br />
hiện tượng bản xứ hóa là phát âm và từ vựng. Bằng phương cách đối chiếu, các nhà nghiên cứu có thể<br />
phát hiện và hệ thống hóa những khác biệt đặc thù giữa tiếng Anh tiêu chuẩn và tiếng Anh bản xứ hóa.<br />
Nhưng thế chưa đủ, vì tiến trình này còn phản ánh vài yếu tố sáng tạo khác, như sự giản dị hóa cú pháp<br />
hoặc sự sử dụng những phương thức tu từ cá biệt của các ngôn ngữ địa phương liên hệ.<br />
Các loại Anh ngữ địa phương hóa (và nay đã qui củ hóa) tại Đông và Tây Phi Châu, Ấn Độ, Tân<br />
Gia Ba, Phi Luật Tân, vân vân, đều cho giảm đi con số âm vị (phonemes) của tiếng Anh tiêu chuẩn,<br />
bằng cách “sáp nhập” các âm vị tương đối giống nhau (vì chúng ở các vị thế phát âm kế cận) vào làm<br />
một. Đáng kể nhất trong khuynh hướng đại đồng này là việc sáp nhập các mẫu âm trong các cặp chữ<br />
“eat” và “it”, “pool” và “pull”, “hole” và “hall”; và các tử âm trong các cặp chữ “see” và “she”, “den”<br />
và “then”, “tick” và “thick”. Các cặp chữ vừa kể này với phát âm khác biệt trong tiếng Anh tiêu chuẩn<br />
nay trở thành đồng âm. Tiếng Anh nói tại Đông Phi Châu (trong các quốc gia Kenya, Tanzania, và<br />
Uganda) đã cho sáp nhập hoặc đồng hóa nhiều âm vị Anh ngữ tiêu chuẩn nhất. Tại đây nhiều người còn<br />
không phân biệt được cách phát âm hai tử âm trong cặp “lice” và “rice” và cũng cho đồng hóa các tử<br />
âm trong ba chữ “sue”, “shoe”, và “chew”, tức là biến cả ba chữ ấy thành đồng âm, với phát âm chung<br />
là “sue.”<br />
Vị trí của âm tiết nhấn mạnh trong một số chữ cũng thay đổi. Chẳng hạn, tại Tây Phi Châu,<br />
người ta nhấn mạnh âm tiết sau cùng của các chữ “congratulate” và “investigate” và âm tiết đầu của<br />
chữ “success.” Anh ngữ Ấn Độ hóa biểu hiện một ngữ điệu (intonation) khá lạ tai do ảnh hưởng của<br />
tiếng Hindi, khiến cho nhiều người không quen với ngữ điệu này rất khó hiểu Anh ngữ Ấn Độ hóa.<br />
David Crystal (1995) có nhắc đến chuyện bà Thủ Tướng Indira Gandhi (một sản phẩm giáo dục của<br />
Đại Học Oxford bên Anh Quốc) đã than phiền với Bộ Giáo Dục trong nội các của bà về những “tiêu<br />
chuẩn đi xuống” của tiếng Anh tại Ấn Độ, sau khi bà không hiểu nổi lời phát biểu bằng tiếng Anh của<br />
người đại diện Ấn Độ tại một hội nghị quốc tế!<br />
Từ vựng đương nhiên là một đặc thù của các Anh ngữ địa phương hóa. Nhiều từ ngữ được lấy
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 13<br />
thẳng từ ngôn ngữ địa phương, như “askari” (cảnh sát viên), “chai” (trà), “kibanda” (chợ đen) trong<br />
Anh ngữ Đông Phi Châu; “crore” (mười triệu), “durzi” (thợ may), “sahib” (chủ nhân), “gherao” (phản<br />
đối một cá nhân bằng cách không cho người ấy ra khỏi văn phòng) trong Anh ngữ Ấn Độ; “koon”<br />
(ngủ), “tolong” (giúp), “chope” (dành trước) trong Anh ngữ Tân Gia Ba; và “boondock” (núi),<br />
“carabao” (trâu nước) trong Anh ngữ Phi Luật Tân. Những từ vựng địa phương này có được thế giới để<br />
ý đến hay không là tùy thuộc vào tầm quan trọng ý nghĩa của chúng. Vì vậy, trong tiếng Anh Nam Phi<br />
Châu, “apartheid” (chính sách phân chia chủng tộc tại Cộng Hòa Nam Phi) và “impala” (một loại linh<br />
dương tại Nam Phi Châu chạy rất nhanh) đã gia nhập từ vựng trong đại gia đình Anh ngữ, trong khi<br />
“dorp” (làng nhỏ) và “bredie” (một món thịt hầm) thì ít người biết đến. Những từ vựng địa phương nào<br />
mà đã có những tương đồng trong tiếng Anh tiêu chuẩn thì thường bị bỏ qua, như trường hợp “outwith”<br />
(tiếng Anh Tô Cách Lan, tương đương với “outside”) và “godown” (tiếng Anh Ấn Độ, tương đương với<br />
“warehouse”).<br />
Một số từ vựng Anh ngữ tiêu chuẩn khi địa phương hóa đã thay đổi ý nghĩa, hoặc có thêm ý<br />
nghĩa nới rộng, hoặc được canh tân hình thức với ý nghĩa mới, như trong các thí dụ sau đây. Trong Anh<br />
ngữ Ấn Độ, colony = residential area, hotel = restaurant / café, police firing = shooting by police,<br />
cousin-sister = female cousin, co-brother = wife’s sister’s husband, Eve-teasing = harassment of<br />
women, Himalayan blunder = grave mistake. Trong Anh ngữ Tây Phi Châu, balance = change (money<br />
returned to a customer), bluff = dress fashionably, hot drink = liquor, hear = understand, take in =<br />
become pregnant.<br />
Những biến thiên của cú pháp Anh ngữ tiêu chuẩn cũng đáng kể trong các Anh ngữ địa phương<br />
hóa. Sau đây là một số kỳ hoa dị thảo nổi bật. Tại Tân Gia Ba, người ta dùng thành ngữ tân lập “use to”<br />
(thời hiện tại) để diễn tả một thói quen: “I use to go shopping on Mondays” (thay cho I usually go<br />
shopping on Mondays). Nhóm chữ “can or not?” được dùng ở cuối một câu nói để người nghe phải<br />
xác nhận hoặc phủ nhận sự chính xác của câu nói đó: “She wants to go, can or not?” Điều này xảy ra<br />
tôi đoán là do ảnh hưởng trực tiếp của tiếng Hán, trong đó “năng bất năng?” là nhóm chữ tương đương<br />
về ý nghĩa và vị trí với “can or not?” được sử dụng phổ thông. Và người ta cũng dùng chữ “la” (hẳn là<br />
do chữ “liễu” trong tiếng Hán mà ra) như một tiểu từ trong câu nói để diễn đạt sự xuề xòa, thân thuộc:<br />
“Please la come to the party!” Tiếng Anh bên Ấn Độ sử dụng “isn’t it?” (với nghĩa “phải không?”) cho<br />
tất cả mọi câu nói để biến chúng thành các câu hỏi chẳng hạn như các câu “She is going home soon,<br />
isn’t it?” và “You did not pass the test, isn’t it?” Và không kém phần sáng tạo, cú pháp tiếng Anh tại<br />
Tây Phi Châu cho phép một túc từ (“them” trong thí dụ sau đây) được sử dụng trong một mệnh đề phụ<br />
bắt đầu bằng một đại từ quan hệ (“whom” trong thí dụ sau đây), mặc dù túc từ đó không cần thiết: “<strong>The</strong><br />
guests whom I invited them have arrived.” Phương ngữ này cũng không phân biệt ý nghĩa giữa đại từ<br />
phản thân “themselves” và đại từ hỗ tương “each other”, và do đó câu “<strong>The</strong>y like themselves” đồng<br />
nghĩa với câu “<strong>The</strong>y like each other.”<br />
Tương lai ra sao?<br />
Trong lịch sử ngôn ngữ loài người chưa có thứ tiếng nào được sử dụng rộng rãi như tiếng Anh ngày nay<br />
trên khắp thế giới. Khó đoán chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Hiện giờ có hai vấn đề mâu thuẫn nhau, đó là<br />
(1) sứ mệnh truyền thông quốc tế của tiếng Anh và (2) bản sắc riêng biệt của các loại tiếng Anh nhuốm<br />
màu địa phương. Sứ mệnh truyền thông quốc tế đòi hỏi yếu tố minh bạch để mọi người cùng hiểu, tức<br />
là một tiêu chuẩn chung mà mọi nơi cùng thỏa thuận về cú pháp, từ vựng, chính tả, phát âm, và quy<br />
ước sử dụng. Một phương ngữ quốc gia của một ngôn ngữ quốc tế đương nhiên phải có bản sắc đặc<br />
thù, cũng trong các lãnh vực cú pháp, từ vựng, chính tả, phát âm, và quy ước sử dụng. Tương lai của<br />
tiếng Anh trong cương vị một quốc tế ngữ tùy thuộc vào mức “hòa giải” giữa hai vấn đề mâu thuẫn vừa<br />
kể. Một hòa giải đại đồng có thể sẽ dẫn tới sự hình thành của một thứ “Anh ngữ tiêu chuẩn thế giới”
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 14<br />
mà David Crystal (1995) mệnh danh là “World Standard English.” <strong>The</strong>o ngữ học gia lẫy lừng danh<br />
tiếng này thì một trong ba điều sau đây có thể xảy ra:<br />
Một phương ngữ quốc gia “nặng ký” có thể được các tổ chức quốc tế hàng đầu dần dần chấp<br />
nhận và trở thành Anh ngữ tiêu chuẩn thế giới. Tiếng Mỹ đã và đang đi những bước dài về hướng này.<br />
Các phương ngữ có thể kết hợp dần dần để trở thành một hình dạng mới, không giống bất cứ<br />
một phương ngữ hiện tại nào. Một thí dụ là loại tiếng Anh nghe thấy trong các hành lang quyền lực của<br />
Âu Châu, mệnh danh “Euro-English.”<br />
Một loại Anh ngữ mới tinh có thể được chế tạo, chỉ nhắm vào những yếu tố quan trọng và hữu<br />
ích nhất trong truyền thông quốc tế. Một thí dụ là lời đề nghị hồi đầu thập niên 1980 cho phát triển một<br />
loại tiếng Anh “hạt nhân” chỉ chứa đựng những yếu tố truyền thông tối cần thiết trong văn phạm và từ<br />
vựng mà thôi. ■<br />
Tài liệu tham khảo<br />
Crystal, D. (1995). <strong>The</strong> Cambridge encyclopedia of the English language. Cambridge, England:<br />
Cambridge University Press.<br />
Crystal, D. (1996). English: <strong>The</strong> global language. Washington, D.C.: U.S. English Foundation.<br />
Kachru, B. (1982). <strong>The</strong> other tongue: English across cultures. Oxford, England: Pergamon Press.<br />
McArthur, T. (2002). <strong>The</strong> Oxford guide to world English. Oxford, England: Oxford University Press.<br />
Trudgill, P., & Hannah, J., (1994). International English. London: Edward Arnold.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 15<br />
Lời mở đầu<br />
RÒng<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang (Thu thÆp và biên soån)<br />
Trải qua bao thế kỷ, Rồng luôn luôn biểu tượng cho sức mạnh và huyền bí. Trong huyền thoại từ Âu<br />
đến Á, Rồng được miêu tả như một giống linh thiêng có khả năng tạo nên sự sợ hãi, hay thờ phục và<br />
kính nể.<br />
Trong thời Trung cổ ở Âu châu, Rồng được miêu tả như một linh vật có thể khạc/thổi ra lửa, và<br />
rất hung dữ làm mọi người khiếp sợ. <strong>The</strong>o huyền thoại Âu châu xuất phát những chuyện truyền kỳ dân<br />
giả liên hệ đến Hy lạp và thần thoại vùng Trung đông và từ lâu trước khi có Ki tô giáo, Rồng Tây Âu<br />
thường miêu tả có đôi cánh. Rồng cũng có thể có hai chân, bốn chân, nhiều chân hoặc không có chân<br />
nào cả. Sau này, Rồng cũng đã từng được miêu tả trong Tân ước với thánh Archangel Michael chiến<br />
thắng được quỷ Satan đội lốt rồng đỏ có bẩy đầu và mười sừng. Rồng cũng là một quái vật có cánh đã<br />
bị thánh George giết chết theo huyền thoại.<br />
Rồng cũng được miêu tả khác nhau và có nhiều giống khác nhau tùy theo nguồn gốc lịch sử:<br />
Rồng có sừng được coi là giống mạnh nhất<br />
Rồng Trời (<strong>The</strong> Celestial Dragon) phù trợ Trái đất và che chở các vị thần<br />
Rồng Trái đất (<strong>The</strong> Terrestial Dragon) cai trị địa cầu<br />
Rồng Thông Linh ( <strong>The</strong> Spiritual/ Divine Dragon) kiểm soát gió và mưa<br />
Rồng Canh gác kho tàng dưới lòng đất (the Treasure/Underground Dragon) canh gác kim quý, bảo vật<br />
Rồng có cánh (<strong>The</strong> Winged Dragon)<br />
Rồng Uốn lượn (<strong>The</strong> Coiling Dragon) sống trên đại dương<br />
Rồng Vàng không có sừng là Rồng thông thái trí tuệ.<br />
Trái với truyền thuyết về Rồng từ thời trung cổ ở Âu châu, bên Á châu những huyền thoại về<br />
Rồng hoàn toàn khác biệt. Phần dưới đây nói về Rồng phương Đông như Rồng Trung hoa, và vài quốc<br />
gia khác như Hàn quốc, Nhật bổn và Việt Nam.<br />
Rồng phương Đông<br />
Người viết đã có dịp thăm viếng Dư viên, Thượng Hải, Trung Hoa vào năm 2003 và nhớ đến bức tường<br />
thành có Rồng chấn giữ. Dư viên là một thắng cảnh nổi tiếng của Thượng Hải (Shanghai). Vườn Dư<br />
viên nằm ở Đông bắc khu vực Trung Hoa cũ, đây là một kiến trúc cổ của Thượng Hải.<br />
Tài liệu cho biết Dư viên được một vị quan nhà Minh (Ming) tên Phan Vân Đoan (Pan Yundua) cho<br />
xây cất từ năm 1559 đến 1578 mới hoàn tất. Phan Vân Đoan xây Dư viên cho thân phụ có nơi vui<br />
hưởng tuổi già. Khi gia đình họ Phan sa sút vì chiến tranh, Dư viên trở nên hoang tàn hư hại. Sau một<br />
thời gian dài trùng tu, Dư viên được mở cửa cho dân chúng vào xem từ năm 1961. Cấu trúc gồm nội<br />
viên và ngoại viên, Dư viên được chia làm sáu khu vực cách biệt nhau bằng năm bức tường. Sáu khu<br />
vực trong Dư viên mang tên Đại Thạch (Grand Rockery), Vạn HoaViên (Ten Thousand Flowers<br />
Pavillon), Điện Báo Xuân (Hall of Heralding Spring), Nội Viên (Inner Garden), Điện Ngọc Hoa (Hall<br />
of Jade Magnificence), và Hồ Sen (Lotus pool). Sáu khu vực phân chia bằng những bức tường rồng.<br />
Mỗi bức tường là đầu rồng và một thân rồng lượn suốt dọc theo bức tường. Tất cả Rồng trên bức tường<br />
thành này chân đều chỉ có 4 móng. Tục truyền rằng khi mới hoàn tất, chân rồng được khắc có 5 móng,<br />
là Rồng của vua chúa (vì chỉ có vua mới được dùng Rồng 5 móng, mặc áo thêu Rồng năm móng; rồng<br />
4 móng và 3 móng được các quan trào theo cấp bậc cao thấp mà mặc). Khi tin này đến tai vua với<br />
những lời xì xào rằng bố con nhà Pan Yundua phạm thượng, bất kính với vua, và có mầm phản loạn, và
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 16<br />
vua cho người đến điều tra thì Pan Yundua đã ra lệnh cho chặt bớt đi một ngón trên tất cả các tượng.<br />
Tuy nhiên cũng có chuyện khác kể rằng khi dân Trung hoa thấy tượng hoàn tất có bốn móng nên đã đặt<br />
ra chuyện trên.<br />
Rồng Trung Hoa Rồng tường thành Dư Viên Thượng Hải<br />
Á châu ca tụng Rồng như một linh vật huyền thoại đáng kính, rất thông minh và có lòng tốt.<br />
Rồng là một biểu tượng gắn liền với văn hóa vùng Đông Á Châu. Người Trung Hoa coi mình như là<br />
hậu duệ của Rồng. Rồng được biết đến qua tên Lung (Long) và họ cho rằng Rồng nguyên thủy xuất xứ<br />
từ Nội địa Trung quốc.<br />
Rồng Hàn quốc Rồng Nhật Bổn Rồng Việt Nam<br />
Rồng Trung Hoa đuợc miêu tả là có 36 vẩy lực Âm (Yin) và 81 vẩy lực Dương (Yang). Rồng
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 17<br />
Trung Hoa nguyên thủy có năm móng trên cả bốn tứ chi. Từ thuở nhà Tây Hán (Xi Han) (206 B.C.)<br />
Rồng được miêu tả có năm móng và được coi là độc quyền của nhà vua, là biểu tượng cho quyền hành<br />
tối cao của vua chúa.<br />
Rồng Hàn quốc gọi chung là Yong, gồm ba loại: Yong mạnh nhất bảo vệ trời, Yo không có sừng<br />
sống ở ngoài biển cả, và Kyo sống trên núi. Khác với Rồng Trung Hoa, Rồng Hàn quốc chỉ có bốn<br />
móng.<br />
Rồng Nhật bổn gọi là Tatsu hay Ryu, Rồng Tatsu hay Ryu cũng được coi như là biểu tượng của<br />
Hoàng tộc. Rồng của Nhật còn được miêu tả là có thể chuyển mình như rắn, có thể thay đổi vóc dáng<br />
lớn nhỏ hay là biến mất (tàng hình được). Rồng Nhật bổn thì chỉ có ba móng.<br />
Cách giải thích về sự khác biệt của số móng (ba của Nhật bổn, bốn của Đại hàn hay năm của<br />
Trung hoa) tùy thuộc vào huyền thoại truyền tụng của nước họ. Trung hoa thì nói rằng Rồng càng đi xa<br />
đất liền của họ thì càng mất móng. Trái lại Nhật bản thì nói rằng Rồng càng xa Nhật thì càng mọc thêm<br />
móng.<br />
Rồng nói chung bất kể nguồn gốc từ nước nào đều luôn luôn biểu tượng bằng mầu xanh dương,<br />
vàng, và những mầu khác như đen, trắng và đỏ.<br />
Hình dạng của Rồng cũng khác nhau tùy theo huyền thoại. Rồng có thể mang hình dạng một<br />
linh vật đầu ngựa, mắt lạc đà, có gạc như hươu nai, có cổ như rắn, có móng như chim đại bàng, thân có<br />
vẩy như cá, bụng mềm như loài nhuyễn thể, lòng bàn chân như hổ, và có đuôi như thiên xà, v.v… Rồng<br />
cũng thường được gắn liền với viên ngọc trai. Viên ngọc trai có thề nằm trong hàm Rồng, dưới cầm của<br />
Rồng, và đôi khi dưới móng vuốt của Rồng. Viên ngọc trai của Rồng tương trưng cho năng lực huyền<br />
bí khiến Rồng có thể biến lên thiên đàng. Ngọc trai cũng tượng trưng cho may mắn và thịnh vượng.<br />
Ngọc trai trong hàm Rồng hay dưới cầm Rồng cũng tượng trưng cho quyền lực chi phối mặt trăng, thủy<br />
triều, mưa, sấm chớp,cùng chu kỳ sinh, tử và tái sinh.<br />
Rồng và Viên Ngọc Trai<br />
Chuyện viên Ngọc trai và rồng đuợc kể như sau. Ngày xửa ngày xưa, ở bên Trung quốc, bên bờ sông<br />
Mân (Min) phía nam huyện Szechwan có hai mẹ con một người đàn bà sống rất nghèo nàn. Để mưu<br />
sinh đứa bé trai phải đi cắt cỏ tươi để bán cho dân làng dùng nuôi súc vật. Vào một mùa hè khô ráo, cậu<br />
bé phải đi rất xa nhà để kiếm cỏ xanh, cậu tìm được một vùng không có dấu hiệu bị hạn hán mà cỏ rất<br />
xanh và mọc lại rất nhanh không hề có dấu vết cỏ đã bị cắt hôm trước. Thấy phải đi xa quá, cậu bé<br />
quyết định bứng luôn cả rễ một mảng cỏ với ý định mang về trồng gần nhà. Dưới mảng cỏ vừa bứng<br />
cậu tìm thấy một viên ngọc trai. Cậu mang mảng cỏ về và kể cho mẹ nghe. Bà mẹ rất vui mừng vì con<br />
bắt được ngọc quý, nên mang ngọc giấu vào hũ gạo đã gần hết. Sáng ra thì cỏ không mọc mà úa héo<br />
chết. Bà mẹ an ủi con trai, nói có thể mang bán ngoc lấy tiền mua gạo, nhưng khi mở hũ gạo thì gạo<br />
đầy tới miệng lu. Biết con bắt đuợc ngọc quý, hai mẹ con đặt ngọc vào hũ đựng tiền thì sang ra hũ tràn<br />
đầy những đồng xu sáng chói. Hai mẹ con trở nên giàu có, mặc dù họ không nói chi nhưng dân làng<br />
đều biết họ có bí mật chi đó. Một ngày có một bọn cướp đến cướp của nhà hai mẹ con. Cậu bé vội bỏ<br />
viên ngọc trai vào mồm và nuốt chửng. Viên ngọc vừa vào bụng thì cậu bé thấy nóng như lửa, vội<br />
chạy ra sông uống nước. Càng uống càng khát, uống cho đến khi thân hình câu chợt biến thành một con<br />
Rồng vẫy vùng trên sông, tạo thành những cồn cát lớn còn tồn tại đến ngày nay.<br />
Rổng hay Long tượng trưng cho Hoàng tộc Trung hoa. Rồng được coi như mang phước lành<br />
cho dân chúng. Rồng cũng đuợc coi như liên quan mật thiết đến mưa, đến mùa xuân mang lại nguồn<br />
sống mới cho nhân loại mà chúng ta thấy được miêu tả qua nhũng bức họa Rồng đang vùng vẫy trên<br />
trời cao, đùa với hạt trai cùng sấm chớp.<br />
Một tục ngữ của Trung Hoa nói rằng “Rồng ngửng đầu lên cao vào ngày thứ hai của con trăng<br />
thứ hai” với giải thích là Rồng cai quản mây mưa sẽ thức giấc sau mùa đông và bắt đầu rắc mưa xuống
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 18<br />
địa cầu. Ngày này được gọi là Ngày Hội Rồng Mùa Xuân.<br />
Qua bao thế kỷ Rồng đã và vẫn còn là một phần quan trọng trong văn hóa Trung quốc mặc dù nguồn<br />
gốc còn mơ hồ. Gần đây hơn chuyên viên khảo cổ đã tìm thấy chứng cớ di tích rồng ở thung lũng sông<br />
Liaohe vùng đông bắc Trung Hoa. Và như thế thì những tượng đồng có hình dạng Rồng khắc khảm<br />
khai quật đuợc vào triều đại Shang (1600-1100 B.C.) không chắc đã là những biểu tượng cổ nhất ở<br />
Trung Hoa. Những khảo vật tìm thấy gần hơn nữa ở vùng hoang tàn Hongshan tại Niuheliang,<br />
Liaoning vào năm 2003 đã được coi là cổ nhất. Vì bộ lạc Hongshan sống ở thung lũng sông Liaohe cả<br />
5 ngàn đến sáu ngàn năm nên khảo cổ viên cho rằng văn hóa rồng đã có từ vùng này ít nhất là năm<br />
ngàn năm.<br />
Những khảo vật hình rồng tại thung lũng sông Liaohe có thể được sắp thành tám nhóm căn cứ<br />
vào thời gian và dạng. Cũ nhất là những dạng đá, trạm nổi, khắc trên gỗ, khảm trên kim loại, đồ gốm<br />
màu, đồ sứ đồ sành, điêu khắc ngọc và tranh họa màu.<br />
Ngọc rồng tìm được từ thung lũng sông Liaohe được miêu tả như một hỗn hợp của nhiều loại<br />
thú vật heo, nai, gấu, chim và rắn. Những biểu tượng hiện đại về Rồng là sản phẩm của hàng ngàn năm<br />
đã được các họa sĩ, nghệ sĩ hình dung và sáng tạo ra.<br />
Một khám phá quan trọng khác là một tượng rồng làm bằng ngọc có đầu lợn dài 26 cm, và<br />
cuộn lại hình chữ C, môi mím, mắt lồi, và có lỗ ở phía sau. Vì người ta cũng tìm thấy nhiều xương lợn<br />
chộn lẫn với xác người chết ở Hongshan nên những nhà khảo cổ cho rằng lợn giữ một vị trí quan trọng<br />
và là biểu tượng cho thịnh vượng. Thân rồng thì được cho là bắt nguồn từ thằn lằn, cá sấu, hay rắn. Đầu<br />
thì từ ngựa hay một động vật có sừng.<br />
Rồng Trung hoa được phân loại làm ba nhóm: rồng đầu heo ở vùng Bắc, rồng đầu rắn mình<br />
người ở vùng trung tâm, và rồng đầu cá sấu ở vùng phía Đông.<br />
Rồng Việt Nam<br />
Dân tộc Việt thường tự hào về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên nối liền với huyền thoại Âu Cơ -Lạc<br />
Long Quân. Rồng Việt nam kể từ thời Văn Lang, Giao Chỉ, Đại Việt với họ Lý họ Trần, rồi triều đại Lê<br />
Nguyễn có rất nhiều thay đổi trong các câu chuyện/tranh miêu tả Rồng. Hình ảnh Rồng quen thuộc<br />
hiện nay được coi như là hình ảnh Rồng lưu truyền từ thế kỷ thứ 19 sau khi nhà Nguyễn dành Rồng<br />
làm độc quyền cho vua chúa và vẽ theo mẫu hình Rồng Trung quốc.<br />
Tóm tắt<br />
Tóm lại, theo truyền thuyết về Rồng phương Đông thì Rồng là một biểu tượng cho điềm lành và sự<br />
khôn ngoan. Trong thần thoại, rồng là một sứ giả giữa người và thần thánh, là sứ giả mang phước lành<br />
từ thiên đàng xuống hạ giới. Rồng mang khả năng kỳ diệu kiểm soát được gió mưa. Rồng có thể bay<br />
trên không hay lặn ngụp vẫy vùng giữa biển cả. Và hiển nhiên Rồng là biểu tượng cho quyền lực tối<br />
cao của một quốc gia như thấy trên áo bào hay các dấu ấn của vua chúa một số quốc gia.<br />
Cũng kèm theo ở phía dưới là một số tem được phát hành trong đầu năm 2012 để kỷ niệm năm<br />
Rồng (Nhâm Thìn). Tùy theo quốc gia phát hành tem, số móng Rồng có thay đổi, đặc biệt Rồng<br />
Thailand không có “chân”.<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
14 January 2012<br />
(hình ảnh thu thập trên Internet)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 19<br />
Taiwan<br />
China<br />
Croatia<br />
Việt Nam Macau-China<br />
USA<br />
Anh
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 20<br />
Philippine<br />
Singapor<br />
Pháp<br />
New Zealand
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 21<br />
Thailand. New Zealand<br />
còn tiếp….<br />
…
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 22<br />
Lama<br />
DiÍm Âu<br />
1.<br />
Khoảng thời gian năm tôi lên tám, lên chín tuổi, lâu lâu vào ngày Chủ Nhật, bố mẹ tôi vẫn hay dắt chị<br />
em chúng tôi tới một tiệm sách chuyên bán sách báo của Pháp nằm xế bên hông Vương Cung Thánh<br />
Đường Sàigòn. Cái không khí tĩnh lặng, tinh khôi, trong vắt như một ly nước suối trong tiệm sách đó<br />
đã luôn luôn là cảm giác rất quyến rũ cho một đứa bé sớm thích mơ mộng như tôi. Tôi nhớ mang máng<br />
(và không biết mình có nhớ lầm không), phía trên những kệ sách dài khắp bốn bờ tường là những<br />
khung kính hình chữ nhật, nơi những khoanh nắng rất tươi của buổi sáng luôn hối hả luồn vào. Tiệm<br />
sách sáng trong, ánh sáng cũng tinh khôi như ly nước suối. Có những hôm, tôi ngồi khoanh chân dưới<br />
đất, trong lòng ôm một quyển sách mở toang. Tôi giở nhẹ từng trang giấy, và lúc đó, thầm ước, phải chi<br />
có một ông nhà văn nào đó, chẳng hạn như là người đã viết cái quyển sách đang mở toang trong lòng<br />
tôi này, tình cờ bước chân vào tiệm sách, tình cờ nhìn thấy tôi với quyển sách của ông... Ông sẽ cúi<br />
xuống mỉm cười với tôi, xoa tóc tôi, và sẽ hỏi, bé con, em thích nhất trang nào trong quyển sách của<br />
tôi, em có muốn đóng vai con bé con trong đêm khuya khoắt bị sai đi lấy gầu ra giếng kéo nước trong<br />
truyện của tôi không? Và tôi sẽ gật đầu, và sẽ trả lời ông rằng, vâng, em thích được đóng vai con bé bị<br />
hất hủi ấy lắm, và em sẽ đóng... rất hay!<br />
Buồn cười, tôi luôn luôn hay mơ mộng những chuyện lăng nhăng và buồn cười như thế! Và tôi<br />
hay mơ mộng lăng nhăng như thế là bởi vì tôi ít khi thích bỏ thời giờ ra ngồi nhá mấy quyển sách Pháp<br />
văn mà chúng tôi bị bắt phải đọc trong trường. Thường thường, tôi chỉ đọc đoạn nào tôi thích nhất, rồi<br />
tha hồ vẽ ra những bức tranh tưởng tượng trong đầu. Tranh mặc tình nhảy muá uyển chuyển như sóng<br />
lụa, tôi cũng mải mê uốn mình bay bổng trên sóng lụa, đợt này tiếp đợt kia, quên tuốt mất những trang<br />
còn lại trong cuốn sách cần phải đọc, nên cuối cùng, có nhớ được gì đâu! Lý do là bởi vì tôi yêu tiếng<br />
Việt và say mê đọc sách, đọc truyện tiếng Việt hơn cả, nhất là sử Việt, bởi thế, Pháp văn tôi chưa từng<br />
bao giờ giỏi ngày nào, vốn liếng chỉ vừa đủ dùng mà thôi!<br />
Nhưng thưở ấy, tôi thích đọc, hay xem, truyện hình "Tin-Tin" bằng tiếng Pháp lắm (bởi vì nó<br />
nhiều hình, ít chữ!). Và lạ lùng thay, bây giờ, hơn ba mươi mấy năm sau, tôi mới hiểu ra được rằng,<br />
chính "Tin-Tin" đã là cái giềng mối sớm nhất và đầu tiên nhất trong đời gợi cho tôi nhớ lại được những<br />
quan hệ cội rễ vô cùng mật thiết bắt nguồn từ những... tiền kiếp xa xôi!<br />
Buổi trưa hôm ấy, tôi đã ngồi xem "Tin-Tin" trên chiếc giường mà tôi ngủ với bà tôi mỗi tối,<br />
vừa xem vừa cười khúc khích. Nhưng chỉ mới đọc được vài trang thì tôi đã khựng lại. Trong tranh, tôi<br />
nhớ, có vẽ hình con thú bốn chân trông giống một con lừa. Đó là một con... la ở xứ Peru! Người dẫn<br />
đường bản xứ, một anh trai trẻ người Peru đội mũ quấn khăn sặc sỡ, đã cắt nghĩa cho Tin-Tin biết... đây<br />
là con "lama" (La-ma), cẩn thận nhé, khi nào nó giận thì nó phun nước miếng đấy! Anh ta phải cắt<br />
nghĩa như vậy vì con lừa mất lịch sự ấy vừa mới phun xong nước miếng vào mặt ông già thuyền trưởng<br />
đang đứng sớ rớ ngay đó không thương xót. Ít phút trước đó, nó đã bị ông ta chọc ghẹo! Cuối cùng,<br />
trước khi quay lưng bỏ đi, hình như ông bạn già lẩm cẩm này của Tin-Tin đã vùng vằng la lên mắng<br />
nó,đại khái..."đồ con la-ma".<br />
Tôi đọc đến đây thì... khựng lại. Tôi còn nhớ như in cái cảm giác ngỡ ngàng, tột cùng ngỡ<br />
ngàng trong lòng vào giây phút ấy! Ba mươi mấy năm sau, mà cái cảm giác ngỡ ngàng vẫn còn hiện rõ<br />
như một vết cắt ngọt sớt trên mảnh da non khi hồi nhớ lại. Tôi đã ngồi thừ rất lâu, cố moi móc trong<br />
đầu ra xem tại sao con lừa ngu ngốc và kém lịch sự này lại có tên là con La-ma như vậy. Lúc ấy, tôi đã
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 23<br />
lý luận rất đơn sơ rằng, đây là con lừa, không phải con... La-ma, và nếu hỏi tôi tại sao tôi quả quyết như<br />
thế thì tôi không trả lời được. Đơn giản lắm, tôi nghĩ, La-ma là... La-ma, là tiếng gọi một… cái gì khác,<br />
nhưng nhất quyết, không phải tiếng để gọi con lừa! Cái cảm giác ngỡ ngàng và khó chịu đã đeo theo tôi<br />
suốt buổi, cho đến tối. Ăn cơm xong, tôi lấy quyển sách truyện hình ra đưa cho bố tôi xem. Tôi chỉ tay<br />
vào hình con lừa xứ Peru và hỏi bố tôi rằng, "tại sao" người ta lại gọi con lừa này là con La-ma vậy hở<br />
Bố? Lúc hỏi câu hỏi ấy xong, tôi chỉ mong chờ thấy bố tôi nhíu mày lại, hay cũng kêu lên một tiếng gì<br />
đó biểu lộ sự ngạc nhiên chẳng hạn. Nhưng ông không ngạc nhiên, và cũng chẳng nhíu mày. Ông đã trả<br />
lời hết sức hồn nhiên và điềm đạm, đâu có gì "tại sao" đâu con, đây là một con lừa, nhưng người dân<br />
Peru gọi nó là con "Llama" (La-ma), tiếng đó cũng có nghĩa giống như là con lừa, giống như tiếng<br />
Pháp người ta gọi con lừa là "l'âne" (đọc âm là 'lan', chú thích của người viết). Tôi đã im mất một lúc<br />
lâu sau đó. Rồi tôi ngớ ngẩn nhắc lại cái lý luận rất đơn sơ và cũng rất ngớ ngẩn của mình... Tôi nói<br />
một cách cương quyết: - Bố ơi Bố, nhưng mà La-ma không phải là con lừa! La-ma là tiếng để gọi... cái<br />
gì khác!<br />
Bố tôi hỏi tôi:<br />
− Vậy thì con nghĩ đó là tiếng gọi... cái gì?<br />
Tôi lắc đầu:<br />
- Con không biết. Bố không biết thật hay sao Bố?<br />
Bố tôi cũng lắc đầu. Và câu chuyện buổi tối của hai bố con tôi chấm dứt ở đó! Qua hôm sau, tôi hỏi mẹ<br />
tôi, rồi hỏi bà ngoại tôi, cùng một câu hỏi ấy. Qua hôm sau nữa, tôi đem sách truyện ra chỉ cả cho hai<br />
chị giúp việc trong nhà tôi xem, và cũng hỏi cùng một câu hỏi ấy. Tôi vào lớp học, chờ đúng lúc (hay<br />
không hẳn là... đúng lúc), giơ tay lên hỏi cô giáo, hỏi Soeur giám thị, hỏi luôn mấy con bé bạn thân<br />
nhất của tôi, rằng "La-ma" có phải "đúng" là tiếng gọi một con lừa không, rồi vội vàng lập lại điều tôi<br />
quả quyết, rằng con lừa "không thể" là... "La-ma" được! Lẽ dĩ nhiên, mỗi người trả lời tôi hoặc góp ý<br />
với tôi một cách khác, tùy theo trình độ hiểu biết của từng người, nhưng chẳng có một ai nói lên điều<br />
tôi mong mỏi cả!<br />
Ba mươi mấy năm sau, khi ngồi viết lại những giòng này, tôi thấy trong lòng một niềm vui nhẹ<br />
nhàng như hương trà buổi sớm, khói mỏng manh quyện lên cao, dấy lên những cánh cung tròn lơ lửng.<br />
Không biết bám vào đâu, mà cũng chẳng bám vào đâu. Ôi, con La-ma của tôi!<br />
Tôi thấy tôi thật buồn cười, và... ngây thơ không kém gì cái cậu-bé-tác-giả St. Exupéry của<br />
truyện Hoàng-Tử-Bé! Cũng gần gần, đâu đó! Lên sáu tuổi, cậu vẽ bức tranh một con trăn quấn mồi,<br />
nuốt tuột con mồi vào bụng. No nê, bụng trăn căng phình lên, to như cái trống với một cái lõm lún<br />
xuống ngay giữa bụng. Câụ đem bức hình đi khoe với mọi người, gặp người quen người lạ nào cậu<br />
cũng hỏi, có biết em vẽ cái gì đây không? Ai cũng trả lời cậu, đây là cái mũ, em vẽ cái mũ, phải<br />
không? Cậu lắc đầu, trong lòng buồn bã. Không, đây là con trăn nuốt mồi, bụng nó căng cứng, phình<br />
to lên đó! Mọi người nhìn cậu trố mắt, chẳng biết phải nói năng gì. Rồi cậu thôi, không vẽ nữa, chẳng<br />
buồn vẽ nữa. Cậu bỏ mộng làm họa sĩ vì cái kinh nghiệm vẽ vời không được mấy vừa ý của những<br />
ngày bé thơ. Cho đến khi cậu trở thành một người đàn ông, điềm nhiên, chững chạc. Người đàn ông<br />
quên mất chuyện con trăn-cái mũ và giấc mộng vẽ vời, say mê học lái máy bay, trở thành một phi công<br />
tài giỏi. Người phi công đó đã được gặp Hoàng-Tử-Bé trong một hoàn cảnh cực kỳ lạ lẫm, không thể<br />
ngờ trước được, và ông bắt đầu vẽ trở lại, vì người bạn tí hon của ông, là người cũng có thể nhìn thấy<br />
được con mồi trong bụng chú trăn tham ăn. Mà còn hơn thế nữa, bạn ông còn thấy được cả con cừu con<br />
hiền lành ngơ ngác trong bức hình ông vẽ một chiếc hộp kín bưng nữa kìa!<br />
Hỏi mãi về La-ma không xong, tôi cũng đành... thôi không hỏi nữa. Nhưng cái cảm giác lấn cấn<br />
cứ còn nguyên vẹn trong lòng. Như một hạt cát mỏng kẹt đâu đó trong chiếc giầy đang mang vừa chân.<br />
Cho đến năm cả gia đình chúng tôi chạy tỵ nạn sang Hoa Kỳ, hạt cát mỏng lâu lâu vẫn làm chân tôi<br />
ngưa ngứa, chỉ vừa đủ ngưa ngứa thôi chứ không còn ngỡ ngàng, khó chịu như buổi đầu tiên. Tôi vào
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 24<br />
lớp Bảy, ghi tên đủ hết cả các môn học, kể cả Pháp văn. Khi bắt đầu quen thân với bà giáo dạy Pháp<br />
văn hơn, tôi lại tự động đem câu hỏi cũ ra nhào nắn. Mười ba tuổi, khôn ngoan hơn một chút, tôi biết<br />
đặt vấn đề một cách dè dặt hơn, và không cả quyết điều gì nữa hết. Tôi hỏi, thưa Bà, tôi đọc thấy trong<br />
truyện người ta viết con lừa bên Peru họ gọi là con Llama (La-ma), như thế có đúng không ạ? Có phải<br />
đúng là có một giống vật giống con lừa gọi là con... Llama không thưa Bà? Lẽ dĩ nhiên, bà giáo Pháp<br />
văn vui vẻ gật đầu! Tôi liền vào thư viện trong trường, tìm sách về... Peru để đọc, và lục tự điển tìm<br />
chữ "Llama" để tra! Đó là vào khoảng năm 75, 76. Hơn hai mươi lăm, hai mươi sáu năm trước, hoặc là<br />
sách giáo khoa và tự điển ở Hoa Kỳ vẫn còn thiếu sót nhiều lắm, tầm nhìn của soạn giả thu hẹp trong<br />
văn hoá và địa lý của Mỹ Châu và Âu Châu, hoặc là vì nhân duyên chưa đủ nên tôi tra không đúng<br />
được một quyển tự điển có tầm nhìn bao quát hơn cũng không biết chừng... Dù sao đi nữa, điều gì tôi<br />
tìm thấy trong sách hay trong tự điển vào thời gian đó cũng đều công nhận những câu trà lời tôi đã<br />
đuợc nghe từ bao lâu nay.<br />
Tôi bỏ cuộc, không đi tìm La-ma (mà-không-phải-là-con-lừa-xứ-Peru) nữa!<br />
Tôi lớn lên, trở thành một cô gái dậy thì, thích mơ mộng, biết yêu rất sớm, rồi trở thành vợ, thành mẹ,<br />
và sống êm đềm trong cái tổ chim ấm áp có lót những cọng rơm hiu hiu vàng còn thơm nức hương mùa<br />
xuân. Tôi học vẽ, rồi bỏ vẽ. Mon men viết văn, rồi bỏ viết văn. Làm kiến trúc, rồi bỏ kiến trúc. <strong>The</strong>o<br />
Kháng Chiến, bỏ Kháng Chiến. Học Hán văn, bỏ Hán văn. Say mê sách thiền, rồi bỏ cả sách thiền.<br />
Chuyện gì tôi cũng làm nửa chừng, dang dở. Nhưng tôi không thấy tiếc nuối hay khó chịu với những<br />
cái dang dở của tôi. Buồn cười thế đấy! Lúc nào cũng có những chuyện "mới mẻ" khác đang chờ,<br />
những cánh buồm no căng mới đang chực giong ra khơi. Lâu lâu, rảnh rang một chút, tôi lại ngồi lan<br />
man nghĩ đến con... La-ma của tôi! Rồi tôi nghiệm thấy rằng, hình như chỉ có mỗi mình câu chuyện<br />
dang dở này là vẫn còn làm tôi băn khoăn, khó chịu mỗi khi nhớ đến, có lạ lùng chưa!<br />
2.<br />
Và cứ thế, mãi sau này, cho đến ngày hôm nay (và biết đâu... sau hơn nữa), truyện trẻ thơ luôn luôn<br />
trởthành những đầu mối tháo gỡ được những gút mắc trong tôi.<br />
Lạ thật! Như con lừa kém lịch sự trong một quyển truyện bằng tranh!<br />
Khoảng giữa năm 1990, khi chúng tôi có ý định thụ thai để mang vào đời những hạt giống mới,<br />
chồng tôi mua về làm quà cho tôi một quyển truyện bằng tranh rất dễ thương (chắc chắn là dễ thương<br />
gấp bội phần truyện bằng tranh của Tin-Tin và con lừa kém lịch sự). Quyển truyện mang tên, Những<br />
Rặng Núi Ở Tây-Tạng, trong đó có những bức họa màu sắc tươi vui, nét vẽ đơn sơ mềm mại. Chồng tôi<br />
viết, "để em-bé-Mẹ đọc cho em-bé-Con nghe"... Anh biết vốn dĩ tôi cũng vẫn còn ưa thích truyện trẻ<br />
con lắm. Tôi luôn luôn tìm thấy trong đó những khám phá mới mẻ, nhẹ nhàng nhưng lại rất... vằng vặc.<br />
Cũng có thể, tôi nghĩ, truyện trẻ con vừa giống như là nắng đầu ngày, vừa giống cả bờ hồ phản ảnh ánh<br />
trăng vào đêm. Người ta thức dậy buổi sáng, ngắm ánh nắng ban mai chan hòa, rồi hấp tấp vội vàng<br />
đến sở. Quên lửng mất đi. Khuya về, tình cờ bắt gặp mảnh trăng lung linh trên nước, có thể người ta sẽ<br />
nhớ đến nắng sớm mai, mà cũng có thể... sẽ không hề nhớ đến. Nhưng không có nắng đó, thì làm gì có<br />
được trăng đó? Thi sĩ hay làm thơ ca tụng ánh trăng non, trăng ngà, mà quên mất bầu mặt trời vòi vọi.<br />
Bởi thế tôi vẫn thường hay nghĩ đến những quyển sách truyện bé thơ như những luồng sáng non, mà về<br />
đêm, nếu để lòng lắng xuống một chút, chúng ta cũng có thể bắt gặp được luồng sáng non đó trên một<br />
chiếc tô ngà, chiếc tô trăng tròn xoe, nạm vàng, đang nhởn nhơ dầm mình trong nước mát.<br />
Quà tặng của chồng tôi là một quyển truyện kể về cuộc đời tầm thường, đơn sơ của một ông lão<br />
tiều phu người Tây-Tạng. Tôi đã từng dịch quyển truyện trẻ con này ra, và đã đăng báo trong một<br />
truyện ngắn tôi viết tặng cho con trai đầu lòng. Ông lão tiều phu sinh ra và lớn lên trên những rặng núi<br />
trắng tuyết ở xứ Tây-Tạng. Từ ngày còn là một chú bé, ông đã rất mê thả diều. Những khi đứng thả
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 25<br />
diều, chú bé cũng thường thả hồn mình bay xa, bay vượt qua khỏi những rặng núi cao bao bọc quanh<br />
ngôi làng chú ở. Chú mơ ước có ngày sẽ được đi du lịch đến những xứ sở khác, viếng thăm những nơi<br />
chốn xa xôi khác. Chú bé lớn hơn nữa, trở hành một người đàn ông, lấy vợ, có con, sống an bình cho<br />
đến ngày chú trở thành một ông lão. Đến khi ông lão ra đi khỏi cuộc đời này, ông chưa hề một lần<br />
bước chân ra khỏi ngôi làng nơi ông đã sinh ra. Bây giờ đã đến lúc ông phải chạm mặt với cái chết và<br />
chạm mặt với những chọn lựa khác nhau trong giai đoạn chuyển tiếp sau khi chết. Bao nhiêu những<br />
hình ảnh, âm thanh và ánh sáng liên tục hiện ra, rầm rập, ào ào. Xuất hiện trước mắt ông, bao nhiêu là<br />
những kỳ quang của vũ trụ, những đền đài tráng lệ, thành phố nguy nga, những khu rừng nhiệt đới,<br />
những dải biển biếc xanh, những nơi ông mơ ước được đi thăm nhưng chưa bao giờ đuợc đặt chân đến.<br />
Ông còn thấy nào chim bay, nào cá lội, từng đoàn thú vật diễn hành tuần tự qua trước mặt ông. Chỉ suýt<br />
chút nữa thôi là ông đã quyết định để đầu thai làm một con chim hải âu đang lượn cánh bay tuyệt đẹp,<br />
nhưng vô tình ông cũng nhìn thấy một đứa bé đang đứng thả diều ngay phía dưới, trên bãi cát mịn<br />
màng, tiếng cười của nó lắc rắc như thủy tinh trong suốt, bay cao. Ông nhớ đến những cánh diều ngũ<br />
sắc sặc sỡ của ông ngày còn thơ... Thế là ông đổi ý, muốn đuợc làm người thay vì làm chim. Rồi bỗng<br />
nhiên ông lại nhìn thấy một vùng núi cao không hiểu sao quen thuộc lắm, gợi trong lòng ông nhiều nỗi<br />
rưng rưng. Ông thấy thêm rất nhiều những ông bố và những bà mẹ trẻ đang dang tay ra mời gọi ông<br />
hãy đến làm con của họ. Ông nghĩ, tôi muốn trở lại nơi vùng núi cao đó, làm con của một ông bố có<br />
vòng tay bao bọc, và của một bà mẹ có nụ cười êm ái sưởi ấm lòng tôi. Nhưng trước kia tôi đã từng<br />
làm con trai, giờ đây, tôi muốn được đầu thai làm con gái, để xem làm con gái sẽ ra thế nào. Và bức<br />
tranh minh hoạ cuối cùng trong sách vẽ hình một cô bé gái thắt bím, mặc áo mang ủng sặc sỡ, đang thả<br />
bay con diều ngũ sắc trên một rặng núi cao. Cô bé con người Tây-Tạng, chào đời trên một rặng núi<br />
tuyết, mê thả diều không kém gì ông lão tiều phu năm xưa!<br />
Ở trang sau chót của quyển truyện, tôi tìm thấy có ghi mấy giòng giới thiệu tác giả Mordicai<br />
Gerstein, nhà văn chuyên viết truyện nhi đồng, người đã từng đoạt được một số giải thưởng cao quý<br />
trong lãnh vực văn chương thiếu nhi. Trong mấy câu giới thiệu ngắn ngủi trên, có kèm theo một giòng,<br />
chỉ một giòng, còn... ngắn ngủi hơn thế nữa!. Chỉ một giòng thôi, mà lại chính là cái chìa khóa rất<br />
khéo, rất tinh xảo, mở hé ra khung cửa quá khứ trong tôi.<br />
Chỉ một giòng đó, như sau... "Tác giả cảm hứng câu chuyện thiếu nhi này sau khi đuợc đọc<br />
quyển Tử-Thư Tây-Tạng. “Tử -Thư Tây-Tạng" Cho đến giờ phút ấy, tôi chưa bao giờ nghe đến cả!<br />
Sách dành cho người chết? Sách viết về cõi chết? Về cái chết? Tôi đứng vụt dậy khỏi chiếc ghế mây<br />
đang ngồi trong căn phòng ngập ánh sáng, một phòng sách nhỏ, với một ô cửa kính rộng đối diện<br />
hướng Nam - căn phòng có nhiều ánh sáng nhất trong một căn nhà thiếu ánh sáng. Phòng nào trong nhà<br />
cũng tối, ngoại trừ căn phòng sách của chúng tôi! Trong cõi sáng tầm thường bình dị của căn phòng<br />
sách nhỏ, tôi đã tình cờ bắt được sợi dây-mối dẫn dắt tôi lần mò tìm về lại với một cõi ánh sáng khác,<br />
một cõi bao la không thể nghĩ bàn!<br />
Nhưng... phải mãi đến tận sau này, tôi mới hiểu ra được điều đó!<br />
Tôi rời khỏi chiếc ghế đang ngồi, đi tìm chồng tôi để hỏi xem anh có biết Tử -Thư Tây-Tạng là<br />
gì không? Anh có bao giờ đọc nó chưa? Tôi tin là anh sẽ biết vì vốn liếng về văn hoá và lịch sử thế giới<br />
của anh rất dồi dào. Chúng tôi hay đùa với nhau rằng, lẽ ra anh phải nên làm một nhà ngoại giao quốc<br />
tế, để có thể sử dụng khả năng giao thiệp và vốn liếng ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử thế giới của mình,<br />
thay vì làm một kỹ sư vi tính, và theo đuổi một công việc không mấy hứng thú đối với anh! Tử -Thư<br />
Tây-Tạng? Anh bảo anh có nghe nói đến, anh chưa đọc nó bao giờ, và anh thêm rằng không phải chỉ<br />
người Tây-Tạng mà người Ai-Cập cũng có một quyển sách viết riêng cho người chết, gọi là Tử-Thư<br />
Ai-Cập, quyển đó thì anh nhớ mang máng là đã có xem qua một lần.<br />
Tôi ôm câu trả lời của chồng tôi và ôm hình bóng quyển kinh chưa một lần giáp mặt vào lòng,<br />
như ôm một chiếc gối lông ngỗng. Chiếc gối mềm, êm, chỉ mới lần đầu chạm tay vào thôi mà không<br />
hiểu sao đã thấy có nhiều hơi hướm thơm tho, quen thuộc. Tôi gối đầu trên chiếc gối ấy, ngủ những
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 26<br />
giấc ngủ mơ màng. Khi thức dậy, khi làm công việc hằng ngày, khi bận rộn chăm lo cho con, khi đi<br />
chợ, mua sắm bó rau, chiếc bánh, trong lòng rất nhiều lúc thấy nhơ nhớ chiếc gối êm, thèm được ngã<br />
đầu lên đó!<br />
Khi ấy, tôi chẳng có một khái niệm gì rõ rệt về Tây-Tạng cả. Tôi không biết là Tây-Tạng đã bị<br />
Trung Cộng chiếm đóng từ năm 1959. Tây-Tạng mất chủ quyền, bị buộc phải sát nhập vào lãnh thổ của<br />
Trung-quốc. Hằng ngàn tu viện bị phá hủy và kinh sách đã bị đốt ra tro. Hằng chục ngàn tu sĩ phải sa<br />
vào vòng tù ngục, bị giết hại, bị tra tấn. Ở một quốc gia mà một phần tư dân số là tu sĩ Phật giáo sống<br />
hiền hoà trong tu viện, thì chắc chắn, vũ khí của quốc gia ấy không phải là súng đạn và bạo lực để có<br />
thể chống đỡ lại với bạo lực xâm lăng của một cường quốc như Trung Hoa. Khi ấy, tôi hoàn toàn không<br />
biết gì về những chuyện này, mãi cho đến về sau...<br />
Một hôm, chúng tôi có dịp đi ra biển Laguna Beach, đó là một vùng biển rất thơ mộng ở miền<br />
Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ. Phố chính của biển Laguna có những tiệm bán tranh và sản phẩm<br />
tiểu công nghệ tuyệt đẹp. Nghệ sĩ , hoạ sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, lãng tử... lang thang khắp nơi, góc đường nào<br />
cũng có. Phố chính nằm giáp lưng vào một rặng núi sững, rậm xanh. Có núi chở che, nên thành phố<br />
mang nét vững vàng, yên ổn. Từ phố chính, người ta có thể nhìn băng qua con lộ hẹp, băng qua một<br />
công viên có bãi cỏ mượt, băng qua vùng cát óng, nhìn suốt ra đến tận dải nước sẫm màu ngọc bích của<br />
Thái Bình Dương. Thành phố nghệ sĩ này, lãng mạn đến độ có thể biến thành một... cuộn phim tình đen<br />
trắng, vừa cổ kính, vừa tân thời, có lúc ồn ào mời mọc, có lúc im lắng mà như chỉ muốn gào lên những<br />
tiếng sóng lòng mênh mang! Vợ chồng chúng tôi hay rủ nhau, dắt nhau ra thành phố ven biển này vào<br />
bất kể lúc nào, có khi còn thuê phòng trọ ngủ lại qua đêm (cho dù chúng tôi chỉ ở cách đó chưa đầy 15<br />
dặm). Chỉ để sáng hôm sau được thức dậy trong... cuộn phim tình đen trắng! Ở đó còn có một tiệm<br />
sách mà chúng tôi yêu thích lắm, mang tên Farenheit 451. Đó là tên một quyển truyện khoa học giả<br />
tưởng viết về những kẻ thù ghét văn chương (một loại Tần Thủy Hoàng thời đại). Họ đã đi lùng tìm đốt<br />
sạch ra tro hết tất cả sách vở khiến thức nhân loại, nhưng cuối cùng, đành bó tay trước lòng can đảm tột<br />
cùng của những người một lòng yêu quý sách, chịu hy sinh tất cả để cho văn chương kiến thức được<br />
trường tồn.<br />
Và cũng chính trong cái tiệm sách Farenheit 451 mà tôi đã tìm thấy ra được tập Tử-Thư Tây-<br />
Tạng lần đầu tiên! Một điều tôi không bao giờ ngờ đến... Cái thành phố làm bối cảnh đóng phim tình đã<br />
đem trả về cho tôi tập kinh viết về sự chết và cái chết, về âm thanh và ánh sáng, của một cõi bao la<br />
không thể nghĩ bàn.<br />
Đó là bản dịch bằng Anh-Ngữ của ông Walter Y. Evans-Wentz, giáo sư đại học Oxford tại Anh<br />
quốc. Bản dịch này được phát hành lần đầu vào năm 1927. Thật ra, đây là một công trình nhuận biên<br />
của giáo sư Evans-Wentz khởi đầu từ tài liệu được cung cấp bởi một số người Tây-Tạng trong đó có<br />
ông Kazi Dawa Samdup. Ông Kazi Dawa Samdup đã từng là thông dịch viên cho chính quyền Anhquốc<br />
ở tiểu quốc Sikkim cũng như cho tòa lãnh sự của Tây-Tạng tại Ấn-quốc. Ông còn là thầy dạy<br />
ngôn ngữ và thông dịch viên riêng của bà Alexandra David-Neel trong thời gian bà trú ngụ tại xứ<br />
Sikkim. Đó là người đàn bà đầu tiên đã khởi đầu những cuộc thám hiểm Xứ Tuyết Tây-Tạng, một<br />
người đàn bà can đảm và phi thường. Ông Kazi Dawa Samdup mất đi vào năm 1922, khoảng 5 năm<br />
trước khi bản dịch Tử-Thư Tây-Tạng đầu tiên được giáo sư Evans-Wentz cho xuất bản, gây ra nhiều<br />
tranh luận sôi nổi ngay trong vuơng triều Anh-quốc và trong giới trí thức khoa bảng tại Luân-Đôn thời<br />
bấy giờ.<br />
Buổi tối trở về phòng trọ ven biển, tôi nằm nhẩn nha đọc quyển Tử-Thư của Evans-Wentz bên<br />
cạnh chồng và chỉ chừng chưa đầy một chục trang sau đó, tôi đã cảm thấy một nỗi thất vọng tràn dâng.<br />
Chưng hửng! Chiếc gối lông ngỗng mà tôi hằng ao ước và mơ tưởng sao không giống một chiếc gối<br />
lông ngỗng chút nào, nó nặng nề, trì trì như một tảng đá. Tôi không thể phủ nhận công trình đồ sộ cũng<br />
như hông thể phủ nhận sự dốc tâm dốc lòng của giáo sư Evans-Wentz, nhưng phải vất vả lắm, tôi mới<br />
có thể bắt ý và đoán mù mờ được về những điều ông đã nhuận dịch. Văn phong của ông là văn phong
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 27<br />
của thời đại..., nó cứng ngắc, thuần lý, thấm nhuần rất nhiều tư tưởng bác học và triết học Tây Phương,<br />
kể cả thần-học (theology). Dùng văn phong đó một cách cứng ngắc để giảng dịch về Phật pháp và về<br />
những điều rất trừu tượng không hiện diện trong ngôn ngữ bình thường hằng ngày, thật là một việc làm<br />
khó khăn cùng tột. Tôi gấp sách lại, còn nhớ rõ cảm giác hụt hẫng và chán nản như chiếc lưới mỏng<br />
giăng quanh quấn lấy người mình. Cảm giác từa tựa giống hai con mắt đang chau mày nhìn vào hai con<br />
mắt khác của mình (cũng đang chau mày) trong gương! Tự hỏi, rồi tự trả lời. Sao mình lại tệ đến mức<br />
này, sao chẳng thể nào thật sự nắm bắt được cái gì hết cả? Sáng ra, tôi nói với chồng tôi, đây là một<br />
quyển kinh đọc bên linh sàng người chết, tả cho họ biết họ sẽ thấy những gì sau khi chết, lại có đầy đủ<br />
từng chi tiết hướng dẫn hương linh người chết phải làm gì, nghĩ gì, hành động như thế nào trong 49<br />
ngày sau khi chết. Đại khái là như vậy, nhưng đọc nhức đầu lắm, hết vị Thần này hiện ra đến vị Thần<br />
kia hiện đến, càng đọc càng thấy rối mù, chẳng thể ghi nhớ lại được gì trong đầu hết! Chồng tôi... xoa<br />
đầu tôi, anh có thói quen nựng vợ lạ lùng như thế, rồi anh bảo đùa với tôi là, mai mốt khi nào cưng lớn<br />
lên thêm chút nữa thì đến lúc đó cưng sẽ hiểu được nhiều hơn.<br />
Năm đó, tôi đúng ba mươi tuổi, không lớn rồi thì là gì? Đợi lớn lên thêm nữa thì biết đợi đến<br />
bao giờ, đợi đến... già ư? Người trẻ thường chẳng bao giờ quan tâm đến cái chết. Đó là đề tài muôn<br />
thuở của người già khi người già đến tuổi biết rằng cái chết sẽ là chiếc trạm ngưng nghỉ cuối cùng<br />
trong đời mình, nơi bao vạn ức người trước đã đi qua, và bao vạn ức người sau sẽ phải tìm đến. Tôi bắt<br />
đầu đặt câu hỏi về cái trạm xe cuối cùng đó cũng vào khoảng năm lên tám lên chín tuổi, khi ngồi bên<br />
thềm nhà xem Bà tôi làm lễ hoá vàng, tụng kinh hoá độ. Câu hỏi không phải "chết là gì", cũng không<br />
phải "chết sẽ ra sao". Không triết lý sâu xa, hiện thực, hay... không hiện thực! Câu hỏi của một đứa bé<br />
con, khi ấy, chỉ đơn giản là... không biết mình sẽ nhớ đến ai nhiều nhất, nhớ đến cái gì nhiều nhất khi<br />
mình chết, bỏ lại sau lưng không biết bao nhiêu là kỷ niệm tươi hồng, búp bê, sách truyện, bố mẹ, bà<br />
ngoại, em trai, cô giáo, chiếc gối mềm chưa từng một ngày xa rời, những hạt mưa lăn tăn như hạt<br />
ngọc... Mấy câu hỏi buồn cười ấy, vậy mà, hoá ra, cuối cùng, lại là những câu nên hỏi! Điều này, mấy<br />
chục năm sau, tôi mới thấu hiểu được, mù mờ như sương nhàn nhạt khi tôi bắt đầu đọc sách dịch Tử-<br />
Thư lần đầu. Và cứ dần dần sáng lên ánh trời quang đãng trong những lần nghiền ngẫm Tử-Thư sau<br />
này qua tay những người dịch khác, sau ông Evans-Wentz. Tôi hiểu ra được rằng chính những gì mình<br />
nghĩ đến, nhớ đến, ước ao đến trong trạng thái giao chuyển sau khi chết, những cảm giác đó, những<br />
hình tượng đó, những mong tưởng đó sẽ chính là chiếc bè đưa tôi qua sông, đến bến. Mà bến sông,<br />
trong hay đục, thấp hay cao, an lành hay sóng gió, cũng tùy thuộc rất nhiều vào đó, vào những cảm<br />
giác, những hình tượng, những mong tưởng dùng làm chiếc bè đưa tôi ra đi khỏi cuộc đời này. Những<br />
điều vừa kể trên, tưởng rất đơn sơ mà thật ra là thăm thẳm sâu không trông thấy đáy, trân châu ngọc<br />
quý cũng chẳng thể sánh bằng, như một mảnh ván gỗ già nua bỗng biến thành chiếc phao cứu người<br />
trên biển cả. Tôi sẽ viết thêm sau về những điều này trong những chương sắp tới, những khám phá lẽ dĩ<br />
nhiên không phải của tôi, về cái cõi sáng không thể nghĩ bàn của giai đoạn giao chuyển sau khi chết.<br />
Rời phòng trọ ven biển, tôi đem bản dịch quyển Tử -Thư của ông Evans-Wentz về nhà, cất lên kệ, lâu<br />
lâu vẫn nhớ đến nó, nhưng chẳng bao giờ có can đảm đọc lại một cách nghiêm chỉnh cho tới nơi tới<br />
chốn. Một đôi khi, tôi lấy nó xuống, ngồi ngắm nghía cái bìa màu đen tuyền có vẽ hình một ngọn lửa<br />
cháy đỏ rực, lật lật vài trang ra xem, nhìn chữ mà như không thấy chữ, mân mê, ngẫm nghĩ một hồi rồi<br />
lại cất nó trở lại lên trên kệ.<br />
Khoảng thời gian ấy, con trai đầu lòng của chúng tôi sắp sửa tròn hai tuổi. Chúng tôi rời căn nhà<br />
nhiều bóng tối hơn ánh sáng ở Irvine, dọn đến một căn nhà mới rất xinh xắn lưng đồi Laguna Niguel,<br />
gần vịnh Dana thuộc phía Nam Cali. Hoàn toàn khác hẳn! Căn nhà mới là một cõi sáng mênh mông!<br />
Ánh nắng hồng và tươi rói luôn luôn tràn vào những khung cửa kính lớn, từ sớm tinh mơ cho đến ráng<br />
chiều, không ngưng một phút. Lâu lâu chúng tôi có muốn đi... trốn nắng một chút cũng chẳng thể được<br />
- chẳng biết trốn vào đâu được trong căn nhà đó! Đó là một căn-nhà-mặt-trời ! Sau nhà là một triền đồi
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 28<br />
thoai thoải, mởn xanh. Mùa xuân hoa vàng mọc tràn lan nhiều như... bươm bướm, từng đàn từng đàn<br />
hớn hở đuổi bắt nhau trên mảng đồi non! Tôi nghỉ làm ở nhà từ ngày mang thai con đầu lòng, chưa bao<br />
giờ ở trong một căn nhà đem đến cho tôi nhiều niềm vui mới toanh, nhẹ nhàng như thế. Hằng ngày, tôi<br />
lái xe xuống vịnh, dẫn con đi dạo bộ hoặc cho con chơi cát, hai mẹ con cũng vẫn thường hay ném bánh<br />
vụn cho chim hải âu ăn. Cuối tuần, ba bố mẹ con dẫn nhau ra vịnh, ngồi ngắm những cánh thuyền<br />
buồm thong thả giong xa, những cánh buồm nõn nà như có phết kem trắng mịn, lướt êm trên mặt nước<br />
với phong thái ung dung tự tại của một kẻ nhàn cư !<br />
Đằng sau giải biển lấp lánh ánh hồng, an bình và trải rộng, những rặng núi ở Tây-Tạng cứ mờ<br />
nhạt dần đi. Cả quyển Tử-Thư trong tôi cũng thế! Mọi thứ nằm yên, thụ động, ngái ngủ, giống như một<br />
đứa bé... .<br />
3.<br />
Bỏ rơi Evans-Wentz, tôi bắt đầu đọc sách dịch của Nguyên Phong, quyển đầu tiên mang tựa Đường<br />
Mây Qua Xứ Tuyết, một loại tự truyện của một vị Lạt-Ma Tây Tạng tên Govinda. Đến nay, tôi không<br />
còn nhớ được hầu hết tất cả những gì đã đọc được trong quyển sách đó, chỉ duy có một khung cảnh 1 là<br />
không sao quên được. Đó là cảnh Lạt-Ma Govinda miêu tả gia đình ông tưng bừng nôn nức chuẩn bị<br />
cho ông lên đường đi xuất gia làm một Lạt-Ma tí hon... Gia đình ông là một gia đình khá giả, thuộc giai<br />
cấp thượng lưu, kẻ hầu người hạ tấp nập ra vào lo sắp đặt cho những nghi lễ cần thiết trong dịp tiễn ông<br />
đi tu. Những buổi tiệc thết đãi họ hàng, làng xóm, những lời chúc tụng, những túi xách hành trang, bà<br />
mẹ ông trong bộ áo màu sắc tươi vui đẹp mắt nhất, nữ trang lịch lãm nhất, tất cả những gì quý nhất,<br />
sáng nhất, trang trọng nhất, người ta mang ra mặc vào trên người trong dịp ấy. Tôi chỉ nhớ rõ cảm giác<br />
1<br />
Hiệu đính và ghi chú của tác giả vào năm 2004. Cách đây mấy năm, khi viết những giòng chữ này<br />
lần đầu tiên để gửi đăng trên tạp chí Văn Học, tôi đã phạm một lỗi lầm rất lớn. Khi ấy, có một cảnh<br />
tượng cứ hiện lên rõ mồn trong đầu tôi… tôi đinh ninh là tôi đã đọc thấy cảnh này trong quyển<br />
“Đường Mây Qua Xứ Tuyết” do Nguyên Phong dịch từ quển hồi ký “<strong>The</strong> Way of <strong>The</strong> Clouds” của lạtma<br />
Govinda. Tôi cứ đinh ninh như như thế rồi trích dẫn mà không hề kiểm chứng; đây là một việc làm<br />
tắc trách mà lỗi hoàn toàn ở tôi. Sau này tôi mới khám phá ra rằng cái cảnh tượng đó chẳng tìm thấy<br />
đâu ra trong quyển “Đường Mây Qua Xứ Tuyết” mà tôi đã trích dẫn cả! Hoàn toàn không có! Tôi<br />
đâm ra rất ngờ vực về trí nhớ, cách làm việc tắc trách và thiếu nghiêm túc của mình. Cho đến một<br />
hôm, khi nhân duyên đã chín mùi, đại sư trưởng lão Kyabgon Chetsang Rinpoche (vị Sư Tổ đời thứ 37<br />
của giòng phái Drikung Kagyu Mật-tông Tây Tạng) có dịp ghé đến nhà tôi. Trước đó, chị ruột của<br />
ngài, người đã lập gia đình vói anh ruột của đức Đạt-Lai Lạt-Ma, vừa cho ra đời một quyển hồi ký có<br />
tên là “Born in Lhasa”, tường thuật lại lịch sử của giòng dõi đại gia Tsarong lừng lẫy của bà, trong đó<br />
có kể lại chi tiết cảnh gia đình bà tổ chức đưa tiễn đứa con trai yêu quý, tức Sư Tổ Kyabgon Chetsang<br />
Rinpoche, lên đường đi xuất gia như thế nào. Khi ấy ngài chỉ vừa mới lên ba tuổi và được tuyên nhận<br />
là hóa thân đời thứ 37 của vị Tổ giòng truyền thừa Drikung Kagyu. Tôi vừa đọc, vừa xúc động bồi<br />
hồi. Những trang sách vẽ ra những bức tranh sống động, sáng tươi và rõ nét, y như chỉ vừa diễn ra<br />
đâu đó hôm kia hôm qua. Cảnh tượng đó, mấy năm trước khi ngồi xuống viết bút ký “Lama” này, tôi<br />
“tưởng lầm”là đã đọc thấy trong một cuốn sách dịch của Nguyên Phong thì bây giờ lại hiện ra nguyên<br />
vẹn ở đây, trong một quyển hồi ký mà tôi mới vừa mua về! Suy nghiệm mãi về chuyện này thì bây giờ<br />
tôi tin chắc là những hình ảnh đó, dù có trong sách hay không có trong sách, chắc chắn là những kinh<br />
nghiệm mà tôi đã được trực diện trong một quá khứ tiền kiếp xa xôi, và đã trở thành một dấu ấn chắc<br />
nịch, hằn đậm trên trang ký ức luân hồi! Tôi đã viết về cảnh tượng đó như sau khi gửi bài này đến tạp<br />
chí Văn Học lần thứ nhất…
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 29<br />
quen thuộc một cách... bất thường (!) khi đọc về cảnh này, như đã từng đựơc chứng kiến, từng được<br />
tham dự rất nhiều lần. Người Tây-Tạng tổ chức lễ xuất gia cho người thân trong gia đình như tổ chức<br />
một... lễ cưới, đó là dịp hoan hỉ nhất, mãn nguyện nhất, được nhiều lời chúc phúc nhất. <strong>The</strong>o tục lệ cổ<br />
truyền, họ có thể không cả mặc quần áo đẹp trong ngày lễ cưới, nhưng khi dự lễ xuất gia, khi đến thăm<br />
thầy, thăm chùa trong những ngày lễ lớn, họ sẽ mặc lên người những gì lành lặn nhất, đẹp đẽ quí giá<br />
nhất, như thể niềm tôn quý của họ đối với cái đẹp của Phật pháp không những được ủ, tẩm từ bên<br />
trong, mà còn toát cả ra đến bên ngoài.<br />
Quyển sách dịch thứ nhì của Nguyên Phong mà tôi đọc mang tên Hoa Sen Trên Tuyết. Nội dung<br />
của sách viết về cuộc hành trình đi tìm chân lý cuộc đời của một vị bác sĩ y khoa Hoa Kỳ. Cuộc hành<br />
trình ấy đã dẫn dắt ông ta đến tận thành phố Dharamsala, Ần Độ - thủ đô tị nạn của người Tây-Tạng và<br />
là hiện nơi cư ngụ của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Thế giới bắt đầu chú ý đến Đức Đạt-Lai Lạt-Ma rất nhiều<br />
kể từ khi Ngài được trao giải Nobel Hoà-Bình vào năm 1989. Tôi đọc sách dịch của Nguyên Phong,<br />
đọc tập hồi ký Tự Do Trong Lưu Đày của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, đọc thêm nhiều tài liệu báo chí Anhngữ<br />
tường thuật những hoạt động của Ngài.<br />
Bỗng một hôm, như người tỉnh ngủ, tôi bật kêu lên:<br />
- Lạt-Ma! La-ma là... Lạt-Ma!<br />
Ngay khoảnh khắc ấy, tôi tỉnh ngủ... thật! Tôi thấy mình bao năm nay sao ngờ nghệch quá! Y như<br />
người vừa tỉnh khòi bùa mê, bước ra khỏi đêm tăm tối, thấy mọi thứ rõ mồn một như ban ngày.<br />
"Lama" là tiếng nguyên thủy của người Tây-Tạng để gọi một nhà sư, một vị thầy, người hướng dẫn<br />
mình về Phật Pháp. Sách báo Anh-ngữ dùng lại nguyên âm từ ngữ đó. "Lama", giống như là "the Dalai<br />
Lama", tức "Đức Đạt-Lai Lạt-Ma". Chỉ có người Việt bắt chước người Trung Hoa dịch âm "Lama" ra<br />
thành "Lạt-Ma", và tôi, cái đứa bé mơ mộng, ngớ ngẩn năm lên tám tuổi, mới chỉ nhận biết ra được<br />
điều này sau hơn mấy chục năm... mơ ngủ mà thôi!<br />
4.<br />
Gần hai năm nay, căn nhà riêng của chúng tôi bỗng trở thành nơi tiếp đón các vị Đại Lạt-Ma Tây-Tạng<br />
đến vùng này giảng pháp. Có khi mười ngày. Có khi hai tuần. Có khi chỉ vài bữa. Các vị là trưởng lão<br />
thuộc giòng phái Drikung Kagyu, là một hệ trong bốn tông phái chánh của Phật Giáo Tây-Tạng. Nền<br />
tảng của phái Drikung Kagyu, cũng giống như những tông phái Đại-Thừa khác, là phát triển tâm Bồ Đề<br />
và thực hành Bồ-Tát-đạo. Tuy nhiên, một trong những chuyên biệt nổi tiếng nhất của phái Drikung<br />
Kagyu lại là pháp tập Phowa, tức pháp chuyển thần thức khi ta bắt đầu bước vào tiến trình chết và cả<br />
sau khi chết. Tôi chẳng còn phải đi lùng tìm Tử-Thư ở đâu xa. Có nhiều ngày tôi chỉ cần... ngồi yên là<br />
sẽ được nghe giảng giải tỉ mỉ tận tình về cái chết và tiến trình chuẩn bị cho cái chết.<br />
Mùa hè năm 1998, chúng tôi chuẩn bị rời Cali để dọn về miền Đông Hoa Kỳ. Khoảng một vài<br />
tuần trước đó, đang ngồi gà gật giữa trưa, tôi mơ màng thoáng thấy hiện ra một vị sư mặc y vàng đứng<br />
trước mặt tôi, khuôn mặt vị ấy hiền từ sáng rỡ. Về lại miền Đông không lâu sau, một giấc mơ nữa lại<br />
đến với tôi. Tôi thấy tôi ngồi trong căn bếp với mẹ tôi cùng với một vị sư khác. Vị này quấn y màu<br />
rượu chát đỏ sẫm. Cả ba chúng tôi đang ngồi uống trà, và vui vẻ trò truyện với nhau chung quanh một<br />
chiếc bàn tròn. Lúc ấy, tôi vừa nhắc lại một câu hỏi của mẹ tôi và đang chờ để được nghe câu trả lờI<br />
của vị sư ấy. Khi thức giấc, nhớ lại về giấc mơ lạ, tôi phải bật cười chính mình! Nằm mơ thấy một vị sư<br />
ngồi trong bếp nhà mình thay vì ngồi trang nghiêm nơi chánh điện trong chùa thì thật là... mộng mơ<br />
quá đáng! Nhưng tôi nào có ngờ! Lẽ dĩ nhiên, làm sao có thể ngờ!
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 30<br />
Ở miền Đông, căn nhà của chúng tôi nằm trên một miếng đất tương đối rộng, sau nhà là khu<br />
rừng thưa nằm lưng chừng đồi. Đất rừng cũng thuộc vào địa phận đất của chúng tôi, nhưng đất rừng<br />
cao hơn đất nhà cả hơn mười mấy bậc tam cấp. Căn nhà và khu rừng thay đổi tùy theo mùa. Lam, tím,<br />
hồng, mơn mởn mùa xuân, xanh rì rậm rạp mùa hè, vàng ối đỏ rực mùa thu, nõn nà trắng toát mùa<br />
đông. Chẳng khác gì trong thơ Đường! Cỏ lam, trà biếc, rượu vàng, tuyết trắng, màu sắc rất yêu kiều,<br />
ngời ngời từng nét sóng sánh. Thoắt một cái, bỗng một hôm, căn nhà bốn muà của chúng tôi trở thành<br />
nơi tụ hội của các vị Lạt-Ma Tây-Tạng, và rất đông những người từ khắp các nơi đổ về nghe pháp,<br />
không phải người Việt, mà là người Mỹ da trắng, người Mỹ gốc Phi châu, người Gia-Nã-Đại, người<br />
Đức, người Nga, người Do Thái, người Tây-Ban-Nha, người Venezuela, người Ần, người Đài Loan,<br />
người Trung-Hoa, người Tây-Tạng... Chẳng khác nào một trụ sở Liên-Hiệp-Quốc tí hon!<br />
Nhân duyên bất ngờ, hết sức kỳ lạ, sâu đậm một cách khó lường. Một năm bốn mùa. Mỗi mùa<br />
một vị Đại Lạt-Ma. Chúng tôi đâm ra bận rộn hết cả bốn mùa. Những cội rễ của tiền kiếp... trổ hoa, đôi<br />
lúc làm cho chính tôi phải kinh ngạc!<br />
Những buổi sáng nấu xong món cháo bằng lúa mạch hầu thầy tôi, Garchen Triptul Rinpoche, vị<br />
Đại-Lạt-Ma Hoá-Thân sinh trưởng ở vùng Kham, miền Đông Tây-Tạng, chúng tôi hay ngồi ăn chung<br />
với thầy trong căn phòng bếp hoặc phòng ăn nhỏ. Lúc nào ánh nắng ban mai cũng chan hoà, vàng óng<br />
và tươi như những nhánh lau non, phết lên khắp nơi trong phòng một màu lóng lánh! Tôi mới bắt đầu<br />
học nấu món cháo lúa mạch từ khi có các vị Lạt-Ma đến ngụ trong nhà, sáng nào cũng một món đó.<br />
Lúa mạch ngọt thơm tinh khiết, nấu chung với nước, sữa tươi, mật ong, nho khô, quế bột, cộng thêm<br />
với hạnh nhân thái mỏng. Người Tây-Tạng có một món cháo đặc biệt hơi tương tự như món cháo lúa<br />
mạch của tôi, họ gọi là tsampa. Thầy tôi, vị Đại-Lạt-Ma nổi tiếng là bậc giác ngộ, đã được tuyên nhận<br />
là một Hoá-Thân và đã đi tu từ năm lên bảy tuổi. Thầy tôi kể là tại các tu viện Tây-Tạng, sáng nào cũng<br />
như sáng nào, cả chùa cũng điểm tâm chỉ bằng một món tsampa! Bây giờ cũng thế, không khác. Sáng<br />
nào tôi cũng nấu một nồi cháo sáng thật to, và dọn thêm những lát bánh làm bằng lúa mì hoặc bằng ngũ<br />
cốc trét đầy bơ mặn. Đó là thời gian yên lắng nhất và được gần gũi với thầy tôi nhất. Nhiều vị Đại-Sư<br />
cũng đã ngồi ăn sáng trong căn phòng bếp đó, phòng ăn đó. Tôi đã học được rất nhiều từ quý thầy ngay<br />
trong những giây phút sớm mai đơn sơ, đôi lúc còn nhiều hơn cả những khi ngồi nghe thuyết pháp. Hỏi<br />
thầy tôi những câu hỏi không đầu không đuôi vào buổi sáng, hỏi những câu hỏi có phần thâm hậu hơn<br />
một chút cũng vào buổi sáng, được thầy đánh thức tâm mình dậy bằng những câu trả lời thấu đáo cho<br />
những câu hỏi mình chưa kịp lên tiếng hỏi cũng buổi sáng. Nụ cười nở tươi dung lượng của thầy tôi<br />
đọng lại trong nắng, tỏa ra khắp nơi. Tôi tưởng tượng đến những nụ cười dung lượng y như thế trong<br />
hai mươi năm thầy tôi ở trong trại tù Trung Cộng kể từ sau khi Tây-Tạng bị Trung Cộng hoan toàn<br />
cưỡng chiếm. Chưa bao giờ tôi nghe thầy lên tiếng kết án một ai, kể cả những kẻ đã cầm tù thầy. Người<br />
Tây-Tạng kể, trong trại tù, thầy đã kiên trì tiếp tục học pháp của Đức Phật, học hạnh nhẫn nhục của đất,<br />
học tánh từ bi của Bồ-Tát, thầy toạ thiền, nhập định liên tục, và chính ở trong tù, thầy tôi đã đắc pháp.<br />
Nắng sớm rồi cũng có lúc tan, nhưng nụ cười và tấm lòng dung lượng của thầy đã vượt ra khỏi cõi vô<br />
thường tạm bợ này. Nên những buổi điểm tâm tràn nắng mai và ngập tấm lòng từ bi của thầy, cho riêng<br />
chúng tôi, và cho tất cả chúng sinh, chính là những bài pháp thoại quý báu lắm! Tôi ao ước có ngày đủ<br />
được nhân duyên để có thể ghi lại hết những gì tôi học được từ thầy tôi, từ tất cả những vị Lạt-Ma đã<br />
đến ngụ trong căn nhà quanh năm bốn mùa thay đổi, và mỗi bình minh, đã cùng ngồi ăn những bát<br />
cháo lúa mạch nghi ngút khói với chúng tôi.<br />
Nửa đời người, bây giờ tôi mới biết tại sao hai tiếng Lama đã từng theo đuổi tôi từ khi còn bé<br />
thơ, theo đuổi suốt! Bây giờ thì đi đâu cũng thấy Lama hết, chỉ thấy toàn Lama, phòng khách, phòng<br />
ăn, căn bếp,sân trước, rừng sau, lưng đồi! ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 31<br />
Diễm-Âu<br />
Maryland 2002 – Hiệu đính 2004<br />
(Trích Bút Ký ‘Buổi Sáng, Điểm -Tâm Cùng Lạt-ma’ )<br />
**Diễm-Âu là một bút hiệu khác của Tâm-Bảo-Đàn
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 32<br />
Kÿ V†ng Cûa Ân SÜ Tôi<br />
NguyÍn Væn Sª<br />
Suoát cuoäc ñôøi hoïc sinh vaø sinh vieân toâi ñaõ ñöôïc may maén hoïc vôùi khaù nhieàu Thaày gioûi, töø caùc<br />
Freøres raâùt taän tuïy, göông maãu tröôøng Pellerin, Hueá (thuoäc doøng Jean Baptiste de la Salle), nhöõng vò<br />
ñaõ aân caàn chæ daïy toâi vaø ñaõ aûnh höôûng raát lôùn ñeán söï choïn löïa ngheà nghieäp cuûa toâi sau naøy, ñeán caùc<br />
giaùo sö ñaïi hoïc Vieät Nam vaø Hoa Kyø, haàu heát ñeàu laø nhöõng vò suoát ñôøi gaén boù vôùi ngaønh giaùo duïc.<br />
Caùc vò laø göông saùng cho toâi neo theo trong suoát cuoäc ñôøi daïy hoïc cuûa toâi baét ñaàu töø nieân khoùa<br />
1960-1961 cho ñeán nay. Raát tieác laø phaàn lôùn caùc vò ñeàu ñaõ qua ñôøi. Moät vaøi vò toâi coøn giöõ lieân laïc<br />
ñöôïïc ôû California thì ñaõ höu trí.<br />
Trong soá nhöõng baäc Thaày ñaõ ñi qua ñôøi toâi, ñaëc bieät coù moät ngöôøi ñaõ ñeå laïi trong toâi raát<br />
nhieàu löu luyeán, thöông tieác vì luùc sinh tieàn OÂng ñaõ ñeán vôùi toâi nhö moät aân sö. OÂng khoâng höôùng<br />
daãn toâi phaàn chuyeân moân ôû ñaïi hoïc, lieân heä ñeán caùc ngaønh ngoân ngöõ hoïc, ngöõ aâm hoïc, ngöõ vò hoïc,<br />
hay ngöõ nghóa hoïc maø toâi ñaõ phaûi maát nhieàu naêm nghieân cöùu, tìm hieåu. Nhöõng ñieàu OÂng noùi vôùi toâi<br />
cuõng khoâng lieân heä gì ñeán caùc moân phöông phaùp luaän, taâm lyù giaùo duïc, taâm lyù-ngoân ngöõ hoïc, hay xaõ<br />
hoäi-ngoân ngöõ hoïc, nhöõng moân hoïc ñaõ giuùp toâi trôû thaønh moät giaùo sö Anh ngöõ. Nhöng OÂng ñaõ coù<br />
coâng daãn daét toâi trong nhöõng böôùc ñaàu ñi tìm moät phaùp moân giaûi thoaùt phieàn naûo, khoå ñau döïa treân<br />
cô sôû nhöõng lôøi Phaät daïy.<br />
Chuyeän toâi muoán keå laïi ôû ñaây laø söï tình côø lyù thuù ñaõ cho toâi caùi cô duyeân ñöôïc bieát ñeán OÂng<br />
ñeå roài töø ñoù baét ñaàu nhöõng naêm thaùng ñöôïc OÂng san seû nhöõng kinh nghieäm quyù baùu veà ñôøi cuõng nhö<br />
veà ñaïo. Sau naøy moãi laàn nghó nhôù ñeán OÂng, toâi cho laø do soá phaàn may maén toâi môùi ñöôïc gaëp gôû<br />
OÂng sau saùu naêm ñi tuø caûi taïo veà. Teân OÂng laø Tröông Khueâ Quan, Baùc syõ, Vieän tröôûng Vieän Quoác<br />
gia Nghóa töû thôøi Ñeä nhò Coïng hoøa. OÂng goác ngöôøi Mieàn Nam. Qua quaù trình tu taäp vaø nghieân cöùu<br />
kinh saùch, lòch söû Phaät giaùo Vieät nam cuõng nhö qua caùc lieân heä vôùi caùc vò laûnh ñaïo Phaät giaùo tröôùc<br />
1975, oâng coù moät taàm hieåu bieát thaâm saâu veà Phaät giaùo vaø söï phaùt trieån cuûa Phaät giaùo Vieät Nam.<br />
Sau khi töø traïi tuø Gia Trung naèm trong thung luõng An Kheâ veà laïi Saøi goøn vaøo thaùng 5.1981<br />
ñöôïc vaøi thaùng toâi baét ñaàu tìm caùch ñi daïy keøm ñeå kieám soáng, ñoàng thôøi cuõng ñeå deã xin vaøo hoä khaåu<br />
cho gaàn gia ñình. Nhöõng naêm ñaàu thaäp nieân 1980 coøn nhieàu vaát vaû, khoù khaên nhö bao nhieâu anh em<br />
khaùc ñöôïc thaû veà tröôùc toâi ñaõ chòu. Maõi ñeán khoaûng giöõa thaäp nieân 1980, khi tình hình kinh teá quaù<br />
suy suïp, chính quyeàn coïng saûn ñaàu taét, maët toái vôùi nhöõng phöông caùch kieám aên, baét ñaàu bôùt chuù yù<br />
ñeán thaønh phaàn hoïc taäp caûi taïo veà, töø ñoù söï kieåm soaùt cuõng bôùt gaét gao, khaéc nghieät, vaø nhöõng anh<br />
em nhö toâi môùi coù theå taïm soáng baèng ngheà daïy keøm, tuy khoâng ñöôïc pheùp chính thöùc.<br />
Keøm töøng nhoùm khoaûng 10 em, bieán phoøng khaùch nhaø mình thaønh lôùp hoïc, vöøa keøm vöøa lo<br />
sôï nôm nôùp, khoâng bieát Phöôøng, Quaän coù ñeå yeân cho hay khoâng. Laïi nöõa moãi Phöôøng, moãi Quaän<br />
noùng laïnh khaùc nhau. Bôûi theá anh Phaïm Keá Vieâm ôû Quaän 3 daïy taïi nhaø maø lôùp ñoâng nhö caùc lôùp tö<br />
tröôùc 1975, coøn toâi ôû Quaän Phuù Nhuaän chæ daùm nhaän raát ít, tuøy vaøo söï “thoâng caûm” cuûa coâng an khu<br />
vöïc vaø taøi “vaän ñoäng ngoaïi giao” cuûa nhaø toâi. Luoàng laùch trong nhöõng ñieàu kieän nhö theá maø soáng<br />
cho ñeán thaùng 1.1990 môùi ñöôïc qua Hoa Kyø theo dieän HO.<br />
Caùc lôùp toâi daïy vaøo thôøi ñoù khoâng coù khai giaûng, khoâng coù maûn khoùa. Caùc em cöù hoïc lieân<br />
tuïc. Em naøo may maén “ra ñi” yeân oån seõ ñöôïc thay theá baèng moät em khaùc coù trình ñoä gaàn töông<br />
ñöông, cöù theá maø tieáp tuïc. Sau moät thôøi gian daïy heát caùc boä saùch coøn tìm ñöôïc ôû caùc chôï saùch cuõ
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 33<br />
(nhö Essential English, English 900, English for Today …) toâi ñaùnh baïo photocopy caùc essays töø tuaàn<br />
baùo Newsweek hoaëc Times ñeå daïy caùc em. Caùc baùo naøy toâi thueâ ñöôïc töø maáy tay cho thueâ laäu, moãi<br />
soá ñöôïïc ñoïc trong voøng 24 giôø roài phaûi traû laïi ñeå hoï cho ngöôøi khaùc thueâ. Caùc tay naøy coù ñöôïc baùo<br />
laø nhôø moùc ngoaëc vôùi an ninh phi tröôøng Taân Sôn Nhaát. Coù maáy ai bieát ñöôïc caùi ngheà môùi cho thueâ<br />
baùo ngoaïi ngöõ laäu vaøo thôøi ñoù!<br />
Vì lôùp hoïc keùo daøi nhieàu naêm maø taøi lieäu giôùi haïn, toâi coøn xöû duïng ñeán caùc kòch baûn, hoài ñaàu<br />
laø nhöõng kòch baûn moät maøn (one-act plays), keá ñoù laø nhöõng kich daøi nhö Death of a Salesman (Arthur<br />
Miller), <strong>The</strong> Glass Menagerie (Tennessee Williams), hay Pygmalion (George Bernard Shaw). Moät<br />
giai thoaïi ñaùng nhôù coù lieân quan ñeán GS Tröông Vaên Thuaän (Khoa Anh Vaên, Vaên Hoaù Vuï/TVBQG)<br />
laø khoaûng naêm 1983 toâi coù choïn moät kòch baûn ñöôïc chuyeån theå töø moät truyeän ngaén cuûa Nathaniel<br />
Hawthorne coù teân laø Dr. Heidegger’s Experiment hay <strong>The</strong> Fountain of Youth ñeå in roneo vaøo moät<br />
taäp taøi lieäu daønh cho caùc lôùp Anh Vaên cao caáp ôû Trung Taâm Boài Döôõng Baùch Khoa. Kòch baûn naøy<br />
ñöôïïc laáy ra töø taäp People, Places and Opinions cuûa 3 taùc giaû Swain, Bailey, and <strong>Le</strong>avell (1961), moät<br />
cuoán caùch ñöôïc soaïn ñeå daïy caùc nhaân vieân laøm vieäc cho Lieân Hieäp Quoác.<br />
<strong>The</strong> Fountain of Youth (Suoái Tröôøng Sinh) laø moät cuoäc thí nghieâm xem thöû khi veà giaø ñöôïc<br />
uoáng nöôùùc suoái tröôøng sinh vaø treû laïi, lieäu ta coù haønh ñoäng, öùng xöû khoân ngoan hôn khoâng hay vaãn<br />
noâng noåi, lieàu lónh, vaø ñieân roà nhö thôøi treû daïi. Keát quaû laø caùc nhaân vaät trong kòch sau khi ñöôïc treû<br />
laïi cuõng vaãn giöõ nguyeân veïn thoùi hung haêng, thieáu suy nghó chính chaén nhö bao nhieâu ngöôøi treû tuoåi<br />
khaùc. Coù ñieàu laø moät trong nhöõng nhaân vaät trong kòch ngaøy tröôùc laø moät chính trò gia baây giôø treû laïi<br />
vaãn giöõ nguyeân leà thoùi cuõ vaø trong luùc say söa vaän ñoäng ñaõ coù luùc theùt leân “Ñaû ñaûo ñoäc taøi! Ñaû ñaûo<br />
coïng saûn!” (Down with tyranny! Down with communism.) Toâi chæ löïa baøi tuøy theo ñoä khoù cuûa baøi<br />
hoïc maø queân maát caûnh giaùc veà söï nguy hieåm coù theå gaëp phaûi vì noäi dung chính trò. <strong>The</strong>á môùi bieát<br />
khoâng coù caëp maét cuûa moät chính trò vieân coïng saûn (political commissar) hay moät nhaân vieân kieåm<br />
duyeät vaên hoùa phaåm laøm sao ñeå yù thaáy nhöõng chi tieát nhö vaäy!<br />
Sau khi saùch in xong vaø baùn cho hoïc vieân, moät soá hoïc vieân cuûa Thuaän baùo cho Thuaän bieát söï<br />
nguy hieåm noùi treân vaø anh em trong Trung Taâm Boài Döôõng Baùch Khoa hoài ñoù ñaõ kòp thôøi thu hoài taát<br />
caû vaø huûy ñi. Toâi laø ngöôøi löïa baøi, dæ nhieân phaûi laûnh chòu traùch nhieäm neáu nhö vuï sô xuaát naøy<br />
khoâng ñöôïc thoâng caûm, boû qua. Duø sao trong nhöõng ngaøy tieáp theo sau ñoù toâi cuõng ñaõ soáng trong<br />
phaäp phoøng, lo laéng, vì tai hoïa trôøi giaùng coù theå xaûy ñeán baát cöù luùc naøo.<br />
Keå laïi giai thoaïi treân laø ñeå noùi tieáp trong hoaøn caûnh naøo Baùc Syõ Tröông Khueâ Quan ñaõ ñeán<br />
vôùi toâi vaø sau ñoù trôû thaønh aân sö cuûa toâi. Soá laø Baùc Syõ Quan coù moät ngöôøi con gaùi theo hoïc vôùi toâi<br />
teân laø Tröông Thuøy Trang. Vaøo nhöõng dòp <strong>Le</strong>ã, Teát, caùc lôùp hoïc vôùi toâi thöôøng choïn taäp moät vôû kòch<br />
ngaén ñaõ hoïc ñeå trình dieãn cho nhau xem, vaø lôùp cuûa Trang cuõng theá. Ñaây laø moät loaïi hình sinh hoaït<br />
toâi khuyeán khích ñeå caùc em phaùt trieån theâm veà kyû naêng noùi tieáng Anh cho troâi chaûy, löu loaùt, töï<br />
nhieân. Sau khi döï moät buoåi trình dieãn nhö theá, ngaøy 31.10.1985 OÂng ñaõ vieát cho toâi moät laù thö vôùi<br />
nhaän xeùt nhö sau:<br />
“Thaày laø moät Giao sö Anh vaên. Traùch vuï cuûa Thaày laø daïy cho caùc hoïc sinh noùi ñöôïc tieáng<br />
Anh ñuùng vaên phaïm, dieãn taû tö töôûng, yù muoán, tình caûm caøng gaàn gioáng ngöôøi Anh caøng toát. Veà maët<br />
naøy, phaûi noùi laø Thaày ñaõ thaønh coâng. Teát naêm roài, toâi coù dòp laøm khaùn giaû cuûa moät vôû kòch do caùc<br />
hoïc sinh dieãn xuaát baèng tieáng Anh, vaø ñaõ coù caûm nghó raèng taát caû dieãn vieân laø nhöõng boâng hoa<br />
xöông roàng trong baõi sa maïc. Toâi ñaõ traûi qua nhöõng phuùt thích thuù baát ngôø. Neáu söï vieäc xaûy ra ôû<br />
Tröôøng Ñaïi hoïc Michigan thì ñoù khoâng laøm cho toâi kinh ngaïc. Nhöng vôû kòch ñaõ ñöôïc ñoùng taïi Vieät
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 34<br />
Nam, do hoïc vieân baûn xöù dieãn xuaát. Phaûi noùi ñoù laø moät ñieàu laï luøng. Nhaát laø taïi Vieät Nam naêm<br />
1985.”<br />
Ñoaïn thö treân cho thaáy Baùc Syõ Quan ñaõ nhaän xeùt raát xaùc ñaùng veà “traùch vuï” cuûa moät ngöôøi<br />
daïy ngoaïi ngöõ, nhöng OÂng khoâng chæ ngöøng laïi ôû ñoù maø coøn nhieàu gôiï yù khaùc raát ñaùng traân troïng:<br />
“Toâi caûm thaáy caàn phaûi gôûi lôøi khen taëng Thaày, ñoàng thôøi ñoùng goùp vôùi Thaày moät vaøi yù kieán<br />
xaây döïng. Toâi khoâng coù dòp tieáp xuùc ñeå ñaùnh giaù caùc hoïc vieân khaùc, nhöng veà chaùu Trang so vôùi hai<br />
naêm tröôùc ñaây thì phaùt aâm ñuùng ñaén, ngöõ vöïng doài daøo, kieán thöùc veà vaên hoùa Myõ Quoác keå cuõng taïm<br />
ñuû. Ngay töø baây giôø, cöù neùm chaùu vaøo xaõ hoäi nöôùc Myõ, chaéc chaén laø chaùu seõ khoâng coøn bôû ngôû, rutï<br />
reø nhö caùch ñaây hai naêm. Tuy nhieân, theo yù rieâng toâi, thì sôû hoïc con ngöôøi khoâng chæ ñoùng khung<br />
trong söï thoâng thaïo ngoân ngöõ, moät phöông tieän truyeàn thoâng tö töôûng khoâng thoâi. Treân vieäc thoâng<br />
thaïo ngoaïi ngöõ coøn coù vieäc lôïi duïng tieáp thu ngoaïi ngöõ ñeå naâng cao giaù trò tinh thaàn con ngöôøi, ñoàng<br />
thôøi noùi leân cho ñöôïc nhöõng öu ñieåm cuûa neàn vaên hoùa daân toäc. Ai ñi hoïc tieáng Myõ cuõng kyø voïng tìm<br />
ñöôïc sinh keá beân ñoù. Coù maáy ai hoïc tieáng Myõ ñeå khi sang ñöôïc Myõ, hoäi nhaäp vaøo xaõ hoäi Myõ ñeán<br />
möùc ñoä ñoùng goùp vaøo neàn vaên minh ñoù, laøm cho noù theâm phaàn phong phuù baèng tinh hoa cuûa vaên hoùa<br />
daân toäc mình. Ngöõa tay thu nhaän daàu sao cuõng khoâng baèng ra tay ñoùng goùp xaây döïng. Ñoù laø loaïi<br />
hoäi nhaäp tích cöïc (integration active et positive). Toâi coi ñoù nhö laø moät lyù töôûng cuûa thaønh phaàn<br />
ngöôøi Vieät ra ñi “trong voøng traät töï.” Noùi nhö vaäy seõ coù ngöôøi cho raèng toâi baøn vieäc leân cung traêng.<br />
Nhöng Napoleon ñaõ noùi, töø “impossible” khoâng coù trong töï ñieån nöôùc Phaùp, vaø Louis Armstrong ñaõ<br />
choïn ñònh nghóa cuûa Napoleon laøm ñôn vò cho cuoäc ñôøi cuûa anh ta. Vaø anh ta ñaõ thaønh coâng.”<br />
Vaøo thôøi ñieåm 1985 taïi Vieät Nam, trong moät xaõ hoäi böng bít, ngoät ngaït, maáy ai thaáy ñöôïc aùnh<br />
saùng töông lai, maø OÂng vaãn nhaén nhuû nhöõõng ngöôøi ñang hoïc ngoaïi ngöõ chuaån bò töø giaû queâ höông<br />
raèng quaù trình hoäi nhaäp treân ñaát môùi phaûi laø moät quaù trình “tích cöïc”, thaät quaû laø moät caùi nhìn ñaày<br />
laïc quan, xaây döïng. OÂng vieát tieáp:<br />
“Nhaân tieän toâi xin keå laïi moät tyû duï hoäi nhaäp thaønh coâng cuûa moät ngöôøi tî naïn, ñoù laø Benedict<br />
de Spinoza. OÂng ta voán laø ngöôøi Do Thaùi, gia ñình laäp nghieäp taïi Y Pha Nho. Ñeán giöõa theá kyû thöù<br />
17, vua Ferdinand nöôùc naøy coù yù ñònh tòch thu taøi saûn cuûa daân Do Thaùi neân kyù saéc lònh baét buoäc<br />
ngöôøi Do Thaùi, neáu khoâng boû ñaïo, theo Thieân Chuùa Giaùo, seõ bò truaát höõu. Spinoza theo cha di cö<br />
vaøo ñaát nöôùc Hoøa Lan. OÂng ta töø boû tieáng meï, hoïc chöõ La tinh, bò excommunie ra khoûi ñaïo Juive,<br />
vieát xong boä Ethique noåi tieáng cho ñeán ngaøy nay. Tö töôûng cuûa Spinoza ñaõ un ñuùc tinh thaàn hieáu<br />
khaùch, phoùng khoaùng cuûa daân toäc Hoøa Lan maø theá giôùi hieän nay ai cuõng thaùn phuïc. Hieän giôø taïi<br />
thaønh phoá La Haye, ngöôøi Hoøa Lan thieát laäp moät Trung taâm nghieân cöùu veà tö töôûng Spinoza maø hoïc<br />
giaû ngoaïi quoác naøo cuõng ñeán thaêm vieáng.<br />
“Chieàu ngaøy 31 thaùng 10 naêm 1985, toâi gôûi Thaày quyeån saùch vì nghó raèng chæ coù Thaày môùi<br />
hoäi ñuû ñieàu kieän giuùp ñôû hoïc sinh Vieät Nam khai trieån vaên hoùa khaû dó giuùp hoï, neáu coù theå ñöôïc,<br />
hoaøn thaønh lyù töôûng noùi treân. Bieát ñaâu trong nöûa trieäu ngöôøi di cö sang Myõ laïi chaúng coù moät<br />
Spinoza Vieät Nam, vaø ngöôøi ñoù laø hoïc troø cuûa Thaày. Moät nhaø vaên truùng giaûi Nobel (Pearl Buck?)<br />
naêm 1963 coù noùi: La vie est faite d’espoir, et l’espoir fait vivre.”<br />
Ñaây laø böùc thö ñaàu tieân Baùc Syõ Quan gôûi cho toâi vôùi nhöõng yù kieán raâùt caáp tieán veà chöùc naêng<br />
cuûa moät ngöôøi daïy ngoaïi ngöõ, nhaát laø vaøo thôøi ñieåm 1985 taïi Vieâït Nam, nhöõng yù kieán ñaõ ñoäng vieân<br />
tinh thaàn toâi vaø laøm toâi suy nghó raát nhieàu veà coâng vieäc mình ñang laøm vaø phaûi laøm ñeå xöùng ñaùng<br />
vôùi kyø voïng cuûa moät baäc phuï huynh coù moät taàm nhìn nhö OÂng. Cuõng chính böùc thö naøy laø moät caùi<br />
duyeân ñöa daãn toâi ñeán vôùi OÂng vaø sau ñoù hoïc hoûi vôùi OÂng cho ñeán ngaøy OÂng cuøng gia ñình leân
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 35<br />
ñöôøng sang Hoøa Lan theo dieän ñoaøn tuï vôùi moät ngöôøi con gaùi lôùn laäp nghieäp ôû ñoù vaøo cuoái thaäp<br />
nieân 1980.<br />
Ñoái vôùi soá ñoâng anh em chuùng toâi sau nhöõng naêm tuø caûi taïo veà, coù hai loaïi hình sinh hoaït<br />
khaù phoå bieán: taäp Thaùi cöïc döôõng sinh ñeå phuïc hoài söùc khoûe, ngaên ngöøa beänh taät, vaø daønh nhieàu thì<br />
giôø hôn ñeå chaêm soùc ñôøi soáng taâm linh. Veà sinh hoaït thöù hai naøy, tröôùc toâi ñaõ coù nhieàu nhoùm ñöôïc<br />
Baùc Syõ Quan höôùng daãn nghieân cöùu, hoïc taäp caùc boä kinh Phaät giaùo Ñaïi thöøa cuõng nhö caùc phöông<br />
phaùp tu taäp cuûa caùc Toå maø kinh saùch coøn giöõ ñöôïc. Phaàøn lôùn caùc ngöôøi nghe OÂng giaûng phaùp ñeàu laø<br />
nhöõng vò coù tuoåi, coù hoïc vò cao, coù chöùc phaän trong chính quyeàn cuõ, coù ngöôøi laø baïn cuûa OÂng, xaáp xæ<br />
tuoåi OÂng. Trong soá ñoù baây giôø coù ngöôøi ñaõ xuaát gia, thoï giôùi, coù ngöôøi phaùt taâm tu taïi gia nhö anh<br />
chò Buøi Nhöû Tieáp (baøo huynh cuûa GS Buøi Nhöû Truï, Vaên Hoaù Vuï/TVBQG; anh toát nghieäp ngaønh caàu,<br />
ñöôøng ôû Phaùp, coøn chò laø döôïc syõ), coù ngöôøi ghi laïi caùc kinh nghieäm thöïc chöùng cuûa chính mình ñeå<br />
phoå bieán trong anh em ñoàng ñaïo nhö Nhi Baát Nhöôïc (tuïc danh Nguyeãn Naêng Nhu, cöïu tuø caûi taïo<br />
caáp taù), taùc giaû taäp saùch “Giaûi Thoaùt Töùc Thì”.<br />
Rieâng toâi may maén ñöôïc OÂng haèng tuaàn ñeán tậân nhaø giaûng phaùp cho nghe. Cuõng taïi caùi baøn<br />
daøi trong phoøng khaùch maø ngaøy ngaøy toâi vaãn daïy hoïc, toâi trôû thaønh moät ñeä töû chaêm chuù laéng nghe<br />
vaø ghi cheùp, coøn OÂng ñöùng tröôùùc baûng ñen vôùi cuïc phaán traéng treân tay. OÂng raát coù taøi aên noùi haáp<br />
daãn, maïch laïc, bao giôø cuõng hoaït baùt, löu loaùt, minh hoïa boùng baûy, ngoân töø ñaày nhöõng aån duï, so<br />
saùnh ñoäc ñaùo, hình aûnh soáng ñoäng, khi phaân tích thì saâu saét, daãn chöùng phong phuù, khi toång hôïp thì<br />
khuùc trieát, minh baïch, thaéc maéc ôû ñaâu OÂng giaûi ñaùp ôû ñoù roõ raøng, daãn chöùng ñaày ñuû. OÂng gioûi tieáng<br />
Phaùp, tieáng Anh, ñoïc ñöôïc tieáng Phaïn, tieáng Pali, vieát ñöôïc chöõ Haùn, cho neân buoåi giaûng naøo cuûa<br />
OÂng cuõng raát lyù thuù. Chæ moät töø trong kinh nhieàu khi OÂng phaân tích, giaûng giaûi caû buoåi. Toâi laø ngöôøi<br />
daïy ngoaïi ngöõ laâu naêm maø nghe OÂng giaûng kinh cuõng phaûi meâ, coøn meâ hôn caû nghe caùc Thaày maø<br />
toâi ñaõ ñöôïc dòp nghe giaûng phaùp ôû chuøa.<br />
Hoài ñaàu chæ coù moät mình toâi. Sau moät thôøi gian moät soá caùc baïn ñoàng nghieäp cuûa toâi ôû Ñaïi<br />
hoïc Vaên khoa vaø Ñaïi hoïc Sö Phaïm nghe tieáng OÂng cuõng ñeán tham döï. Nhöõng ñieàu toâi tieáp thu trong<br />
nhöõng buoåi giaûng naøy cuõng nhö raát nhieàu nhöõng böùc thö keá tieáp maø OÂng vieát rieâng cho toâi laø nhöõng<br />
baøi hoïc quyù giaù nhaát ñôøi toâi ñaõ aûnh höôûng raát lôùn ñeán caùch nhìn vaø loái soáng cuûa toâi töø ñoù cho ñeán<br />
nay. Bôûi vaäy maø toâi traân troïng nghó töôûng veà OÂng nhö moät aân sö.<br />
Moãi laàn töø Hoøa Lan qua Myõ thaêm baø con OÂng ñeàu goïi ñieän thoaïi cho toâi ñeå toâi ñeán thaêm<br />
OÂng, môøi OÂng thôøi côm chay, hoaëc ñöa OÂng ñi ngoaïn moät caûnh chuøa. OÂng maát gaàn nay ôû Hoøa Lan,<br />
nheï nhaøng, thanh thoaùt, sau moät côn ñau tim ñoät ngoät. Buùt tích cuûa OÂng ñeå laïi cho toâi, toâi vaãn coøn<br />
giöõ. Vaø hai tieáng “bieát ñaâu” cuûa OÂng trong böùc thö ñaàu tieân gôûi cho toâi, toâi vaãn nhôù. Vôùi taát caû hy<br />
voïng laø –khoâng phaûi trong soá nhöõng sinh vieân ñaõ theo hoïc vôùi toâi—maø trong soá nhöõng con em trong<br />
caùc coäng ñoàng Vieät Nam thuoäc theá heä thöù hai taïi Hoa Kyø cuõng nhö ôû caùc nöôùc treân khaép naêm Chaâu,<br />
seõ khoâng chæ coù moät maø coøn coù nhieàu “Spinoza Vieät Nam” vôùi nhöõng ñoùng goùp xöùng ñaùng ñeå ñôøi<br />
ñoái vôùi neàn vaên hoùa cuûa nhöõng ñaát nöôùc ñaõ cöu mang, ñuøm boïc mình. Ñuùng nhö kyø voïng cuûa aân sö<br />
toâi. ■<br />
Nguyeãn Vaên Sôû
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 36<br />
RÆp Rình Thi Ca<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Tùy Bút<br />
Trong Truyện Kiều Việt Nam có đoạn Nguyễn Du tiên sinh tả cảnh vị anh hùng Từ Hải tái hơp với<br />
nàng Kiều trong một buổi tiệc liên hoan rộn rịp tưng bừng với binh tướng của Từ.<br />
Với hai câu thơ lục bát kỳ thú sau đây quang cảnh lễ khao quân đã được thi hào<br />
Nguyễn Du mô tả một cách linh hoạt tài tình:<br />
Tiệc bày thưởng tướng khao binh<br />
Thì thùng trống trận rập rình nhạc quân …<br />
Cứ mỗi lần mục kiến một nghi lễ quân cách có diễn hành thì hai chữ “rập rình” lại hiện về trong tâm trí<br />
tôi như một ám ảnh thân thương … Và tôi lại càng xuýt xoa càm phục các vị tiền bối của tôi đã sáng<br />
tạo giùm tôi môt hệ thống ngôn ngữ kỳ diệu, có sức tượng hình và tượng âm mạnh mẽ, khi rập rình như<br />
nhip điệu nhạc quân hành, lúc du dương trầm bổng như ca như hát…Khách du lịch ngoại quốc có<br />
người nhận xét về tiếng Việt rằng nghe phụ nữ Việt Nam nói chuyện kháu với nhau như nghe một<br />
bầy… họa mi ríu ra riu rít…. Có lẽ những du khách đó cũng không nói ngoa làm chi hỉ?<br />
Hai đặc tính du dương trầm bổng và rập rình đó đã nằm trong tiềm thức của tôi “ từ khi mới ra đời” -<br />
và vì được sử dụng tự động hằng ngày như hơi thở nhip nhàng của tôi nên không còn được tôi lưu ý<br />
mấy, cho đến khi tôi … tập làm thơ …Haiku Nhât Bản . Loại thơ này khá phổ thông quốc tế vì nó<br />
ngắn gọn, cô đọng, vỏn vẹn chỉ có 3 câu 5-7-5 âm tự (Syllable) – không cần vần và thanh luật bằng<br />
trắc, như thơ thất ngôn hay thơ lục bát Viêt Nam. Quả là giãn dị! thích ứng và hợp hòa với loại thơ<br />
Thiền, tuy ngắn gọn mà hàm ẫn một triết lý sâu xa…<br />
Nay chẳng những tôi “du nhập” thể thơ Haiku sang thơ VN mà lai còn nới rộng pham vi sữ dụng nó
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 37<br />
trong lãnh vực trữ tình lãng mạn, thảo nào nó chẳng “có vấn đề”… “lắt lẻo gập ghềnh khó đi”…Ví dụ<br />
bài Haiku VN sau đây – mà bạn tôi đã “tủm tỉm” phê bình là …“không giống ai” hêt trơn!<br />
MẦU XANH NÚI NGỰ - Bài 1<br />
Cầu Trừơng Tiền mấy nhip?<br />
Anh về bên kia còn nhớ không<br />
Núi Ngự mầu xanh lơ<br />
Phân tách Bài Haiku 1 trên đây tôi thấy tuy nó hội đủ điêu kiện 5-7-5 của thơ Haiku Nhật Bản, nhưng<br />
bởi “ cấu trúc” mới lạ, nên khi đọc lên – hay ngâm nga thữ… thì cảm thấy nó… thiếu thiếu, nhớ nhớ..<br />
cái rập rình và du dương quen thuộc của thi ca Việt. Do đó, tôi thữ áp dụng âm vận vào câu thơ Haiku<br />
VN, hy vong bài thơ sẽ tăng thêm “giai điệu” …<br />
Ví dụ sau đây cho thấy sự “Viet Nam hóa” thơ Haiku với những “phụ lệ” về âm vận cho… êm tai<br />
người Việt – theo ý kiến …”nôm na” của tôi:<br />
MẦU XANH NÚI NGỰ - Bài 2<br />
Cầu Trường Tiền mấy nhip?<br />
Anh về bên nớ, nhớ không anh<br />
Xanh xanh núi Ngự Bình<br />
L©i K‰t<br />
Tôi thường nghe nói thưởng thức thơ là việc rất riêng tư, do cảm xúc cá nhân. Tuy nhiên, vì rằng Thơ<br />
phụng sự cho cái Đẹp trong ngôn ngữ và ý tưởng, nên trong vòng thi hữu khoan hồng, tôi xin kính<br />
gửi 2 bai Haiku VN dưới đây, để chia sẻ cảm nghĩ về 2 chữ Rập Rình “éo le” của tiếng Nôm ngàn năm<br />
yêu dấu. Tiếng Việt vì độc âm ( monosyllabic) nên cần phải được “hát” lên theo từng nốt, nhưng vì<br />
tiếng Việt cũng gồm có nhiều tiếng kép đôi,” lắp láy”, như : lung linh, lóng lánh, lạnh lùng… róc rách,<br />
rung rinh, run rẩy,..nhũng “cụm từ” đặc biệt Nôm đó cũng đòi hỏi một chổ đứng xứng dáng để cho câu<br />
thơ Haiku Việt vừa du duơng , vừa rập rinh.<br />
MÙA THU BUỒN<br />
Mùa Thu khe khẻ sang<br />
Rừng Thu lả tả lá phong vàng<br />
Thưa thớt chuyến đò ngang
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 38<br />
TRĂNG SÁNG<br />
Trăng sáng lung linh vàng<br />
Mong manh khói sóng hồ chưa ấm<br />
Mãi mãi hợp rồi tan ■<br />
Madison, AL, December 2011, LLN
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 39<br />
Vietnamese-American Woman Writer’s<br />
First Novel in Poetry Wins National<br />
Award<br />
Summary and analysis by Phåm Tr†ng LŒ
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 40<br />
ThanhHa Lai, Inside Out and Back Again.<br />
HarperCollins Publishers, 2011, 262 pp. [Hardcover]<br />
Price: US$15.99<br />
Winner of the 62 nd National Book Award, Young Adult Fiction (2011); Newbery Honor (2012).<br />
http://www.harpercollins.com/author/microsite/About.aspx?authorid=36544<br />
After the fall of Saigon on April 30, 1975, there have been hundreds of books written, many of<br />
which were personal accounts of the harrowing miseries of Vietnamese refugees in the days when they<br />
struggled to get out of Viet Nam by boat, over the sea, to the islands near the Philippines, Malaysia,<br />
Indonesia and Thailand. A standout is one prize-winning book for children aged 8+ written by ThanhHa<br />
Lai, a 47-year-old Vietnamese-American writer, who came to this country when she was only ten years<br />
old, knowing practically no English. After a month on a Navy ship, her family of ten—her mother, six<br />
elder brothers and two sisters--came to Guam, then to a refugee camp in Florida before arriving at<br />
Montgomery, Alabama, through the sponsorship of an American auto-shop owner. Why Montgomery,<br />
Alabama? “Believe me,” she says in an interview, “we didn’t know about Alabama to choose it. But to<br />
enter the United States refugees had to have a sponsor. <strong>The</strong> man who had the nerve to take on all of us<br />
(10 in all) lived in Alabama.”<br />
In Alabama, she repeated her unfinished 4 th grade from Saigon, one year older than her
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 41<br />
classmates. <strong>The</strong>re she recounted the story of isolation and alienation from the adjustment to the<br />
dullness of American food (compared to spicy and tasty Vietnamese fare), to new friends Pam (“Pem”)<br />
and Steven (“SSsì-Ti-Vân”) and Pink Boy, her bullying classmate; her struggle with the English<br />
language and its idiosyncrasies (the sibilants sounding like snakes), but with the help of her generous<br />
“cowboy” and her kind-hearted neighbor and retired teacher, Ms. Washington, whose 21-year-old son<br />
and soldier Tom was killed in Saigon, Hà’s English improved. After high school, the author went on to<br />
undergraduate studies from the University of Texas, and graduated with a Bachelor’s degree in<br />
journalism. She worked for 2 years as a reporter covering the police beat for the Orange County<br />
Register in California, where she says, “I got the insane idea that I should quit and write fiction.” She<br />
left her reporting job and went to an MFA in creative writing program in New York University. For<br />
fifteen years, she worked on a novel about her life in Saigon, Alabama and Texas. Sent to ten agents<br />
and publishers, the manuscript was repeatedly rejected. She knows why: “Looking back, its beautiful<br />
sentences did not offer a plot and never really got anywhere.” (Publishers Weekly) By fortune, she was<br />
connected with a New York literary agency and a good editor. In 6 months she rewrote the novel, using<br />
the base material, this time in short, concise, and lean prose-verse. <strong>The</strong> result is the novel in poetic<br />
form--Inside Out and Back Again. It was selected the finalist in the 2011 National Book Award annual<br />
contest. (<strong>The</strong> NBA: Once a year since 1938, except for an interruption during the Second World War,<br />
the award is given in 4 genres: fiction, non-fiction, poetry and young people’s literature, five prizes for<br />
each genre.) Last November, among 5 semi-finalists, ThanhHa Lai’s story in prose-poems was declared<br />
the final winner among hundreds of books vying for that prestigious top prize.<br />
Written in short poems, the book recounts the semi-biographical story of a 10-year-old girl<br />
named Hà and the life-changing year of 1975, the year Saigon fell (hence “Inside Out”) when she, her<br />
mother and three elder brothers fled Vietnam on a ship. [<strong>The</strong> author is the youngest of 8 siblings--2<br />
sisters and 6 brothers.] <strong>The</strong> 262-page book is told through the eyes of Hà.<br />
How is it that a foreign-born writer who could not speak a word of English and struggled with<br />
English grammar (such as the plural s after regular nouns since there is no such thing in Vietnamese) is<br />
able to write an English book that merits acceptance by HarperCollins, a mainstream publishing house,<br />
whose submission to the NBA ultimately won the coveted prize that American-born writers strove to<br />
earn? What kind of style, vocabulary, symbolism and drama did the author use to capture the reader’s<br />
heart?<br />
Is there a lesson for other aspiring foreign-born authors whose first language is not English to<br />
learn?<br />
Division of the story:<br />
Chronologically the story covers one full lunar year, from Tết of the Cat (1975) to Tết of the Dragon<br />
(1976). <strong>The</strong> poetic novel has four chapters: Chapter I: Saigon (34 poems); Chapter II. At Sea (19<br />
poems); Chapter III. Alabama (51 poems), and Chapter IV. From Now On (11 poems). Total: 120<br />
poems.<br />
Each poem serves as a page of her diary, telling a story of that day. <strong>The</strong> tale starts with February<br />
11, 1975, and ends with January 31, 1976. <strong>The</strong> events of the fateful year recounted vividly the days on<br />
the ship (rationing of food and drink, cramped living quarters), at the tent city in Guam, at school<br />
(hiding herself in the bathroom to avoid the jeering of classmates). <strong>The</strong> tales include Mr. Johnson, her<br />
sponsor, whom she calls “Our Cowboy” and his neighbors, the bullying classmate at school and out of<br />
class; her brother-hero Vũ, who teaches her self-defense and whose gigantic motorbike came in time to<br />
save her from the bully Pink Boy; her eldest brother Quang, an engineering student, who works as an<br />
auto mechanic; and her brother Khôi who refuses to eat eggs hoping naively that they all hatch into
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 42<br />
chicks; and especially her mother, a wise and practical, firm but loving mother, advisor and friend.<br />
ThanhHa Lai’s style<br />
As one reviewer notes, she uses a “spare but accessible” style, leaving a lot of space for the reader’s<br />
emotions to seep in. One critic advises the reader to reread the story to notice “how perfect the thin line<br />
of the prose itself mirrors the thin line that Hà walks during that year.” (Kathi Appelt, bestselling author<br />
of the Newbery Honor Book, <strong>The</strong> Underneath.)<br />
Suspense: Core details of the event are held up until the end to create suspense and intensify the<br />
reader’s interest:<br />
In “NOW!” she tells how her mother who speaks little English succeeds in getting the butcher to grind<br />
the pork for her:<br />
She has me ask the butcher,<br />
Please grind our pork.<br />
I’m sure I said it right,<br />
but the butcher<br />
sharpens his face,<br />
slams down our meat,<br />
And motions us away.<br />
Mother wrinkles her brows,<br />
thinking, pausing,<br />
then rings the buzzer again.<br />
Please, she says.<br />
It comes out, Peezzz<br />
<strong>The</strong> butcher turns away<br />
without a word.<br />
Mother presses the buzzer<br />
for a long time.<br />
When the butcher returns,<br />
he hears a lot of Vietnamese<br />
in a voice stern and steady,<br />
from eyes even more so.<br />
Mother ends with a clear, NOW!<br />
<strong>The</strong> butcher stares<br />
then takes our meat<br />
to the grinder.
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 43<br />
(pp. 217-218.)<br />
In half prose, half unrhymed verses, the novel retains rhythm. <strong>The</strong> author has selected the right<br />
medium because the poetry allows her to write spare verse and at the same time packs into each line<br />
powerful imagery, allowing the reader to reach the raw emotions and humor. Also, the form of a diary<br />
lets the author tell the event of the day in her family, in her class, outside of school and in the<br />
neighborhood in a dramatic manner.<br />
<strong>The</strong> Vietnamese idioms are appropriately used:<br />
“Tears of an ugly fish””False tears of a crocodile.”<br />
“Clamp shut his mouth.” (<strong>The</strong> mother scolds brother Quang). <strong>The</strong> word clamp suggests a sound and<br />
picture of a clam.=>câm miệng hến lại.<br />
Tenderness and wisdom:<br />
In “Confessions” Hà tells her mother that she is bullied at school and whether she can fight back:<br />
<strong>The</strong>y chase me.<br />
<strong>The</strong>y yell “Boo-Da, Boo-da” at me.<br />
<strong>The</strong>y pull my arm hair.<br />
<strong>The</strong>y call me Pancake Face.<br />
<strong>The</strong>y clap at me in class.<br />
And you want me to wait?<br />
Can I hit them?<br />
Oh, my daughter.<br />
at times you have to fight,<br />
but preferably<br />
not with your fists.<br />
(pp. 215-216)<br />
Vivid characters:<br />
Here the mother tells her children to focus on the present and forget the past, including their MIA<br />
father, who looks “forever young” in his picture on the altar:<br />
Until you children<br />
master English,<br />
you must think, do, wish<br />
for nothing else<br />
Not your father,<br />
not our old home,<br />
not your old friends,
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 44<br />
not our future.<br />
She tries to mean it<br />
about Father,<br />
but I know at times<br />
words are just words.<br />
(“English Above All,” p. 116-117)<br />
Each character springs to life from a few strokes of her brush. <strong>The</strong> American sponsor, Mr. Johnson,<br />
whom Hà calls “Our Cowboy,” brings gifts to the family, corrects Hà that horses in American do not go<br />
“hee, hee, hee” but “neigh, neigh, neigh” and, to her disappointment, doesn’t own a horse. His<br />
unsmiling wife and the neighbors do not seem to welcome them when they pay them a courtesy call<br />
until her family members decide to attend the church and change their faith. Ms. Washington greets<br />
them warmly and serves as ThanhHà’s tutor in English after school (Whoever invented/English/must<br />
have loved/snakes—(“First Rule,” p. 118).<br />
MiSSSisss WaSShington<br />
has her own rules.<br />
She asks me memorize<br />
one new word a day<br />
and practice it<br />
ten times in conversation.<br />
For every new word<br />
that sticks to my brain<br />
she gives me<br />
fruit in bite sizes, downing in sweet, white fluff;<br />
cookies with drops of chocolate small as rain;<br />
flat, round, pan-fried cakes floating in syrup.<br />
My vocabulary grows!<br />
(“New Word a Day,” p. 166)<br />
When her sponsor, the “cowboy,” finds a house for them and pays 3-month rent ahead, her brother<br />
Quang says the American government gives sponsors money…to ease the guilt/of losing the war.<br />
Mother’s face crinkles<br />
like paper on fire.<br />
She tells Brother Quang<br />
to clamp shut his mouth.<br />
People living on<br />
others’ goodwill<br />
cannot afford<br />
political opinions.
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 45<br />
(“American Address,” pp. 124-125)<br />
Here at school during lunch for the first time Hà eats a hotdog for the first time:<br />
I don’t know where to sit<br />
any more than<br />
I know how to eat<br />
the pink sausage<br />
snuggled inside bread<br />
shaped like a corncob,<br />
smeared with sauces<br />
yellow and red.<br />
I think<br />
they are making fun<br />
of the Vietnamese flag<br />
until I remember<br />
no one here likely knows<br />
that flag’s colors.<br />
…<br />
(“Black and White and Yellow and Red,” p. 144)<br />
Gestures speak more than words to show brotherly love and protection. Hà rides home with brother<br />
Khôi on his bicycle:<br />
“Chin Nod”<br />
I sit sidesaddle,<br />
holding on to the handlebar.<br />
<strong>The</strong> edges of our hands<br />
touch.<br />
As we glide away<br />
I ask,<br />
Every day?<br />
I feel his chin<br />
nod into<br />
the top of my head<br />
After school too?<br />
Another chin nod.<br />
We glide<br />
and I feel as if<br />
I’m floating.
<strong>Firmament</strong> Volume 4, No. 4, January 2012 46<br />
(pp. 154-156)<br />
Can aspiring writers learn from ThanhHa Lai?<br />
First, a solid command of English is a sine qua non. It took ThanhHa Lai 10 years that included high<br />
school, undergraduate and an MFA to master the language. In college, professors can be helpful<br />
mentors and critics.<br />
Second, apply for a fellowship, or an assistantship (if you have a strong BA plus a few articles,<br />
short stories, or poems). <strong>The</strong> assistantship will provide full tuition plus a stipend. First-year MFA<br />
candidates normally get free tuition and no teaching duties; second year MFA candidates teach two<br />
workshops while working on their thesis, which may be a collection of poems, short stories or a novel<br />
in progress.<br />
Next, jobs (as interns, reporters, editors, proofreaders, instructors): make sure you are not<br />
bogged down by your daily job demands (although work can provide experience and material for your<br />
stories) as they may affect your writing goals. (ThanhHa Lai teaches English at Parsons School of<br />
Design).<br />
Writing workshops (where lecturers are practicing writers or poets) may help.<br />
Last, get connected with a literary agent, editors. In the case of ThanhHa Lai, Rosemary Stimola<br />
from Stimola <strong>Literary</strong> Studio accepted her submission before HarperCollins assigned Tara Weikum as<br />
her editor.<br />
Critics’ comments on ThanhHa Lai’s novel:<br />
“An incisive portrait of human resilience…would make a nice movie or children’s television special,<br />
too.” (Publishers Weekly)<br />
“Lai’s spare verse evokes such emotions that I found myself with tears in my eyes on many pages.”<br />
“A must for any teacher dealing with bullying in the classroom/school.”<br />
http://blog.schoollibraryjournal.com/slj/home/892838-312/debut_author_thanhha_lai_nab.html.csp<br />
“…ThanhHa Lai’s novel is written in verse for a concrete, very good reason. In both cases you have<br />
stories where children were entering strange new lands where they did not necessarily know the<br />
language. To make this book a verse novel, the child reader gets inside Ha’s head while the same time<br />
encountering sentences that are broken up in ways different from your average middle grade novel. <strong>The</strong><br />
result is simultaneously intimate and isolating. It’s perfect.”<br />
“Lai’s spare language captures the sensory disorientation of changing cultures as well as a refugee’s<br />
complex emotions and kaleidoscopic loyalties (<strong>The</strong> Horn Book).<br />
Source: (http:///www.amazon.com/Inside-Out-Back-Again-Thanhha/dp/0061962783). <strong>The</strong> pictures on<br />
the book jacket and that of the author are taken from this website.<br />
PTL, Virginia, 3/4/2012
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 47<br />
Gi§i ThiŒu TÆp TruyŒn<br />
Quê HÜÖng Vøn V«*<br />
cûa NguyÍn Væn Sâm<br />
ñàm Trung Pháp<br />
Tôi quen biết tác giả Nguyễn Văn Sâm của tập truyện Quê Hương Vụn Vỡ từ nhiều năm nay. Phải thưa<br />
điều này ra ngay với quý bạn đọc vì tôi tâm đắc lời tâm sự dưới đây của thi sĩ Bàng Bá Lân trong trang<br />
mở đầu cuốn sách Kỷ Niệm Văn Thi Sĩ Hiện Đại của ông, xuất bản năm 1962 tại thủ đô miền Nam<br />
nước Việt:<br />
“Nhiều lúc ngâm đọc những bài thơ, đoạn văn ưa thích, tôi [Bàng Bá Lân] thường tự hỏi:<br />
Không biết tác giả có thích như mình không? Đây có phải bài thơ, đoạn văn mà tác giả ưng ý nhất<br />
không? Và nếu không thì là bài thơ nào, đoạn văn nào? … Ý nghĩ ấy cứ ám ảnh tôi hoài, nhất là những<br />
khi tôi đọc những bài phê bình văn học hoặc chính tôi phải làm việc bình giảng văn thơ. Mắt nhìn<br />
những dòng chữ nhảy nhót mà lòng tôi thắc mắc hoang mang. Tôi hoài nghi tự hỏi: Có thật tác giả có<br />
tư tưởng này, có dụng ý kia, có tâm sự nọ? Hay tất cả chỉ là võ đoán? Rồi sự thắc mắc trên đưa tới kết<br />
luận này: Muốn phê bình thật đúng một nhà thơ, nhà văn nào, phải quen biết nhà thơ, nhà văn ấy!”<br />
Tác giả Quê Hương Vụn Vỡ là người miền Nam, còn tôi là người miền Bắc di cư vào Nam từ<br />
thuở mới bắt đầu trung học. Chúng tôi cùng lứa tuổi, từng là đồng nghiệp trong khung trời Đại Học Sài<br />
Gòn, nơi anh Sâm dạy Việt văn ở Văn Khoa và tôi dạy Anh văn ở Sư Phạm. Tỵ nạn qua Mỹ, chúng tôi<br />
gặp lại nhau ở Texas và thường cùng góp phần trong các sinh hoạt văn học Việt Nam từ đó đến nay.<br />
Năm 2000 tôi vinh hạnh được nói chuyện trong buổi ra mắt rất thành công cho tập truyện Khói Sóng<br />
Trên Sông của anh tại Houston. Và từ nhiều năm nay chúng tôi cùng đóng góp bài vở thường xuyên<br />
cho nguyệt san văn học Khởi Hành ở Little Saigon và cho tam cá nguyệt san Văn Hóa Việt Nam ở<br />
Houston.<br />
Tôi tin tưởng mối thân tình lâu năm giữa chúng tôi đã giúp tôi viết lên những dòng nhận xét về<br />
tập truyện mới nhất này của anh một cách khả tín, không phải “chỉ là võ đoán.”<br />
Quê Hương Vụn Vỡ là một tuyển tập truyện ngắn đặc sắc qua ngòi bút Nguyễn Văn Sâm. Mỗi<br />
truyện anh viết là một kỷ niệm đậm sâu trong đời anh, hoặc trong đời một người rất thân của anh, mà<br />
khi đọc xong, dù vui hay buồn, tôi còn lưu luyến mãi trong lòng như một nhắc nhở ray rứt. Anh là một
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 48<br />
nhà văn gốc nhà giáo có một tâm hồn hướng thượng, một trái tim nhân ái, một ước vọng chấn hưng đạo<br />
đức trong một quê hương đang băng hoại về lối sống; do đó, mỗi truyện của anh là một bài ngụ ngôn<br />
thấm thía.<br />
“Văn dĩ tải đạo” là sứ mệnh văn chương của anh mà anh đã thực hiện một cách ngoạn mục<br />
trong tập truyện. Phương tiện để anh đạt mục tiêu vừa kể là một văn phong truyền cảm, thành tâm, sâu<br />
sắc, quan sát tận tường. Thêm vào đó là những yếu tố bất ngờ kỳ thú trong các cốt truyện được anh xây<br />
dựng mạch lạc, những từ vựng thực vui mắt của một phương ngữ miền Nam đáng yêu, và những đoạn<br />
văn tả chân thần sầu quỷ khốc của anh mỗi khi anh ra tay hạ xuống. Một bí quyết nữa khiến những<br />
truyện ngắn của anh thành công là chúng đều có một mở đầu gợi cảm kích thích bản chất tò mò của<br />
người đọc (khiến họ không thể bỏ cuốn sách xuống) và một kết luận làm người đọc xao xuyến trong<br />
lòng (khiến họ khó quên được câu chuyện).<br />
Tôi thích tất cả các truyện trong tuyển tập này, nhưng tôi mê nhất truyện “Người đổi chó” của<br />
anh. Phần kết của tuyệt tác này làm tôi nhỏ lệ vì nó mầu nhiệm quá. Phép lạ nhãn tiền mà Ơn Trên đã<br />
dành cho một người có thiện tâm trong cuộc sống vô thường đã làm tôi ấm lòng vô hạn. Xin lấy câu<br />
chuyện này để làm thí dụ cho những điều tôi nhận xét về văn tài của bạn tôi.<br />
Đây là một ngụ ngôn tuyệt diệu chứng minh cho các niềm tin “ở hiền gặp lành”, “ông Trời có<br />
mắt”, “phép lạ có thật”, vân vân. Nhân vật chính trong truyện là một người chuyên đi mua chó rồi bán<br />
lại cho các tiệm bán thịt chó để kiếm lời độ nhật. Một bữa anh “trúng mánh” vì anh “được một bà kia<br />
kêu tới cho không con chó mực mà bầy con bả đã cho lối xóm hết rồi.” Cho con Mực vào lồng trên xe,<br />
anh ta nói với nó: “Ôi Mực ơi, tao cám ơn mầy. Mầy chết mà nhiều người khoái khẩu, tao được đỡ khổ<br />
một ngày dang nắng vậy là cái chết của mầy có lý lắm chớ không phải chơi đâu nhen Mực!” Với con<br />
Mực trên xe, anh ghé một tiệm thịt chó, nơi mà một số chó đang bị sát hại tàn ác. Phản ứng của con<br />
Mực làm nát lòng người đọc: “Nghe tiếng đồng loại tru thảm thiết, con Mực giờ nằm im trong lồng trên<br />
xe của tôi, bỗng nhiên lồng lộn vùng vẫy, nó sủa bằng một giọng đứt khoảng của sự sợ hãi đến cùng<br />
cực với đôi mắt ghèn trôi theo máu trào ra ở khóe.” Anh ta động lòng trắc ẩn, quyết định thả con Mực.<br />
Và đây là đoạn kết nhiệm mầu của câu chuyện, một ngụ ngôn mà ý nghĩa chúng ta sẽ còn nhớ mãi:<br />
“Không cần suy nghĩ, tôi mở cửa lồng định bụng thả cho con Mực chạy đi. Nhưng mà lạ, nó<br />
không chạy ra xa mà cắn ống quần tôi, vừa cắn vừa gâu gâu. Tôi tức giận đá cho nó một cái như trời<br />
giáng vậy mà nó cũng không buông …. Con chó vẫn kéo, chừng độ 4, 5 thước khỏi cái xe, tôi đập được<br />
con Mực một cái trúng đầu, nó nằm xuống, thì cũng lúc đó tiếng kèn rú long trời của hai chiếc xe chạy<br />
đua từ đâu xẹt tới, một chiếc do tránh người đâm vào chiếc xe của tôi tạo ra một âm thanh chói tai tung<br />
cát mịt mù …. Tôi chóng mặt ngang, hình như tôi quá kinh hoàng sau khi thoát khỏi tai nạn, không còn<br />
tỉnh trí, chỉ nghe mơ hồ như có ai nói thằng cha đổi chó nầy hên cùng mình nha bây, nếu nó còn đứng<br />
chỗ cái xe thì tiêu tùng rồi. Tôi thở dài, ngó cái xe của mình, cong queo, gãy đổ đến tội nghiệp. Tôi ngó<br />
xuống con Mực, nó không cắn ống quần tôi nữa mà nhìn lên tôi thân thiết vẫy đuôi, hai khóe mắt của<br />
nó ghèn pha máu vẫn còn chảy, bây giờ xuống gần tới mũi.”<br />
Đoạn kết nêu trên của câu chuyện cảm động bao nhiêu thì đoạn mở đầu của nó cũng hấp dẫn<br />
bấy nhiêu. Thực khó có thể bỏ cuốn sách xuống sau khi đọc những dòng chữ mở đầu hấp dẫn này:<br />
“Ban đầu thì tôi chê cái nghề kỳ cục này. Gì mà chở cái lồng chó kêu ăng ẳng sau bọt-ba-ga, đi<br />
tới đâu chó trong xóm thi nhau sủa tru mà dân chúng thì thò đầu ra ngó chăm bẳm rồi xầm xì đồ thằng<br />
cha làm cái nghề thất nhơn sát đức, giết chó nên chó thấy là sủa ì èo, tru nghe thảm thiết.”<br />
Nghệ thuật tả chân của anh thực vô song. Nhiều lúc tôi nín thở để đọc những đoạn văn anh tả<br />
chân cuộc sống ở quê nhà, để rồi rùng mình khiếp sợ. “Thằng Tư mặt thẹo” là một tay bắt chó chuyên<br />
nghiệp mà “mỗi ngày phải đập đầu chừng một chục con thì uống rượu mới ngon.” Hắn ta tuyên bố câu<br />
nói độc ác ấy “mà nhe hai hàm răng lởm chởm đóng bựa vàng và khói thuốc đen phụ họa với cái mặt<br />
thẹo bị chém thời cố Hỷ nào coi thiệt là dọa ông kẹ con nít.” Và đọc xong đoạn văn dưới đây thì còn ai<br />
dám tiêu thụ bánh tráng hoặc lạp xưởng từ quê nhà xuất cảng sang hải ngoại:
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 49<br />
“Đi qua một lò làm bánh tráng, làm bún mùi chua nồng vậy mà còn dễ thở hơn đi ngang qua<br />
chỗ làm lạp xưởng, hay làm đồ lòng, ở đây ruồi vô số và mùi thịt thúi bay dính vô quần áo đi xa cả cây<br />
số mà mùi vẫn còn phưởng phất, ác nhứt là mùi thứ nước màu đo đỏ họ dùng để ướp thịt, nghe như mùi<br />
sơn ở cái trại hòm, làm mình liên tưởng đến mùi người chết để qua ngày hòm bị xì.”<br />
Năm nay ở tuổi “thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất dụ củ” (Luận Ngữ), anh Sâm quả thực<br />
không phải suy nghĩ, gắng sức mà vẫn hành động tự nhiên hợp đạo lý. Bài thơ “Nói với đứa cháu nhỏ<br />
mới sanh” để thay lời tựa cho tập truyện này của anh chứng tỏ điều ấy. Anh viết ra những điều thật tự<br />
nhiên, thành tâm, chan chứa ân tình, hợp đạo làm người. Qua bài thơ, anh đã nói dùm tất cả chúng ta<br />
với những thế hệ kế tiếp ở hải ngoại, nhất là đoạn kết của bài thơ:<br />
Phải yêu quý nơi mình sinh ra và yêu cả đồng bào quê cha<br />
Ông đã sống hết đời mình và tự hào sống đáng<br />
Ông tiếc nếu không kịp nhìn thấy lũ cháu lớn lên thành đạt<br />
Biết nghĩ suy và nói thông thạo tiếng Việt Nam<br />
Bạn hiền ơi, tôi chúc mừng bạn đã trình làng thêm một tác phẩm quý báu và cảm ơn bạn đã<br />
mang lại cho tôi một niềm vui lớn là được viết lời giới thiệu Quê Hương Vụn Vỡ của bạn với độc giả<br />
bốn phương. ■<br />
*Do Viện Việt Học xuất bản lần thứ nhất năm 2012.<br />
Ấn phí ủng hộ $20.00. Địa chỉ liên lạc:<br />
Nguyễn Văn Sâm 12960 High Vista, Victorville, CA 92395<br />
Samnguyen20002002@yahoo.com
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 50<br />
<strong>The</strong> <strong>Le</strong>gacy of Kwai Chang<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Long ago, over a beer, my friend told me this story.<br />
Kwai Chang was the Mess Hall Sergeant when I reported for duty to this newly activated<br />
ARVN Infantry Division as a junior Logistics officer ín 1956. He was a young, handsome, welleducated<br />
Chinese –Vietnamese, who could speak and write three languages: Chinese, Vietnamese, and<br />
French. He was also the preferred chef for Company’s official dinners and parties. After work, Kwai<br />
Chang and I were great friends….<br />
Kwai Chang was very skillful with his hands. His painting was as good as a professional<br />
artist's. An experienced auto mechanic and gun smith, he repaired clocks and watches in his spare<br />
time. His father used to own a jewelry boutique up North, he told me. When the new regime took over<br />
the city, his father was killed during the turmoil. He and his mother were relocated in South Vietnam in<br />
1954.<br />
As in most oriental cultures where family bonds are very strong, Kwai Chang’s love and<br />
devotion for his mother was exemplary and touching, especially during her long and painful terminal<br />
illness. In 1959, I received my new assignment in the Deep South . Kwai Chang and I reluctantly<br />
parted from each other with much sadness, since our friendship had grown beyond normal social ties…<br />
During the next fourteen years, which included several moves around the country because of<br />
my military obligations, we lost track of each other. <strong>The</strong>n I got my last assignment at an Army Unit<br />
near Saigon…. One day, I heard a knock at my office, and a distinguished Army Officer appeared with<br />
a big grin on his face: Kwai Chang! <strong>The</strong> reunion between old friends brought a lot of laughs and<br />
sighs. I met his family again: his lovely wife Xiao Ling and his two sons, now 16 and 17, sharplooking<br />
high school boys.<br />
Xiao Ling met my wife Loan for the first time, and they hit it off at once. But the happy days<br />
did not last long. It was April 1975. <strong>The</strong> situation had degenerated, and Saigon was expected to fall in<br />
a matter of weeks. Kwai Chang came to my house one night and said, “Anh Nam, I’ve sold my house<br />
and everything valuable and converted the money into 30 ounces of gold, which I have buried in a<br />
secret place. Here is what I have in mind: If they ever caught me, I would have no chance to survive<br />
…. I beg you to take my family with you if you could manage to go the U.S.- or Australia... Please take<br />
the gold and use it where need be. I would not ask you if we were not such close friends.”<br />
I said, ”Don’t be silly. <strong>The</strong>re should be an acceptable solution to this turmoil. According to the<br />
rumor, there must be some plan to evacuate us to a safer place as political refugees, but we just don’t<br />
know the details now. Don’t panic. I don’t need the gold. Just be alert and keep in touch.”<br />
Alas, with the chaos of the last days of April in Saigon, it was impossible to keep in touch even<br />
with your own immediate family, much less with friends and relatives. I was lucky to make it to the<br />
U.S. on those last flights out of Saigon, but I lost track of Kwai Chang. We wondered hundreds of<br />
times what happened to him and his family…<br />
Ten years went by. One night, the telephone rang. An excited voice asked me, “Mr Nam, Sir?”<br />
I said, “Yes, who’s speaking?”<br />
<strong>The</strong> excited voice grew louder. I’m Whu Chang, the son of Kwai Chang; do you remember<br />
me?”<br />
“Yes,” I said. “Where are you now?”<br />
“San Jose, California, Sir, with my mom. It took me a while to locate your number, and I am so
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 51<br />
glad I did. My mom wants to talk to you now.”<br />
A moment of silence, then a trembling feminine voice came through: “Hello, Anh Nam, this is<br />
Xiao Ling.”<br />
“Hello, Xiao Ling. How are you doing?” I said. And I could not hold any longer that fearful<br />
question: “What happened to Kwai Chang?”<br />
A sob, and she said, “He died five years ago in the re-education camp. He was a prisoner there<br />
and had survived the rigorous program - mentally. But the malaria got him. <strong>The</strong> last time we saw each<br />
other, I barely recognized him for he was so skinny and could hardly walk. He lost most of his teeth<br />
and was completely bald. He told me, ‘I’m very weak now, and there is no hope I could leave this<br />
camp alive. Don’t wait any longer. Dig up the gold, pay the smugglers and take the children out of the<br />
country. If you have a chance to go to America, look up Anh Nam; he will help you. Forget about me<br />
and just do what I say, please.’<br />
“But I could not force myself to do it before he died in the camp. <strong>The</strong>n I dug up the gold. But I<br />
was so inexperienced that the crooked smugglers took all my gold and turned me in to the authorities.<br />
Whu’s younger brother was shot and killed when he tried to run away. We were put in prison for over<br />
two years..<br />
Whu was determined to sail out of the country one way or another. We moved to the Mekong<br />
River area, and Whu became a fisherman. Whu learned how to sail the fishing boat on the sea. He<br />
secretly modified three old lawnmower engines to power our small boat. In March 1982, when the<br />
South China Sea was calm and the wind switched south, we sailed out in that 18-foot-long boat<br />
together with another family of six adults and two children. We were lucky to escape the Coast Guard<br />
patrols and drifted southward for seven days, very low on food and water. When we reached the coast<br />
of Malaysia, we were rescued just in time before we would have perished from exposure and<br />
starvation. We stayed in the Malaysia Refugee camp for six months. Thanks to the family we sailed<br />
with, Whu and I were relocated here in America.”<br />
I said, “Xiao Ling, I am terribly sorry about your ordeal, but I am also so glad you made it<br />
through. By the way, what is Whu doing now?” Xiao Ling said, “Oh, you know, he is very skillful<br />
with his hands, like his father. He works as an auto mechanic but he specializes in car air conditioners<br />
and stereos. We live in a small apartment now. I cook and clean for him, but next month we will have<br />
some help. Whu will get married on April 19, and we will move to a two-bedroom house in the<br />
suburbs of San Francisco.”<br />
I said, “That’s wonderful, Xiao Ling. I am so happy for you and Whu.”<br />
“By the way, talking about San Francisco and the month of April reminds me that one time I<br />
described to Kwai Chang the beautiful scenery of the cherry blossoms in Golden Gate Park. He really<br />
wanted to see it himself. I tell you what, Xiao Ling. <strong>Le</strong>t’s get together next month. Loan wants to see<br />
you, too. And I bet she, too, will get a kick out of seeing the gorgeous cherry blossoms.”<br />
A pause. <strong>The</strong>n Xiao Ling said, “Anh Nam, I forgot to tell you that I am blind now. I lost my<br />
sight three months after we reached the Malaysia Refugee camp. My eyes got infected, and it went<br />
from bad to worse because we had very poor--almost no--medical care at the time.”<br />
I said, “Oh, I am very sorry to hear that, Xiao Ling.”<br />
She said, “Thank you, but it is okay. I am blind, but content now. I can see a bright future for<br />
my son here, and I can see his love for me too. A lot of times, I can even see a peaceful smile on Kwai<br />
Chang’s face, and I know he is happy for me and for his son.<br />
So goes the story of Kwai Chang, my old and dear friend. His memory is with me as long as I<br />
shall live. Loan and I have scheduled to fly to San Francisco to meet Xiao Ling and her son sometime.<br />
We have to. Not only because we love them and admire their incredible courage and perseverance; not<br />
only because they are Kwai Chang’s legacy in flesh and blood; but also because deep down inside,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 52<br />
Loan and I feel they are a part of our own selves--the part that was once lost, but found again.” ■<br />
Madison, AL April 1985
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 53<br />
Australian Modern Masterpieces<br />
from <strong>The</strong> Art Gallery of New South Wales<br />
Exhibited at <strong>The</strong> Art Gallery of Ballarat in<br />
Victoria<br />
Researched by Minh Thu<br />
As one of Australia’s best-preserved cities, and in so far as culture and art are concerned, Ballarat(*)<br />
is also one of its most interesting ones to marvel. Indeed one cannot overlook Ballarat’s 19 th century<br />
boom-era to take in the city’s grandeur combined with a vibrant and diverse contemporary culture.<br />
Gold generating abundant wealth then created the splendid architectural works for the city, the<br />
grandest of all is the Art Gallery of Ballarat, which was founded in 1884. As Australia’s oldest and<br />
largest regional art gallery, it has, over almost 130 years, built up a magnificent collection.<br />
Right through early colonial works to Australian modern masterpieces, the Art Gallery of<br />
Ballarat makes it a special reason for people to visit the golden city, especially for one of the gallery’s<br />
world-class exhibitions. From October 5 to November 27 last year visitors came to see the gallery’s<br />
Australian Modern Masterpieces, a unique exhibition featuring 61 icons of Australian modern art.<br />
A veritable who’s who of 20 th century Australian art, the exhibition featured works from artistic<br />
aristocracy including Arthur Boyd, John Brack, Grace Cossington Smith, William Dobell, Russell<br />
Drysdale, Donald Friend, Sidney Nolan, Margaret Preston, Lloyd Rees, John Olsen, Jeffrey Smart,<br />
Fred Williams, Brett Whiteley, and Margaret Olley, according to Sandy Guy (1).<br />
Nolan was represented by works from a series inspired by the epic but doomed 1861 expedition of<br />
Burke and Wills (Fig. 1)<br />
Fig.: 1.- Sidney Nolan, Burke, 1962, polyvinyl acetate and oil on cardboard.<br />
Modern Masterpieces Exhibition featured 40 of some of the nation’s most important paintings,<br />
on loan from the Art Gallery of New South Wales, together with 20 equally significant works from the
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 54<br />
Art Gallery of Ballarat’s superb permanent collection.<br />
<strong>The</strong> choice of works provided an unparalleled insight into the history of Australian modern art<br />
from the 1920s to 1970s as expressed by Gordon Morisson, Director of the Art Gallery of<br />
Ballarat :“This exhibition recognised the extraordinary ability of Australian artists and the pivotal role<br />
they played in capturing the lives and moments of Australians in recent times.”<br />
Far from a random selection of highlights from the Sydney gallery’s impressive holdings, works<br />
featured have been carefully chosen to enable visitors to explore the works of various artists during a<br />
critical 75-year period of Australian art history – from the earliest work, painted in 1915, through to<br />
works by John Olsen and Brett Whiteley (Fig. 2).<br />
Fig.: 2.- Brett Whiteley, <strong>The</strong> green mountain (Fiji), 1969, oil, collage on cardboard.<br />
Many of the works on loan never left the venerable walls of the Art Gallery of New South<br />
Wales. As in Gordon Morisson words: “<strong>The</strong>se are key works which are normally on permanent display<br />
in Sydney. This remarkable opportunity has come about solely because the Art Gallery of New South<br />
Wales is refurbishing.”<br />
For seven weeks, the stately wall of the Art Gallery of Ballarat were adorned with much-loved<br />
paintings such as Russell Drysdale’s Sofala, (Fig. 3) his iconic 1947 work of the outback of New South<br />
Wales goldmining town.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 55<br />
Fig. 3.- Russell Drysdale, Sofala, 1947, oil on canvass on hardboard.<br />
Other works included a selection of paintings by artists known as the “Sydney Moderns” – Roy<br />
de Maistre, Roland Wakelin, Grace Cossington Smith, Magaret Preston, Rah Fizelle, Grace Crowley<br />
and Nora Heysen.<br />
In Arthur Boyd, Sidney Nolan, Jeffrey Smart, John Brack and Brett Whiteley, the exhibition<br />
explored some of the great figurative paintings of the twentieth century. <strong>The</strong> Australian landscapes was<br />
also represented in the works of Fred Williams and John Olsen, and the finely-worked landscapes and<br />
seascapes of Lloyd Rees.<br />
Melbourne artist John Brack (1920-1999) acclaimed as one of Australia’s greatest 20 th century<br />
artists, depicted the reality of life as he saw it. Three of Brack’s paintings were featured in the<br />
exhibition, including Nude with Two Chairs, (1957), and <strong>The</strong> sewing machine (Fig.4) (1955) a portrait<br />
of his wife, Helen, sewing at the treadle machine.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 56<br />
Fig.: 4 .- John Brack, <strong>The</strong> sewing machine, 1955, oil on canvass.<br />
Regarding the Australian leading ladies in the Australian Modern Masterpieces Exhibition, it<br />
featured some of the works of great Australian female artists of the 20 th century.<br />
A legend in Australian art was Margaret Olley, who, when she died on July 26 last year, aged 88,<br />
Australia lost a national treasure. Still life and domestic interiors were the forte of this prolific painter<br />
as seen by Sandy Guy (2). In fact, Olley’s bold use of colour and depiction of commonplace objects<br />
such as flowers, table settings and bedrooms made her one of the nation’s favourite painters.<br />
Olley was equally renowned as the first person to feature in two Archibald Prize winners –<br />
William Dobell’s 1948 portrait (Fig. 5) and, 63 years later, the 2011 winning portrait by artist Ben<br />
Quilty.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 57<br />
Fig.: 5.- William Dobell, Margaret Olley, 1948, oil on hardboard.<br />
During her lifetime Olley had more than 60 solo exhibitons, and her work is represented in<br />
major state and national collections. Among her most famous is the seminal Portrait in the Mirror,<br />
(Fig.6), painted in 1948, and one of the major works featured at Ballarat’s Australian Modern<br />
Masterpieces exhibition.<br />
Fig.: 6.- Margaret Olley AC, Portrait in the mirror, 1948, oil on cardboard.<br />
Olley’s work joined that of other great Australian female artists of the 20 th century, including
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 58<br />
Grace Cossington Smith, Margaret Preston, Nora Heysen, Grace Crowley and Yvonne Audette.<br />
A leading Sydney artist, Grace Cossington Smith (1892-1984) was considered among the great<br />
modernists of her generation. Four Cossington Smith works were on display including her most famous<br />
<strong>The</strong> Curve of the Bridge, (Fig.7), (1928), an iconic work showing the geometric structure of the Sydney<br />
Harbour Bridge, as well as Centre of the City (1925), Rushing (1922), and <strong>The</strong> Sock Knitter (1915),<br />
which was considered as the first post impressionist work by an Australian artist, and a key picture in<br />
the modernist movement.<br />
Fig.: 7.- Grace Cossington Smith, <strong>The</strong> curve of the bridge, 1928-1929, oil on cardboard.<br />
Regarded as one of Australia foremost artists between the two World Wars, a time when the<br />
Australian art world was dominated by men, Margaret Preston (1875-1963) was renowned in her day<br />
for her bold imagery and dynamic designs.<br />
Preston who was also a skilful wood engraver and linocut printer, painted subjects ranging from<br />
still life to native flowers and urban impressions of Sydney.<br />
Preston’s work was well presented , with four key works – Emus, a 1949 stencil; modernist<br />
1943 oil painting Manly Harbour Beach; 1928 Western Australian Gum Blossoms, and a simply<br />
structured yet powerful 1930 Self portrait ( Fig. 8 ).
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 59<br />
Fig.: 8.- Margaret Preston, Self portrait, 1930, oil on canvass.<br />
Nora Heysen (1911-2003), daughter of renowned landscape painter Sir Hans, was not only the<br />
first woman awarded the Archibald Prize. At the age of 27 in 1943 she became the first woman to be<br />
appointed as an Australian war artist. Her works are held in the collections of the National Gallery of<br />
Australia, the National Portrait Gallery, and several state galleries. Heysen’s vivid, almost Vermeerlike<br />
1932 Self portrait, (Fig. 9), is executed with refined realism.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 60<br />
Fig.: 9.- Nora Heysen, Self portrait, 1932, oil on canvass.<br />
A pioneer of modernist theory, Grace Crowley (1890-1979) was one of the leading innovators<br />
of geometric abstraction in Australia. <strong>The</strong> exhibition freatured two of Crowley’s works – Abstract<br />
painting (1950) and Portrait of Lucie Beynis (Fig.10), (1929), a semi-abstract painting regarded as the<br />
masterpiece of the period she studied in Paris in the 1920s.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 61<br />
Fig.: 10.- Grace Crowley, Portrait of Lucie Beynis, 1929, oil on canvass on hardboard.<br />
As regard to the Archibald Prize, many famous artists vied for this prize which is considered as<br />
Australia’s most important portraiture award, since its inception in 1921. Devotees of the works of<br />
William Dobell (1899-1970), one of Australia’s most admired and controversial artists, could view his<br />
celebrated 1948 Archibald prize-winning portrait of the late artist Margaret Olley (Fig.5) at Australian<br />
Modern Masterpieces.<br />
One of Dobell’s finest and best-loved paintings, his portrait of Olley is a bravura piece,<br />
conveying the subject personality through a combination of composition, brushwork and the enigmatic<br />
expression of the sitter. Olley, then in her twenties, sits confidently as echoing the spirit of both<br />
Gainsborough and Renoir.<br />
Many of Australia’s great 20 th century artists used the human figure as a source of inspiration,<br />
and portraiture figured prominently in the exhibition. Domestic interiors are another theme favoured by<br />
several of the artists in the exhibition. ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne (11/2011)<br />
*Writer’s note : Ballarat is 112 kilometres west of Melbourne.<br />
Sources :<br />
- Saturday Age. Art feature. Sept. 2011.<br />
- 1) - Our Artistic Aristocracy by Sandy Guy. p.2.<br />
- 2) - <strong>Le</strong>ading Ladies by Sandy Guy. p.3.<br />
- Wikipedia.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 62<br />
Cây RÒng và Cây Máu RÒng<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
Cây rồng (dracaena) bắt nguồn từ chữ cổ Hy-lạp drakaina có nghĩa là rồng cái. Đây là một genus gồm<br />
cỡ 40 species cây. Nó thuộc gia đình Asparagaceae, hay từng được xếp vào họ Dracaenaceae. Hầu hết<br />
đều xuất phát từ Phi-châu, một vài loại thì từ Á-châu và Trung Mỹ. Vài ba loại thường thấy ở những<br />
nhà bán cây cảnh và ngay trong tiệm bán thực phẩm là Dracaena fragans, Dracaena mariginata<br />
(Madagascar Dragon Tree), Dracaena draco, và Dracaena sanderiana. Nghe tên thì không biết nhưng<br />
nhìn hình thì nhận ra ngay. Những loại cây kiểng dracaeneae này nhựa không có màu đỏ máu, chỉ có<br />
loại một dracaena draco ở một số vùng bên Phi châu và trên vài đảo là có nhựa nhỉ ra màu đỏ.<br />
Một loại mang tên cây bắp, một loại cây kiểng dracaena và một loại mang tên cây Thần tài là<br />
những cây thấy rất thường.<br />
Hình 1 Hình 2 Hình 3<br />
Cây bắp/corn plant, (Hình 1 và 2) có thân là một khúc chiết trên đầu chỏm là một chùm lá. Cây<br />
này có hoa rất hắc, đến cuối mùa hè hoa nở từng chùm từ thân chồi ra, hương hoa mạnh đến nhức đầu.<br />
Vì thế nên nhiều khi phải cắt hoa đi nếu không muốn mang chậu cây ra ngoài vườn. Sau mỗi lần ra hoa<br />
thì cây có thể có thêm nhánh mới. Hoa có hương mạnh nên mang tên Dracaena fragans. Cây này chiết<br />
cành bằng cách cắt ngang thân già một khúc cỡ hai gang tay, để cho khô nhựa xong rồi nhúng vào cát<br />
ẩm cho đến khi nó ra rễ non. Đầu trên của khúc cây chiết từ vết sẹo của khúc cắt sẽ ra lá từ một hai<br />
mầm nhánh. Người viết có một cây bắp kiểng trồng trong nhà, đúng 10 năm sau, vào một buổi sáng tự<br />
nhiên thấy trong nhà có một mùi hương hắc rất mạnh, nhìn vào cây kiểng thì thấy cây bắp đang trổ hoa,<br />
một chùm dài. Và sau đó cứ mỗi năm cây lại trổ hoa một lần, hương mạnh đến nỗi phải cắt bỏ.<br />
Dracaena marginata (Hình 3 và 4). Loại này cũng thường dùng như cây kiểng, thân nhỏ, mọc<br />
lênh khênh, trên đầu có một chùm lá. Loại này gần với cây Máu rồng nhất về hình dạng.<br />
Cây Thần-tài, Hình 5 (Lucky bamboo)<br />
Dracaena sanderiana. Trái với tên gọi là tre Thần-tài làm mọi người nghĩ là nó có nguồn gốc từ Á<br />
châu, nhưng không phải thế. Nó là một cây xuất phát từ West Africa, được trồng làm bờ rào hay bụi
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 63<br />
cây. Cây Thần-tài thuộc genus Dracaena, tên cây do một người ưa trồng cây cảnh gốc Đức-Anh tên<br />
Henry F.C. Sander đặt cho. Nó còn mang tên là Dracaena braunii, Ribbon Dracaena, Lucky Bamboo,<br />
Belgian Evergreen hay Ribbon Plan.<br />
Hình 4 Hình 5 Hình. 6: dragon tree/hoa/quả (Tenerife)<br />
<strong>The</strong>o thuyết phong thủy tre là loại cây đem lại nhiều may mắn nhất cho gia chủ, giúp chủ nhân<br />
làm ăn phát đạt. Tre cũng là biểu tượng của loại cây phú quý, mang lại sự no đủ.<br />
Tên cây Thần-tài (Lucky bamboo) là một sáng tạo của người Trung hoa, họ đặt tên cho cây như<br />
thể có liên hệ với nghệ thuật Feng Shui, mang thủy, hỏa, thổ, mộc và kim để tạo quân bình cho ngoại<br />
cảnh. Cây thần-tài tượng trưng cho mộc(gỗ) và thủy (nước), với một nơ đỏ thắt ngang tượng trưng cho<br />
hỏa (lửa) để luân chuyển năng lượng trong phòng. Những nhà trồng cây Thần tài uốn cong phát triển ở<br />
Trung quốc.<br />
Các bạn có bao giờ biết đến ý nghĩa như thế của số cọng thần tài không? Số cọng của mỗi chậu<br />
thần tài cũng mang ý nghĩa khác nhau: ba cọng tượng trưng cho hạnh-phúc, năm cành tượng trưng cho<br />
thịnh vượng, sáu cọng tượng trưng cho sức khoẻ. Không bao giờ ta thấy có một chậu gồm bốn cọng<br />
thần-tài vì chữ tứ (bốn) đọc lên từa tựa như chữ tử (chết).<br />
Cây Máu rồng (dragon blood) Dracaena cinnabari<br />
Ngoài các loại cây kiểng mang tên thông dụng như cây bắp, cây dracaena và Thần tài còn có loại cây<br />
máu rồng hiếm thấy hơn.<br />
Cây Máu rồng tại Việt Nam được mang nhiều tên khác nhau tùy theo nguồn nơi cây mọc/trồng<br />
như Huyết giác, cây Cau rừng, Cây xó nhà, Dứa dại, Trầm dứa, Giác ông, Giác máu, ỏi càng (Tày), co<br />
ỏi khang (Thái), Dragon tree (Anh), dragonnier de Loureiro (Pháp). Tên khoa học giống ở Á châu là<br />
Dracaena cambodiana Pierre ex Gagnep., họ Huyết dụ (Dracaenaceae). Cây dạng trung bình cao tới<br />
3,5m, có thể cao tới 10m, to 30cm, ở gốc thân thẳng, một số thân già hoá gỗ, rỗng giữa màu đỏ nâu,<br />
nhánh có thẹo lá to, ngang. Lá mọc khít nhau hẹp nhọn, dài 30-50cm, rộng 1,2-1,5 (-4) cm. Chuỳ hoa<br />
dài, có thể tới 2m, chia nhiều nhánh dài, mảnh. Hoa màu vàng, dài 8mm, thường xếp 3-5 (-10) cái trên
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 64<br />
các nhánh nhỏ. Quả mọng tròn, đường kính 8-10mm, khi chín màu đỏ, chứa 3 hạt. Ra hoa tháng 5-7.<br />
(xem Hình 6). Loi gỗ hinh trụ rỗng ở giưa hoăc đôi khi là nhưng manh gỗ có hinh dang và kich thươc<br />
khac nhau, màu đỏ nâu. Phần thân hoa gỗ màu đỏ (Lignum Dracaenae cambodianae). Thường gọi là<br />
Huyết giác, hay Huyết kiệt. Huyết giác được sách thực vật cho hay là có ở Nam Trung quốc (Quảng<br />
Tây), Việt Nam, Campuchia. Ở nước ta, cây mọc trên các núi đá vôi trong đất liền và hải đảo từ Bắc<br />
chí Nam. (tài liệu thu thập trên Internet).<br />
Dragon blood trees (Tenerife/Canary Islands); photos by Song Viet<br />
Rất nhiều đảo thuộc chùm đảo Canary đều thấy có sự hiện diện của cây máu rồng. Nổi danh<br />
nhất là cây máu rồng già hàng vài nghìn năm trên đảo Tenerife tại Icod de los Vinos với những nhánh<br />
cây vặn vẹo tạo thành đỉnh cây với những lá cây dài và nhọn hoắt.<br />
Có những cây cổ thụ máu rồng có thân mập mạp và nhiều nhánh ở đỉnh. Có những cây có thân<br />
chia làm hai nhánh sau 10 năm đầu rồi sau đó thành một chùm trên đỉnh. Những cây non thường mọc<br />
thẳng tắp và trên đỉnh là một chùm lá nhọn . Cây máu rồng mọc rất chậm, thường thì cỡ 10 năm nó mới<br />
đủ trưởng thành để ra hoa lần đầu tiên. Khi hoa tàn thì cây bắt đầu mọc thêm nhánh.<br />
Cây ở Icod de Los Vino KalkBay/CapeTown/Nam Phi Nhựa cây máu rồng mầu đỏ
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 65<br />
Cây máu rồng có vỏ cây mầu nâu xám. Cây có chứa một chất nhựa, khi cây bị xây xát, chất<br />
nhựa rỉ ra khô cứng dần và có mầu đỏ thẫm. Chất nhựa này có nhiều công dụng trong kỹ nghệ sơn<br />
mài, lacquer, phẩm nhuộm và chất làm bóng. Thổ dân trên đảo thường xem cây máu rồng là một loại<br />
cây linh thiêng, dùng làm thuốc và tẩm xác chết.<br />
Máu rồng được dùng trong đông y để trị một số bệnh thí dụ như loét bao tử, xuất huyết, làm<br />
gum chân răng mạnh hơn .<br />
Ngoài Tenerife, những đảo khác thuộc Canary Islands như La Palma, Gran Canaria, Cape<br />
Verde, Madeira cũng thấy hiện diện rải rác cây máu rồng. Có tài liệu cho biết hãng làm đờn violin<br />
Stradivarius với những cây đờn vĩ cầm nổi tiếng đã dùng nhựa cây máu rồng trộn với turpentine để<br />
nhuộm gỗ làm đờn violin.<br />
Canary Islands là một chùm đảo nằm ở phía Tây Bắc của đất liền Phi Châu. Nhóm đảo này<br />
phần lớn thuộc quyền sở hữu đã lâu của Spain.<br />
Và sau cùng nói đến cây Máu rồng thì không thể không nhắc đến những cây Máu rồng<br />
(dracaena cinnabari) hình cái tán (cây dù) nổi tiếng của đảo Socotra, Ấ độ dương (Indian Ocean). Đảo<br />
Socotra là một trong bốn đảo thuộc Ấn độ dương, nó nằm phía đông của mỏm sừng Phi châu và phía<br />
nam của bán đảo Ả rập. Socotra thuộc Cộng hòa Yemen. Socotra cũng được mệnh danh là “Galapalos<br />
của Ấn độ dương” vì có thực vật cổ đã duy trì ở đây hàng triệu năm cũng như Galapalos Islands của<br />
Ecuador nằm trong Thái Bình dương vùng Latin America và Caribbean. ■<br />
Photo by Edoard Scepi<br />
Photo by Boriskhv<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
14 January 2012<br />
Ghi chú: Một số hình ảnh thu thập trên Internet, không rõ tác giả hay nguồn.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 66<br />
For Your Eyes Only<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
<strong>The</strong> other day, Teresa came home with a shopping bag, raised it with sparkling eyes, and said,<br />
“Guess what? A $128 gown. Got it for $22. And look at these gorgeous dresses I got for the children.<br />
Isn’t it nice? All of these were marked down for sales at the season’s end. A real bargain, monsieur!”<br />
She didn’t have to tell me she was happy. Happy to be able to buy gifts for her granddaughters. Her<br />
eyes told me the story long before she spoke…`<br />
All of us are every day communicating our feelings to people around us. But nothing you say<br />
makes your words seem true. It’s what you don’t say. It is the non-verbal dimension that builds up<br />
your credibility. That is what the experts in communication tell you. As strange as it sounds, up to 95<br />
percent of face-to-face communication is achieved by non-verbal signals. And your eyes alone tell the<br />
story better than any words.<br />
<strong>The</strong>refore, if we had to pick the most important part of our body to send non-verbal signals, we<br />
would without hesitation choose the eyes. Not just the eyeball, but also the eyebrows and the area<br />
surrounding the eyes that act as window frames of our souls. Yes, your eyes tell your story better than<br />
a thousand words!<br />
<strong>The</strong> eyes have such expressive power that people may describe them with so many words:<br />
bright, dark, happy, sad eyes. Defiant, indifferent. Tired, glassy eyes. Hot, cold, mystical oriental<br />
eyes… We even believe eyes can transmit rays of magical power!<br />
Powerful leaders always have exceptional eyes. <strong>The</strong>ir eyes are piercing, hypnotic, or<br />
empathetic. <strong>The</strong> eyes of Genghis Khan. <strong>The</strong> eyes of Napoleon. <strong>The</strong> eyes of Jesus of Nazareth.<br />
Well, if you are not a naturally powerful and charismatic personality, how do you develop<br />
powerful non-verbal characteristics? Can you train yourself? <strong>Le</strong>t me tell you what I have learned.<br />
Research has found that true expressions come from the right hemisphere of your brain, while<br />
the phony expressions are consciously generated by the left. <strong>The</strong> signals from the right side are<br />
genuine, while the left side can display only a design or reconstruction of the real thing. For example,<br />
when you say, “Cheese,” but you don’t really smile, people perceive that phony expression easily. <strong>The</strong><br />
key rule here is: you convince nobody unless you convince yourself first. That is why great actors and<br />
actresses are always sincere. <strong>The</strong>y are so good at making themselves believe in the substance of the<br />
character’s desires and emotions that they become the character themselves. And their eyes will tell the<br />
story. Genuinely.<br />
So, to show your enthusiasm, your friendliness, and sincerity through your eyes, first you must<br />
feel it. That gives you a positive emotion surge that radiates through your eyes. Famous leaders are<br />
always convincing. We believe them because they believe in what they are communicating. <strong>The</strong>ir<br />
expressions flow naturally from a deep faith and conviction. And their eyes speak eloquently what they<br />
feel inside them.<br />
So, let your eyes speak your heart, unveil your soul, reveal you innermost feeling that no word<br />
can convey. <strong>Le</strong>t your eyes twinkle with humor, glow with warmth, and sparkle with wonder when you<br />
talk. And why not let there be some poise in your gaze? But most of all, let your eyes speak of Love,<br />
Sincerity, and Enthusiasm. ■<br />
Madison, AL, September 2011
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 67<br />
Hai Bài ThÖ ThiŠn<br />
Thanh Trà Tiên Tº<br />
TMCS chuyển thể sang lục bát:<br />
English translation by TMCS:<br />
Impermanence<br />
Vô Thường<br />
Trăng rồi cũng đóng cửa Đêm thâu<br />
Mặt trời mở cửa Ngày ùa vào<br />
Hoa Quỳnh tạ thế trong vườn nắng<br />
Ngày vô tình và Đêm quên mau.<br />
(khuyết danh)<br />
Vô thường<br />
Rồi trăng khép lại đêm dài<br />
Mặt trời mở cửa ban mai ùa vào,<br />
Nắng soi quỳnh rũ khi nào,<br />
Ngày chìm lơ đãng, đêm vào lãng quên.<br />
<strong>The</strong> moon is going to close a long night,<br />
<strong>The</strong>n the sun will open the door to welcome a new daytime,<br />
In a garden, in the sunlight<br />
<strong>The</strong> remains of a night flower will lie.<br />
At all times<br />
<strong>The</strong> days are indifferent<br />
At all moments<br />
<strong>The</strong> nights are so quickly forgetful.<br />
Một bài kệ của Thiền Sư Thiên Y Nghĩa Hoài<br />
天 依 義 懷<br />
雁 過 長 空<br />
影 沈 寒 水<br />
雁 無 遺 跡 之 意<br />
Nhạn quá trường không<br />
Ảnh trầm hàn thủy
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 68<br />
Nhạn vô lưu tích chi ý<br />
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.<br />
Bóng Nhạn<br />
(TMCS chuyển thể lục bát)<br />
Lưng trời cánh nhạn qua sông.<br />
Trong veo lạnh lẽo sông lồng bóng chim.<br />
Nhạn đâu muốn gửi dấu in,<br />
Sông vô tâm với bóng chim ngang trời.<br />
<strong>The</strong> Swallow's Image<br />
(Translation by TMCS)<br />
In the high sky, a swallow flies over a river,<br />
Its image sinks in the very cold water.<br />
<strong>The</strong> swallow hasn’t the intention to keep its trace in the river<br />
And how to preserve this image, the river minds never.<br />
Méditation<br />
(Traduction par N.Chan)<br />
Vole sur le long du fleuve l’oiseau<br />
Son ombre est noyée au fond de l’eau froide<br />
Il n’a pas l’intention d’y laisser sa trace<br />
Et ne désire point la retenir l’eau.<br />
Chút cảm nhận về hai bài thơ<br />
Đầu mùa đông năm nay, khi những chiếc lá cuối cùng rời cành, lớp lớp lạo xạo dưới chân giày, tiếng<br />
lòng ta như thảng thốt... Bao lần rồi những chiếc lá xanh ngả vàng, đỏ, nâu, lả tả rời cành,.. Hàng cây<br />
chìm vào giấc ngủ đông, và hàng cây lại đâm chồi nảy lộc đón mùa lá sau. Còn ta, ta đến từ đâu, ta đi<br />
về đâu, ..? Tầng không, xa nghe một tiếng nhạn lạc giữa mênh mông!<br />
Thế rồi, trong những đêm giá lạnh, chẳng biết nhân duyên nào đã đem đến hai bài thơ sau...<br />
Bài thơ thứ nhất:<br />
Trăng rồi cũng đóng cửa Đêm thâu<br />
Mặt trời mở cửa Ngày ùa vào<br />
Hoa Quỳnh tạ thế trong vườn nắng<br />
Ngày vô tình và Đêm quên mau.<br />
(Khuyết danh)<br />
Hai vầng Nhật Nguyệt theo nhau soi chiếu thế gian này. Ngày và Đêm nối tiếp trong bất tận thời
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 69<br />
gian. Cuộc sống là vậy: là sự chuyển dịch, tiếp diễn và biến đổi. Bông hoa quỳnh dẫu đẹp ngất ngây,<br />
cũng như vạn vật vạn sự không thoát vòng sinh diệt ngắn ngủi. Đối cảnh vô thường là Ngày vô tâm<br />
Đêm vô niệm!<br />
Bài thơ thứ hai:<br />
Nhạn quá trường không,<br />
Ảnh trầm hàn thủy<br />
Nhạn vô lưu tích chi ý<br />
Thủy vô lưu ảnh chi tâm<br />
Bài thơ trên được lưu truyền là của Thiền Sư Hương Hải. Trong <strong>Firmament</strong> July 2011, cư sĩ Phí<br />
Minh Tâm đã cất công tìm hiểu và cho biết thực ra tác giả bài thơ đó là Thiền Sư Thiên Y Nghĩa Hoài<br />
đời Tống. Trong một bản khác, câu thứ ba là “Nhạn vô di tung chi ý” - cùng nghĩa với bản trên.<br />
Nghĩa:<br />
Nhạn bay trên không<br />
Ảnh chìm nước lạnh<br />
Nhạn không có ý lưu tích<br />
Thủy không có tâm ý lưu ảnh nhạn<br />
Cánh nhạn và dòng sông đều là hai hình ảnh luôn lưu chuyển sống động, và được trích ra từ<br />
cuộc sống vô thường. Nhưng, như hai bậc thiền giả, vạn sự trôi qua, ‘họ’ không lưu hình giữ ảnh, an<br />
nhiên tự tại trước Vô Thường. Giá như trước mọi biến chuyển trong cuộc sống, ta có thể giữ tâm không<br />
xao động, vô niệm, vô ưu, và an định như dòng Thiền Hà, như cánh nhạn trong bài thơ trên.<br />
Quang Minh tự, mọt chiêu cuôi đông. Tiêt trời thanh tinh. Muôn vat năng vàng óng a từ trên<br />
cao rọi xuông như dòng cam lọ chiêu rai lên van vật. Biêt bao chiêc la còn đang say sưa cuọn minh ngủ<br />
trong những búp chồi chưa hé. Từ chùa nhìn xuống chân đồi là dòng sông Maribyrnong lấp lánh soi<br />
bóng nhưng canh nhan nghiêng chao. Tiêng mo chiêu thanh vọng dọi vào lòng thưc tinh...<br />
Tiêng mo, hưong chiêu, câu niẹm Phật<br />
Thiên quang diẹu sang coi Vô Uu.<br />
Tiên Đông, cẩn bút! ■<br />
Thanh Trà Tiên Tư
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 70<br />
A Spring Night Dream<br />
TÜÖng Mai CÜ Sï<br />
東 岸 春 夢<br />
阮 飛 卿<br />
瀘 水 東 邊 瀘 岸 村<br />
霏 霏 江 雨 暗 前 門<br />
耳 邊 斷 送 春 歸 去<br />
萬 綠 叢 中 杜 宇 魂<br />
ĐÔNG NGẠN XUÂN MỘNG<br />
NGUYỄN PHI KHANH<br />
Lô thuỷ đông biên Lô ngạn thôn<br />
Phi phi giang vũ ám tiền môn<br />
Nhĩ biên đoạn tống xuân qui khứ<br />
Vạn lục tùng trung đỗ vũ hồn.<br />
Dịch nghĩa :<br />
MÔNG XUÂN Ở BỜ ĐÔNG<br />
NGUYỄN PHI KHANH<br />
Xóm ở phía đông bên bờ sông Lô<br />
Mưa sông mờ mịt làm tối cửa trước<br />
Bên tâi vẳng (vừa dứt) tiếng tiễn xuân đi<br />
Ấy là hồn chim quyên trong bụi cây xanh.<br />
GIẤC MỘNG ĐÊM XUÂN<br />
(Chuyển thể lục bát: TMCS)<br />
Dòng Lô,xóm nhỏ,bờ đông<br />
Mờ mờ trong bụi mưa sông trước nhà.<br />
Hồn chim quyên tiễn xuân qua<br />
Lùm cây tiếng hót như là còn vang…<br />
A SPRING NIGHT DREAM<br />
(Translation by TMCS)<br />
My hamlet is on the east bank of Lo river.<br />
<strong>The</strong> drizzling rain in front of my house is just a blur.<br />
To see off the best season of the year, in green bushes<br />
A cuckoo soul dreamingly sings like a singer. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 71<br />
Jacques -Yves Cousteau<br />
Mt TruyŠn Thuy‰t VŠ Bi‹n Cä<br />
Dã Thäo<br />
Lần nầy Dã-Thảo xin giới thiệu với các bạn về một chủ đề không ướt át, không bi lụy như mọi khi, có<br />
lẽ còn hơi khô khan và buồn chán nữa là khác, nhưng đó là một chủ đề gần như thời sự hàng đầu hiện<br />
nay, mà ai ai, còn một chút lòng từ bi với quả địa cầu mà chúng ta đang sống, đều phải cân nhắc và<br />
quan tâm, đó là làm sao cố gắng bảo vệ môi sinh. Và qua đề tài nầy, Dã Thảo cũng muốn nói đến một<br />
người, có nhiều liên quan đến vấn đề môi trường, một con người đã có một định mệnh thật vĩ đại, thật<br />
tài hoa, nhưng như cụ Nguyễn Du đã từng nói :<br />
hoặc :<br />
Trăm năm trong cõi người ta<br />
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau<br />
Có tài mà cậy chi tài<br />
Chữ Tài liền với chữ Tai một vần<br />
Cái Tài thì chắc chắn người ấy đã có rồi, danh vọng cũng ở tột đỉnh, nhưng gia cảnh thì có lẽ<br />
buồn nhiều hơn vui, và có phần hơi bi đát. Đó là chuyện đời của Jacques-Yves Cousteau.<br />
Được xem như là sứ thần của những đáy biển, thuyền trưởng Cousteau đã thám hiểm không mệt<br />
mỏi hành tinh mà chúng ta đang sống và toàn bộ đại dương của nó. Mười ba năm sau cái chết của ông,<br />
thông điệp để lại vẫn đứng vững giữa tính thời sự.<br />
Sinh ra được đúng một thế kỷ, nhân vật với chiếc mũ đỏ muôn đời đã trở thành một siêu sao thế<br />
giới. Cái con người khai phá những nơi sâu cùng cực của vực thẩm, đã phát hiện ra vào lúc hơn sáu<br />
mươi tuổi, rằng sự bảo vệ trái đất phải trực tiếp đi qua việc bảo vệ các đại dương.<br />
Hôm ấy, cả chục nguyên thủ quốc gia toàn thế giới đã có mặt ở đó. Thế nhưng, tất cả những<br />
máy điện âm (micro) đều giơ ra về phía người đàn ông có chiếc áo vét (veste) màu lam lục rất bền bỉ.<br />
Ông ấy vừa được giới thiệu như một vị « sĩ quan chỉ huy hành tinh » (Captain Planet) bởi Maurice<br />
Strong, Tổng Bí Thư Hội Nghị Thượng Đỉnh Trái Đất (Sommet de la Terre), khai mạc vào tháng sáu<br />
1992 tại Rio de Janeiro. Jacques-Yves Cousteau, tám mươi hai tuổi, với cái nhìn trong suốt, đang sẵn<br />
sàng truyền đạt cái thông điệp của ông. Hẳn ông ta không phải là một người tham dự chính thức Hội<br />
Nghị Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc (O.N.U.), nhưng nhà hải dương học nổi tiếng nầy, dù chỉ là một<br />
khách mời bình thường, nhưng lúc nào ông cũng biết lợi dụng cái uy lực của mình để trở thành cái loa
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 72<br />
cho một hành tinh đang trong tình trạng nguy khốn. Ông có thể phát động sự kêu gọi long trọng của<br />
ông, nhấn mạnh lên mối hiểm họa « cơ bản », mà theo ông, về số nhân khẩu quá đông. Jacques-Yves<br />
Cousteau, biểu hiệu của một thần tượng, mà ý thức đạo đức đã trở thành hầu như không thể lẩn tránh<br />
được. Vừa là một quân nhân, một nhà thám hiểm, một đạo diễn kỹ thuật phim, một thương gia, một<br />
viện sĩ của Hàn Lâm Viện Pháp, một nhà sinh thái học…Bao nhiêu trang phục chồng lên trên con<br />
người nầy ! Nhưng tầm vóc của một tổng tư lệnh bắt buộc chiếm<br />
.<br />
ngôi vị hàng đầu.<br />
Lúc đó, huyền thoại Cousteau đang ở tột đỉnh. Nhưng thực sự ở vào thời điểm nào mà cái truyền thuyết<br />
nầy đã bắt đầu được viết ra bằng màu mực xanh nước biển ? Có cần phải lặn ngụp vào thời thơ ấu của<br />
ông, để khơi dậy cái kho báu đam mê tột cùng của ông về những đại dương xanh biếc kia chăng ? Quả<br />
thực không đúng lắm. Ông chào đời vào ngày mười một tháng sáu năm 1910 tại Saint André de Cubzac<br />
(vùng Gironde) ở Pháp. Là đứa con thứ hai trong một gia đình đã từ sớm, dạy cho ông một cách nhanh<br />
chóng là không đặt vali của mình xuống một nơi nào quá lâu. Daniel, thân phụ của ông, khởi đầu làm<br />
thư ký riêng cho một nhà triệu phú Mỹ, James Hazen Hyde, người thừa kế một hãng bảo hiểm to lớn,<br />
được thành lập từ năm 1859 (hiện nay là cơ nghiệp AXA). Rồi về sau, tiếp tục làm cho một trọc phú<br />
cực kỳ giàu có ở Nữu Ước, Eugène Higgins. Đó là những hạng người đi du lịch không ngừng, và họ<br />
cũng chất luôn lên tàu những tên Cousteau theo cuộc sống phiêu bạt của họ. Duy nhất một cảng gắn bó,<br />
đó là Saint-André-de-Cubzac, nơi cư trú của gia đình bà mẹ ông, Elisabeth, và cũng là nơi chàng trai<br />
trẻ Jacques-Yves neo bến trong những kỳ nghỉ.<br />
Những di chuyển không ngừng của những năm thanh xuân, không ảnh hưởng chút nào lên các<br />
trẻ con của các gia đình quan trọng, mà chưa bao giờ họ phải chịu khổ lụy về vấn đề tiền bạc. Giữa<br />
những năm 1920 và 1923, Jacques-Yves và anh của ông, Pierre-Antoine cùng cha mẹ, đặt chân đến<br />
Manhattan. Và chính trong một trại hè ở Vermont mà cậu bé nầy khám phá ra trò chơi lặn ngụp dưới<br />
nước : một sự khai tâm đã để lại cho ông những dấu ấn sâu sắc về sau nầy.<br />
Một sự kiện khác, cậu thanh niên nầy lúc trở về Paris, bỗng đâm ra thích thú say mê về điện<br />
ảnh, khi cha cậu mang về nhà một máy quay phim Pathé-Baby. Và nữa, nếu không muốn nói rằng việc<br />
học tập của cậu có thể cho là hơi hỗn độn, từ một trường sở nầy thay đổi đến một trường ốc khác,<br />
không làm sao dự đoán trước được những năng khiếu gì đặc biệt của cậu. Bắt đầu vào tuổi hai mươi,<br />
chàng trai trẻ do dự về con đường nghề nghiệp mà mình phải theo : Ngành y học, điện ảnh hay vào<br />
quân đội ? Sẽ là ngành hàng hải ! Ông đỗ đạt vào cuộc thi tuyển trong đội tàu chiến, kích thích bởi
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 73<br />
niềm ao ước đi khám phá thế giới, và với động cơ nầy mà viên thiếu úy hải quân không bao giờ để lỡ<br />
cơ hội rút khỏi bao máy quay phim, để chụp bắt hết những gì hiện ra chung quanh mình ở mỗi bến<br />
cảng. Nhưng, với cái thế giới mà ông khao khát tìm kiếm đó, ông cũng muốn được quan sát nó từ trên<br />
cao.<br />
Vào năm 1935, ông ghi tên vào trường Hàng Không Hải Vận Hourtin ở vùng Gironde. (Ecole<br />
d’aviation maritime d’Hourtin). Than ôi, một tai nạn xe hơi khủng khiếp đã ngăn trở giấc mơ của ông,<br />
và gây cho ông bị tê liệt trong tám tháng ! Sau thời gian dưỡng bệnh, thế là ông được bổ nhiệm về<br />
Toulon và duyên kiếp đưa đẩy, từ nơi đó, một sự gặp gỡ có tính cách xác định cho một đoạn đời mới<br />
đang mở rộng, với một viên sĩ quan hải quân khác, Philippe Tailliez, một tên thợ săn dưới biển rất kiên<br />
trì. Một ngày chúa nhật mùa hạ, ông Philippe nầy trao cho Jacques-Yves một cặp mắt kính đeo dưới<br />
biển và đưa ông đi lặn. Quả là một sự phát hiện kỳ diệu ! Bốn mươi năm sau, viên chỉ huy trưởng nầy<br />
kể lại : « Ngay lúc ấy, mọi sự phản ứng rất bất ngờ : viên sĩ quan pháo thủ Hải quân quốc gia mà tôi<br />
đang thủ vai chính tự bao giờ, có cảm giác hình như dòng chảy đời tôi từ nay sẽ thay đổi toàn bộ » (À<br />
l’instant, tout se déclenche : l’officier cannonier de la Marine nationale que j’ai été jusque-là, pressent<br />
que le cours de ma vie va être bouleversé ).<br />
Rất nhanh chóng, cặp Tailliez-Cousteau liên kết với Frédéric Dumas, một con người nhiệt tình<br />
với khảo cổ học và đánh cá dưới lòng biển. Người ta đặt biệt danh cho bộ ba nầy là những tên lính ngự<br />
lâm ở biển (les mousquemers). Họ dành tất cả thời giờ rảnh rang vào một điểm chủ yếu của công việc<br />
lăn dưới biển, để sửa chữa tạm những dụng cụ hô hấp, hầu đẩy xa hơn việc thám hiểm cái thế giới sâu<br />
dưới lòng biển, một thói quen gần như máy móc và đầy hạnh phúc đối với Jacques-Yves Cousteau.<br />
Năm 1937, ông thành hôn với Simone Melchior, ái nữ của một sĩ quan chuyển đổi sang ngành<br />
công nghiệp tư nhân, và một năm sau đó, đứa con đầu lòng ra đời, Jean-Michel. Chiến tranh không<br />
thực sự đánh vỡ cái thế quân bình rất hài hoà nầy. Rồi kế tiếp một đứa thứ hai có mặt, đó là Philippe,<br />
sinh vào tháng mười hai 1940. Chàng quân nhân đang vượt qua một cơn bão tố mà không thực sự bị<br />
đẫm ướt. Một sự tham gia huyễn hoặc của ông vào một thứ chiến dịch gián điệp trong thời gian « cuộc<br />
chiến tranh dị kỳ » nầy (vì thực sự không có hoạt động quân sự trên mặt trận Pháp - Đức từ tháng chín<br />
1939 đến tháng năm 1940), chuyện nầy về sau đã mang lại cho ông huân chương bắc đẩu bội tinh<br />
(Légion d’honneur). Phần còn lại, ông giải ngũ sau việc tự đánh đắm tàu của hạm đội Pháp ở Toulon,<br />
(để khỏi sa vào tay địch) vào tháng mười một năm 1942, và từ đó, chuyên tâm vào hai sở thích : việc<br />
lặn dưới biển và ngành điện ảnh.<br />
Bắt đầu tháng mười hai 1942, ông sáng lập ra hãng sản xuất đầu tiên của ông. Và năm tháng<br />
sau đó, ông cho trình làng ở Paris một bộ phim ngắn thứ nhất : « Par dix-huit mètres de fond » (duới<br />
đáy sâu mười tám thước », mà sự thành công đã cho ông đạt được giấy phép quay phim từ phía chính<br />
quyền Đức. Đó là một tiến triển rất xác định trong công việc dò tìm dưới vực thẩm của ông. Với kỹ sư<br />
Emile Gagnan của hãng Air Liquide, ông hoàn chỉnh phương pháp « Aqualung » nổi tiếng : (phổi thủy<br />
sinh – poumon aquatique), một hệ thống tự quản, tạo cho khả năng thở dưới nước. Một phát minh thật<br />
rỡ ràng thắp đuốc cho những dự án của các lính thủy về sau nầy.<br />
Trong khi chờ đợi, cuộc chiến tranh giải phóng (Liberation) trong đệ nhị thế chiến, bắt buộc gia<br />
đình Cousteau phải gánh vác một thực tế thật đen tối, vì anh của ông, Pierre Antoine Cousteau, một<br />
phóng viên cộng sự và cũng là Tổng biên tập, kế vị ông Robert Brasillach, đứng đầu tuần san « Je suis
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 74<br />
partout », đã cộng tác với địch trong thời kỳ Đức quốc xã chiếm nước Pháp. Ông nầy bị kết án tử hình.<br />
Trường hợp « Pierre Antoine Cousteau » nầy đã động viên hết gia đình Cousteau trong suốt nhiều<br />
năm, cho đến ngày ân xá của Tổng Thống vào năm 1947 và sự phóng thích của ông năm 1954. Hẳn là<br />
JacquesYves không chia xẻ những quan điểm của ông anh cả, nhưng bị thôi thúc bởi bà mẹ, ông tự thấy<br />
có bổn phận biện hộ cho việc làm của người anh. Phải nói rằng những liên hệ giao tiếp giữa hai anh em<br />
ông tự bao giờ cũng khá nhạt nhẽo với nhau. Từ sau cái chết của Pierre-Antoine, người con thứ là ông,<br />
nhận trách nhiệm giáo dục các cháu theo cách thức của mình – hơi xa cách, lạnh nhạt - và cũng y như<br />
thế đối với các con ruột của chính ông. Nhờ vào sự sung túc tài chánh, việc sinh sống gia đình<br />
Cousteau chẳng có gì đáng phàn nàn cả.<br />
Jacques-Yves Cousteau thường xuyên quá tập trung vào những dự án của ông và tự biết « là<br />
một người cha rất khiếm khuyết với các con, bởi vì tôi chỉ là một người cha có mặt từng hồi, mà một<br />
phần ba thời gian, chúng không nhìn thấy mặt » (père défaillant pour mes enfants, puisque je suis un<br />
père épisodique, qu’ils ne voient pas le tiers du temps). Mọi chuyện cũng không dễ dàng thu xếp được<br />
bởi một cú sét đánh, đã đóng dấu vào định mệnh của người đàn ông nầy. Tức khắc, ông thề rằng là ông<br />
đang si tình cái vỏ bằng gỗ mà ông vừa đi viếng buổi sáng mùa Xuân 1950 nầy, ở bến cảng La Valette<br />
(đảo Malte) : đó là chiếc « la Calypso ». Đã có sẵn trong tay một chiếc tàu hải dương học của mình mà<br />
ông từng ao ước bấy lâu, hành trình đầy biến cố có thể bắt đầu<br />
.<br />
Sau khi mua và trang bị lại nhờ vào một người bảo trợ Anh quốc, chàng cựu vớt mìn khởi đầu<br />
chuyến đi vào năm 1951 : biển đỏ (Mer Rouge), biển Égée (Mer Egée), vịnh Ba Tư (Golfe Persique),<br />
những khảo sát cứ thế mà nối tiếp không ngừng…Những tín đồ tương lai như chàng thợ lặn Albert<br />
Falco hay viên kỹ sư Andé Laban, gia tăng nhân số thủy thủ đoàn. Đến năm 1954, Louis Malle, hai<br />
mươi ba tuổi, vừa tốt nghiệp trường Cao Học Điện Ảnh (IDHEC) cũng lên tàu, chỉ định đến phụ trợ<br />
cho nhân vật mà những người trên tàu đặt cho cái biệt danh là « JYC », để quay một bộ phim dài. Tựa<br />
đề tự nhiên được nghĩ ra : « Thế giới của sự tĩnh lặng » (<strong>Le</strong> monde du silence), y như quyển hồi ký của<br />
Cousteau và Dumas, xuất bản năm 1953, đã gặt hái một sự thắng lợi rất minh bạch. Cuộn phim vạch<br />
trần cho đại chúng một thế giới mà từ trước tới nay như vô hình. Sự khám phá đó giải thích được sự<br />
thành công của cuốn phim : một huy chương vàng ở Cannes vào năm 1956, cũng là một vinh dự hàng<br />
đầu cho loại
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 75<br />
phim tài liệu, và một giải Oscar ở Hollywood vài tháng sau. .<br />
Năm kế tiếp, Jacques Yves Cousteau rời bỏ quân đội và được bổ nhiệm bởi ông Hoàng Rainier,<br />
làm giám đốc Viện Bảo Tàng Hải Dương Học ở Monaco, (Musée Océanographique de Monaco), chức<br />
vụ mà ông đã giữ tròn trong suốt ba mươi hai năm. Giai đoạn tiếp theo là một chuỗi kế tục những dự<br />
án, biểu lộ sự quan tâm của vị thuyền trưởng nầy trong việc canh tân kỹ thuật cho chiếc Zodiac khổng<br />
lồ, với những kiểu sinh sống ngập nước, được xem như một loại tàu ngầm tương lai. Như thế, chiếc<br />
tàu đổi tên thành chiếc Argyronète, được chính phủ trợ lực và ký thác cho Jacques-Yves Cousteau,<br />
nhưng không may nó đã đi đến một sự thất bại hoàn toàn về ngân sách trước khi bị vứt bỏ. Việc nầy đã<br />
gây cho Cousteau giữ một mối thù dai dẳng với chính phủ Pháp, nhưng rồi ông lại mò mẫm tiến đến<br />
một lãnh vực hoạt động khác, như một cuộc hành quân quá sức của mình. Quả là một cú thần diệu :<br />
ông liền thấu hiểu rất nhanh chóng sự lợi ich của đài truyền hình, và chính cái màn ảnh nhỏ nầy đã làm<br />
cho ông nổi danh vào cuối những năm 1960.<br />
« Cuộc hành trình đầy biến cố của thuyền đội Cousteau » (L’Odyssée de l’équipe Cousteau), đó<br />
là chủ đề một loạt phim tư liệu quay cho đài truyền hình ABC Mỹ, gián tiếp phát trên cả trăm đài<br />
truyền hình khác trên toàn thế giới. Nhân vật với cái mũ đỏ muôn đời trở thành một siêu sao, nhất là ở<br />
Mỹ. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ông thành lập năm 1973, ở bên kia bờ Đại Tây Dương « Hội<br />
Cousteau » (la Cousteau Society), hiệp hội với một mục tiêu xác định là « bảo vệ thiên nhiên và sự<br />
thăng cấp cho phẩm chất cuộc sống » (la protection de la nature et la promotion de la qualité de la<br />
vie). Hiệp hội nầy đã nhanh chóng được hơn cả trăm ngàn hội viên.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 76<br />
Chính lúc về cuối đời, khi quá hơn sáu mươi tuổi, nhà thám hiểm-đạo diễn kỹ thuật phim, mới<br />
tròng vào người cái trang phục của kẻ bảo vệ môi sinh. Ý thức quan trọng nầy đã nhờ rất nhiều vào<br />
những khám phá của ông về vùng Nam cực, cùng một năm ấy, và cũng vì lý do đó, ông đã toàn lực<br />
động viên trong suốt mười năm về sau, để giành được một trong những kết quả to lớn nhất về sinh thái,<br />
bằng việc gây sức ép với một nhóm có thế lực lớn, để họ chịu góp phần ngăn chận vào những sinh hoạt<br />
công nghiệp trên lục địa trắng nầy. Tất nhiên, cái khuôn mặt nổi tiếng và được ca tụng từ nay, bắt đầu<br />
làm cho vài « cái răng bị nghiến lại ». Hơn nữa, khi vào năm 1981, Jacques-Yves Cousteau cũng sáng<br />
lập ra tại Pháp, một Viện – tương tợ như « cô em gái tam tài » song sinh với « Hội Cousteau » ở Mỹ,<br />
hình như lúc ấy, ông cũng bị kích thích bởi chính trị, nên có lúc cũng thoáng nghĩ qua đến một sự dự<br />
tuyển chức Tổng Thống. Dù sao, xét cho cùng, chẳng phải ông cũng là một trong những nhân vật<br />
thường xuyên được dân Pháp yêu chuộng nhất sao ? Sau khi cân nhắc kỹ, ông lựa chọn cho mình một<br />
cuộc đấu tranh to rộng hơn. Vững vàng bởi cái uy tín đạo đức sẵn có, ông tin tưởng để thu phục được<br />
nhân tâm trong việc bảo vệ môi trường, thì phải đứng trội lên trên các cuộc hỗn chiến thường tình, và<br />
đẩy mạnh ở tầm vóc quốc tế, mới có thể làm tác động trên vài quyết định của những cường quốc trên<br />
thế giới. Do đó, những sự công kích tứ phía về tính chuyên quyền, cái khuynh hướng khoe khoang, lúc
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 77<br />
nào cũng tỏ ra trội hơn người, và những tham vọng phát minh của ông. Những sự tấn công đó cũng<br />
không cản trở được nhân vật Cousteau, thẳng đứng trong đôi ủng của mình, bước vào Viện Hàm Lâm<br />
của Pháp với những nghi lễ tương xứng vào năm 1989, lúc bảy mươi chín tuổi. Đúng là một Jacques-<br />
Yves Cousteau bất tử, trong sự lưu truyền muôn thuở ! (Immortel JYC) .<br />
Những năm tháng cuối đời của ông sẽ không phải là những năm vinh quang, rực rỡ nhất. <strong>The</strong>o<br />
hình ảnh thể hiện sự thất bại của khu trang viên thuộc đại dương học Cousteau (Parc océanique<br />
Cousteau), mở cửa ra ở khu <strong>Le</strong>s Halles, tại Paris, cùng năm với sự gia nhập của ông vào Hàn Lâm<br />
Viện, không một động vật nào trong ấy còn sinh tồn, mặc dù trang viên mang một khái niệm rất độc<br />
đáo….tất nhiên, nếu không muốn nói là hơi quá một chút….Công chúng như dỗi hờn, không hưởng<br />
ứng là mấy. Cuối năm 1992, cơ cấu đó đóng cửa. Rất ê chề và đau buồn, Jacques-Yves Cousteau quy sự<br />
thất bại nầy cho cậu con trai của ông, Jean Michel, người đã nhận trách nhiệm dự án ấy. Từ đó, mối bất<br />
hoà giữa hai cha con đã hết hồi cứu vãn mà còn khởi tố nhau ra trước Toà án. Thế là một sự tan rã gia<br />
đình đã được thừa nhận !<br />
Vào năm 1979, Philippe, người con thứ của ông, tử nạn trong một tai nạn thủy phi cơ<br />
(hydravion) mà cậu ta lái. Là một người bướng bỉnh, chỉ thích làm theo ý mình, cậu nầy thường chống<br />
đối uy quyền của cha cậu, mặc dù Jacques-Yves vẫn muốn chỉ định cậu vào quyền thừa kế. Sau thảm<br />
kịch nầy, Jean Michel trở về tái hợp với cha và cộng tác lại trong thuyền đội Calypso, nhưng sẽ không<br />
bao giờ chia phần trong sự vinh quang của cha cậu.<br />
Năm 1990, bịnh ung thư cướp đi bà vợ của ông, Simone, còn được gọi là « thủ lĩnh » (la<br />
Bergère), linh hồn của chiếc Calypso, (l’âme de la Calypso) trong suốt hơn ba mươi năm, đó cũng là<br />
« thiên đường » của bà,(son paradis), bà vẫn nói thế. Vì nó, bà đã hy sinh tất cả và giấu nhẹm tới cùng,<br />
cơn bệnh của mình. Trong nhiều năm dài đăng đẳng, bà vẫn trung thành với nhiệm vụ, và cố gắng ít<br />
nhiều, thích nghi với những sự vắng mặt thường xuyên của chồng. Đây là « một vực thẳm với những<br />
mặt vách bên trong phủ kín những mật đắng » (un gouffre aux parois tapissées d’amertume). Nghe thật<br />
tội tình và chua xót quá phải không các ban ? Bà được biết mối quan hệ luyến ái của vị thuyền trưởng<br />
với Francine Triplet, một cựu chiêu đãi viên hàng không, và hai đứa con sinh ra từ sự ăn ở không chính<br />
thức nầy, năm 1980 và 1982. Jacques-Yves Coustet chỉ tiết lộ công khai sự có mặt của chúng năm<br />
1990, sau cái chết của Simone, và thành hôn chính thức vào tháng sáu 1991, với người đàn bà ngày<br />
hôm nay đang chăm lo di sản Cousteau, một nhãn hiệu thật sự đã trình toà.<br />
Những đòn không đẹp cùng những mưu mẹo quanh co gia đình, đã làm hao hụt ít nhiều cái hình<br />
ảnh trơn mượt của vị thuyền trường Planet vào cuối đời. Cái hiến chương về những quy tắc pháp lý cho<br />
những thế hệ tương lai của ông, (Charte pour les Droits des générations futures), phát động vào năm<br />
1991, bắt ông chuyên tâm tranh đấu cho đến cùng trong những năm chót.. Về sau, Hiến chương nầy đã<br />
được UNESCO cho thông qua. Chính cái nghị lực đó đã để lại sự ngưỡng mộ rơi xuống từ bốn góc trời<br />
của quả địa cầu, khi vị thuyền trưởng vĩnh viễn giã chào từ biệt ngày hai mươi lăm tháng sáu 1997.<br />
Người đàn ông với chiếc mũ đỏ, mãi tồn tại là nhà phát minh cái công thức vừa phối hợp phương tiện<br />
thông tin đại chúng, công việc kinh doanh lẫn vấn đề bảo vệ thiên nhiên, với một công hiệu cực kỳ giá<br />
trị, để gây cảm ứng cho đại chúng đối đầu với những thách thức môi sinh toàn bộ. Hai mươi năm sau,<br />
Nicolas Hulot hay Yann Arthus-Bertrand cũng chẳng làm được điều gì khác hơn… ..<br />
Chúng ta đang ở thời đại mà người ta thường bàn đến vấn đề Ecologie và « les Verts », Dã-Thảo
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 78<br />
sưu tầm và kể lại cho các bạn, hy vọng các thân hữu sẽ không chán với bài viết khô khan nầy. ■<br />
Paris, Dã-Thảo – 29/2/2012
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 79<br />
Ngày ñó...Bây Gi©<br />
Dã Thäo<br />
Tôi nhìn tôi mà tưởng chừng người khác<br />
Dòng thời gian đã mòn vét linh hồn<br />
Trên tháng ngày từng sợi điểm hoàng hôn<br />
Nghe mặn chát một cõi đời cuối lối<br />
Hương sắc cũ đi cùng tôi đêm tối<br />
Những nhụy vàng về mơn trớn da khô<br />
Mắt dài đi thu nhỏ khoảng hư vô<br />
Dấu năm xưa hình hài như mục rữa<br />
Màu môi hồng không ngọt thơm mùi sữa<br />
Nhan sắc nào để người gọi yêu thương ?<br />
Thịt da ngà giòng suối mát ngàn phương
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 80<br />
Ôi ngày đó, đường xuân hoài bất tận<br />
Bây giờ đây hồn trôi xuôi lận đận<br />
Bỗng thấy mình trăng chìm đáy biển sâu<br />
Soi bóng ta trên vách trắng đêm thâu<br />
Tầm tay với đẩy xa ngày tháng cũ<br />
Thế mới biết thân ta không làm chủ<br />
Bị da nầy rồi chợt đến, chợt đi<br />
Một ngày kia bia mộ sẽ khắc ghi<br />
Cái tên gọi phai dần lên thạch đá<br />
Mưa chiều nay tí tách buồn trên lá<br />
Tiếng ca nào ta gửi gió ngàn bay<br />
Thoáng ngậm ngùi thêm vắng lặng chua cay<br />
Vạc kêu sương đêm rủ dài bóng tối<br />
Ngày đó…bây giờ….thẳng con đường đi tới<br />
Còn lối nào ngược trở lại thời gian ?<br />
Để nắng xuân giọt lên má em ngoan<br />
Đắm hồn anh khát khao niềm vui mới<br />
Thương quá cái Ta, rức ray chới với<br />
Vòng tay người ôm ấp túi tham lam<br />
Núi sân si, trời mơ ước bất kham<br />
Nhìn lại đời qua, mãi cái KHÔNG nắm bắt<br />
Chỉ có thế, một bộ xương, một bụi đất<br />
Thiên đường mù bao lẫn lộn buồn vui<br />
Lịch sử đi qua…những năm tháng chột thui<br />
Ta còn thở, thêm nợ đời vay trả….■<br />
DÃ-THẢO – PARIS<br />
(Nhìn lại mình mà thương – 5/3/2012)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 81<br />
Tháng Bäy MÜa DÀm<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Thơ này gửi bạn tri âm<br />
Trùng dương xa cách hồn trầm nhớ nhung<br />
Cám ơn người mở tim hồng<br />
Cho tôi bẻ lá thả dòng thi thơ<br />
Đêm qua thu đến bao giờ?<br />
Ấp hồn nghệ sĩ ươm tơ thành lời<br />
Làn trăng sóng nhạc chơi vơi<br />
Chim sương khắc khoải gọi người trong tâm<br />
Mưa Ngâu tháng bãy như dầm<br />
Lệ sa dứt nối âm thầm khóc thu<br />
Hẹn Xuân tan áng mây mù<br />
Rượu hồng xin chuốc đền bù cố nhân<br />
Cuộc đời ảo mộng phù vân<br />
Thực hư ẩn hiện trông gần mà xa<br />
Cám ơn bạn đã cùng ta<br />
Tri âm thấm nghĩa tình là thiên thu<br />
Madison, AL, tháng Bãy năm Tân Mão, 2011
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 82<br />
Våt Áo Dài TruyŠn Ki‰p<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Người nhớ chăng, vạt áo dài Trưng Triệu<br />
Phất phơ bay kiêu hãnh cưỡi đầu voi<br />
Đạp thành trì giam nô lệ giống nòi<br />
Hồn Lạc Việt xưa oai hùng dựng nghiêp<br />
Ôi, chiếc áo dài mến yêu truyền kiếp<br />
Hai vạt mềm sau trước thả bằng nhau<br />
Trải ngàn năm theo vận nước nông sâu<br />
Cao hay thấp tùy thời cơ biến đổi<br />
Khi thu gọn thành bà-ba áo túi<br />
Lúc xẻ đôi một vạt thắt tứ thân<br />
Khi hội hè, lễ lạc, lúc tiếp tân<br />
Áo dài Việt ơi, tuyệt trần thẩm mỹ<br />
Hở đáng hở, che đáng che ý nhị<br />
Khoe tướng đi, ngồi đứng, lúc mộng mơ<br />
Cổ thiên nga, lưng thon nhỏ cành thơ<br />
Liễu tha thướt sen hồng tà úp mở<br />
Sóng Đại Lảnh ôm bờ hoa trắng nở<br />
Mây Hải Vân phấp phới lượn vờn quanh<br />
Dảy Trường Sơn màn thác đổ mong manh<br />
Cửu Long ngập hương tình thương áo Mẹ. ■<br />
Madison, AL, November 2011
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 83<br />
Làm ThÖ...<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Làm thơ ghép chữ kết đôi<br />
Ghép hoa kết cánh, hương đời nhẹ bay<br />
Ý thơ dìu dặt chân mây<br />
Tiếng ca hải yến chung bầy gọi nhau<br />
Âm ba rung động tinh cầu<br />
Khi vui riu rit, khi sầu héo hon<br />
Gửi nhau một mảnh trăng tròn<br />
Lung linh sóng gợn hồ còn ngất ngây. ■<br />
<br />
Xuân MÃy ñ SÀu ?<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Mấy độ Xuân đi, mấy độ sầu<br />
Hè hong tóc xám, mắt viền nâu<br />
Chim thương rừng lá, người thương cội<br />
Biết mấy Thu rồi hẹn có nhau ?<br />
Tập ảnh năm xưa khéo mủi lòng<br />
Canh tàn suối lệ đã hầu đong<br />
Quê hương xa lắc mờ sau núi<br />
Kỷ niệm còn vương chút bụi hồng<br />
Sông Thương nước chảy qua cầu<br />
Người về ngả bóng nghiêng đầu lặng yên<br />
Dỗ nhau vào giấc mộng hiền<br />
Hoa Xuân thắm lại muộn phiền lãng quên. ■<br />
Madison, AL, February 9, 2012
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 84<br />
Hạnh phúc ví như một nụ hôn,<br />
muốn thưởng thức phải san sẻ<br />
Bernard Melzer<br />
Old Wine of Burgundy<br />
David Lš Lãng Nhân<br />
Like a purple rose in April<br />
Spreading its flagrant sweetness,<br />
You fill up my heart and soul<br />
With such a Happiness.<br />
Ah! My old wine of Burgundy<br />
Your bouquet mellows with the ages;<br />
And love fills up the pages<br />
O’ my book of Tenderness. ■<br />
<br />
RÜ®u CÛ XÙ Buc-gæn-Çy<br />
Hồng nhung một đóa tháng Tư đây<br />
Phảng phất hương nồng dịu ngất ngây<br />
Mi đã thả hồn ta trọn vẹn<br />
Trào dâng hạnh phúc sóng vơi đầy<br />
Rươu hồng vang cũ Buộc-găn-đy<br />
Dư hương nhẹ thoảng tháng năm đi<br />
Tình nồng ấp ủ bao trang giấy<br />
Quyển sách ân tình nối tiếp dầy. ■<br />
Madison, AL, January 2012
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 85<br />
Cô Láng GiŠng<br />
NguyÍn Ng†c Cänh<br />
Thuở ấy ở gần bên lối xóm<br />
Có người con gái chớm dậy thì<br />
Nghiêng nghiêng chiếc nón em đi<br />
Gót tiên từng bước nhu mì thanh tao<br />
Da ngăm ngăm tựa màu bánh mật<br />
Đường em về phơ phất áo bay<br />
Dịu dàng như gió đưa mây<br />
Nhìn em anh bỗng ngất ngây cỏi lòng<br />
Vừa gặp nhau tình khôn chan chứa<br />
Nhớ ngày nào hai đứa mới quen<br />
Đẹp sao là lúc tròn trăng<br />
Cầm tay lặng lẽ bân khuân trong hồn.<br />
Anh đem đóa hoa hồng xin tặng<br />
Mắt em nhìn lóng lánh sao sa<br />
Yêu người say đắm hơn hoa<br />
Tình anh giây phút chan hòa nắng mai<br />
Tim anh tung buồn say gió lộng<br />
Ngập tràn bao ước mộng thuở nào<br />
Thuyền chờ bến đợi ghé vào<br />
Hồn anh vượt sóng xôn xao nghìn trùng!<br />
Biển Nha Trang ta từng hò hẹn<br />
Ngắm trời xanh cát trắng cùng nhau<br />
Mắt nhìn ước nguyện trăng sao<br />
Tai nghe sóng vỗ trầu cau thì thầm<br />
Chuyện trầu cau sắc cầm chăn gối<br />
Dục thời gian đi vội đừng chờ<br />
Vu qui mong đợi từng giờ<br />
Lứa đôi trao gởi đường tơ trọn đời.<br />
Cô láng giềng hết rồi xa lạ<br />
Bao năm qua mình đã lứa đôi<br />
Tình xưa còn bỏng trên môi<br />
Người xưa xóm cũ còn tôi với nàng. ■<br />
Chicago 2004
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 86<br />
Tình Suông<br />
Xa cách muôn trùng, núi sông ngăn trở,<br />
Người đã đi rồi, ly biệt từ đây,<br />
Cuộc sống mong manh đâu biết ngày mai,<br />
Người đi rồi còn mong gì gặp lại!<br />
Đã biết hợp, tan: sao còn khắc khoải,<br />
Sao cứ để lòng còn mãi tơ vương.<br />
Đã dốc lòng tu buông bỏ nhớ thương,<br />
Sao còn thương tưởng bóng hình đã khuất?<br />
Rồi tháng ngày qua một mình u uất,<br />
Nhìn ngắm cuộc đời tựa áng mây trôi,<br />
Một ngọn gió thôi: mây đã đổi rồi,<br />
Như những cuộc tình trôi vào quên lãng!<br />
Dĩ vãng đầy vơi khơi trong chiều vắng,<br />
Nắng đã úa vàng, tóc cũng điểm sương,<br />
Sao mãi để lòng tơ tưởng vấn vương,<br />
Người đã đi rồi tình suông huyễn mộng!<br />
Nhìn đàn chim bay về chốn mông lung,<br />
Sao không biết mộng đời là thế đó,<br />
Vui hôm nay rồi cũng mất ngày mai<br />
Tiếc nuối chi cho hình hài ủ rũ!<br />
Một ngày nào mình sẽ về chốn cũ,<br />
Tìm những con đường mang dấu chân xưa,<br />
Những con đường nào mình cùng nhau bước,<br />
Trong những chiều nào lá đổ vàng thu…■<br />
Minh Thu (12/2010)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 87<br />
Mãn Tang<br />
Anh ơi!<br />
Mãn tang anh hôm nay,<br />
Lòng vẫn đau vơi đầy,<br />
Ba năm rồi khuất bóng,<br />
Thương nhớ vẫn chưa khuây!!<br />
Năm tháng tựa như mây,<br />
Trôi hoài … về dĩ vãng,<br />
Tình xưa bao lãng mạn,<br />
Em tìm lại hàng ngày:<br />
Hai ta vui sum vầy,<br />
Ngày nào xưa êm ái…<br />
Nhưng thời gian tàn hại:<br />
Tử biệt khiến lìa tan!!<br />
Anh ơi!<br />
Mãn tang anh hôm nay,<br />
Sầu dâng lên vơi đầy,<br />
Ba năm rồi, anh nhỉ?<br />
Buồn thương mãi không khuây!! ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne một ngày buồn lộng gió<br />
Để kỷ niệm mãn tang chồng ngày<br />
15/02/2012.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 88<br />
ThÜ Phòng Mt ñêm Xuân<br />
Thanh Trà Tiên Tº<br />
Đêm viễn xứ thư phòng thao thức<br />
Gió từng trang ký ức xôn xao<br />
Khúc phong trần, khúc thanh tao<br />
Canh thâu ôn lại biết bao sự tình...<br />
*<br />
Tung đôi cánh, hồn trinh mộng trắng<br />
Bầy chim non chao nắng thu sang<br />
Tình quê thơm ngát hành trang<br />
Tang bồng xuyên gió ngỡ ngàng trời Âu!<br />
Ngày lên lớp, đêm thâu đèn sách<br />
Thời sinh viên thử thách mùa thi<br />
Lòng xao xuyến khúc xuân thì<br />
Trao say đắm nhận những gì đắm say!<br />
Bỗng trời đất, ai hay, nổi gió<br />
Khua bầy chim đây đó muôn phương,<br />
Kẻ về đổi mới cố hương<br />
Kẻ đi đổi lấy phong sương làm nhà...<br />
Đôi chim nhạn, quê xa dừng cánh<br />
Bước thăng trầm quảy gánh phồn hoa<br />
Giọt bùi, giọt đắng, giọt sa<br />
Đôi lòng hoà khúc tình ca mặn mà.<br />
Thanh Xuân Hội gần xa hớn hở<br />
Bầy chim về quần tụ bên nhau<br />
Ơn thầy nghĩa bạn đậm sâu<br />
Khăn quàng tươi thắm trọn màu Thanh Xuân.<br />
*<br />
Cõi nhân thế, khách trần tỉnh thức<br />
Sống tuỳ duyên từng bước an vui<br />
Kiếp phù sinh tựa cuộc chơi..<br />
Thư phòng cảm bút, mỉm cười… Chào Xuân! ■<br />
Thanh Trà Tiên Tử<br />
(tặng phu quân và các bạn cùng lứa)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 89<br />
ñêm Thao ThÙc<br />
Thanh Trà Tiên Tº<br />
Canh dài thức giấc chơi vơi,<br />
Lênh đênh bàng bạc dòng thời gian trôi.<br />
Mây ngàn gió bể xa xôi<br />
Nắng mưa mòn mỏi kiếp người hanh hao,<br />
Biết bao cay đắng ngọt ngào<br />
Dòng tâm tư ấy chảy vào hư vô...<br />
Nguyện ngày mai, thức giấc hồ<br />
Dừng thuyền mê, độ bến bờ tâm linh,<br />
Buồn vui muôn chuyện tâm tình<br />
Thả dòng nước bạc, nghe mình thảnh thơi...<br />
Nhẹ tênh như thể mây trời<br />
Thênh thang vô định rong chơi tháng ngày. ■<br />
Thanh Trà Tiên Tử<br />
(Tặng mẹ thân yêu!)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 90<br />
ThÖ Haiku Kim-Châu<br />
4/2012<br />
Source: Google Images<br />
MË Già<br />
Tuổi gần đất xa trời<br />
Đàn con đi tứ tán khắp nơi<br />
Còn thân già lẻ loi …<br />
Nhiều đêm nơi làng cũ<br />
Ngồi lặng ngóng về chốn xa xôi<br />
Chỉ thấy bóng trăng trôi! ■<br />
(11/2011)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 91<br />
Source: Google Images<br />
CÖ C¿c<br />
Con cháu đâu hết rồi?<br />
Còng lưng nặng gánh kiếm sinh nhai<br />
Cơ cực xuốt cuộc đời. ■<br />
Source: Google Images<br />
Sân Ga<br />
Trên sân ga<br />
Ngậm ngùi theo rõi bóng<br />
Người đi xa. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 92<br />
Source: Google Images<br />
Chia Ly<br />
Mưa não nề<br />
Đã lỗi hẹn câu thề<br />
Đành chia ly. ■<br />
Source: Google Images<br />
Cánh BuÒm<br />
Trong chiều sương<br />
Thuyền viễn xứ căng buồm<br />
Về bến mới. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 93<br />
Source: Google Images<br />
ThiŠn<br />
Ngồi tĩnh lặng<br />
Nhìn lại chính chân tâm<br />
Hiểu chữ “không”. ■<br />
Tâm TØ<br />
Thương thân mình<br />
Thương khắp giới chúng sanh<br />
Thương tất cả. ■<br />
Tâm Bi<br />
Lòng xót xa<br />
Thấy nỗi đau của người<br />
Như chính ta. ■<br />
Kim-Châu<br />
(12/2011)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 94<br />
BÓn Mùa<br />
Xuân đến hoa đua nở,<br />
Hạ về nắng đổ; lá vàng Thu,<br />
Đông sang mù sương phủ! ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne, January 2012
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 95<br />
Elvire<br />
Rodrigue, qu’as-tu fait ? où viens-tu, misérable ?<br />
Don Rodrigue<br />
Suivre le triste cours de mon sort déplorable.<br />
Elvire<br />
<strong>Le</strong> Cid<br />
Tragi-comédie<br />
(Suite et fin)<br />
Pierre Corneille<br />
Publication: 1636<br />
ACTE III<br />
Scène première - Don Rodrigue, Elvire<br />
Où prends-tu cette audace et ce nouvel orgueil<br />
De paraître en des lieux que tu remplis de deuil ?<br />
Quoi ! viens-tu jusqu’ici braver l’ombre du comte ?<br />
Ne l’as-tu pas tué ?<br />
Don Rodrigue<br />
Sa vie était ma honte ;<br />
Mon honneur de ma main a voulu cet effort.<br />
Elvire<br />
Mais chercher ton asile en la maison du mort !<br />
Jamais un meurtrier en fit-il son refuge ?<br />
Don Rodrigue<br />
Et je n’y viens aussi que m’offrir à mon juge.<br />
Ne me regarde plus d’un visage étonné ;<br />
Je cherche le trépas après l’avoir donné.<br />
Mon juge est mon amour, mon juge est ma Chimène :
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 96<br />
Je mérite la mort de mériter sa haine,<br />
Et j’en viens recevoir, comme un bien souverain,<br />
Et l’arrêt de sa bouche, et le coup de sa main.<br />
Elvire<br />
Fuis plutôt de ses yeux, fuis de sa violence ;<br />
À ses premiers transports dérobe ta présence.<br />
Va, ne t’expose point aux premiers mouvements<br />
Que poussera l’ardeur de ses ressentiments.<br />
Don Rodrigue<br />
Non, non, ce cher objet à qui j’ai pu déplaire<br />
Ne peut pour mon supplice avoir trop de colère ;<br />
Et j’évite cent morts qui me vont accabler,<br />
Si pour mourir plus tôt je puis la redoubler.<br />
Elvire<br />
Chimène est au palais, de pleurs toute baignée,<br />
Et n’en reviendra point que bien accompagnée.<br />
Rodrigue, fuis, de grâce, ôte-moi de souci.<br />
Que ne dira-t-on point si l’on te voit ici ?<br />
Veux-tu qu’un médisant, pour comble à sa misère,<br />
L’accuse d’y souffrir l’assassin de son père ?<br />
Elle va revenir ; elle vient, je la vois :<br />
Du moins pour son honneur, Rodrigue, cache toi.<br />
Don Sanche<br />
Oui, madame, il vous faut de sanglantes victimes :<br />
Votre colère est juste, et vos pleurs légitimes ;<br />
Et je n’entreprends pas, à force de parler,<br />
Ni de vous adoucir, ni de vous consoler.<br />
Mais si de vous servir je puis être capable,<br />
Employez mon épée à punir le coupable ;<br />
Employez mon amour à venger cette mort :<br />
Sous vos commandements mon bras sera trop fort.<br />
Chimène<br />
Malheureuse !<br />
Scène II - Don Sanche, Chimène, Elvire
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 97<br />
Don Sanche<br />
Chimène<br />
De grâce, acceptez mon service.<br />
J’offenserais le roi, qui m’a promis justice.<br />
Don Sanche<br />
Vous savez qu’elle marche avec tant de langueur,<br />
Qu’assez souvent le crime échappe à sa longueur ;<br />
Son cours lent et douteux fait trop perdre de larmes.<br />
Souffrez qu’un cavalier vous venge par les armes :<br />
La voie en est plus sûre, et plus prompte à punir.<br />
Chimène<br />
C’est le dernier remède ; et s’il y faut venir,<br />
Et que de mes malheurs cette pitié vous dure,<br />
Vous serez libre alors de venger mon injure.<br />
Don Sanche<br />
C’est l’unique bonheur où mon âme prétend ;<br />
Et pouvant l’espérer, je m’en vais trop content.<br />
Chimène<br />
Enfin je me vois libre, et je puis, sans contrainte,<br />
De mes vives douleurs te faire voir l’atteinte ;<br />
Je puis donner passage à mes tristes soupirs ;<br />
Je puis t’ouvrir mon âme et tous mes déplaisirs.<br />
Mon père est mort, Elvire ; et la première épée<br />
Dont s’est armé Rodrigue a sa trame coupée.<br />
Pleurez, pleurez, mes yeux, et fondez-vous en eau !<br />
La moitié de ma vie a mis l’autre au tombeau,<br />
Et m’oblige à venger, après ce coup funeste,<br />
Celle que je n’ai plus sur celle qui me reste.<br />
Elvire<br />
Reposez-vous, madame.<br />
Scène III - Chimène, Elvire
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 98<br />
Chimène<br />
Ah ! que mal à propos<br />
Dans un malheur si grand tu parles de repos !<br />
Par où sera jamais ma douleur apaisée,<br />
Si je ne puis haïr la main qui l’a causée ?<br />
Et que dois-je espérer qu’un tourment éternel,<br />
Si je poursuis un crime, aimant le criminel.<br />
Elvire<br />
Il vous prive d’un père, et vous l’aimez encore !<br />
Chimène<br />
C’est peu de dire aimer, Elvire, je l’adore ;<br />
Ma passion s’oppose à mon ressentiment ;<br />
Dedans mon ennemi je trouve mon amant ;<br />
Et je sens qu’en dépit de toute ma colère,<br />
Rodrigue dans mon coeur combat encor mon père.<br />
Il l’attaque, il le presse, il cède, il se défend,<br />
Tantôt fort, tantôt faible, et tantôt triomphant :<br />
Mais en ce dur combat de colère et de flamme,<br />
Il déchire mon coeur sans partager mon âme;<br />
Et quoi que mon amour ait sur moi de pouvoir,<br />
Je ne consulte point pour suivre mon devoir ;<br />
Je cours sans balancer où mon honneur m’oblige.<br />
Rodrigue m’est bien cher, son intérêt m’afflige ;<br />
Mon coeur prend son parti ; mais, malgré son effort,<br />
Je sais ce que je suis, et que mon père est mort.<br />
Elvire<br />
Pensez-vous le poursuivre ?<br />
Chimène<br />
Ah ! cruelle pensée !<br />
Et cruelle poursuite où je me vois forcée !<br />
Je demande sa tête, et crains de l’obtenir :<br />
Ma mort suivra la sienne, et je le veux punir !<br />
Elvire<br />
Quittez, quittez, madame, un dessein si tragique ;<br />
Ne vous imposez point de loi si tyrannique.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 99<br />
Chimène<br />
Quoi ! mon père étant mort et presque entre mes bras,<br />
Son sang criera vengeance, et je ne l’orrai pas !<br />
Mon coeur, honteusement surpris par d’autres charmes,<br />
Croira ne lui devoir que d’impuissantes larmes !<br />
Et je pourrai souffrir qu’un amour suborneur<br />
Sous un lâche silence étouffe mon honneur !<br />
Elvire<br />
Madame, croyez-moi, vous serez excusable<br />
D’avoir moins de chaleur contre un objet aimable ;<br />
Contre un amant si cher, vous avez assez fait,<br />
Vous avez vu le roi ; n’en pressez point l’effet,<br />
Ne vous obstinez point en cette humeur étrange.<br />
Chimène<br />
Il y va de ma gloire, il faut que je me venge ;<br />
Et de quoi que nous flatte un désir amoureux,<br />
Toute excuse est honteuse aux esprits généreux.<br />
Elvire<br />
Mais vous aimez Rodrigue, il ne peut vous déplaire.<br />
Chimène<br />
Je l’avoue.<br />
Elvire<br />
Chimène<br />
Après tout que pensez-vous donc faire ?<br />
Pour conserver ma gloire et finir mon ennui,<br />
<strong>Le</strong> poursuivre, le perdre, et mourir après lui.<br />
Scène IV - Don Rodrigue, Chimène, Elvire<br />
Don Rodrigue<br />
Eh bien ! sans vous donner la peine de poursuivre,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 100<br />
Assurez-vous l’honneur de m’empêcher de vivre.<br />
Chimène<br />
Elvire, où sommes-nous, et qu’est-ce que je vois ?<br />
Rodrigue en ma maison ! Rodrigue devant moi !<br />
Don Rodrigue<br />
N’épargnez point mon sang ; goûtez, sans résistance,<br />
La douceur de ma perte et de votre vengeance.<br />
Chimène<br />
Hélas !<br />
Don Rodrigue<br />
Chimène<br />
Écoute-moi.<br />
Don Rodrigue<br />
Chimène<br />
Va, laisse-moi mourir.<br />
Don Rodrigue<br />
Je me meurs.<br />
Un moment.<br />
Quatre mots seulement ;<br />
Après, ne me réponds qu’avec que cette épée.<br />
Chimène<br />
Quoi ? du sang de mon père encor toute trempée !<br />
Don Rodrigue<br />
Ma Chimène...<br />
Chimène
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 101<br />
Ôte-moi cet objet odieux<br />
Qui reproche ton crime et ta vie à mes yeux.<br />
Don Rodrigue<br />
Regarde-le plutôt pour exciter ta haine,<br />
Pour croître ta colère, et pour hâter ma peine.<br />
Chimène<br />
Il est teint de mon sang.<br />
Don Rodrigue<br />
Plonge-le dans le mien,<br />
Et fais-lui perdre ainsi la teinture du tien.<br />
Chimène<br />
Ah ! quelle cruauté, qui tout en un jour tue<br />
<strong>Le</strong> père par le fer, la fille par la vue !<br />
Ôte-moi cet objet, je ne puis le souffrir :<br />
Tu veux que je t’écoute, et tu me fais mourir !<br />
Don Rodrigue<br />
Je fais ce que tu veux, mais sans quitter l’envie<br />
De finir par tes mains ma déplorable vie ;<br />
Car enfin n’attends pas de mon affection<br />
Un lâche repentir d’une bonne action.<br />
L’irréparable effet d’une chaleur trop prompte<br />
Déshonorait mon père, et me couvrait de honte.<br />
Tu sais comme un soufflet touche un homme de coeur.<br />
J’avais part à l’affront, j’en ai cherché l’auteur :<br />
Je l’ai vu, j’ai vengé mon honneur et mon père ;<br />
Je le ferais encor, si j’avais à le faire.<br />
Ce n’est pas qu’en effet, contremon père et moi,<br />
Ma flamme assez longtemps n’ait combattu pour toi :<br />
Juge de son pouvoir : dans une telle offense<br />
J’ai pu délibérer si j’en prendrais vengeance.<br />
Réduit à te déplaire, ou souffrir un affront,<br />
J’ai pensé qu’à son tour mon bras était trop prompt,<br />
Je me suis accusé de trop de violence ;<br />
Et ta beauté, sans doute, emportait la balance,<br />
À moins que d’opposer à tes plus forts appas<br />
Qu’un homme sans honneur ne te méritait pas ;<br />
Que malgré cette part que j’avais en ton âme,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 102<br />
Qui m’aima généreux me haïrait infâme ;<br />
Qu’écouter ton amour, obéir à ta voix,<br />
C’était m’en rendre indigne et diffamer ton choix.<br />
Je te le dis encore, et, quoique j’en soupire,<br />
Jusqu’au dernier soupir je veux bien le redire :<br />
Je t’ai fait une offense, et j’ai dû m’y porter<br />
Pour effacer ma honte, et pour te mériter ;<br />
Mais, quitte envers l’honneur, et quitte envers mon père,<br />
C’est maintenant à toi que je viens satisfaire :<br />
C’est pour t’offrir mon sang qu’en ce lieu tu me vois.<br />
J’ai fait ce que j’ai dû, je fais ce que je dois.<br />
Je sais qu’un père mort t’arme contre mon crime ;<br />
Je ne t’ai pas voulu dérober ta victime :<br />
Immole avec courage au sang qu’il a perdu<br />
Celui qui met sa gloire à l’avoir répandu.<br />
Chimène<br />
Ah ! Rodrigue ! il est vrai, quoique ton ennemie,<br />
Je ne puis te blâmer d’avoir fui l’infamie ;<br />
Et, de quelque façon qu’éclatent mes douleurs,<br />
Je ne t’accuse point, je pleure mes malheurs.<br />
Je sais ce que l’honneur, après un tel outrage,<br />
Demandait à l’ardeur d’un généreux courage :<br />
Tu n’as fait le devoir que d’un homme de bien ;<br />
Mais aussi, le faisant, tu m’as appris le mien.<br />
Ta funeste valeur m’instruit par ta victoire ;<br />
Elle a vengé ton père et soutenu ta gloire :<br />
Même soin me regarde, et j’ai, pour m’affliger,<br />
Ma gloire à soutenir, et mon père à venger.<br />
Hélas ! ton intérêt ici me désespère.<br />
Si quelque autre malheur m’avait ravi mon père,<br />
Mon âme aurait trouvé dans le bien de te voir<br />
L’unique allégement qu’elle eût pu recevoir ;<br />
Et contre ma douleur j’aurais senti des charmes,<br />
Quand une main si chère eût essuyé mes larmes.<br />
Mais il me faut te perdre après l’avoir perdu ;<br />
Cet effort sur ma flamme à mon honneur est dû ;<br />
Et cet affreux devoir, dont l’ordre m’assassine,<br />
Me force à travailler moi-même à ta ruine.<br />
Car enfin n’attends pas de mon affection<br />
De lâches sentiments pour ta punition.<br />
De quoi qu’en ta faveur notre amour m’entretienne,<br />
Ma générosité doit répondre à la tienne :<br />
Tu t’es, en m’offensant, montré digne de moi ;<br />
Je me dois, par ta mort, montrer digne de toi.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 103<br />
Don Rodrigue<br />
Ne diffère donc plus ce que l’honneur t’ordonne :<br />
Il demande ma tête, et je te l’abandonne ;<br />
Fais-en un sacrifice à ce noble intérêt,<br />
<strong>Le</strong> coup m’en sera doux, aussi bien que l’arrêt.<br />
Attendre après mon crime une lente justice,<br />
C’est reculer ta gloire autant que mon supplice.<br />
Je mourrai trop heureux mourant d’un coup si beau.<br />
Chimène<br />
Va, je suis ta partie, et non pas ton bourreau.<br />
Si tu m’offres ta tête, est-ce à moi de la prendre ?<br />
Je la dois attaquer, mais tu dois la défendre ;<br />
C’est d’un autre que toi qu’il me faut l’obtenir,<br />
Et je dois te poursuivre, et non pas te punir.<br />
Don Rodrigue<br />
De quoi qu’en ma faveur notre amour t’entretienne,<br />
Ta générosité doit répondre à la mienne ;<br />
Et pour venger un père emprunter d’autres bras,<br />
Ma Chimène, crois-moi, c’est n’y répondre pas :<br />
Ma main seule du mien a su venger l’offense,<br />
Ta main seule du tien doit prendre la vengeance.<br />
Chimène<br />
Cruel ! à quel propos sur ce point t’obstiner ?<br />
Tu t’es vengé sans aide, et tu m’en veux donner !<br />
Je suivrai ton exemple, et j’ai trop de courage<br />
Pour souffrir qu’avec toi ma gloire se partage.<br />
Mon père et mon honneur ne veulent rien devoir<br />
Aux traits de ton amour, ni de ton désespoir.<br />
Don Rodrigue<br />
Rigoureux point d’honneur ! hélas ! quoi que je fasse,<br />
Ne pourrai-je à la fin obtenir cette grâce ?<br />
Au nom d’un père mort, ou de notre amitié,<br />
Punis-moi par vengeance, ou du moins par pitié.<br />
Ton malheureux amant aura bien moins de peine<br />
À mourir par ta main qu’à vivre avec ta haine.<br />
Chimène
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 104<br />
Va, je ne te hais point.<br />
Don Rodrigue<br />
Chimène<br />
Don Rodrigue<br />
Tu le dois.<br />
Je ne puis.<br />
Crains-tu si peu le blâme, et si peu les faux bruits ?<br />
Quand on saura mon crime, et que ta flamme dure,<br />
Que ne publieront point l’envie et l’imposture !<br />
Force-les au silence, et, sans plus discourir,<br />
Sauve ta renommée en me faisant mourir.<br />
Chimène<br />
Elle éclate bien mieux en te laissant la vie ;<br />
Et je veux que la voix de la plus noire envie<br />
Élève au ciel ma gloire et plaigne mes ennuis,<br />
Sachant que je t’adore et que je te poursuis.<br />
Va-t’en, ne montre plus à ma douleur extrême<br />
Ce qu’il faut que je perde, encore que je l’aime.<br />
Dans l’ombre de la nuit cache bien ton départ ;<br />
Si l’on te voit sortir, mon honneur court hasard.<br />
La seule occasion qu’aura la médisance,<br />
C’est de savoir qu’ici j’ai souffert ta présence :<br />
Ne lui donne point lieu d’attaquer ma vertu.<br />
Don Rodrigue<br />
Que je meure !<br />
Chimène<br />
Don Rodrigue<br />
Chimène<br />
Va-t’en.<br />
À quoi te résous tu ?<br />
Malgré des feux si beaux qui troublent ma colère,<br />
Je ferai mon possible à bien venger mon père ;<br />
Mais, malgré la rigueur d’un si cruel devoir,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 105<br />
Mon unique souhait est de ne rien pouvoir.<br />
Don Rodrigue<br />
Ô miracle d’amour !<br />
Chimène<br />
Don Rodrigue<br />
Ô comble de misère !<br />
Que de maux et de pleurs nous coûteront nos pères !<br />
Chimène<br />
Rodrigue, qui l’eût cru ?<br />
Don Rodrigue<br />
Chimène<br />
Chimène, qui l’eût dit ?<br />
Que notre heur fût si proche, et sitôt se perdît ?<br />
Don Rodrigue<br />
Et que si près du port, contre toute apparence<br />
Un orage si prompt brisât notre espérance ?<br />
Chimène<br />
Ah ! mortelles douleurs !<br />
Don Rodrigue<br />
Chimène<br />
Ah ! regrets superflus !<br />
Va-t’en, encore un coup, je ne t’écoute plus.<br />
Don Rodrigue<br />
Adieu ; je vais traîner une mourante vie,<br />
Tant que par ta poursuite elle me soit ravie.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 106<br />
Chimène<br />
Si j’en obtiens l’effet, je t’engage ma foi<br />
De ne respirer pas un moment après toi.<br />
Adieu ; sors, et surtout garde bien qu’on te voie.<br />
Elvire<br />
Madame, quelques maux que le ciel nous envoie...<br />
Chimène<br />
Ne m’importune plus, laisse-moi soupirer.<br />
Je cherche le silence et la nuit pour pleurer.<br />
Don Diègue<br />
Scène V - Don Diègue<br />
Jamais nous ne goûtons de parfaite allégresse :<br />
Nos plus heureux succès sont mêlés de tristesse ;<br />
Toujours quelques soucis en ces événements<br />
Troublent la pureté de nos contentements.<br />
Au milieu du bonheur mon âme en sent l’atteinte :<br />
Je nage dans la joie, et je tremble de crainte.<br />
J’ai vu mort l’ennemi qui m’avait outragé ;<br />
Et je ne saurais voir la main qui m’a vengé.<br />
En vain je m’y travaille, et d’un soin inutile,<br />
Tout cassé que je suis, je cours toute la ville :<br />
Ce peu que mes vieux ans m’ont laissé de vigueur<br />
Se consume sans fruit à chercher ce vainqueur.<br />
À toute heure, en tous lieux, dans une nuit si sombre,<br />
Je pense l’embrasser, et n’embrasse qu’une ombre ;<br />
Et mon amour, déçu par cet objet trompeur,<br />
Se forme des soupçons qui redoublent ma peur.<br />
Je ne découvre point de marques de sa fuite ;<br />
Je crains du comte mort les amis et la suite ;<br />
<strong>Le</strong>ur nombre m’épouvante et confond ma raison.<br />
Rodrigue ne vit plus, ou respire en prison.<br />
Justes cieux ! me trompé-je encore à l’apparence,<br />
Ou si je vois enfin mon unique espérance ?<br />
C’est lui, n’en doutons plus ; mes voeux sont exaucés,<br />
Ma crainte est dissipée, et mes ennuis cessés.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 107<br />
Don Diègue<br />
Rodrigue, enfin le ciel permet que je te voie !<br />
Don Rodrigue<br />
Hélas !<br />
Don Diègue<br />
Scène VI - Don Diègue, don Rodrigue<br />
Ne mêle point de soupirs à ma joie ;<br />
Laisse-moi prendre haleine afin de te louer.<br />
Ma valeur n’a point lieu de te désavouer ;<br />
Tu l’as bien imitée, et ton illustre audace<br />
Fait bien revivre en toi les héros de ma race ;<br />
C’est d’eux que tu descends, c’est de moi que tu viens ;<br />
Ton premier coup d’épée égale tous les miens ;<br />
Et d’une belle ardeur ta jeunesse animée<br />
Par cette grande épreuve atteint ma renommée.<br />
Appui de ma vieillesse, et comble de mon heur,<br />
Touche ces cheveux blancs à qui tu rends honneur ;<br />
Viens baiser cette joue, et reconnais la place<br />
Où fut empreint l’affront que ton courage efface.<br />
Don Rodrigue<br />
L’honneur vous en est dû ; je ne pouvais pas moins<br />
Étant sorti de vous et nourri par vos soins.<br />
Je m’en tiens trop heureux, et mon âme est ravie<br />
Que mon coup d’essai plaise à qui je dois la vie ;<br />
Mais parmi vos plaisirs ne soyez point jaloux<br />
Si je m’ose à mon tour satisfaire après vous.<br />
Souffrez qu’en liberté mon désespoir éclate ;<br />
Assez et trop longtemps votre discours le flatte.<br />
Je ne me repens point de vous avoir servi ;<br />
Mais rendez-moi le bien que ce coup m’a ravi.<br />
Mon bras pour vous venger, armé contre ma flamme,<br />
Par ce coup glorieux m’a privé de mon âme.<br />
Ne me dites plus rien ; pour vous j’ai tout perdu :<br />
Ce que je vous devais, je vous l’ai bien rendu.<br />
Don Diègue<br />
Porte, porte plus haut le fruit de ta victoire :<br />
Je t’ai donné la vie, et tu me rends ma gloire ;
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 108<br />
Et d’autant que l’honneur m’est plus cher que le jour,<br />
D’autant plus maintenant je te dois de retour.<br />
Mais d’un coeur magnanime éloigne ces faiblesses ;<br />
Nous n’avons qu’un honneur, il est tant de maîtresses !<br />
L’amour n’est qu’un plaisir, l’honneur est un devoir.<br />
Don Rodrigue<br />
Ah ! que me dites-vous ?<br />
Don Diègue<br />
Don Rodrigue<br />
Ce que tu dois savoir.<br />
Mon honneur offensé sur moi-même se venge ;<br />
Et vous m’osez pousser à la honte du change !<br />
L’infamie est pareille, et suit également<br />
<strong>Le</strong> guerrier sans courage et le perfide amant.<br />
À ma fidélité ne faites point d’injures ;<br />
Souffrez-moi généreux sans me rendre parjure ;<br />
Mes liens sont trop forts pour être ainsi rompus ;<br />
Ma foi m’engage encor si je n’espère plus ;<br />
Et, ne pouvant quitter ni posséder Chimène,<br />
<strong>Le</strong> trépas que je cherche est ma plus douce peine.<br />
Don Diègue<br />
Il n’est pas temps encor de chercher le trépas :<br />
Ton prince et ton pays ont besoin de ton bras.<br />
La flotte qu’on craignait, dans ce grand fleuve entrée,<br />
Croit surprendre la ville et piller la contrée.<br />
<strong>Le</strong>s Maures vont descendre, et le flux et la nuit<br />
Dans une heure à nos murs les amènent sans bruit.<br />
La cour est en désordre, et le peuple en alarmes ;<br />
On n’entend que des cris, on ne voit que des larmes.<br />
Dans ce malheur public, mon bonheur a permis<br />
Que j’aie trouvé chez moi cinq cents de mes amis,<br />
Qui, sachant mon affront, poussés d’un meme zèle,<br />
Se venaient tous offrir à venger ma querelle.<br />
Tu les a prévenus ; mais leurs vaillantes mains<br />
Se tremperont bien mieux au sang des Africains.<br />
Va marcher à leur tête où l’honneur te demande ;<br />
C’est toi que veut pour chef leur généreuse bande.<br />
De ces vieux ennemis va soutenir l’abord :<br />
Là, si tu veux mourir, trouve une belle mort,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 109<br />
Prends-en l’occasion, puisqu’elle t’est offerte ;<br />
Fais devoir à ton roi son salut à ta perte ;<br />
Mais reviens-en plutôt les palmes sur le front.<br />
Ne borne pas ta gloire à venger un affront,<br />
Porte-la plus avant, force par ta vaillance<br />
Ce monarque au pardon, et Chimène au silence ;<br />
Si tu l’aimes, apprends que revenir vainqueur<br />
C’est l’unique moyen de regagner son coeur.<br />
Mais le temps est trop cher pour le perdre en paroles ;<br />
Je t’arrête en discours, et je veux que tu voles.<br />
Viens, suis-moi, va combattre, et montrer à ton roi<br />
Que ce qu’il perd au comte il le recouvre en toi.<br />
Chimène<br />
ACTE IV<br />
Scène première - Chimène, Elvire<br />
N’est-ce point un faux bruit ? le sais-tu bien, Elvire ?<br />
Elvire<br />
Vous ne croiriez jamais comme chacun l’admire,<br />
Et porte jusqu’au ciel, d’une commune voix,<br />
De ce jeune héros les glorieux exploits.<br />
<strong>Le</strong>s Maures devant lui n’ont paru qu’à leur honte ;<br />
<strong>Le</strong>ur abord fut bien prompt, leur fuite encore plus prompte ;<br />
Trois heures de combat laissent à nos guerriers<br />
Une victoire entière et deux rois prisonniers.<br />
La valeur de leur chef ne trouvait point d’obstacles.<br />
Chimène<br />
Et la main de Rodrigue a fait tous ces miracles ?<br />
Elvire<br />
De ses nobles efforts ces deux rois sont le prix ;<br />
Sa main les a vaincus, et sa main les a pris.<br />
Chimène<br />
De qui peux-tu savoir ces nouvelles étranges ?<br />
Elvire
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 110<br />
Du peuple qui partout fait sonner ses louanges,<br />
<strong>Le</strong> nomme de sa joie et l’objet et l’auteur,<br />
Son ange tutélaire et son libérateur.<br />
Chimène<br />
Et le roi, de quel oeil voit-il tant de vaillance ?<br />
Elvire<br />
Rodrigue n’ose encor paraître en sa présence ;<br />
Mais don Diègue ravi lui présente enchaînés,<br />
Au nom de ce vainqueur, ces captifs couronnés,<br />
Et demande pour grâce à ce généreux prince<br />
Qu’il daigne voir la main qui sauve la province.<br />
Chimène<br />
Mais n’est-il point blessé ?<br />
Elvire<br />
Je n’en ai rien appris.<br />
Vous changez de couleur ! reprenez vos esprits.<br />
Chimène<br />
Reprenons donc aussi ma colère affaiblie :<br />
Pour avoir soin de lui faut-il que je m’oublie ?<br />
On le vante, on le loue, et mon coeur y consent !<br />
Mon honneur est muet, mon devoir impuissant !<br />
Silence, mon amour, laisse agir ma colère :<br />
S’il a vaincu deux rois, il a tué mon père ;<br />
Ces tristes vêtements, où je lis mon malheur<br />
Sont les premiers effets qu’ait produit sa valeur ;<br />
Et quoi qu’on dise ailleurs d’un coeur si magnanime,<br />
Ici tous les objets me parlent de son crime.<br />
Vous qui rendez la force à mes ressentiments,<br />
Voiles, crêpes, habits, lugubres ornements,<br />
Pompe que me prescrit sa première victoire,<br />
Contre ma passion soutenez bien ma gloire ;<br />
Et lorsque mon amour prendra trop de pouvoir,<br />
Parlez à mon esprit de mon triste devoir,<br />
Attaquez sans rien craindre une main triomphante.<br />
Elvire
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 111<br />
Modérez ces transports, voici venir l’infante.<br />
Scène II - L’infante, Chimène, Elvire<br />
L’infante<br />
Je ne viens pas ici consoler tes douleurs ;<br />
Je viens plutôt mêler mes soupirs à tes pleurs.<br />
Chimène<br />
Prenez bien plutôt part à la commune joie,<br />
Et goûtez le bonheur que le ciel vous envoie,<br />
Madame, autre que moi n’a droit de soupirer.<br />
<strong>Le</strong> péril dont Rodrigue a su nous retirer,<br />
Et le salut public que vous rendent ses armes,<br />
À moi seule aujourd’hui souffrent encor des larmes :<br />
Il a sauvé la ville, il a servi son roi ;<br />
Et son bras valeureux n’est funeste qu’à moi.<br />
L’infante<br />
Ma Chimène, il est vrai qu’il a fait des merveilles.<br />
Chimène<br />
Déjà ce bruit fâcheux a frappé mes oreilles ;<br />
Et je l’entends partout publier hautement<br />
Aussi brave guerrier que malheureux amant.<br />
L’infante<br />
Qu’a de fâcheux pour toi ce discours populaire ?<br />
Ce jeune Mars qu’il loue a su jadis te plaire ;<br />
Il possédait ton âme, il vivait sous tes lois ;<br />
Et vanter sa valeur, c’est honorer ton choix.<br />
Chimène<br />
Chacun peut la vanter avec quelque justice,<br />
Mais pour moi sa louange est un nouveau supplice.<br />
On aigrit ma douleur en l’élevant si haut :<br />
Je vois ce que je perds quand je vois ce qu’il vaut.<br />
Ah ! cruels déplaisirs à l’esprit d’une amante !
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 112<br />
Plus j’apprends son mérite, et plus mon feu s’augmente :<br />
Cependant mon devoir est toujours le plus fort,<br />
Et malgré mon amour va poursuivre sa mort.<br />
L’infante<br />
Hier ce devoir te mit en une haute estime ;<br />
L’effort que tu te fis parut si magnanime,<br />
Si digne d’un grand coeur, que chacun à la cour<br />
Admirait ton courage et plaignait ton amour.<br />
Mais croirais-tu l’avis d’une amitié fidèle ?<br />
Chimène<br />
Ne vous obéir pas me rendrait criminelle.<br />
L’infante<br />
Ce qui fut juste alors ne l’est plus aujourd’hui.<br />
Rodrigue maintenant est notre unique appui,<br />
L’espérance et l’amour d’un peuple qui l’adore,<br />
<strong>Le</strong> soutien de Castille, et la terreur du Maure.<br />
<strong>Le</strong> roi même est d’accord de cette vérité,<br />
Que ton père en lui seul se voit ressuscité ;<br />
Et si tu veux enfin qu’en deuxmots je m’explique,<br />
Tu poursuis en sa mort la ruine publique.<br />
Quoi ? pour venger un père est-il jamais permis<br />
De livrer sa patrie aux mains des ennemis ?<br />
Contre nous ta poursuite est-elle légitime ?<br />
Et pour être punis avons-nous part au crime ?<br />
Ce n’est pas qu’après tout tu doives épouser<br />
Celui qu’un père mort t’obligeait d’accuser :<br />
Je te voudrais moi-même en arracher l’envie :<br />
Ôte-lui ton amour,mais laisse-nous sa vie.<br />
Chimène<br />
Ah ! ce n’est pas à moi d’avoir tant de bonté ;<br />
<strong>Le</strong> devoir qui m’aigrit n’a rien de limité.<br />
Quoique pour ce vainqueur mon amour s’intéresse,<br />
Quoiqu’un peuple l’adore et qu’un roi le caresse,<br />
Qu’il soit environné des plus vaillants guerriers,<br />
J’irai sous mes cyprès accabler ses lauriers.<br />
L’infante<br />
C’est générosité quand, pour venger un père,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 113<br />
Notre devoir attaque une tête si chère ;<br />
Mais c’en est une encor d’un plus illustre rang,<br />
Quand on donne au public les intérêts du sang.<br />
Non, crois-moi, c’est assez que d’éteindre ta flamme :<br />
Il sera trop puni s’il n’est plus dans ton âme.<br />
Que le bien du pays t’impose cette loi :<br />
Aussi bien que crois-tu que t’accorde le roi ?<br />
Chimène<br />
Il peut me refuser, mais je ne puis me taire.<br />
L’infante<br />
Pense bien, ma Chimène, à ce que tu veux faire.<br />
Adieu : tu pourras seule y penser à loisir.<br />
Chimène<br />
Après mon père mort, je n’ai point à choisir.<br />
Scène III - Don Fernand, don Diègue, don Arias, don<br />
Rodrigue, don Sanche<br />
Don Fernand<br />
Généreux héritier d’une illustre famille,<br />
Qui fut toujours la gloire et l’appui de Castille,<br />
Race de tant d’aïeux en valeur signalés,<br />
Que l’essai de la tienne a sitôt égalés,<br />
Pour te récompenser ma force est trop petite ;<br />
Et j’ai moins de pouvoir que tu n’as de mérite...<br />
<strong>Le</strong> pays délivré d’un si rude ennemi,<br />
Mon sceptre dans ma main par la tienne affermi,<br />
Et les Maures défaits avant qu’en ces alarmes<br />
J’eusse pu donner ordre à repousser leurs armes,<br />
Ne sont point des exploits qui laissent à ton roi<br />
<strong>Le</strong> moyen ni l’espoir de s’acquitter vers toi.<br />
Mais deux rois tes captifs feront ta récompense :<br />
Ils t’ont nommé tous deux leur Cid en ma présence.<br />
Puisque Cid en leur langue est autant que seigneur,<br />
Je ne t’envierai pas ce beau titre d’honneur.<br />
Sois désormais le Cid ; qu’à ce grand nom tout cède ;<br />
Qu’il comble d’épouvante et Grenade et Tolède,<br />
Et qu’il marque à tous ceux qui vivent sous mes lois
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 114<br />
Et ce que tu me vaux, et ce que je te dois.<br />
Don Rodrigue<br />
Que votre majesté, sire, épargne ma honte.<br />
D’un si faible service elle fait trop de compte,<br />
Et me force à rougir devant un si grand roi<br />
De mériter si peu l’honneur que j’en reçois.<br />
Je sais trop que je dois au bien de votre empire<br />
Et le sang qui m’anime, et l’air que je respire ;<br />
Et quand je les perdrais pour un si digne objet,<br />
Je ferais seulement le devoir d’un sujet.<br />
Don Fernand<br />
Tous ceux que ce devoir à mon service engage<br />
Ne s’en acquittent pas avec même courage ;<br />
Et lorsque la valeur ne va point dans l’excès,<br />
Elle ne produit point de si rares succès.<br />
Souffre donc qu’on te loue, et de cette victoire<br />
Apprends-moi plus au long la véritable histoire.<br />
Don Rodrigue<br />
Sire, vous avez su qu’en ce danger pressant,<br />
Qui jeta dans la ville un effroi si puissant,<br />
Une troupe d’amis chez mon père assemblée<br />
Sollicita mon âme encor toute troublée...<br />
Mais, sire, pardonnez à ma témérité,<br />
Si j’osai l’employer sans votre autorité :<br />
<strong>Le</strong> péril approchait ; leur brigade était prête ;<br />
Me montrant à la cour, je hasardais ma tête.<br />
Et s’il fallait la perdre, il m’était bien plus doux<br />
De sortir de la vie en combattant pour vous.<br />
Don Fernand<br />
J’excuse ta chaleur à venger ton offense ;<br />
Et l’État defend me parle en ta défense :<br />
Crois que dorénavant Chimène a beau parler,<br />
Je ne l’écoute plus que pour la consoler.<br />
Mais poursuis.<br />
Don Rodrigue<br />
Sous moi donc cette troupe s’avance,<br />
Et porte sur le front une mâle assurance.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 115<br />
Nous partîmes cinq cents ; mais par un prompt renfort<br />
Nous nous vîmes trois mille en arrivant au port,<br />
Tant, à nous voir marcher avec un tel visage,<br />
<strong>Le</strong>s plus épouvantés reprenaient de courage !<br />
J’en cache les deux tiers, aussitôt qu’arrivés,<br />
Dans le fond des vaisseaux qui lors furent trouvés ;<br />
<strong>Le</strong> reste, dont le nombre augmentait à toute heure,<br />
Brûlant d’impatience, autour de moi demeure,<br />
Se couche contre terre, et sans faire aucun bruit<br />
Passe une bonne part d’une si belle nuit.<br />
Par mon commandement la garde en fait de même,<br />
Et se tenant cachée, aide à mon stratagème ;<br />
Et je feins hardiment d’avoir reçu de vous<br />
L’ordre qu’on me voit suivre et que je donne à tous.<br />
Cette obscure clarté qui tombe des étoiles<br />
Enfin avec le flux nous fait voir trente voiles ;<br />
L’onde s’enfle dessous, et d’un commun effort<br />
<strong>Le</strong>s Maures et la mer montent jusques au port.<br />
On les laisse passer ; tout leur paraît tranquille ;<br />
Point de soldats au port, point aux murs de la ville.<br />
Notre profond silence abusant leurs esprits,<br />
Ils n’osent plus douter de nous avoir surpris ;<br />
Ils abordent sans peur, ils ancrent, ils descendent,<br />
Et courent se livrer aux mains qui les attendent.<br />
Nous nous levons alors, et tous en même temps<br />
Poussons jusques au ciel mille cris éclatants.<br />
<strong>Le</strong>s nôtres, à ces cris, de nos vaisseaux répondent ;<br />
Ils paraissent armés, les Maures se confondent,<br />
L’épouvante les prend à demi descendus ;<br />
Avant que de combattre ils s’estiment perdus.<br />
Ils couraient au pillage, et rencontrent la guerre ;<br />
Nous les pressons sur l’eau, nous les pressons sur terre,<br />
Et nous faisons courir des ruisseaux de leur sang,<br />
Avant qu’aucun résiste ou reprenne son rang.<br />
Mais bientôt, malgré nous, leurs princes les rallient,<br />
<strong>Le</strong>ur courage renaît, et leurs terreurs s’oublient :<br />
La honte de mourir sans avoir combattu<br />
Arrête leur désordre, et leur rend leur vertu.<br />
Contre nous de pied ferme ils tirent leurs alfanges,<br />
De notre sang au leur font d’horribles mélanges.<br />
Et la terre, et le fleuve, et leur flotte, et le port,<br />
Sont des champs de carnage où triomphe la mort.<br />
Ô combien d’actions, combien d’exploits célèbres<br />
Sont demeurés sans gloire au milieu des ténèbres,<br />
Où chacun, seul témoin des grands coups qu’il donnait,<br />
Ne pouvait discerner où le sort inclinait !<br />
J’allais de tous côtés encourager les nôtres,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 116<br />
Faire avancer les uns et soutenir les autres,<br />
Ranger ceux qui venaient, les pousser à leur tour,<br />
Et ne l’ai pu savoir jusques au point du jour.<br />
Mais enfin sa clarté montre notre avantage ;<br />
<strong>Le</strong> Maure voit sa perte, et perd soudain courage :<br />
Et voyant un renfort qui nous vient secourir,<br />
L’ardeur de vaincre cède à la peur de mourir.<br />
Ils gagnent leurs vaisseaux, ils en coupent les câbles,<br />
Poussent jusques aux cieux des cris épouvantables,<br />
Font retraite en tumulte, et sans considérer<br />
Si leurs rois avec eux peuvent se retirer.<br />
Pour souffrir ce devoir leur frayeur est trop forte ;<br />
<strong>Le</strong> flux les apporta, le reflux les remporte ;<br />
Cependant que leurs rois, engagés parmi nous,<br />
Et quelque peu des leurs, tous percés de nos coups,<br />
Disputent vaillamment et vendent bien leur vie.<br />
À se rendre moi-même en vain je les convie :<br />
<strong>Le</strong> cimeterre au poing ils ne m’écoutent pas ;<br />
Mais voyant à leurs pieds tomber tous leurs soldats,<br />
Et que seuls désormais en vain ils se défendent,<br />
Ils demandent le chef ; je me nomme, ils se rendent.<br />
Je vous les envoyai tous deux en même temps ;<br />
Et le combat cessa faute de combattants.<br />
C’est de cette façon que pour votre service...<br />
Don Alonse<br />
Sire, Chimène vient vous demander justice.<br />
Don Fernand<br />
Scène IV - Don Fernand, don Diègue, don Rodrigue,<br />
don Arias, don Alonse, don Sanche<br />
La fâcheuse nouvelle, et l’importun devoir !<br />
Va, je ne la veux pas obliger à te voir.<br />
Pour tous remerciements il faut que je te chasse :<br />
Mais avant que sortir, viens, que ton roi t’embrasse.<br />
(Don Rodrigue rentre.)<br />
Don Diègue<br />
Chimène le poursuit, et voudrait le sauver.<br />
Don Fernand
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 117<br />
On m’a dit qu’elle l’aime, et je vais l’éprouver.<br />
Montrez un oeil plus triste.<br />
Scène V - Don Fernand, don Diègue, don Arias, don<br />
Sanche, don Alonse, Chimène, Elvire<br />
Don Fernand<br />
Enfin soyez contente,<br />
Chimène, le succès répond à votre attente :<br />
Si de nos ennemis Rodrigue a le dessus,<br />
Il est mort à nos yeux des coups qu’il a reçus ;<br />
Rendez grâce au ciel qui vous en a vengée.<br />
(À Don Diègue.)<br />
Voyez comme déjà sa couleur est changée.<br />
Don Diègue<br />
Mais voyez qu’elle pâme, et d’un amour parfait,<br />
Dans cette pâmoison, sire, admirez l’effet.<br />
Sa douleur a trahi les secrets de son âme,<br />
Et ne vous permet plus de douter de sa flamme.<br />
Chimène<br />
Quoi ! Rodrigue est donc mort ?<br />
Don Fernand<br />
Non, non, il voit le jour,<br />
Et te conserve encore un immuable amour :<br />
Calme cette douleur qui pour lui s’intéresse.<br />
Chimène<br />
Sire, on pâme de joie, ainsi que de tristesse :<br />
Un excès de plaisirs nous rend tout languissants ;<br />
Et quand il surprend l’âme, il accable les sens.<br />
Don Fernand<br />
Tu veux qu’en ta faveur nous croyions l’impossible ?<br />
Chimène, ta douleur a paru trop visible.<br />
Chimène
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 118<br />
Eh bien ! sire, ajoutez ce comble à mon malheur,<br />
Nommez ma pâmoison l’effet de ma douleur :<br />
Un juste déplaisir à ce point m’a réduite ;<br />
Son trépas dérobait sa tête à ma poursuite ;<br />
S’il meurt des coups reçus pour le bien du pays,<br />
Ma vengeance est perdue et mes desseins trahis :<br />
Une si belle fin m’est trop injurieuse.<br />
Je demande sa mort, mais non pas glorieuse,<br />
Non pas dans un éclat qui l’élève si haut,<br />
Non pas au lit d’honneur, mais sur un échafaud ;<br />
Qu’il meure pour mon père, et non pour la patrie ;<br />
Que son nom soit taché, sa mémoire flétrie.<br />
Mourir pour le pays n’est pas un triste sort ;<br />
C’est s’immortaliser par une belle mort.<br />
J’aime donc sa victoire, et je le puis sans crime ;<br />
Elle assure l’État, et me rend ma victime,<br />
Mais noble, mais fameuse entre tous les guerriers,<br />
<strong>Le</strong> chef, au lieu de fleurs, couronné de lauriers ;<br />
Et pour dire en un mot ce que j’en considère,<br />
Digne d’être immolée aux mânes de mon père...<br />
Hélas ! à quel espoir me laissé-je emporter !<br />
Rodrigue de ma part n’a rien à redouter ;<br />
Que pourraient contre lui des larmes qu’on méprise ?<br />
Pour lui tout votre empire est un lieu de franchise ;<br />
Là, sous votre pouvoir, tout lui devient permis ;<br />
Il triomphe de moi comme des ennemis,<br />
Dans leur sang répandu la justice étouffée<br />
Aux crimes du vainqueur sert d’un nouveau trophée ;<br />
Nous en croissons la pompe, et le mépris des lois<br />
Nous fait suivre son char au milieu de deux rois.<br />
Don Fernand<br />
Ma fille, ces transports ont trop de violence.<br />
Quand on rend la justice on met tout en balance :<br />
On a tué ton père, il était l’agresseur ;<br />
Et la même équité m’ordonne la douceur.<br />
Avant que d’accuser ce que j’en fais paraître,<br />
Consulte bien ton coeur : Rodrigue en est le maître.<br />
Et ta flamme en secret rend grâces à ton roi,<br />
Dont la faveur conserve un tel amant pour toi.<br />
Chimène<br />
Pour moi ! mon ennemi ! l’objet de ma colère !<br />
L’auteur de mes malheurs ! l’assassin de mon père !<br />
De ma juste poursuite on fait si peu de cas
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 119<br />
Qu’on me croit obliger en ne m’écoutant pas !<br />
Puisque vous refusez la justice à mes larmes,<br />
Sire, permettez-moi de recourir aux armes ;<br />
C’est par là seulement qu’il a su m’outrager,<br />
Et c’est aussi par là que je me dois venger.<br />
À tous vos cavaliers je demande sa tête ;<br />
Oui, qu’un d’eux me l’apporte, et je suis sa conquête ;<br />
Qu’ils le combattent, sire ; et le combat fini,<br />
J’épouse le vainqueur, si Rodrigue est puni.<br />
Sous votre autorité souffrez qu’on le publie.<br />
Don Fernand<br />
Cette vieille coutume en ces lieux établie,<br />
Sous couleur de punir un injuste attentat,<br />
Des meilleurs combattants affaiblit un État ;<br />
Souvent de cet abus le succès déplorable<br />
Opprime l’innocent et soutient le coupable.<br />
J’en dispense Rodrigue ; il m’est trop précieux<br />
Pour l’exposer aux coups d’un sort capricieux ;<br />
Et quoi qu’ait pu commettre un coeur si magnanime<br />
<strong>Le</strong>s Maures en fuyant ont emporté son crime.<br />
Don Diègue<br />
Quoi ! sire, pour lui seul vous renversez des lois<br />
Qu’a vu toute la cour observer tant de fois !<br />
Que croira votre peuple, et que dira l’envie,<br />
Si sous votre défense il ménage sa vie,<br />
Et s’en fait un prétexte à ne paraître pas<br />
Où tous les gens d’honneur cherchent un beau trépas ?<br />
De pareilles faveurs terniraient trop sa gloire :<br />
Qu’il goûte sans rougir les fruits de sa victoire.<br />
<strong>Le</strong> comte eut de l’audace, il l’en a su punir :<br />
Il l’a fait en brave homme, et le doit maintenir.<br />
Don Fernand<br />
Puisque vous le voulez, j’accorde qu’il le fasse :<br />
Mais d’un guerrier vaincu mille prendraient la place,<br />
Et le prix que Chimène au vainqueur a promis<br />
De tous mes cavaliers feraient ses ennemis :<br />
L’opposer seul à tous serait trop d’injustice ;<br />
Il suffit qu’une fois il entre dans la lice.<br />
Choisis qui tu voudras, Chimène, et choisis bien ;<br />
Mais après ce combat ne demande plus rien.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 120<br />
Don Diègue<br />
N’excusez point par là ceux que son bras étonne ;<br />
Laissez un champ ouvert où n’entrera personne.<br />
Après ce que Rodrigue a fait voir aujourd’hui,<br />
Quel courage assez vain s’oserait prendre à lui ?<br />
Qui se hasarderait contre un tel adversaire ?<br />
Qui serait ce vaillant, ou bien ce téméraire ?<br />
Don Sanche<br />
Faites ouvrir le champ : vous voyez l’assaillant ;<br />
Je suis ce téméraire , ou plutôt ce vaillant.<br />
Accordez cette grâce à l’ardeur qui me presse.<br />
Madame, vous savez quelle est votre promesse.<br />
Don Fernand<br />
Chimène, remets-tu ta querelle en sa main ?<br />
Chimène<br />
Sire, je l’ai promis.<br />
Don Fernand<br />
Don Diègue<br />
Soyez prêt à demain.<br />
Non, sire, il ne faut pas différer davantage :<br />
On est toujours trop prêt quand on a du courage.<br />
Don Fernand<br />
Sortir d’une bataille, et combattre à l’instant !<br />
Don Diègue<br />
Rodrigue a pris haleine en vous la racontant.<br />
Don Fernand<br />
Du moins une heure ou deux je veux qu’il se délasse ;<br />
Mais de peur qu’en exemple un tel combat ne passe,<br />
Pour témoigner à tous qu’à regret je promets<br />
Un sanglant procédé qui ne me plut jamais,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 121<br />
De moi ni de ma cour il n’aura la présence.<br />
(Il parle à Don Arias.)<br />
Vous seul des combattants jugerez la vaillance.<br />
Ayez soin que tous deux fassent en gens de coeur,<br />
Et, le combat fini, m’amenez le vainqueur.<br />
Qui qu’il soit,même prix est acquis à sa peine ;<br />
Je le veux de ma main présenter à Chimène,<br />
Et que pour récompense il reçoive sa foi.<br />
Chimène<br />
Quoi ! sire,m’imposer une si dure loi !<br />
Don Fernand<br />
Tu t’en plains ; mais ton feu, loin d’avouer ta plainte,<br />
Si Rodrigue est vainqueur, l’accepte sans contrainte.<br />
Cesse de murmurer contre un arrêt si doux ;<br />
Qui que ce soit des deux, j’en ferai ton époux.<br />
ACTE V<br />
Scène première - Don Rodrigue, Chimène<br />
Chimène<br />
Quoi, Rodrigue, en plein jour ! d’où te vient cette audace ?<br />
Va, tu me perds d’honneur ; retire-toi, de grâce.<br />
Don Rodrigue<br />
Je vais mourir, madame, et vous viens en ce lieu,<br />
Avant le coup mortel, dire un dernier adieu.<br />
Cet immuable amour qui sous vos lois m’engage<br />
N’ose accepter ma mort sans vous en faire hommage.<br />
Chimène<br />
Tu vas mourir !<br />
Don Rodrigue<br />
Je cours à ces heureux moments<br />
Qui vont livrer ma vie à vos ressentiments.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 122<br />
Chimène<br />
Tu vas mourir ! Don Sanche est-il si redoutable<br />
Qu’il donne l’épouvante à ce coeur indomptable ?<br />
Qui t’a rendu si faible ? ou qui le rend si fort ?<br />
Rodrigue va combattre, et se croit déjà mort !<br />
Celui qui n’a pas craint les Maures, ni mon père,<br />
Va combattre don Sanche, et déjà désespère !<br />
Ainsi donc au besoin ton courage s’abat ?<br />
Don Rodrigue<br />
Je cours à mon supplice, et non pas au combat ;<br />
Et ma fidèle ardeur sait bien m’ôter l’envie,<br />
Quand vous cherchez ma mort, de défendre ma vie.<br />
J’ai toujours même coeur ; mais je n’ai point de bras<br />
Quand il faut conserver ce qui ne vous plaît pas ;<br />
Et déjà cette nuit m’aurait été mortelle,<br />
Si j’eusse combattu pour ma seule querelle ;<br />
Mais défendant mon roi, mon peuple et mon pays,<br />
À me défendre mal je les aurais trahis.<br />
Mon esprit généreux ne hait pas tant la vie,<br />
Qu’il en veuille sortir par une perfidie.<br />
Maintenant qu’il s’agit de mon seul intérêt,<br />
Vous demandez ma mort, j’en accepte l’arrêt.<br />
Votre ressentiment choisit la main d’un autre<br />
(Je ne méritais pas de mourir de la vôtre) :<br />
On ne me verra point en repousser les coups ;<br />
Je dois plus de respect à qui combat pour vous,<br />
Et ravi de penser que c’est de vous qu’ils viennent,<br />
Puisque c’est votre honneur que ses armes soutiennent<br />
Je vais lui présenter mon estomac ouvert,<br />
Adorant en sa main la vôtre qui me perd.<br />
Chimène<br />
Si d’un triste devoir la juste violence,<br />
Qui me fait malgré moi poursuivre ta vaillance,<br />
Prescrit à ton amour une si forte loi,<br />
Qu’il te rend sans défense à qui combat pour moi,<br />
En cet aveuglement ne perds pas la mémoire<br />
Qu’ainsi que de ta vie il y va de ta gloire,<br />
Et que, dans quelque éclat que Rodrigue ait vécu,<br />
Quand on le saura mort, on le croira vaincu.<br />
Ton honneur t’est plus cher que je ne te suis chère,<br />
Puisqu’il trempe tes mains dans le sang de mon père,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 123<br />
Et te fait renoncer, malgré ta passion,<br />
À l’espoir le plus doux de ma possession :<br />
Je t’en vois cependant faire si peu de compte,<br />
Que sans rendre combat tu veux qu’on te surmonte.<br />
Quelle inégalité ravale ta vertu ?<br />
Pourquoi ne l’as-tu plus ? ou pourquoi l’avais tu ?<br />
Quoi ! n’es-tu généreux que pour me faire outrage ?<br />
S’il ne faut m’offenser, n’as-tu point de courage ?<br />
Et traites-tu mon père avec tant de rigueur,<br />
Qu’après l’avoir vaincu tu souffres un vainqueur ?<br />
Va, sans vouloir mourir, laisse-moi te poursuivre,<br />
Et défends ton honneur, si tu veux ne plus vivre.<br />
Don Rodrigue<br />
Après la mort du comte, et les Maures défaits,<br />
Faudrait-il à ma gloire encore d’autres effets ?<br />
Elle peut dédaigner le soin de me défendre ;<br />
On sait que mon courage ose tout entreprendre,<br />
Que ma valeur peut tout, et que dessous les cieux,<br />
Auprès de mon honneur, rien ne m’est précieux.<br />
Non, non, en ce combat, quoi que vous vouliez croire,<br />
Rodrigue peut mourir sans hasarder sa gloire,<br />
Sans qu’on l’ose accuser d’avoir manqué de coeur,<br />
Sans passer pour vaincu, sans souffrir un vainqueur.<br />
On dira seulement : « Il adorait Chimène ;<br />
Il n’a pas voulu vivre et mériter sa haine ;<br />
Il a cédé lui-même à la rigueur du sort<br />
Qui forçait sa maîtresse à poursuivre sa mort :<br />
Elle voulait sa tête ; et son coeur magnanime,<br />
S’il l’en eût refusée, eût pensé faire un crime.<br />
Pour venger son honneur il perdit son amour,<br />
Pour venger sa maîtresse il a quitté le jour,<br />
Préférant (quelque espoir qu’eût son âme asservie)<br />
Son honneur à Chimène, et Chimène à sa vie. »<br />
Ainsi donc vous verrez ma mort en ce combat,<br />
Loin d’obscurcir ma gloire, en rehausser l’éclat ;<br />
Et cet honneur suivra mon trépas volontaire,<br />
Que tout autre que moi n’eût pu vous satisfaire.<br />
Chimène<br />
Puisque, pour t’empêcher de courir au trépas,<br />
Ta vie et ton honneur sont de faibles appas,<br />
Si jamais je t’aimai, cher Rodrigue, en revanche,<br />
Défends-toi maintenant pour m’ôter à don Sanche ;<br />
Combats pour m’affranchir d’une condition
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 124<br />
Qui me donne à l’objet de mon aversion.<br />
Te dirai-je encor plus ? va, songe à ta défense,<br />
Pour forcer mon devoir, pour m’imposer silence ;<br />
Et si tu sens pour moi ton coeur encore épris,<br />
Sors vainqueur d’un combat dont Chimène est le prix.<br />
Adieu : ce mot lâché me fait rougir de honte.<br />
Don Rodrigue<br />
Est-il quelque ennemi qu’à présent je ne dompte ?<br />
Paraissez, Navarrais, Maures et Castillans,<br />
Et tout ce que l’Espagne a nourri de vaillants ;<br />
Unissez-vous ensemble, et faites une armée,<br />
Pour combattre une main de la sorte animée :<br />
Joignez tous vos efforts contre un espoir si doux ;<br />
Pour en venir à bout, c’est trop peu que de vous.<br />
L’infante<br />
Scène II - L’infante<br />
T’écouterai-je encor, respect de ma naissance,<br />
Qui fais un crime de mes feux ?<br />
T’écouterai-je, amour, dont la douce puissance<br />
Contre ce fier tyran fait révolter mes voeux?<br />
Pauvre princesse, auquel des deux<br />
Dois-tu prêter obéissance ?<br />
Rodrigue, ta valeur te rend digne de moi ;<br />
Mais, pour être vaillant, tu n’es pas fils de roi.<br />
Impitoyable sort, dont la rigueur sépare<br />
Ma gloire d’avec mes désirs,<br />
Est-il dit que le choix d’une vertu si rare<br />
Coûte à ma passion de si grands déplaisirs ?<br />
Ô cieux ! à combien de soupirs<br />
Faut-il que mon coeur se prépare,<br />
Si jamais il n’obtient sur un si long tourment<br />
Ni d’éteindre l’amour, ni d’accepter l’amant ?<br />
Mais c’est trop de scrupule, et ma raison s’étonne<br />
Du mépris d’un si digne choix :<br />
Bien qu’aux monarques seuls ma naissance me donne,<br />
Rodrigue, avec honneur je vivrai sous tes lois.<br />
Après avoir vaincu deux rois,<br />
Pourrais-tu manquer de couronne ?<br />
Et ce grand nom de Cid que tu viens de gagner<br />
Ne fait-il pas trop voir sur qui tu dois régner ?
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 125<br />
Il est digne de moi, mais il est à Chimène ;<br />
<strong>Le</strong> don que j’en ai fait me nuit.<br />
Entre eux la mort d’un père a si peu mis de haine,<br />
Que le devoir du sang à regret le poursuit :<br />
Ainsi n’espérons aucun fruit<br />
De son crime, ni de ma peine,<br />
Puisque pour me punir le destin a permis<br />
Que l’amour dure même entre deux ennemis.<br />
L’infante<br />
Où viens-tu, Léonor ?<br />
Léonor<br />
Vous applaudir, madame,<br />
Sur le repos qu’enfin a retrouvé votre âme.<br />
L’infante<br />
D’où viendrait ce repos dans un comble d’ennui ?<br />
Léonor<br />
Si l’amour vit d’espoir, et s’il meurt avec lui,<br />
Rodrigue ne peut plus charmer votre courage.<br />
Vous savez le combat où Chimène l’engage ;<br />
Puisqu’il faut qu’il y meure, ou qu’il soit son mari,<br />
Votre espérance est morte, et votre esprit guéri.<br />
L’infante<br />
Ah ! qu’il s’en faut encor !<br />
Scène III - L’infante, Léonor<br />
Léonor<br />
Que pouvez-vous prétendre ?<br />
L’infante<br />
Mais plutôt quel espoir me pourrais-tu défendre ?<br />
Si Rodrigue combat sous ces conditions,<br />
Pour en rompre l’effet j’ai trop d’inventions.<br />
L’amour, ce doux auteur de mes cruels supplices,<br />
Aux esprits des amants apprend trop d’artifices.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 126<br />
Léonor<br />
Pourrez-vous quelque chose, après qu’un père mort<br />
N’a pu dans leurs esprits allumer de discord ?<br />
Car Chimène aisément montre, par sa conduite,<br />
Que la haine aujourd’hui ne fait pas sa poursuite.<br />
Elle obtient un combat, et pour son combattant<br />
C’est le premier offert qu’elle accepte à l’instant :<br />
Elle n’a point recours à ces mains généreuses<br />
Que tant d’exploits fameux rendent si glorieuses ;<br />
Don Sanche lui suffit, et mérite son choix<br />
Parce qu’il va s’armer pour la première fois ;<br />
Elle aime en ce duel son peu d’expérience ;<br />
Comme il est sans renom, elle est sans défiance ;<br />
Et sa facilité vous doit bien faire voir<br />
Qu’elle cherche un combat qui force son devoir,<br />
Qui livre à son Rodrigue une victoire aisée,<br />
Et l’autorise enfin à paraître apaisée.<br />
L’infante<br />
Je le remarque assez, et toutefois mon coeur<br />
À l’envi de Chimène adore ce vainqueur.<br />
À quoi me résoudrai-je, amante infortunée ?<br />
Léonor<br />
À vous mieux souvenir de qui vous êtes née ;<br />
<strong>Le</strong> ciel vous doit un roi, vous aimez un sujet !<br />
L’infante<br />
Mon inclination a bien changé d’objet.<br />
Je n’aime plus Rodrigue, un simple gentilhomme;<br />
Non, ce n’est plus ainsi que mon amour le nomme;<br />
Si j’aime, c’est l’auteur de tant de beaux exploits,<br />
C’est le valeureux Cid, le maître de deux rois.<br />
Je me vaincrai pourtant, non de peur d’aucun blâme,<br />
Mais pour ne troubler pas une si belle flamme ;<br />
Et quand pour m’obliger on l’aurait couronné,<br />
Je ne veux point reprendre un bien que j’ai donné.<br />
Puisqu’en un tel combat sa victoire est certaine,<br />
Allons encore un coup le donner à Chimène.<br />
Et toi, qui vois les traits dont mon coeur est percé,<br />
Viens me voir achever comme j’ai commencé.<br />
Scène IV - Chimène, Elvire
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 127<br />
Chimène<br />
Elvire, que je souffre ! et que je suis à plaindre !<br />
Je ne sais qu’espérer ; et je vois tout à craindre ;<br />
Aucun voeu ne m’échappe où j’ose consentir ;<br />
Je ne souhaite rien sans un prompt repentir.<br />
À deux rivaux pour moi je fais prendre les armes :<br />
<strong>Le</strong> plus heureux succès me coûtera des larmes ;<br />
Et quoi qu’en ma faveur en ordonne le sort,<br />
Mon père est sans vengeance, ou mon amant est mort.<br />
Elvire<br />
D’un et d’autre côté, je vous vois soulagée :<br />
Ou vous avez Rodrigue, ou vous êtes vengée ;<br />
Et quoi que le destin puisse ordonner de vous,<br />
Il soutient votre gloire, et vous donne un époux.<br />
Chimène<br />
Quoi ! l’objet de ma haine, ou de tant de colère !<br />
L’assassin de Rodrigue, ou celui de mon père !<br />
De tous les deux côtés on me donne un mari<br />
Encor tout teint du sang que j’ai le plus chéri ;<br />
De tous les deux côtés mon âme se rebelle.<br />
Je crains plus que la mort la fin de ma querelle.<br />
Allez, vengeance, amour, qui troublez mes esprits,<br />
Vous n’avez point pour moi de douceurs à ce prix ;<br />
Et toi, puissant moteur du destin qui m’outrage,<br />
Termine ce combat sans aucun avantage,<br />
Sans faire aucun des deux ni vaincu ni vainqueur.<br />
Elvire<br />
Ce serait vous traiter avec trop de rigueur.<br />
Ce combat pour votre âme est un nouveau supplice,<br />
S’il vous laisse obligée à demander justice,<br />
À témoigner toujours ce haut ressentiment,<br />
Et poursuivre toujours la mort de votre amant.<br />
Madame, il vaut bien mieux que sa rare vaillance,<br />
Lui couronnant le front, vous impose silence ;<br />
Que la loi du combat étouffe vos soupirs,<br />
Et que le roi vous force à suivre vos désirs.<br />
Chimène
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 128<br />
Quand il sera vainqueur, crois-tu que je me rende ?<br />
Mon devoir est trop fort, et ma perte est trop grande ;<br />
Et ce n’est pas assez, pour leur faire la loi,<br />
Que celle du combat et le vouloir du roi.<br />
Il peut vaincre don Sanche avec fort peu de peine,<br />
Mais non pas avec lui la gloire de Chimène ;<br />
Et quoi qu’à sa victoire un monarque ait promis,<br />
Mon honneur lui fera mille autres ennemis.<br />
Elvire<br />
Gardez, pour vous punir de cet orgueil étrange,<br />
Que le ciel à la fin ne souffre qu’on vous venge.<br />
Quoi ! vous voulez encor refuser le bonheur<br />
De pouvoir maintenant vous taire avec honneur ?<br />
Que prétend ce devoir, et qu’est-ce qu’il espère ?<br />
La mort de votre amant vous rendra-t-elle un père ?<br />
Est-ce trop peu pour vous que d’un coup de malheur ?<br />
Faut-il perte sur perte, et douleur sur douleur ?<br />
Allez, dans le caprice où votre humeur s’obstine,<br />
Vous ne méritez pas l’amant qu’on vous destine ;<br />
Et nous verrons du ciel l’équitable courroux<br />
Vous laisser, par sa mort, don Sanche pour époux.<br />
Chimène<br />
Elvire, c’est assez des peines que j’endure,<br />
Ne les redouble point de ce funeste augure.<br />
Je veux, si je le puis, les éviter tous les deux ;<br />
Sinon, en ce combat Rodrigue a tous mes voeux :<br />
Non qu’une folle ardeur de son côté me penche ;<br />
Mais, s’il était vaincu, je serais à don Sanche.<br />
Cette appréhension fait naître mon souhait.<br />
Que vois-je, malheureuse ? Elvire, c’est en fait.<br />
Don Sanche<br />
Obligé d’apporter à vos pieds cette épée...<br />
Chimène<br />
Quoi ! du sang de Rodrigue encor toute trempée ?<br />
Perfide, oses-tu bien te montrer à mes yeux,<br />
Après m’avoir ôté ce que j’aimais le mieux ?<br />
Scène V - Don Sanche, Chimène, Elvire
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 129<br />
Éclate, mon amour, tu n’as plus rien à craindre :<br />
Mon père est satisfait, cesse de te contraindre ;<br />
Un même coup a mis ma gloire en sûreté,<br />
Mon âme au désespoir, ma flamme en liberté.<br />
Don Sanche<br />
D’un esprit plus rassis...<br />
Chimène<br />
Tu me parles encore,<br />
Exécrable assassin d’un héros que j’adore !<br />
Va, tu l’as pris en traître ; un guerrier si vaillant<br />
N’eût jamais succombé sous un tel assaillant.<br />
N’espère rien de moi, tu ne m’as point servie !<br />
En croyant me venger, tu m’as ôté la vie.<br />
Don Sanche<br />
Étrange impression, qui, loin de m’écouter...<br />
Chimène<br />
Veux-tu que de sa mort je t’écoute vanter,<br />
Que j’entende à loisir avec quelle insolence<br />
Tu peindras son malheur, mon crime et ta vaillance ?<br />
Chimène<br />
Scène VI - Don Fernand, don Diègue, don Arias, don<br />
Sanche, don Alonse, Chimène, Elvire<br />
Sire, il n’est plus besoin de vous dissimuler<br />
Ce que tous mes efforts ne vous ont pu celer.<br />
J’aimais, vous l’avez su ; mais, pour venger mon père,<br />
J’ai bien voulu proscrire une tête si chère :<br />
Votre majesté, sire, elle-même a pu voir<br />
Comme j’ai fait céder mon amour au devoir.<br />
Enfin Rodrigue est mort, et sa mort m’a changée<br />
D’implacable ennemie en amante affligée.<br />
J’ai dû cette vengeance à qui m’a mise au jour,<br />
Et je dois maintenant ces pleurs à mon amour.<br />
Don Sanche m’a perdue en prenant ma défense,<br />
Et du bras qui me perd je suis la récompense !<br />
Sire, si la pitié peut émouvoir un roi,<br />
De grâce, révoquez une si dure loi ;
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 130<br />
Pour prix d’une victoire où je perds ce que j’aime,<br />
Je lui laisse mon bien ; qu’il me laisse à moi même;<br />
Qu’en un cloître sacré je pleure incesssamment,<br />
Jusqu’au dernier soupir, mon père et mon amant.<br />
Don Diègue<br />
Enfin elle aime, sire, et ne croit plus un crime<br />
D’avouer par sa bouche un amour légitime.<br />
Don Fernand<br />
Chimène, sors d’erreur, ton amant n’est pas mort,<br />
Et don Sanche vaincu t’a fait un faux rapport.<br />
Don Sanche<br />
Sire, un peu trop d’ardeur, malgré moi l’a déçue :<br />
Je venais du combat lui raconter l’issue.<br />
Ce généreux guerrier, dont son coeur est charmé,<br />
«Ne crains rien,m’a-t-il dit, quand il m’a désarmé :<br />
Je laisserais plutôt la victoire incertaine,<br />
Que de répandre un sang hasardé pour Chimène ;<br />
Mais puisque mon devoir m’appelle auprès du roi,<br />
Va de notre combat l’entretenir pour moi,<br />
De la part du vainqueur lui porter ton épée. »<br />
Sire, j’y suis venu : cet objet l’a trompée ;<br />
Elle m’a cru vainqueur, me voyant de retour,<br />
Et soudain sa colère a trahi son amour<br />
Avec tant de transport et tant d’impatience,<br />
Que je n’ai pu gagner un moment d’audience.<br />
Pour moi, bien que vaincu, je me répute heureux ;<br />
Et malgré l’intérêt de mon coeur amoureux,<br />
Perdant infiniment j’aime encor ma défaite,<br />
Qui fait le beau succès d’une amour si parfaite.<br />
Don Fernand<br />
Ma fille, il ne faut point rougir d’un si beau feu,<br />
Ni chercher les moyens d’en faire un désaveu ;<br />
Une louable honte en vain t’en sollicite ;<br />
Ta gloire est dégagée, et ton devoir est quitte ;<br />
Ton père est satisfait, et c’était le venger<br />
Que mettre tant de fois ton Rodrigue en danger.<br />
Tu vois comme le ciel autrement en dispose.<br />
Ayant tant fait pour lui, fais pour toi quelque chose,<br />
Et ne sois point rebelle à mon commandement,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 131<br />
Qui te donne un époux aimé si chèrement.<br />
L’infante<br />
Sèche tes pleurs, Chimène, et reçois sans tristesse<br />
Ce généreux vainqueur des mains de ta princesse.<br />
Don Rodrigue<br />
Scène VII - Don Fernand, don Diègue, don Arias, don<br />
Rodrigue, don Alonse, don Sanche, l’infante,<br />
Chimène, Léonor, Elvire<br />
Ne vous offensez point, sire, si devant vous<br />
Un respect amoureux me jette à ses genoux.<br />
Je ne viens point ici demander ma conquête :<br />
Je viens tout de nouveau vous apporter ma tête,<br />
Madame; mon amour n’emploiera point pour moi<br />
Ni la loi du combat, ni le vouloir du roi.<br />
Si tout ce qui s’est fait est trop peu pour un père,<br />
Dites par quels moyens il vous faut satisfaire.<br />
Faut-il combattre encor mille et mille rivaux,<br />
Aux deux bouts de la terre étendre mes travaux,<br />
Forcer moi seul un camp, mettre en fuite une armée,<br />
Des héros fabuleux passer la renommée?<br />
Si mon crime par là se peut enfin laver,<br />
J’ose tout entreprendre, et puis tout achever :<br />
Mais si ce fier honneur, toujours inexorable,<br />
Ne se peut apaiser sans la mort du coupable,<br />
N’armez plus contre moi le pouvoir des humains :<br />
Ma tête est à vos pieds, vengez-vous par vos mains ;<br />
Vos mains seules ont droit de vaincre un invicible ;<br />
Prenez une vengeance à tout autre impossible ;<br />
Mais du moins que ma mort suffise à me punir.<br />
Ne me bannissez point de votre souvenir ;<br />
Et, puisque mon trépas conserve votre gloire,<br />
Pour vous en revancher conservez ma mémoire,<br />
Et dites quelquefois, en déplorant mon sort :<br />
« S’il ne m’avait aimée, il ne serait pas mort. »<br />
Chimène<br />
Relève-toi, Rodrigue. Il faut l’avouer, sire,<br />
Je vous en ai trop dit pour m’en vouloir dédire.<br />
Rodrigue a des vertus que je ne puis haïr :<br />
Et quand un roi commande, on lui doit obéir.<br />
Mais, à quoi que déjà vous m’ayez condamnée,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 132<br />
Pourrez-vous à vos yeux souffrir cet hyménée ?<br />
Et quand de mon devoir vous voulez cet effort,<br />
Toute votre justice en est-elle d’accord ?<br />
Si Rodrigue à l’État devient si nécessaire,<br />
De ce qu’il fait pour vous dois-je être le salaire,<br />
Et me livrer moi-même au reproche éternel<br />
D’avoir trempé mes mains dans le sang paternal ?<br />
Don Fernand<br />
<strong>Le</strong> temps assez souvent a rendu légitime<br />
Ce qui semblait d’abord ne se pouvoir sans crime.<br />
Rodrigue t’a gagnée, et tu dois être à lui.<br />
Mais, quoique sa valeur t’ait conquise aujourd’hui,<br />
Il faudrait que je fusse ennemi de ta gloire<br />
Pour lui donner sitôt le prix de sa victoire.<br />
Cet hymen différé ne rompt point une loi<br />
Qui, sans marquer de temps, lui destine ta foi.<br />
Prends un an, si tu veux, pour essuyer tes larmes.<br />
Rodrigue, cependant il faut prendre les armes.<br />
Après avoir vaincu les Maures sur nos bords,<br />
Renversé leurs desseins, repoussé leurs efforts,<br />
Va jusqu’en leur pays leur reporter la guerre,<br />
Commander mon armée et ravager leur terre.<br />
À ce nom seul de Cid ils trembleront d’effroi ;<br />
Ils t’ont nommé seigneur, et te voudront pour roi.<br />
Mais parmi tes hauts faits sois-lui toujours fidèle ;<br />
Reviens-en, s’il se peut, encor plus digne d’elle ;<br />
Et par tes grands exploits, fais-toi si bien priser<br />
Qu’il lui soit glorieux alors de t’épouser.<br />
Don Rodrigue<br />
Pour posséder Chimène, et pour votre service,<br />
Que peut-on m’ordonner que mon bras n’accomplisse ?<br />
Quoi qu’absent de ses yeux il me faille endurer,<br />
Sire, ce m’est trop d’heur de pouvoir espérer.<br />
Don Fernand<br />
Espère en ton courage, espère en ma promesse ;<br />
Et possédant déjà le coeur de ta maîtresse,<br />
Pour vaincre un point d’honneur qui combat contre toi,<br />
Laisse faire le temps, ta vaillance et ton roi. ■<br />
Fin
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 133<br />
&<br />
Bi Hài KÎch<br />
<strong>Le</strong> Cid<br />
(QUÂN VƯƠNG)<br />
(Tiếp theo và hết)<br />
Soạn giả : Pierre Corneille<br />
1636<br />
Dịch giả : Minh Thu<br />
MÀN III<br />
CẢNH I – Don Rodrigue, Elvire<br />
Elvire: Rodrigue, cậu làm gì thế này? Khốn nạn, cậu từ đâu đến vậy?<br />
Don Rodrigue:Từ con đường đau buồn của số phận đáng thương của ta.<br />
Elvire: Từ đâu ra cái táo bạo đó và cái cao ngạo mới này, để dám chường mặt ở nơi mà cậu đã gây ra<br />
cảnh tang tóc chứ? Gì đây, cậu tới đây để thách thức hương hồn bá tước hay sao? Cậu đã chẳng giết<br />
ông ta là gì?<br />
Don Rodrigue: Mạng sống của ông ta là niềm tủi hổ của ta. Cái danh dự của ta đã khiến tay ta gây ra<br />
hậu quả đó.<br />
Elvire: Nhưng mà lại tìm đến ngôi nhà chết chóc này để tìm trú ẩn! Một kẻ sát nhân sẽ chẳng bao giờ<br />
tìm đến nơi như thế để ẩn náu chứ?<br />
Don Rodrigue: Và ta cũng chỉ đến đây để hiến mình cho người phán xét ta. Hãy đừng có nhìn ta với<br />
nét mặt kinh ngạc đó. Ta đi tìm cái chết sau khi đã gây ra cái chết. Người phán xét ta là mối tình của ta;<br />
người phán xét ta là nàng Chimène của ta: ta đáng tội chết và đáng bị nàng căm hận. Ta đến để nhận<br />
lấy, như một lệnh thật tối thượng, phán quyết từ miệng nàng, và cú đánh từ tay nàng.<br />
Elvire: Hãy lánh mặt nàng đi thì hơn, hãy tránh sự giận dữ của nàng; hãy biến đi ngay khi thấy những<br />
phản ứng đầu tiên của nàng. Đi đi, hãy đừng lộ mặt khi những hành động đầu tiên thôi thúc sự nhiệt<br />
thành trong những nỗi bất bình của nàng.<br />
Don Rodrigue: Không, không, con người thân thương mà ta đã làm mất lòng ấy không thể nào lại
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 134<br />
giận dữ quá đáng trước sự đau khổ của ta; và ta sẽ tránh né trăm cái chết đè nặng lên ta, nhưng ta lại sẽ<br />
có thể chịu đựng gấp đôi, nếu phải chi ta đuợc chết sớm.<br />
Elvire: Chimène đang nước mắt chan hòa ở trong cung điện, và chỉ trở về với người tháp tùng tốt.<br />
Rodrigue, hãy trốn đi, tôi xin cậu, đừng để tôi bị lo lắng. Người ta sẽ biết nói gì nếu người ta thấy cậu ở<br />
đây chứ? Bộ cậu muốn có lời đồn đại làm tăng thêm sự thống khổ của nàng, khi nàng bị cáo tội là chịu<br />
đựng kẻ đã sát hại cha nàng ư? Nàng sắp về: nàng về kìa, tôi trông thấy nàng. Ít ra vì thanh danh của<br />
nàng, hãy trốn đi, Rodrigue.<br />
CẢNH II – Don Sanche, Chimène, Elvire<br />
Don Sanche: Vâng, thưa cô nương, cô nương cần thấy những nạn nhân phải thấm máu. Sự căm hờn<br />
của cô nương là công minh, và nước mắt của cô nương là chính đáng.Và, để buộc lòng lên tiếng, thì tôi<br />
không có ý làm dịu lòng cô nương, hay là để an ủi gì cô nương. Nhưng nếu tôi có thể phục vụ cô<br />
nương, thì xin cô nương hãy xử dụng thanh kiếm của tôi để trừng trị kẻ có tội; hãy xử dụng mối tình<br />
của tôi để phục thù vụ sát hại thân phụ cô: với những mệnh lệnh của cô, cánh tay tôi sẽ rất dũng mãnh.<br />
Chimène: Cơ khổ!<br />
Don Sanche: Xin cô nương hãy chấp nhận sự phục vụ của tôi.<br />
Chimène: Tôi sẽ làm nhà vua phật lòng, vì ngài đã hứa với tôi là ngài sẽ ban công lý.<br />
Don Sanche: Cô nương rõ là công lý thì chậm như rùa và nhiều khi vì sự chậm chạp đó mà kẻ tội đồ<br />
lọt lưới công lý. Những tòa án của nhà vua chậm rì và khả nghi, làm mất quá nhiều nước mắt. Và vì sự<br />
khổ đau của cô nương do một kỵ sĩ gây ra, thì cô nương phải phục hận bằng vũ khí. Đường lối này sẽ<br />
chắc ăn hơn, và sự trả thù sẽ chóng vánh hơn.<br />
Chimène: Điều đó sẽ là phương tiện cuối cùng; và nếu cơ sự sẽ ra như thế, và ông còn vẫn giữ được<br />
lòng thương cảm cho những niềm khốn khổ của tôi, thì khi đó ông sẽ tự do để trả hận cho sự thương<br />
tổn của tôi.<br />
Don Sanche: Điều đó là vinh dự độc nhất mà lòng tôi dám nhận, và vì có thể hy vọng như thế tôi xin ra<br />
về với niềm hài lòng thật lớn lao.<br />
CẢNH III – Chimène, Elvire<br />
Chimène: Thế là sau cùng ta thấy ta được tự do, không gò bó, và từ những đớn đau dữ dội của ta, ta có<br />
thể nói cho em thấu hiểu; ta có thể để thoát ra những lời than thở buốn bã của ta; ta có thể mở lòng ta<br />
cùng những điều trái ý ta với em. Phụ thân ta đã chết, Elvire ạ; và Rodrigue, với thanh kiếm đầu tiên<br />
trong tay, đã mưu đồ chém giết. Đôi mắt ta ơi, hãy khóc đi, khóc đi, hãy để cho lệ giàn giụa. Một nửa<br />
đời ta đã chôn nửa kia vào phần mộ và buộc ta phải trả thù, sau sự tang chế, cái nửa kia ta không còn<br />
nữa đối với cái nửa còn lại này của ta.<br />
Elvire: Xin cô nương hãy nghỉ ngơi.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 135<br />
Chimène: Ôi! Lời khuyên không hợp với hoàn cảnh, trong niềm khổ đau lớn như vầy mà em lại nói<br />
đến nghỉ ngơi! Làm sao có bao giờ làm nguôi đuợc nỗi đau thương của ta, nếu ta không ghét nổi cái<br />
bàn tay đã tạo ra nỗi khổ đau đó của ta? Và từ nỗi dằn vặt muôn đời ta dám hy vọng gì, khi ta theo đuổi<br />
một tội đồ trong khi lại yêu thương kẻ phạm tội.<br />
Elvire: Cậu ta đã làm cô nương mất đi một người cha mà cô nương vẫn còn yêu cậu ta sao?<br />
Chimène: Elvire ơi, nói tiếng yêu là còn ít đấy, ta tôn sùng chàng; Mối tình của ta chống lại sự bất bình<br />
của ta; bên trong kẻ thù của ta, ta lại tìm thấy người tình của ta; và mặc dầu mọi uất hận trong ta, thì ta<br />
lại cảm thấy Rodrigue trong tim ta vẫn chiến đấu cha ta: nào là chàng tấn công cha ta, chàng áp lực cha<br />
ta, chàng lùi bước, chàng tự vệ, khi mạnh, lúc yếu, và khi đắc thắng: Nhưng trong cuộc đấu kiếm gay<br />
go cho thù hận và cho tình yêu, chàng xâu xé tim ta mà không chia sẻ lòng ta; và dù mối tình của ta có<br />
sức mãnh liệt đối với ta thì để theo đuổi cái bổn phận của ta, ta đã không tham vấn trái tim ta. Ta chệnh<br />
choạng chạy tới nơi mà thanh danh của ta bó buộc ta. Rodrigue rất thân thương đối với ta, nhưng ảnh<br />
hưởng của chàng lại làm thương tổn ta: lòng ta về phe với chàng; nhưng dù lòng ta muốn thế thì ta biết<br />
ta là ai, và rằng cha ta đã chết.<br />
Elvire: Bộ cô nương muốn theo đuổi trả thù cậu ta à?<br />
Chimène: Ôi! Ý nghĩ tàn ác! Và sự theo đuổi tàn nhẫn mà ta thấy mình bị ràng buộc vào! Ta đã đòi hỏi<br />
thủ cấp của chàng, và lại lo sợ sẽ lấy được nó: cái chết của ta sẽ theo sau cái chết của chàng, và ta muốn<br />
trừng phạt chàng!<br />
Elvire: Cô nương ơi, xin hãy bỏ đi, bỏ đi cái ý đồ thật bi thảm đó. Cô nương chẳng nên tự buộc cho<br />
mình cái luật thật bạo ngược.<br />
Chimène: Gì chứ! Cha ta chết hầu như trong vòng tay ta, máu Người gào thét sự trả thù mà ta lại sẽ<br />
không làm ư! Lòng ta, với sự ngạc nhiên đến tủi hổ vì những lôi cuốn khác, khiến cho ta tin là ta chỉ nợ<br />
Người bằng những giọt lệ bất lực! Và ta có thể chịu đựng một tình yêu mua chuộc, và danh dự của ta bị<br />
bóp nghẹt dưới sự im lặng hèn nhát.<br />
Elvire: Cô nương, xin tin tỳ nữ là cô nương sẽ có thể được tha thứ, vì đã đặt ít cảm tình hơn vào một<br />
con người khả ái; để chống lại một người tình thân ái như thế, cô nương đã làm đầy đủ, cô nương đã bệ<br />
kiến nhà vua; xin hãy đừng thúc đẩy gì thêm nữa, xin hãy đừng cố kết vào cái tâm thái kỳ dị này nữa.<br />
Chimène: Vì thanh danh của ta, ta cần phải trả thù; vả lại có gì đâu mà phải xu nịnh một ước muốn yêu<br />
đuơng. Đối với những tinh thần hào hiệp viện ra mọi cái cớ đều là điều hổ thẹn.<br />
Elvire: Nhưng cô nương yêu Rodrigue, chàng ta không thể nào làm trái ý cô nương.<br />
Chimène: Ta thừa nhận thế.<br />
Elvire: Thế sau cùng thì cô nương tính làm gì?<br />
Chimène: Gìn giữ thanh danh của ta và chấm dứt niềm ưu phiền của ta, theo đuổi cái chết của chàng,<br />
mất chàng, và chết sau chàng.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 136<br />
CẢNH IV – Don Rodrigue, Chimène, Elvire<br />
Don Rodrigue: Thế nhé! Nàng cứ đừng bỏ chuyện theo đuổi, và giữ vững lấy cái thanh danh khi ngăn<br />
trở ta được sống.<br />
Chimène: Elvire, chúng ta đang ở đâu thế này, và ta đang trông thấy cái gì đây? Rodrigue trong nhà ta!<br />
Rodrigue trước mắt ta!<br />
Don Rodrigue: Xin nàng hãy chớ nương tay với máu ta; hãy uống máu ta, đừng cưỡng lại cái êm dịu<br />
từ chuyện mất ta và từ sự trả thù của nàng.<br />
Chimène: Than ôi!<br />
Don Rodrigue: Hãy nghe ta.<br />
Chimène: Tôi đang chết.<br />
Don Rodrigue: Khoan đã.<br />
Chimène: Đi đi, hãy để cho tôi chết.<br />
Don Rodrigue: Để ta nói vài lời thôi: sau đó hãy chỉ đáp lại ta bằng lưỡi kiếm này.<br />
Chimène: Sao chứ? Lưỡi kiếm ấy còn đẫm máu cha tôi!<br />
Don Rodrigue: Chimène của ta ơi…<br />
Chimène: Hãy vứt bỏ cái vật khả ố đó mà theo nhãn quan của tôi thì nó đã khiển trách cái tội của<br />
chàng và đời chàng.<br />
Don Rodrigue: Tốt hơn xin nàng hãy nhìn nó để khích động lòng thù ghét của nàng, để làm tăng sự<br />
hờn căm của nàng và để sớm tạo ra niềm đau của ta.<br />
Chimène: Lưỡi kiếm đó nhuốm máu tôi.<br />
Rodrigue: Vậy nàng hãy cắm nó vào máu ta, như thế nó sẽ mất đi mầu máu của nàng.<br />
Chimène: Ôi thật là tàn ác khi chỉ trong có riêng một ngày mà một người cha chết vì lưỡi kiếm và<br />
người con gái vì nhìn thấy nó! Hãy vứt bỏ cái vật đó đi, tôi không thể nào chịu đựng được nó: chàng<br />
muốn tôi nghe chàng nói vậy mà chàng lại đang làm tôi chết!<br />
Don Rodrigue: Ta sẽ làm theo ý nàng, nhưng không từ bỏ ý muốn để nàng tự tay kết liễu cuộc đời<br />
đáng than trách của ta; bởi vì sau hết thì nàng đừng chờ đợi tình cảm của ta sẽ tạo ra một sự hối cải ươn<br />
hèn vì một hành động có hảo ý. Cái hậu quả không thể hàn gắn được, xuất phát từ một sự nóng nẩy quá<br />
hồ đồ, đã làm mất danh dự của cha ta và khiến ta đầy hổ thẹn. Nàng biết là một hành động sỉ nhục đã
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 137<br />
chạm đến con người có lòng. Ta đóng một phần trong vụ thách thức đó, và ta đã tìm ra kẻ gây sự: ta đã<br />
gặp ông ta, ta đã phục hận cho danh dự của ta lẫn của cha ta; ta sẽ vẫn hành xử như thế, nếu ta cần phải<br />
làm như thế. Không phải chì vì chuyện chống lại ta hay cha ta, mối tình của ta từ khá lâu nay đã vẫn<br />
chiến đấu cho nàng. Xin nàng hãy phán xét cái mãnh lực của mối tình đó: trong một vụ lăng nhục như<br />
vậy, ta đã đắn đo nếu ta sẽ trả thù, thì ta sẽ đành làm phật ý nàng, hay chịu đựng sự sỉ nhục, ta đã nghĩ<br />
ngợi rồi tới lượt cánh tay ta hành động quá mau mắn khiến ta bị cáo là quá bạo tàn; và hẳn nhiên là cái<br />
nhan sắc của nàng tạo ra sự quân bình, trừ phi chống lại những nét duyên dáng mạnh mẽ hơn của nàng,<br />
thì một người không có danh dự sẽ không xứng đáng với nàng. Rằng dù có phần là lòng nàng cảm mến<br />
ta, người đã yêu ta đằm thắm sẽ ghét ta tồi tệ; xin nàng hãy nghe thấu nàng và làm theo tiếng nói của<br />
nàng tức là thấy ta trở nên không xứng đáng và phỉ báng sự chọn lựa của nàng. Ta xin nói với nàng<br />
điều đó một lần nữa, và dù là ta đau buồn, thì cho tới hơi thở cuối cùng ta rất muốn lập lại lời đó: ta đã<br />
có lỗi với nàng và ta phải hứng lấy hậu quả để xóa sạch sự tủi hổ của ta, và để xứng đáng với nàng.<br />
Nhưng ta hãy bỏ chuyện danh dự đi, ta hãy bỏ chuyện cha ta đi, vì nay ta đến để làm vui lòng nàng: để<br />
hiến máu ta cho nàng ở nơi nàng đã nhìn thấy ta. Ta đã làm chuyện phải làm, ta làm điều theo bổn phận<br />
của ta. Ta biết một người cha chết là vũ khí để nàng chống lại tội ác của ta; ta không muốn thấy nàng xá<br />
tội cho nạn nhân của nàng: với lòng can đảm nàng hãy hy sinh máu mà hắn đã đổ cho cái thanh danh<br />
của hắn.<br />
Chimène: Ôi! Rodrigue chàng ơi! Quả thật dù là kẻ thù của chàng thì em chẳng thể nào quy lỗi cho<br />
chàng đã chốn tránh sự nhục nhã; và với sự bầy tỏ thế nào đi nữa về những đau thương của em thì em<br />
không thể kết tội chàng, em khóc cho những khổ đau của em. Em biết là sau một sự lăng nhục như thế<br />
thì danh dự đòi hỏi sức mạnh của một lòng can đảm lớn: chàng đã chỉ làm bổn phận của một con người<br />
thiện tâm; nhưng chính vì làm như vậy chàng đã chỉ dậy cho em bổn phận của em. Qua sự đắc thắng<br />
của chàng, cái giá trị tang tóc của chàng cho em biết là nó đã phục hận cho cha chàng và giữ vững danh<br />
tiếng cho chàng: Với em, em cũng cần làm tương tự và để tự gây buồn đau, em phải giữ gìn danh giá<br />
của em và phục thù cho cha em. Than ôi, sự tham gia của chàng vào chuyện này khiến em vô vọng.<br />
Phải chi cha em gặp phải một chuyện khốn khổ khác thì lòng em sẽ yên trí phải phép biết bao khi thấy<br />
chàng đây, sự trung thành duy nhất mà lòng em đã có thể nhận được; và ngược với nỗi đau thương của<br />
mình, em sẽ cảm thấy những săn sóc khi một bàn tay thật thân thương lau khô những giọt lệ của em.<br />
Nhưng em lại phải cần mất chàng sau khi đã mất cái nỗ lực đối với mối tình của em vì phải nghĩ đến<br />
danh dự của mình, và cái bổn phận khốn kiếp mà mệnh lệnh của nó sẽ giết chết em, buộc em phải tự<br />
mình triệt hạ chàng. Bởi vì, sau cùng xin chàng đừng chờ đợi gì nơi sự cảm mến của em những tình<br />
cảm ươn hèn cho sự trừng phạt chàng. Điều gì tạo ra ân tứ em dành cho chàng nhờ vào mối tình của<br />
chúng ta thì sự khoan hồng của em phải xứng với sự cư xử của chàng: Chàng đã xứng đáng với em khi<br />
gây hấn với em, và em cần lấy cái chết của chàng để xứng đáng với chàng.<br />
Rodrigue: Hãy đừng làm gì thêm khác hơn là điều danh dự bắt nàng phải làm: danh dự đòi lấy thủ cấp<br />
của ta và ta chịu mất nó cho nàng. Hãy làm chuyện đó như một hy sinh cho mục đích cao cả này. Sự hy<br />
sinh đó sẽ êm ái đối với ta và cũng tốt đẹp như sự bắt giữ. Vì sau cái tội của ta mà chờ đợi công lý<br />
chậm chạp tức là trì hoãn sự vẻ vang của nàng ngang với sự dằn vặt của ta. Ta sẽ quá sung sướng chết<br />
từ một hy sinh đẹp như thế.<br />
Chimène: Đi, đi. Em cùng phe với chàng chứ không phải là đao phủ của chàng. Nếu chàng hiến thủ<br />
cấp của chàng, bộ em lại là người lấy nó ư? Em sẽ phải tấn công nó, nhưng chàng sẽ phải bảo vệ nó;<br />
một ai khác, chứ không phải là chàng, sẽ là người lấy thủ cấp của chàng cho em, và em sẽ phải theo<br />
đuổi chàng chứ không phải là trừng phạt chàng.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 138<br />
Don Rodrigue: Cớ chi mà mối tình của hai ta lại dành ân tứ cho ta, sự khoan dung của nàng phải xứng<br />
với lòng hào hiệp của ta; và phải nhờ cánh tay của một kẻ khác để phục hận cho cha, thì Chimène của<br />
ta ơi, tin ta đi, đó không phải là giải pháp tốt đâu: Tay ta đây thôi đã biết trả thù cho sự nhục nhã, tay<br />
nàng đó thôi phải thực hiện sự trả thù.<br />
Chimène: Ác độc thay! Cớ sao mà chàng bướng bỉnh về diểm này như thế chứ? Chàng đã phục hận<br />
cho mình không cần ai giúp, và chàng lại giận em vì muốn để ai khác làm thay em. Em sẽ noi gương<br />
chàng và em có thừa mứa can đảm để chịu đựng cùng chàng cái vinh dự sẻ chia của em. Cha em và<br />
danh dự của em không muống mang nợ gì những đường lối đặc thù của mối tình của chàng hay của<br />
niềm tuyệt vọng của chàng.<br />
Don Rodrigue: Than ôi! Điểm danh dự khe khắt! Dẫu ta có làm gì thì chung cuộc ta sẽ vẫn chẳng thể<br />
đạt đuợc ân sủng đó ư? Nhân danh một nguời cha quá cố, hay nhân danh tình bạn của hai ta, xin nàng<br />
hãy trừng phạt ta bằng sự phục thù, hay ít ra thì bằng lòng thương hại. Người tình khốn khổ của nàng sẽ<br />
ít bị đau đớn hẳn khi chết vì tay nàng hơn là sống với sự ghét bỏ của nàng.<br />
Chimène: Đi, đi, em có ghét gì chàng đâu.<br />
Don Rodrigue: Em phải ghét ta.<br />
Chimène: Em không làm thế được.<br />
Don Rodrigue: Bộ nàng không sợ gì sự trách móc, và lời đàm tiếu ồn ào sao chứ? Khi thiên hạ biết<br />
được tội của ta, và mối tình chung thủy của nàng; bộ họ sẽ không hề đăng tải sự lo âu và sự bịp bợm à!<br />
Hãy buộc cho họ phải im tiếng và không còn xầm xì nữa, hãy cứu vãn thanh danh của nàng bằng cách<br />
giết ta đi.<br />
Chimène: Thanh danh của em sẽ sáng rộ thêm qua việc để chàng sống sót; và em muốn thấy tiếng nói<br />
của sự lo âu đen tối nhất vang vọng lên trời cao cái thanh danh của em và than vãn những ưu phiền của<br />
em khi biết rằng em tôn sùng chàng và rằng em theo đuổi chàng. Đi đi chàng, và hãy đừng bầy tỏ thêm<br />
nữa, trước nỗi đau thương tuyệt đối của em, lòng con người mà em sẽ phải mất, khi em vẫn cứ còn yêu.<br />
Hãy nhờ bóng tối mà lén về đi; nếu thiên hạ thấy chàng đi ra, thì danh giá của em sẽ lâm nguy đấy. Cái<br />
dịp duy nhất cho thiên hạ đàm tiếu là khi họ biết được rằng em đã chịu tiếp chàng tại đây: hãy đừng<br />
cho họ cơ hội tấn công tới phẩm hạnh của em.<br />
Don Rodrigue: Thà ta chết!<br />
Chimène: Đi đi, chàng.<br />
Don Rodrigue: Vậy nàng quyết định thế nào?<br />
Chimène: Dù có những ngọn lửa thật đẹp gây hoang mang cho sự thù ghét của em thì em sẽ làm điều<br />
khả dĩ để trả thù êm đẹp cho cha em. Nhưng dù có sự khe khắt của một bổn phận thật tàn ác thì ước<br />
vọng duy nhất của em là không thể làm gì.<br />
Don Rodrigue: Ôi phép mầu của tình yêu!<br />
Chimène: Ôi, muôn vàn cơ khổ!
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 139<br />
Don Rodrigue: Ôi hai cha chúng ta đã gây cho hai ta bao đau thương và nước mắt!<br />
Chimène: Rodrigue ơi, ai có ngờ đâu?<br />
Don Rodrigue: Chimène, ai có nói đâu?<br />
Chimène: Rằng thời giờ của hai ta đã đến quá gần, để rồi bị mất đi ngay đó chứ?<br />
Don Rodrigue: Và cứ nhìn theo bề ngoài, thì thuyền sắp tới bến rồi vậy mà một cơn bão đã ập tới phá<br />
tan tành niềm hy vọng của đôi ta.<br />
Chimène: Ôi! Những đau thương chết người!<br />
Don Rodrigue: Ôi! Những luyến tiếc vô ích!<br />
Chimène: Đi đi, chàng, còn nói thêm, em không nghe nữa đâu.<br />
Don Rodrigue: Giã biệt; thì ta đi kéo lê một cuộc đời chết dần mòn, nhưng chừng nào em còn theo<br />
đuổi, thì cuộc sống đó còn làm ta vui sướng.<br />
Chimène: Nếu em đạt đuợc ý muốn, thì em hứa với chàng là em sẽ không thở thêm chút nào sau khi<br />
chàng không còn. Vĩnh biệt; đi ra đi và, trên hết, nhớ đừng để ai trông thấy chàng.<br />
Elvire: Thưa cô nương, trời đã đem lại cho chúng ta đôi điều không may…<br />
Chimène: Đừng quấy rầy ta nữa, để cho ta thở. Ta đang tìm sự yên tĩnh và đêm tối để khóc đây.<br />
CẢNH V – Don Diègue<br />
Don Diègue: Chẳng bao giờ chúng ta hưởng được sự vui mừng hoàn hảo. Những thành công sung<br />
sướng nhất của chúng ta đều xen lẫn sự buồn bã; Trong những biến chuyển ấy luôn luôn một vài âu lo<br />
gây rắc rối cho những sự hài lòng của chúng ta. Ngay giữa hạnh phúc lòng ta đã cảm thấy có sự rắc rối.<br />
Ta bơi lội trong niềm vui, và ta run rẩy trong sợ sệt. Ta đã thấy cái chết của kẻ thù mà đã sỉ nhục ta,<br />
nhưng ta không nhìn thấy bàn tay đã rửa nhục cho ta. Ta đã cố công tìm với sự cẩn trọng vô ích. Với<br />
thân người gầy sụm của ta, ta chạy khắp phố phuờng với chút hơi tàn tuổi tác già nua còn dư lại trong<br />
ta, mà ta đã xử dụng vô ích trong việc tìm kiếm kẻ chiến thắng đó. Ở khắp nơi và suốt giờ này sang giờ<br />
khác, trong một đêm thật tăm tối, ta nghĩ muốn ôm hôn nó thì ta lại chỉ ôm được có cái bóng mà thôi.<br />
Và lòng ta, bị thất vọng vì cái con người lừa dối đó, đang có những hồ nghi làm tăng nỗi lo sợ của ta.<br />
Ta chẳng tìm ra được dấu vết nào của sự trốn lủi của hắn. Ta sợ sệt bá tước chết, những bạn bè và điều<br />
sẽ tới; con số của họ làm ta sợ hãi và gây hoang mang cho lý lẽ của ta. Rodrigue không còn sống nữa,<br />
hay đang thở trong ngục tù. Ối trời công minh! Liệu tôi có nhìn nhầm thấy gì trước mắt hay là sau cùng<br />
tôi đã tìm thấy niềm hy vọng duy nhất của tôi chăng? À chính la Rodrigue đây rồi, không còn hồ nghi<br />
gì nữa, những lời cầu xin của ta đã đuợc đáp ứng. Nỗi lo sợ của ta đã tan biến và những lo ngại đã qua.<br />
CẢNH VI – Don Diègue, don Rodrigue
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 140<br />
Don Diègue: Rodrigue, sau cùng Trời đã cho cha trông thấy con!<br />
Don Rodrigue: Than ôi!<br />
Don Diègue: Chớ xen những tiếng than vãn vào với niềm vui của cha. Hãy để cha lấy lại hơi ngõ hầu<br />
ca tụng con. Sự can trường của cha không có lý do nào để phủ nhận con. Con đã noi gương tốt đó và sự<br />
táo bạo được chứng minh của con làm sống lại trong con những anh hùng trong dòng dõi nhà ta; con là<br />
hậu sinh của các anh hùng đó, và cha sinh ra con; đường kiếm đầu tiên của con sánh ngang với mọi<br />
đường kiếm của cha. Và cái tuổi trẻ sống động của con cho thấy một mãnh lực đẹp đẽ. Với minh chứng<br />
lớn lao ấy con đã xứng với thanh danh của cha, làm điểm tựa cho tuổi già của cha. Con hãy sờ mái tóc<br />
bạc đã được con mang lại danh dự; hãy tới hôn vào má cha để nhận ra nơi đã in dấu tích của cái tát sỉ<br />
nhục mà đã đuợc sự can trường của con rửa sạch.<br />
Don Rodrigue: Cha đã phục hồi được danh dự; con không thể làm gì kém hơn thế, vì cha đã sinh con<br />
ra và nuôi nấng, dậy dỗ con. Con hết sức vui vẻ được như vậy và lòng con sung sướng là đường kiếm<br />
tập tành của con đã làm hài lòng bậc sinh thành ra con. Nhưng giữa những niềm ưng ý đó của cha, xin<br />
cha hãy chớ ghen tức gì, nếu, sau cha, đến lượt con tự làm vừa lòng mình. Xin cha khứng chịu rằng<br />
được tự do nên sự tuyệt vọng của con bùng dậy, sau những lời tán tụng quá lâu và thừa đủ của cha. Con<br />
không hề hối tiếc gì đã phụng sự cha; nhưng xin cha hãy trả lại con điều mà vụ đấu kiếm này đã làm<br />
cha thú vị. Để phục vụ cha, cánh tay con đã chống lại mối tình của con, từ đường kiếm vinh quang ấy<br />
linh hồn con đã mất. Xin cha đừng nói gì thêm nữa; vì cha con đã mất tất cả. Điều gì con nợ cha, con<br />
đã trả đầy đủ rồi.<br />
Don Diègue: Nâng lên, hãy nâng cao hơn nữa cái kết quả chiến thắng rạng rỡ của con: cha cho con đời<br />
sống, và con đã trả lại cho cha sự vinh quang của cha, và dù cho danh dự có đắt giá với cha hơn là mặt<br />
trời, và dầu cho hơn cả chuyện nay cha được thấy con trở lại. Nhưng một tấm lòng hào hiệp thường<br />
tránh khỏi những mềm yếu đó. Chúng ta chỉ có một danh dự, còn người tình thì đầy rẫy ra đấy. Tình<br />
yêu chỉ là sự vui thú, danh dự là một bổn phận.<br />
Don Rodrigue: Ô! Cha nói gì với con vậy?<br />
Don Diègue: Điều mà con cần biết.<br />
Don Rodrigue: Danh dự bị thương tổn của con thì chính con đã tự trả hận, mà cha lại dám đẩy con vào<br />
sự tủi hổ để đổi thay! Sự nhục nhã thì tương tự, và theo ngang xứng người chiến sĩ thiếu can trường<br />
lẫn người tình phản bội. Về sự chung thủy của con xin cha chớ gây thương tổn; hãy độ lượng chịu đựng<br />
con mà không khiến con bị bội thề; mối dây tình cảm của con thì quá nồng hậu để mà có thể cắt đứt<br />
được; nếu con không còn hy vọng được nữa thì con vẫn giữ sự chung thủy. Và vì không thể nào bỏ<br />
cũng như không thể lấy được Chimène thì cái chết mà con tìm kiếm sẽ là nỗi đau êm ái nhất của con.<br />
Don Dièegue: Chưa phải là lúc đi tìm cái chết đâu: quân vương của con và đất nước con còn cần đến<br />
cánh tay của con. Đoàn chiến thuyền, mà thiên hạ e sợ, đang tiến vào cửa sông rộng kia, tự tin là sẽ gây<br />
ra sự bất ngờ cho kinh thành và sẽ cướp phá làng xóm. Quân Moor sẽ tràn xuống, và mức nước dâng<br />
cùng đêm tối, trong một tiếng nữa sẽ lặng lẽ đưa chúng tới tường thành. Triều đình thì đang hỗn loạn,<br />
dân chúng thì hoảng sợ; người ta chỉ nghe thấy tiếng kêu than, và chỉ nhìn thấy nước mắt. Trong sự<br />
khốn khó đó của dân chúng thì cái may mắn của cha là đã tìm thấy ở nhà cha năm trăm chiến hữu, là
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 141<br />
những nguời khi biết là cha bị sỉ nhục, đã đồng lòng đến đề nghị trả thù cho vụ xích mích đó của cha.<br />
Con đã cảnh giác họ, nhưng những bàn tay mạnh mẽ của họ sẽ nhúng máu tụi quân Phi châu tốt đẹp<br />
hơn. Con hãy ra cầm đầu họ vì danh dự của con đòi hỏi. Đoàn người hảo hiệp đó muốn con chỉ huy họ.<br />
Với những kẻ cựu thù đó con hãy nâng đỡ cho nhóm bạn cha: từ đó nếu con muốn chết, hãy tìm một<br />
cái chết vinh. Hãy nắm lấy cơ hội đang đến với con. Hãy làm bổn phận với quân vương của con và<br />
nhận lấy lời chào tử biệt con của ngài; nhưng tốt hơn là con trở về với những vòng chiến công trên đầu.<br />
Đừng nghĩ tới chiến thắng của con cho một sự sỉ nhục. Hãy đưa chiến thắng tiến xa hơn, sức dũng<br />
mãnh của con sẽ buộc quân vương ân xá, và làm Chimène im tiếng. Nếu con yêu nàng thì hãy hiểu<br />
rằng trở về vinh quang đó là phương tiện duy nhất để thâu phục lại trái tim nàng. Nhưng không nên mất<br />
thì giờ vàng ngọc để nói dài giòng; cha ngưng nói với con, và cha muốn con bay đi. Nào theo cha, đi<br />
chiến đấu, và hãy tỏ cho nhà vua biết rằng sức mạnh của bá tước mà ngài bị mất đi thì ngài đã tìm lại<br />
được ở nơi con.<br />
MÀN IV<br />
CẢNH I - Chimène, Elvire<br />
Chimène: Liệu đó có phải là lời đồn đại sai không? Elvire, em có biết rõ chăng?<br />
Elvire: Cô nương sẽ không bao giờ tin là người người ngưỡng mộ cậu ta biết bao, và người ta đồng<br />
thanh tôn vinh lên tận trời cao vị anh hùng trẻ tuổi này với những chiến công oanh liệt. Quân Moor chỉ<br />
cảm thấy hổ thẹn trước mắt cậu. Họ tiến tới nhanh đấy, nhưng họ rút lui còn vội vàng hơn. Sau trận<br />
chiến ba tiếng đồng hồ các chiến sĩ của phe ta đã hoàn toàn đắc thắng và bắt được hai vua địch làm tù<br />
binh. Và cái dũng cảm của các viên chỉ huy của họ chẳng hề là trở ngại cho phe ta.<br />
Chimène: Thế một tay Rodrigue đã làm được trọn những phép mầu đó à?<br />
Elvire: Từ những nỗ lực cao cả của cậu ta, hai vua địch đã phải trả giá. Tay cậu đã đánh bại họ.<br />
Chimène: Thế em lấy ở đâu ra những tin tức kỳ lạ đó?<br />
Elvire: Từ dân chúng khắp nơi vang dội những lời xưng tụng cậu, và vinh danh cậu là người đã đem lại<br />
niềm vui cho họ, gọi cậu với tước vị thiên thần của họ và nhà giải phóng cho họ.<br />
Chimène: Thế còn nhà vua, ngài nhìn nhận ra sao sự dũng cảm lớn lao đó?<br />
Elvire: Rodrigue vẫn chưa dám ra mắt nhà vua; nhưng don Diègue thì đã sung sướng thay mặt con trai<br />
bệ kiến nhà vua và bệ trình ngài hai vua địch bị trói bắt và khấu đầu xin sự khoan dung của ngài cho<br />
Rodrigue, và xin ngài đoái nhìn bàn tay đã cứu được kinh thành.<br />
Chimène: Thế nhưng chàng không hề bị thương gì sao?<br />
Elvire: Tỳ nữ không nghe nói gì về chuyện này. Mà sao cô nương bị biến sắc, mặt tái đi thế kia! Xin cô<br />
nương hãy lấy lại tinh thần.<br />
Chimène: Vậy lấy lại cả sự giận hờn đã vơi đi trong ta ư: để có lòng lo lắng cho chàng ta có cần quên<br />
ta đi chăng? Người ta tôn vinh chàng, người ta xưng tụng chàng và ta lại đồng lòng chuyện đó! Danh<br />
dự của ta lặng câm, bổn phận của ta bất lực! Hãy im đi, mối tình của ta, hãy để sự sân hận của ta hành<br />
động. Nếu chàng đã bắt được hai vua, thì chàng cũng đã giết chết cha ta; Những chiếc áo choàng u<br />
buồn này, mà ta đọc được nỗi thống khổ của ta, thì là những vật thể đầu tiên cho thấy cái dũng mãnh
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 142<br />
của chàng, và dù cho thiên hạ nói về một tấm lòng hào hiệp thế nào đi nữa thì ở đây mọi vật thể này nói<br />
với ta về tội trạng của chàng. Những vật thể đã tạo sức mạnh cho những sự bất bình của ta: những tấm<br />
voan choàng, những mạng che, những y phục, những đồ trang hoàng tang tóc bầy ra đây cho ta rõ sự<br />
đắc thắng đầu tiên của chàng. Hãy chống lại sự say đắm của ta và hãy củng cố tốt đẹp cho thanh danh<br />
ta; và khi mối tình của ta trở nên quá mãnh liệt, xin hãy nói vói tinh thần ta vế cái bổn phận u buồn của<br />
ta. Hãy tấn công không e dè cái bàn tay đắc thắng đó.<br />
Elvire: Xin cô nương hãy bình tĩnh lại, kìa dona Urraque vừa đến.<br />
CẢNH II – Dona Urraque, Chimène, Elvire<br />
Dona Urraque: Chị không đến đây để an ủi những đau thương của em đâu; đúng ra thì chị đến đây là<br />
để hòa lẫn những tiếng than thở của chị với những giọt lệ của em.<br />
Chimène: Xin công nương hãy tham dự vào niềm vui của công chúng thì hơn,và hãy nếm niềm hạnh<br />
phúc mà trời đã ban cho công nuơng. Thưa công nương ngoài em ra, không ai có quyền than thở.<br />
Rodrigue đã biết cách giúp chúng ta thoát cơn gian nguy và công chúng đã hoan hô cho những chiến<br />
công của chàng. Hôm nay chỉ có mình em là còn đau buồn nhỏ lệ. Chàng đã cứu được kinh thành,<br />
chàng đã phụng sự quân vương của chàng; vậy mà cánh tay dũng mãnh của chàng lại chỉ gây tang tóc<br />
cho em.<br />
Dona Urraque: Chimène của chị ơi, quả thật là Rodrigue đã thực hiện được những chuyện kỳ diệu.<br />
Chimène: Tiếng vang vọng tai họa đã đập vào tai em và em nghe thấy vang dội khắp mọi nơi: thà là<br />
chiến sĩ can trường hơn là một người tình khốn khổ.<br />
Dona Urraque: Bộ những lời hoan hô của công chúng là tai họa cho em sao? Người chiến sĩ tuổi trẻ<br />
mà họ ca tụng ấy đã có hồi biết yêu chiều em. Chàng đã làm chủ đuợc trái tim em và đã sống dưới quy<br />
luật của em, và ca ngợi sự can trường của chàng tức là tôn trọng sự lựa chọn của em thôi.<br />
Chimène: Mỗi người đều có thể ca tụng chiến tích với ít nhiều sự công bằng, nhưng với em thì sự ca<br />
ngợi chàng là một niềm đau khổ mới của em. Người ta gây chua xót cho nỗi đau khổ của em khi nâng<br />
chàng lên cao đến thế. Em nhìn thấy điều em mất khi em thấy được việc em phải làm. Ôi! Những trái ý<br />
ác ôn đối với tinh thần của một người con gái si tình. Càng biết đuợc sự xứng đáng của chàng thì ngọn<br />
lửa thù hận của em càng tăng. Tuy nhiên đối với em thì bổn phận bao giờ cũng mạnh nhất. Và dù yêu<br />
chàng thì bổn phận của em là sẽ theo đuổi việc đạt tới cái chết của chàng.<br />
Dona Urraque: Hôm qua thì cái bổn phận đó đã giúp em đạt được nhiều quý mến. Nỗ lực em đã thể<br />
hiện cho thấy thật là hào hiệp. Nếu để xứng với một tấm lòng vĩ đại thì ai nấy trong triều đều ngưỡng<br />
mộ sự can đảm của em và cảm thương cho mối tình của em. Nhưng liệu em có chịu tin vào lời khuyên<br />
của một người bạn thân tình không chứ?<br />
Chimène: Không tuân lệnh chị sẽ khiến em là kẻ tội đồ.<br />
Don Urraque: Chuyện gì là chính đáng hôm qua thì hôm nay không còn đúng thế nữa. Bây giờ<br />
Rodrigue là điểm tựa duy nhất của chúng ta. Niềm hy vọng và sự quý thương của một dân tộc tôn sùng<br />
chàng: người giữ vững thành Castilla và là nỗi kinh hồn táng đởm đối với quân Moor. Chính quốc
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 143<br />
vương cũng đồng ý với thực trạng này rằng cha em đã chỉ đuợc làm sống lại nhờ vào chàng mà thôi. Và<br />
sau cùng nếu em muốn thì ta sẽ vắn tắt giải thích với em, em theo đuổi việc tìm cái chết của chàng tức<br />
là em gây ra sự tan hoang của nền cộng hòa. Chứ gì nữa? Để phục hận cho một người cha thì thử hỏi có<br />
ai đâu lại cho phép mình dâng tổ quốc vào tay địch chứ? Chống lại chúng tôi thì mục đích của em có<br />
chính đáng chăng? Và để bị đền tội thì liệu chúng tôi đã có dự phần gây ra tội trạng đó không?<br />
Chuyện không phải là sau hết thì em sẽ phải kết hôn với người mà vì cái chết của một người cha khiến<br />
em phải buộc tội hắn. Chính chị muốn em bỏ đi cái ý đồ đó. Hãy lấy đi cái mối tình của em với chàng<br />
và để chàng sống cho chúng tôi.<br />
Chimène: Ôi! đâu phải căn cứ vào em để có được những hảo ý như thế. Cái bổn phận gây chua xót cho<br />
em thì vô giới hạn. Dù cho lòng em thương mến chàng chiến sĩ đắc thắng đó; dù cho cả một dân tộc tôn<br />
sùng chàng và một quân vương trìu mến chàng; dù bao quanh chàng toàn là những chiến sĩ dũng cảm<br />
nhất, thì dưới cái gánh nặng tang chế khổ đau của em, những vòng nguyệt quế của chàng sẽ bị đè bẹp.<br />
Dona Urraque: Thật quảng đại là khi vì muốn phục thù cho một người cha mà cái bổn phận của chúng<br />
ta tấn công một đầu óc đẹp như thế. Nhưng còn một bổn phận ở một cấp lẫy lừng nhất, đó là khi người<br />
ta dâng cho công chúng những quyền lợi bằng máu. Không, hãy tin lời chị đi, rập tắt ngọn lửa tình của<br />
em là đủ: bởi chàng sẽ cảm thấy bị trừng phạt rất nặng nếu hình ảnh của chàng không còn nằm trong<br />
tim em. Vì kết quả tốt đẹp cho đất nước, em sẽ phải tự buộc mình làm theo luật đó. Vả lại em nghĩ nhà<br />
vua sẽ dành cho em điều gì chứ?<br />
Chimène: Ngài có thể từ khước em, nhưng em chẳng thể nào im tiếng.<br />
Dona Urraque: Hãy đắn đo kỹ, Chimène của chị, về điều em muốn làm. Giã biệt: em sẽ có thể một<br />
mình thảnh thơi suy nghĩ.<br />
Chimène: Sau cái chết của cha em, em chẳng còn có gì để lựa chọn.<br />
CẢNH III – Don Fernand, don Diègue, don Arias, don Rodrigue, don Sanche<br />
Don Fernand: Người thừa kế hào phóng của một gia đình danh giá mà luôn luôn là sự vinh quang và<br />
sự nương tựa của thành Castilla. Một dòng dõi có nhiều tổ tiên với sự dũng mãnh đáng chú ý mà sự thử<br />
thách cái dũng mãnh của khanh đã ngay đó xứng hợp. Để tưởng thưởng khanh thì bất cứ con số nào<br />
của trẫm cũng là quá nhỏ; và trẫm không có đủ quyền lực cho điều khanh phải được hưởng…đất nước<br />
đã thoát khỏi một kẻ thù thật thô lỗ. Vương trượng trong tay trẫm đã nhờ tay khanh để được nắm chắc<br />
hơn. Và những thất trận của quân Moor thì ngay trước những báo động của họ, dẫu trẫm có thể hạ lệnh<br />
đẩy lui họ thì không hề là những chiến công để cho quân vương của khanh có phương tiện hay niềm hy<br />
vọng xá tội cho khanh. Nhưng hai vua địch khanh bắt tù binh sẽ là sự đền bù cho khanh: trước sự hiện<br />
diện của Trẫm cả hai đều đã gọi khanh là Cid, và vì Cid theo ngôn ngữ của họ có nghĩa ngang với quân<br />
vương, trẫm chẳng thể thèm ước cái vương danh đẹp đẽ đó. Nên kể từ nay hãy là quân vương; và trước<br />
danh xưng vĩ đại ấy tất cả đều quy hàng. Cái danh xưng gây táng đởm kinh hồn cho Genada và Toledo.<br />
Cái danh xưng ghi dấu cho tất cả những ai sống dưới luật lệ của trẫm, cái danh xưng đáng giá đối với<br />
trẫm, và trẫm mắc nợ khanh.<br />
Don Rodrigue: Tâu Hoàng thượng, xin Ngài tránh cho hạ thần sự hổ thẹn: một sự phục vụ nhỏ nhoi<br />
như thế mà lại đã được Hoàng thượng coi quá trọng và khiến cho hạ thần đỏ mặt trước một quân vương
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 144<br />
vĩ đại như ngài, vì hạ thần thấy mình không xứng đáng cái vinh dự ngài ban cho hạ thần. Hạ thần biết<br />
quá rõ là hạ thần được hưởng sự tốt lành từ đế quốc của Hoàng thượng, và giòng máu chẩy trong huyết<br />
quản của hạ thần, và không khí hạ thần thở, nên khi hạ thần mất những thứ đó cho một vị vua xứng<br />
đáng như thế thì hạ thần chỉ làm bổn phận của một thần dân mà thôi.<br />
Don Fernand: Tất cả những người có cái bổn phận phụng sự trẫm đều không thi hành được nhiệm vụ<br />
với sự can trường tương tự. Và một khi cái dũng mãnh không được xử dụng ở mức mãnh liệt hơn thì nó<br />
không thể nào tạo ra những thành công hiếm hoi như thế. Vậy nên khanh hãy nhận lấy sự tôn vinh của<br />
dân chúng, và về chiến thắng này khanh hãy cho trẫm biết diễn tiến đích thực của chiến trận.<br />
Don Rodrigue: Tâu Hoàng thượng, ngài đã rõ là trong trường hợp của sự nguy ngập cấp bách mà đã<br />
đẩy kinh thành vào trạng thái hoảng kinh như thế, thì một nhóm chiến hữu của thân phụ hạ thần đã tập<br />
hợp và họ nhờ cậy vào tấm lòng còn đang hoàn toàn rối bời của hạ thần…Nhưng, tâu Hoàng thượng,<br />
xin ngài tha lỗi cho sự táo gan của hạ thần vì đã dám xử dụng sự táo bạo mà không có phép của ngài:<br />
tai họa đến cận kề; lữ đoàn thì đã sẵn sàng; Tự ra mặt trước triều đình, hạ thần dâng thủ cấp của mình.<br />
Và nếu phải mất đầu, thì sẽ là điều êm ái nhất cho hạ thần để vĩnh biệt cuộc đời này bằng cách chiến<br />
đấu phụng sự Hoàng thượng.<br />
Don Fernand: Trẫm tha lỗi cho sự nôn nóng của khanh để trả hận cho tội của mình; biện lý cuộc của<br />
nhà nước đã cho trẫm biết về sự bào chữa cho khanh: hãy tin là kể từ nay Chimène muốn nói hay nói<br />
tốt thế nào, thì trẫm sẽ chỉ nghe nàng để an ủi nàng thôi. Nhưng khanh hãy kể tiếp.<br />
Don Rodrigue: Vậy thì dưới sự chỉ huy của hạ thần đoàn quân này tiến lên, và đưa ra mặt trận một sự<br />
bảo đảm hùng dũng. Khởi đi thì có năm trăm người; nhưng với sự tiếp viện cấp kỳ nên khi đến hải<br />
cảng đoàn quân đã tăng lên ba ngàn người. Mọi người nhìn thấy doàn quân tiến hành với một khí thế<br />
như vậy, nên những người sợ hãi nhất đã lấy lại được can đảm! Ngay khi vừa đến nơi, hạ thần cho hai<br />
phần ba xuống ẩn trong lòng những chiếc tầu khi đó được tìm ra; số còn lại mà con số cứ tăng lên theo<br />
giờ phút, thì nóng lòng vì sốt ruột, họ nằm sát mặt đất quanh hạ thần, và không một tiếng động, họ trải<br />
qua phần lớn thì giờ của một đêm thật đẹp; qua mệnh lệnh của hạ thần, lính canh cũng án binh bất<br />
động, vì nằm ẩn nấp họ đã giúp tay cho chiến lược của hạ thần. Và hạ thần giả đò hứng khởi đã nhận<br />
được chiếu chỉ của Hoàng thượng, với vương lệnh họ thấy hạ thần làm theo và hạ thần ban ra cho toàn<br />
quân. Trong màn đêm xám nhẹ, những vì sao mờ dần. Và sau cùng nước dâng cho thấy ba mươi chiến<br />
thuyền; sóng bên dưới nâng thuyền lên, và với một nỗ lực chung, quân Moor và nước biển tràn tới tận<br />
hải cảng. Phe ta để cho họ đi qua; tất cả có vẻ im ắng đối với họ; chẳng có quân lính nào trên hải cảng,<br />
không có ai trên tường thành; sự im lặng thật sâu lắng của phe ta gây chắc chắn cho tinh thần của địch.<br />
Họ chẳng còn dám hồ nghi gì nữa là họ đột kích được phe ta. Không lo sợ, chiến thuyền địch thả neo,<br />
địch xuống tầu và chạy thẳng vào tay phe ta dang chờ họ. Thế rồi phe ta đứng lên, và tất cả lúc đó đồng<br />
thanh reo hò vọng lên tận trời những tiếng hò hét vang dội. Nghe được những tiếng hò hét đó quân ta ở<br />
duới tầu đáp ứng, họ đã được trang bị vũ khí. Quân Moor bị đối đầu; sự sợ hãi làm họ mất tinh thần;<br />
chưa đánh mà họ đã tự coi là thua rồi. Họ chạy đến để cướp bóc và họ chạm mặt chiến tranh. Phe ta tấn<br />
công họ dưới nước, phe ta chặn đánh họ trên bộ và khiến máu địch chẩy chan hòa thành sông, trước khi<br />
có quân nào có thể chống trả hay trở lại hàng ngũ của mình. Nhưng rồi sau đó, dù có cố gắng của phe<br />
ta, các chỉ huy của họ tái tập họp họ, lòng can đảm của họ sống lại, và họ quên nỗi hãi hùng: sự hổ thẹn<br />
là chết mà chưa hề chiến đấu đã chặn đứng sự hỗn loạn của họ và trả lại cho họ sức mạnh của họ. Thế<br />
là đứng vững vàng họ nã bắn phe ta. Máu của hai bên đổ ra, khủng khiếp hòa lẫn; và mặt đất, và dòng<br />
sông, và đoàn tầu của họ, và hải cảng là những bãi chiến trường nơi cái chết đắc thắng. Ôi, biết bao<br />
hành động, biết bao chiến công oanh liệt đã âm thầm, chẳng vinh quang, diễn ra trong đêm tối. Nơi mỗi
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 145<br />
người tự chứng kiến lấy những đường gươm, giáo mình chiến đấu mà không nhận định số phận đẩy<br />
đưa về đâu! Hạ thần xông xáo khắp nơi động viên phe ta: đẩy toán này tiến lên, đỡ đần toán khác; xắp<br />
đặt toán mới tới, và rồi thúc đẩy họ đến lượt tiến lên. Và chẳng còn rõ gì cho đến khi rạng đông tới.<br />
Nhưng sau cùng vừng đông cho thấy lợi thế của phe ta. Địch quân nhìn thấy mình thua và đột nhiên<br />
mất can đảm: và khi thấy viện quân đến tiếp tay cho phe ta thì cái dũng khí muốn thắng nhường bước<br />
cho nỗi sợ gặp cái chết; địch rút về tầu của họ và cắt giây neo tầu. Những tiếng kêu táng đởm kinh hồn<br />
vang tận trời cao, họ hỗn loạn rút lui mà chẳng tìm xem các vua của họ có thể cùng họ rút lui chăng.<br />
Họ thấy họ quá kinh hãi để có thể thi hành nhiệm vụ đó; với nước sông lúc dâng lên đẩy họ tới, và kéo<br />
họ theo khi rút xuống. Trong khi đó các vua địch còn đánh nhau giữa phe ta với một ít quân của họ bị<br />
giáo gươm phe ta đâm chém nằm dưới đất. Các vua tranh cãi mạnh mẽ, phản bội lẫn nhau. Hạ thần cố<br />
gắng vô ích khuyên họ đầu hàng. Với cây gươm mũi khoằm trong tay, họ không chịu nghe hạ thần.<br />
Nhưng khi thấy dưới chân họ quân lính chết hết nằm la liệt; và từ nay chỉ còn họ chiến đấu vô ích mà<br />
thôi, họ đòi gặp người chỉ huy phe ta và hạ thần lên tiếng, họ đầu hàng. Hạ thần xin bệ giải lên Hoàng<br />
thượng đồng lúc hai vua địch tù binh; và trận chiến ngưng vì không còn quân chiến đấu. Và đó là sự<br />
phụng sự Hoàng thượng của hạ thần…<br />
CẢNH IV – Don Fernand, don Diègue, don Rodrigue, don Arias, don Alonse,<br />
Don Sanche<br />
Don Alonse: Tâu Hoàng thượng, nàng Chimène đến xin ngài ban công lý.<br />
Don Fernand: Cái tin không may, và cái bổn phận không đúng lúc! Khanh đi đi, trẫm không muốn<br />
thấy nàng phải buộc trông thấy khanh. Với tất cả những lời cám ơn của trẫm, thì trẫm vẫn phải bảo<br />
khanh về đi, nhưng trước khi ra về, khanh hãy tới đây để quân vương của khanh ôm hôn khanh cái đã.<br />
(Don Rodrigue đi vào hậu trường)<br />
Don Diègue: Chimène săn lùng hắn, nhưng lại muốn cứu hắn.<br />
Don Fernand: Trẫm nghe nói nàng yêu hắn, và trẫm sẽ chứng minh điều này. Nào khanh hãy làm ra vẻ<br />
buồn bã đi.<br />
CẢNH V - Don Fernand, don Diègue, don Arias, don Sanche, don Alonse,<br />
Chimène, Elvire<br />
Don Fernand: Nào, Chimène, nàng hãy hài lòng đi, thắng lợi đã đáp ứng sự chờ đợi của nàng. Nếu đối<br />
với phe địch của chúng ta Rodrigue đã thắng họ, thì như mắt chúng ta thấy Rodrigue đã chết vì bị trúng<br />
thương. Hãy tạ ơn trời đã trả thù cho nàng.<br />
(nói với Don Diègue) Khanh coi kìa, chưa chi mà mặt cô nàng đã tái đi.<br />
Don Diègue: Bệ Hạ thấy nàng choáng váng, và từ một mối tình hoàn mỹ, thì trong sự bàng hoàng bủn<br />
rủn đó, xin Hoàng thượng, hãy ngưỡng mộ nàng: nỗi đau thương đã tỏ lộ những bí ẩn trong tâm hồn<br />
nàng và khiến ta không còn có thể hồ nghi cái tình của nàng.<br />
Chimène: Sao! Vậy Rodrigue đã chết thật rồi ư?
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 146<br />
Don Fernand: Không, không, hắn còn thấy mặt trời, và vẫn gìn giữ một mối tình không thay đổi. Nàng<br />
hãy nguôi nỗi đau thương mà vì hắn nàng đã tỏ.<br />
Chimène: Tâu Hoàng thượng, con người bủn rủn vì vui cũng như vì đau buồn. Sự vui mừng quá đáng<br />
làm con người hoàn toàn yếu lả, và khi tâm hồn gặp bất ngờ thì sự vui mừng quá đáng đè nặng lên các<br />
giác quan.<br />
Don Fernand: Nàng muốn để hưởng ứng nàng thì Trẫm phải tin chuyện bất khả đó à? Chimène ơi, nỗi<br />
đau thương của nàng thì quá rõ rệt đấy.<br />
Chimène: Vậy thì xin Bệ Hạ ghi thêm chuyện này vào nỗi khốn khổ của tiện nữ, hãy coi sự choáng<br />
váng của tiện nữ như hậu quả của nỗi đau đớn của tiện nữ. Tinh thần tiện nữ đã bị giảm xuống đến thế<br />
vì một sự choáng váng chính đáng. Cái chết của Rodrigue đã cướp đi cái thủ cấp của chàng mà là sự<br />
theo đuổi của tiện nữ. Nếu chàng bỏ mình, vì trúng thương, cho sự tốt lành của đất nước, thì sự trả thù<br />
của tiện nữ bị cướp mất và những chương trình của tiện nữ bị phản bội. Một kết thúc đẹp như vậy làm<br />
tiện nữ bị thương tổn nặng. Tiện nữ đòi hỏi cái chết của chàng, nhưng không vinh quang, không với<br />
một hào quang nâng danh chàng lên cao thế. Không phải trên chiếc giường danh dự mà là trên đoạn<br />
đầu đài; rằng cái chết của chàng là để cho cha tiện nữ, chứ không phải cho tổ quốc; để tên tuổi chàng bị<br />
ô uế và lưu niệm của chàng bị tơi tả. Chết cho đất nước thì không phải là một số phận bi thương, mà là<br />
chàng trở thành bất tử qua một cái chết vinh. Như thế thì tiện nữ yêu quý thắng lợi của chàng và tiện nữ<br />
có thể làm như thế mà không phạm tội gì. Thắng lợi đó bảo đảm cho nhà nước, và trả cho tiện nữ nạn<br />
nhân của mình. Nhưng cái thắng lợi cao cả, cái thắnhg lợi lẫy lừng ấy giữa các chiến binh, vị chỉ huy,<br />
đứng giữa cảnh vinh quang, được ban những vòng nguyệt quế thì để nói một lời về đỉều tiện nữ coi là<br />
xứng đáng bị hy sinh cho hương linh của thân phụ tiện nữ… Than ôi! Với hy vọng nào tiện nữ có thể<br />
mang theo sự hy sinh ấy với mình! Về phía tiện nữ thì Rodrigue chẳng có gì phải hồ nghi về những giọt<br />
lệ tiện nữ nhỏ cho chàng mà người đời dè bỉu. Với chàng thì trọn đế quốc của ngài đều là nơi miễn thứ.<br />
Nơi đây, dưới vương quyền của ngài, chàng được phép làm mọi điều; chàng thắng tiện nữ như chàng<br />
thắng những quân địch. Trong giòng máu chan hòa của họ công lý bị bóp nghẹt. Tội trạng của kẻ chiến<br />
thắng là một chiến phẩm mới; chúng ta gia tăng sự khao quân, ăn mừng rực rỡ, và sự coi thường luật<br />
pháp làm chúng ta theo sau xa mã của chàng đi giữa hai vua tù binh.<br />
Don Fernand: Ái nữ của ta, những lời nói đó quá tàn bạo. Khi ban công lý ta phải cân nhắc đủ điều.<br />
Hắn đã giết cha của con, hắn là kẻ gây hấn; và chính sự đắn đo tương tự hạ lênh cho ta lấy quyết định<br />
nhẹ nhàng. Trước khi cáo tội, mà là điều ta có vẻ đang làm, thì con hãy tự vấn lòng con: Rodrigue là<br />
chủ của trái tim con và tình yêu thầm kín của con cho quân vương của con cái ân huệ để đưa ra hảo ý<br />
giữ lại cho con một người tình như thế.<br />
Chimène: Cho tiện nữ! Kẻ thù của tiện nữ! người gây ra sự căm hờn của tiện nữ! Kẻ tạo ra những<br />
thống khổ cho tiện nữ! kẻ đã sát hại thân phụ tiện nữ! Bệ hạ chẳng quan tâm gì đến trường hợp theo<br />
đuổi chính đáng của tiện nữ; Bệ hạ không nghe theo ý tiện nữ tức là ngài tin đó là điều tiện nữ mong<br />
muốn. Vì Bệ hạ không chịu ban công lý cho những giọt lệ của tiện nữ, thì xin Bệ hạ cho phép tiện nữ<br />
tìm đến vũ khí; vì chính chỉ qua xử dụng vũ khí mà Rodrigue đã biết sỉ nhục tiện nữ. Và cũng xử dụng<br />
vũ khí tiện nữ sẽ trả được mối thù. Với tay tất cả các kỵ sĩ của Hoàng thượng tiện nữ đòi hỏi thủ cấp<br />
của Rodrigue. Phải, tiện nữ sẽ chịu thuộc về kỵ sĩ nào lấy được đầu Rodrigue cho tiện nữ. Tâu Hoàng<br />
thượng, xin hãy để họ chiến đấu và khi cuộc đấu kiếm chấm dứt, tiện nữ sẽ lấy người đắc thắng, nếu<br />
Rodrigue bị trừng phạt. Với uy quyền của Bệ hạ, xin cho công bố như vậy.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 147<br />
Don Fernand: Cái phong tục cổ lỗ đó được lập ra dưới danh nghĩa trừng phạt một vụ mưu định bất<br />
công, những cuộc đấu tột hạng làm nản chí nhà nước; thông thường đường lối này tạo ra sự khiếu nại<br />
đối với kết cuộc đáng than trách vì nó áp chế người vô tội và nâng đỡ kẻ có tội. Trẫm miễn cho<br />
Rodrigue; chàng ta quá quý báu đối với Trẫm để có thể bắt chàng ra hứng những đường kiếm trong một<br />
điều kiện thất thường. Và dù cho một tấm lòng hảo hiệp như vậy đã phạm phải lỗi lầm thì khi bỏ chiến<br />
trường để thoát thân, quân Moor đã đem theo với họ cái tội đó của chàng ta rồi.<br />
Don Diègue: Sao! Tâu Hoàng thượng, chỉ vì hắn khiến ngài đổi ngược luật pháp mà cả triều đình đã<br />
tuân thủ biết bao lần! Thần dân của Hoàng thượng sẽ nghĩ sao,và những người ganh ghét sẽ nói gì, nếu<br />
nhờ sự bênh vực của ngài, hắn xếp đặt được cuộc đời hắn và coi đó như một cái cớ để không làm như<br />
những con người có danh dự phải làm là đi tìm cái chết vinh ư? Những ân tứ như vậy sẽ làm ô uế quá<br />
đáng cái vinh quang của hắn: xin hãy để hắn không hổ thẹn hưởng những kết quả của thắng lợi của<br />
hắn. Bá tước đã tỏ ra táo tợn, hắn thì đã biết trừng trị ông ta: hắn đã hành động như một con người quả<br />
cảm và hắn phải tiếp tục giữ như vậy.<br />
Don Fernand: Nếu khanh muốn vậy thì trẫm đồng ý để hắn làm như thế: nhưng một chiến sĩ gục ngã<br />
thì nghìn người khác sẽ thay thế, và vì cái giá mà Chimème hứa dành cho người đắc thắng, nên tất cả<br />
các kỵ sĩ của Trẫm sẽ là địch thủ của hắn: đơn thương độc mã chống lại tất cả như thế thì quá bất công;<br />
chỉ cần một lần hắn vào đấu trường là đủ. Chimène, hãy chọn người nào nàng muốn, và hãy chọn cho<br />
kỹ nhé; nhưng sau cuộc đấu này thì đừng đòi hỏi gì thêm đấy.<br />
Don Diègue: Hãy đừng nhượng bộ trong sự lựa chọn những người mà cánh tay hắn sẽ gây kinh ngạc.<br />
Hãy mở ngỏ đấu trường và không ai khác bước vào. Sau chiến công mọi người chứng kiến hôm nay<br />
của Rodrigue, có kẻ tự phụ nào có đủ can đảm dám đấu với hắn chứ? Ai mà dám liều mạng trước một<br />
kẻ địch như thế chứ? Ai sẽ là người dũng mãnh đó, hay là kẻ táo bạo đó?<br />
Don Sanche: Hãy mở ngỏ đấu trường: ngài nhìn thấy người tấn công đây: Tôi là kẻ táo bạo đó, hay là<br />
người dũng mãnh thì đúng hơn. Xin cô nương dành ân tứ đó cho cái mãnh lực đang thúc đẩy tôi và xin<br />
hãy nhớ lời hứa hẹn của cô nương.<br />
Don Fernand: Thế Chimène, nàng chịu đặt vào tay don Sanche sự xích mích của nàng chứ?<br />
Chimène: Tâu Bệ hạ, tiện nữ đã có hứa với don Sanche rồi ạ.<br />
Don Fernand: Vậy hãy chuẩn bị cho ngày mai.<br />
Don Diègue: Thưa không, tâu Hoàng thượng, chẳng nên kéo dài thêm nữa: người ta luôn luôn quá sẵn<br />
sàng khi người ta có lòng can đảm.<br />
Don Fernand: Vừa đánh xong một chiến trận, lại chiến đấu tức thì sao kìa!<br />
Don Diègue: Rodrigue nó đã lấy lại sức trong khi tấu trình với Hoàng thượng về diễn tiến của trận<br />
chiến.<br />
Don Fernand: Trẫm muốn ít ra để một hay hai tiếng đồng hồ cho hắn nghỉ xả hơi. Nhưng vì e có<br />
trường hợp trận đấu ấy không diễn ra, để chứng minh với tất cả các khanh là Trẫm lấy làm tiếc phải<br />
hứa một diễn biến đẫm máu không hề làm Trẫm hài lòng như thế, và diễn biến như vậy không do Trẫm
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 148<br />
hay triều đình của Trẫm tạo ra. (Nhà vua nói với don Arias) Chỉ có chiến sĩ các khanh sẽ thẩm phán sự<br />
dũng mãnh, hãy lưu ý để đôi bên hành động như những con người có tấm lòng, và khi cuộc đấu kết<br />
thúc hãy dẫn kẻ đắc thắng đến chầu Trẫm; dẫu kẻ chiến thắng là ai đi nữa, thì giải thưởng tương tự sẽ<br />
được đền bù cho sự khó nhọc của đương sự. Trẫm muốn Trẫm sẽ tự tay trao đương sự cho Chimène, và<br />
để được đền bù đương sự sẽ nhận sự tín nhiệm của nàng.<br />
Chimène: Gì vậy! Tâu Hoàng thượng, sao ngài lại áp đặt cái luật khe khắt như thế với tiện nữ!<br />
Don Fernand: Nàng than phiền sao; cái tình nồng của nàng còn lâu mới thừa nhận lời than vãn, nếu<br />
Rodrigue là người đắc thắng, hãy nhận chàng mà không bị dụ hoặc. Đừng có than vãn trước một quyết<br />
định êm ái như thế chứ; bất cứ ai trong hai người đó thắng thì trẫm cho người đó làm chồng của nàng.<br />
MÀN V<br />
CẢNH I – Don Rodrigue, Chimène<br />
Chimène: Sao, Rodrigue, giữa ban ngày ban mặt như vầy! Ở đâu ra cái táo bạo của chàng vậy? Đi đi,<br />
chàng làm mất thanh danh ta bây giờ. Đi đi, xin chàng.<br />
Rodrigue: Thưa cô nương, ta sẽ chết, và ta tới đây, trước khi cú chí tử xẩy ra để nói lời vĩnh biệt cuối<br />
cùng. Mối tình không sao cởi bỏ được này mà ta đã theo, dựa vào qui luật của nàng, thì không dám<br />
nhận cái chết của ta mà lại không trình với nàng hầu tỏ lòng tôn kính.<br />
Chimène: Chàng sẽ chết à!<br />
Don Rodrigue: Ta chạy đến những giây phút sung sướng ấy mà sẽ trao đời ta cho những bất bình của<br />
nàng.<br />
Chimène: Chàng sẽ chết à! Don Sanche đáng nể thế sao, bộ anh ta gây nỗi kinh hãi cho trái tim bất bại<br />
đó à? Ai đã làm chàng yếu đuối thế? Hay ai đã khiến don Sanche mạnh mẽ thế? Rodrigue đi dự cuộc<br />
đấu gươm, mà chưa chi đã tự coi mình chết rồi! Người không sợ gì bọn giặc Moor, không e dè cha ta,<br />
đi đấu gươm chống don Sanche, lại đã vội tuyệt vọng! Vậy là khi cần thì cái sự dũng cảm của chàng lại<br />
xẹp mất ư?<br />
Don Rodrigue: Ta chạy đến sự trừng phạt của ta chứ không phải để đọ kiếm; và mối tình chung thủy<br />
của ta rất biết cách lấy đi ước muốn của ta. Khi nàng tìm kiếm cái chết của ta và để bảo vệ đời ta, ta lúc<br />
nào cũng vẫn một lòng; nhưng ta không có cánh tay đâu khi cần phải gìn giữ điều không làm nàng đắc<br />
ý; và nếu ta cần đọ kiếm cho sự xích mích của ta mà thôi, thì ta đã tìm lấy cái chết rồi trong cái đêm<br />
lâm chiến với giặc thù. Nhưng để bảo vệ quân vương của ta, nhân dân của ta, và tổ quốc của ta, nếu ta<br />
không làm tròn bổn phận tức là ta đã phản bội tất cả. Cái tinh thần phóng khoáng của ta chẳng ghét bỏ<br />
gì đời sống đến thế đâu, mà chỉ muốn buông xuôi vì một sự phản bội. Nay vì liên hệ đến chuyện riêng<br />
của ta, nàng đòi hỏi cái chết của ta, ta xin chấp nhận quyết định ấy. Sự bất bình của nàng đã chọn tay<br />
một kẻ khác (ta không xứng đáng được chết vì tay nàng): thì người đời sẽ không thấy ta tránh né những<br />
đường kiếm của kẻ địch đâu; ta có quá nhiều tôn trọng cho người vì nàng mà đọ kiếm, và sung sướng<br />
nghĩ rằng những đường kiếm đó vì nàng mà được vung ra. Bởi vì vũ khí ấy được xử dụng vì danh dự<br />
của nàng, ta sẽ mở phanh bụng ta cho don Sanche đâm chém, và sẽ sung sướng là ta mất về tay anh ta
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 149<br />
nhưng không khác gì là cũng mất về tay nàng vậy.<br />
Chimène: Nếu một bổn phận đáng buồn đi đôi với sự bạo tàn chính đáng làm cho em, dẫu trong lòng<br />
không muốn, phải quy định một luật lệ mạnh mẽ như thế đối với mối tình của chàng khi theo đuổi cái<br />
chết của chàng, khiến chàng không tự vệ khi giao đấu người chiến đấu cho em, thì trong sự mù quáng<br />
đó xin chàng chớ quên rằng cái gì là đời chàng cũng chính là cái thanh danh của chàng, và dù cho<br />
Rodrigue đã sống dưới ánh hào quang nào đi nữa, thì khi chàng chết, thiên hạ sẽ tin là chàng đã thua.<br />
Cái danh dự của chàng phải đáng quý với chàng hơn là em đáng quý với chàng. Vì cái danh dự đó đã<br />
làm tay chàng nhúng máu cha em, và làm chàng từ bỏ, dù chàng đắm đuối, niềm hy vọng êm ái nhất để<br />
sở hữu em: tuy nhiên, em để chàng đi, không mấy quan tâm là chưa đánh mà chàng đã để đối thủ thắng<br />
chàng. Sự bất tương đồng nào đã soi mòn sự dũng mãnh của chàng? Tại sao chàng lại không còn sự<br />
dũng mãnh đó? Hay tại sao chàng lại đã có nó? Gì chứ! Bộ chàng lại đã chỉ quảng đại trong việc gây ra<br />
cho em sự nhục nhã sao? Nếu không phải để làm em bị xúc phạm, thì chàng chẳng còn chút can đảm<br />
nào ư? Và chàng đã giao đấu với cha em mạnh mẽ như thế, sau khi thắng cha em chàng đã chẳng trở<br />
thành kẻ đắc thắng là gì? Đi đi, và đừng muốn chết, hãy để em tìm cái chết của chàng, và hãy bảo vệ<br />
danh dự của mình nếu chàng không còn muốn sống.<br />
Don Rodrigue: Sau cái chết của bá tước, và sự thua trận của giặc Moor, bộ còn cần ghi thêm những gì<br />
khác vào vinh quang của ta à? Nàng có thể khinh khi chuyện ta cần phải tự vệ thì ai cũng biết sự can<br />
trường của ta dám làm hết thẩy mọi chuyện. Rằng sức mạnh của ta có thể làm tất cả và dưới bầu trời,<br />
ngoài danh dự của ta thì không có gì quý giá với ta. Không, không đâu, trong cuộc giao đấu này, dù<br />
nàng muốn tin thế nào đi nữa, Rodrigue có thể chết mà không gây tổn thương gì cho thanh danh của<br />
mình, thiên hạ sẽ chẳng dám cáo tội là chàng đã thiếu tấm lòng, chẳng là người thắng và cũng không là<br />
kẻ thua. Người ta sẽ chỉ nói rằng: “Chàng đã tôn sùng Chimène, chàng đã không muốn sống để đáng bị<br />
nàng ghét bỏ; chàng đã tự nhường bước trước cái khắt khe của số phận mà đã buộc người tình của<br />
chàng phải theo đuổi cái chết của chàng : nàng muốn lấy thủ cấp của chàng; và tấm lòng hảo hiệp của<br />
chàng nghĩ nếu không chịu làm như thế sẽ chẳng khác gì đã phạm tội. Để trả thù cho danh dự của mình<br />
chàng đành mất tình yêu. Để trả thù cho người tình của mình chàng đã vĩnh biệt cuộc đời. Vì muốn hy<br />
vọng là tâm hồn mình phục vụ được phần nào cho danh dự của nàng nên danh dự của chàng dành cho<br />
Chimène, và Chimène dành cho đời chàng.Và như thế nàng sẽ thấy cái chết của ta trong cuộc giao đấu<br />
này không hề làm lu mờ thanh danh của ta, mà còn tăng ánh hào quang lên. Và cái danh dự này sẽ theo<br />
cái chết tự nguyện của ta và rằng không ai khác ngoài ta là có thể làm nàng đắc ý.<br />
Chimène: Vì để ngăn cản chàng chạy đến cái chết, đời chàng và danh dự của chàng chỉ là những dụ dỗ<br />
yếu ớt, nếu có bao giờ em yêu chàng, Rodrigue thân mến, để trả thù thì bây giờ hãy tự vệ để don<br />
Sanche khỏi lấy đuợc em. Hãy chiến đấu để giúp em thoát khỏi một điều kiện sẽ làm em phải thuộc về<br />
ông ta với nghịch ý của em. Em còn phải nói gì thêm nữa với chàng. Hãy đi và nghĩ đến chuyện tự vệ<br />
để bó buộc cái bổn phận của em, để buộc em phải im tiếng; và nếu chàng cảm thấy vẫn còn yêu em hãy<br />
là người chiến thắng sau cuộc đấu, mà Chimène là giải thưởng. Giã biệt: thốt ra lời này khiến em đỏ<br />
mặt hổ thẹn.<br />
Don Rodrigue: Còn có quân thù nào mà đến nay ta chưa chế ngự không? Hãy dàn hàng ra nào quân<br />
Navarre, quân Moor, quân thành Castilla, và tất cả những kẻ can trường mà Tây ban nha đã nuôi<br />
dưỡng, hãy cùng nhau hợp lực, và lập thành một đạo quân để chiến đấu cánh tay linh động vung lên:<br />
hãy hợp lực trước một hy vọng thật dịu êm: để đánh cho kiệt quệ thì sức lực của qúy vị chẳng có đuợc<br />
bao nhiêu.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 150<br />
CẢNH II – Dona Urraque<br />
Dona Urraque: Ta còn nghe mi nữa ư, tôn trọng chuyện ta sinh ra từ dòng dõi, mà làm những tình cảm<br />
của ta thành một cái tội ư? Ta còn nghe mi nữa à, tình yêu, mà mãnh lực êm ái trước cái kiêu hãnh bạo<br />
ngược, làm những ước mong của ta nổi loạn à? Hỡi nàng công chúa đáng thương, giữa hai điều đó, cô<br />
phải nghe theo điều nào đây? Rodrigue, cái dũng mãnh của chàng làm chàng xứng đáng với ta; nhưng<br />
dù được coi là anh dũng thì chàng không phải là con vua. Sự khe khắt của cái số phận đáng thương chia<br />
rẽ cái thanh danh của ta với những mong ước của ta. Phải chăng sự lựa chọn một sức mạnh thật hiếm<br />
hoi đã tạo ra những điều bất như ý lớn lao cho tình cảm của ta? Ôi, trời hỡi, trái tim tôi cần phải sẵn<br />
sàng than vãn biết bao lần. Có bao giờ không nhỉ, qua một sự dằn vặt lâu như thế mà trái tim này vẫn<br />
không đạt được tình yêu, hay nhận được người tình? Nhưng như thế thì lưỡng lự quá, và lý luận của ta<br />
ngạc nhiên trước sự khinh khi một lựa chọn xứng đáng như thế: tất nhiên nói về hoàng tộc thì ta chỉ có<br />
đuợc cái dòng dõi sinh ra; Rodrigue, với vinh dự em sẽ sống dưới những quy luật của chàng; sau khi đã<br />
chinh phục được hai vua, chàng đâu còn có thể thiếu vương miện chứ? Và cái đại danh Cid (quân<br />
vương) mà chàng vừa nhận được đó đã chẳng quá rõ ràng là chàng phải ngự trị ai chứ? Chàng xứng<br />
đáng với ta nhưng còn có Chimène: món quà ta trang tặng ấy lại đang hại ta. Giữa hai người đó cái chết<br />
của một người cha đã chẳng tạo ra mấy hận thù khiến cái bổn phận nợ máu theo đuổi chàng của nàng<br />
có xen niềm tiếc hận: vì thế chẳng nên hy vọng một kết quả nào từ tội trạng của chàng lẫn từ nổi đau<br />
khổ của ta. Bởi vì để trừng phạt ta, định mệnh đã an bài để tình yêu tồn tại giữa hai kẻ thù.<br />
Dona Urraque: Đi đâu về thế, Léonor?<br />
CẢNH III – Dona Urraque, Léonor<br />
Léonor: Em về để hoan hô công nương vì sau cùng công nương đã tìm lại được sự an tĩnh cho lòng<br />
mình.<br />
Dona Urraque: Ở đâu mà sự an tĩnh này đến được trong cơ man niềm chán nản này chứ?<br />
Léonor: Nếu tình yêu sống bằng hy vọng và hy vọng chết theo hắn thì Rodrigue không còn có thể rù<br />
quyến lòng can đảm của công nương nữa. Công nương hẳn đã biết về cuộc đấu gươm mà Chimène chủ<br />
động; vì hoặc hắn chết trong cuộc đấu đó hay trở thành chồng của Chimène, thì niềm hy vọng của công<br />
nương cũng chết và tinh thần của công nương được phục hồi.<br />
Dona Urraque: Ôi! Thì mong là như thế nữa đi!<br />
Léonor: Chứ công nương đâu còn cách chi nữa?<br />
Dona Urraque: Nhưng thà là còn hy vọng nào đó để em có thể bào chữa cho ta chứ? Nếu Rodrigue<br />
đấu gươm trong những điều kiện đó thì muốn tạo ra kết quả khác ta có thừa ý kiến. Tình yêu, tác nhân<br />
êm ái đó của những đau khổ quái ác của ta, thì với tinh thần của những kẻ yêu nhau tình yêu học được<br />
đầy rẫy những phương tiện.<br />
Léonor: Công nương đâu còn có thể làm được gì. Vụ một người cha chết đi đó đã chẳng gây ra sự bất<br />
đồng nào cho tinh thần của họ đấy ư? Với cung cách của nàng, Chimène cho thấy là ngày nay nàng
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 151<br />
không còn giữ sự hận thù. Nàng đã đạt được cuộc đấu gươm, còn người đấu gươm cho nàng thì nàng<br />
đã tức thì chọn người đề nghị đầu tiên. Nàng đã chẳng cần nhờ những bàn tay hào hùng mà bao nhiêu<br />
chiến công hiển hách làm cho thật vinh quang. Với nàng don Sanche vừa đủ và đáng để nàng chọn, bởi<br />
vì đây là lần đầu tiên chàng ta xử dụng vũ khí; trong cuộc đọ sức này nàng ta ưa chuyện chàng ta thiếu<br />
kinh nghiệm. Vì chàng ta không danh tiếng, và nàng thì không ngờ vực. Và sự dễ dãi của nàng phải cho<br />
công nương thấy rõ là nàng tìm kiếm một cuộc đọ sức hầu buộc được cái bổn phận của nàng, tạo cho<br />
Rodrigue một chiến thắng dễ dàng cho phép nàng sau cùng tỏ ra vẻ đã bình tâm.<br />
Dona Urraque: Ta cũng thừa đủ nhận thấy thế, tuy nhiên lòng ta tôn sùng kẻ đắc thắng và thèm ước<br />
địa vị của Chimène. Vậy với tư cách một người tình bạc phước thì ta phải làm chi?<br />
Léonor: Tốt hơn là công nương nên nhớ công nương sinh ra từ dòng dõi nào. Trời phải dành cho công<br />
nương một vị vua, vậy mà công nương lại đi yêu một thần dân!<br />
Dona Urraque: Sự ưa thích của ta đã thay đổi hẳn mục tiêu. Ta không còn yêu Rodrigue, một trang<br />
nam tử tầm thường. Không, tình ta không còn gọi chàng như thế nữa; nếu ta yêu, thì là yêu tác nhân<br />
của biết bao chiến công hiển hách, là chàng Cid dũng mãnh, chủ nhân của hai vua. Tuy nhiên ta chịu<br />
thua, không phải vì e ngại bất cứ sự quy tội nào, mà là để không gây rắc rối cho một mối tình đẹp như<br />
thế; và khi đề làm vừa lòng ta, người ta phong vương miện cho chàng, thì ta cũng không hề muốn lấy<br />
lại người mà ta đã cho đi. Bởi vì một cuộc đấu sức như thế làm chàng chắc chắn sẽ thắng thì một lấn<br />
nữa chúng ta lại để Chimène cho chàng. Còn em, người nhìn thấy cảnh tim ta bị tan nát, hãy đến nhìn<br />
ta hoàn tất như khi ta khởi sự.<br />
CẢNH IV – Chimène, Elvire<br />
Chimène: Ôi Elvire ơi! Ta dau khổ quá! Và ta là kẻ đáng thương! Ta chẳng biết phải hy vọng gì; và ta e<br />
sợ tất cả; Chẳng có ước muốn nào mà ta dám ưng thuận, lại thoát khỏi ta. Ta không cầu mong gì mà lại<br />
không thấy hối hận cấp kỳ. Ta để hai kẻ tình địch vì ta phải so gươm: sự thành công sung sướng nhất sẽ<br />
làm ta nhỏ lệ. Và dù số phận đưa ân huệ đến cho ta như thế nào thì cha ta vẫn chẳng rửa được hận hay<br />
người tình của ta chết.<br />
Elvire: Dẫu cách này hay cách khác thì tỳ nữ thấy cô nương được nhẹ gánh: hoặc cô nương được<br />
Rodrigue, hay trả được thù cha; và dù định mệnh muốn ra lệnh gì cho cô nương thì định mệnh đó giữ<br />
vững thanh danh cho cô nương và ban cho cô nương một tấm chồng.<br />
Chimène: Cái gì chứ! Người mà ta thù hận, hay gây cho ta bao căm hờn! Kẻ sát hại Rodrigue, hay<br />
người giết chết cha ta! Cả hai mà nhà vua đều muốn cho làm chồng ta khi còn nhuốm máu người quý<br />
thương nhất của ta; đối với cả đôi bên lòng ta nổi loạn. Ta sợ sự chấm dứt chuyện xích mích của ta hơn<br />
là sợ cái chết. Nào, phục hận, tình yêu, hai điều gây rối cho tinh thần ta. Với cái giá đó các ngươi chẳng<br />
cho ta những điều êm ái. Còn chàng, động lực mạnh mẽ của định mệnh mà sỉ nhục ta, hãy kết thúc<br />
cuộc đấu mà không có bên nào thủ lợi. Hãy để cả hai không có kẻ bại, người thắng.<br />
Elvire: Như thế là cô nương xử sự quá khe khắt. Cuộc đấu dành lòng cô nương là một nỗi khổ đau mới,<br />
nếu cô nương cứ buộc mình phải đòi hỏi công lý, và cứ mãi mãi chứng kiến nỗi bất bình lớn này, và cứ<br />
tiếp tục theo đuổi việc tìm cái chết của người tình của mình. Thưa cô nương, thà để sự dũng cảm hiếm<br />
có của chàng làm chàng thâu thêm được những vòng nguyệt quế và làm cô nương im tiếng thì tốt hơn
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 152<br />
nhiều đấy ạ. Mong luật lệ của cuộc đấu làm nghẹn những than thở của cô nương và mong là nhà vua sẽ<br />
buộc cô nương theo những uớc mong của ngài.<br />
Chimène: Khi chàng đắc thắng, bộ em tin là ta sẽ đầu hàng chàng sao? Bổn phận của ta quá mạnh, và<br />
sự mất mát của ta quá lớn. Luật của cuộc đấu và ý muốn của nhà vua chưa đủ để biến chúng thành luật.<br />
Chàng có thể dễ dàng thắng don Sanche, nhưng chàng sẽ không chiếm được cái vinh quang của<br />
Chimène; và dù một vị vua đã hứa gì với chàng đi nữa, thì cái danh dự của ta sẽ gây cho chàng nghìn<br />
kẻ thù khác.<br />
Elvire: Để trừng phạt mình thì cô nương cứ giữ lấy cái cao ngạo dị kỳ ấy đi. Mong là sau cùng trời<br />
không phiền lòng khi cô được họ trả thù. Gì chứ! Bộ cô nương vẫn cứ từ khước hạnh phúc khi bây giờ<br />
cô nương có thể im tiếng trong danh dự hay sao chứ? Cái bổn phận đó là cái quái gì, và nó trông mong<br />
gì đây nhỉ? Cái chết của người tình của cô nương có làm cha cô nuơng sống lại được đâu cơ chứ? Bộ<br />
một chuyện không may thì quá ít với cô nương sao? Thế cứ phải mất đi đôi với mất, và khổ đau di đôi<br />
với khổ đau mới được sao? Thôi đi, cái thất thường nằm trong tính bướng bỉnh của cô nương. Cô<br />
nương không đáng có được người tình mà định mệnh đã dành cho cô nương, và chúng ta sẽ thấy trời<br />
giận dữ không kém để cho chàng chết đi, còn cô nương thì phải lấy don Sanche làm chồng thôi.<br />
Chimène: Elvire, ta đã chịu đựng thừa đủ những khổ đau. Hãy đừng làm tăng thêm bằng những điềm<br />
tang tóc đó. Ta muốn, nếu ta có thể, tránh cả hai người; nếu không thì trong cuộc đấu này ta dành trọn<br />
sự cầu chúc cho Rodrigue, không phải vì một tình cảm cuồng si mà ta nghiêng về phía chàng; mà vì<br />
nếu chàng thua ta sẽ phải thuộc về don Sanche. Sự lo ngại đó làm nẩy sinh mong cầu của ta cho chàng.<br />
Ta nhìn thấy gì, hỡi kẻ khổ sở? Elvire, chuyện là như thế đó!<br />
CẢNH V- Don Sanche, Chimène, Elvire<br />
Don Sanche: Xin đặt dưới chân cô nương lưỡi gươm này…<br />
Chimène: Gì đây! Với máu của Rodrigue còn nhuốm đầy sao? Đồ phản bội, sao dám xuất hiện trước<br />
mắt ta sau khi đã lấy đi người ta yêu thương hơn cả? Hãy nói lên, mối tình của ta, ta chẳng còn gì phải<br />
sợ: cha ta đã hài lòng, hãy thôi tự chế đi; Cùng một đường gươm đã làm thanh danh ta được vững<br />
vàng, lòng ta vô vọng, tình ta tự do.<br />
Don Sanche: Từ một tinh thần quá…<br />
Chimène: Sao còn nói gì với ta nữa, kẻ sát nhân gớm ghiếc đã giết chết một anh hùng mà ta tôn sùng!<br />
Đi đi, ông đã giết chàng bằng sự phản bội; một dũng sĩ can trường như thế không đời nào gục ngã trước<br />
một kẻ đánh trộm như vậy. Hãy đừng hy vọng gì ở ta, ông đã chẳng phục vụ được gì cho ta hết! Tưởng<br />
là trả thù cho ta, nhưng ông đã cướp mất đời ta.<br />
Don Sanche: Ấn tượng kỳ dị, mà chưa chịu nghe mình nói…<br />
Chimène: Bộ ông muốn ta nghe ông khoác lác qua cái chết của chàng sao, mong ta thảnh thơi nghe với<br />
sự hỗn hào như thế à khi ông tả cái khốn khổ của chàng, cái tội của ta và cái dũng mãnh của ông à?<br />
CẢNH VI – Don Fernand, don Diègue, don Arias, don Sanche, don Alonse,<br />
Chimène, Elvire
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 153<br />
Chimène: Tâu Bệ hạ, tiện nữ chẳng còn gì giấu giếm nữa, vì tất cả nỗ lực của tiện nữ đều không qua<br />
mắt Bệ hạ được. Tiện nữ đã yêu, như Bệ hạ đã biết; nhưng để phục hận cho cha tiện nữ, tiện nữ đã<br />
muốn bài trừ một thủ cấp thật thân thương: Tâu Hoàng thượng, ngài đã tự thấy tiện nữ đã nhường bước<br />
tình yêu như thế nào trước bổn phận. Và nay Rodrigue đã chết, và cái chết của chàng đã thay đổi tiện<br />
nữ từ kẻ thù không chê trách đuợc thành một người tình đau khổ. Tiện nữ cần sự trả thù đó cho người<br />
đã sinh thành ra tiện nữ. Và bây giờ thì tiện nữ dành nước mắt khóc Người để khóc cho mối tình của<br />
tiện nữ. Khi nhận so gươm cho tiện nữ don Sanche đã mất tiện nữ, và tiện nữ là sự đền bù cho cánh tay<br />
chiến đấu cho tiện nữ! Tâu Bệ hạ, nếu lòng thương cảm có thể gây xúc động cho một quân vương, tấu<br />
xin ngài hãy bãi bỏ một luật lệ quá khắt khe; và để làm phần thưởng cho một thắng lợi của cuộc đấu<br />
mà tiện nữ bị mất người tiện nữ yêu thương, thì tiện nữ xin hiến tặng don Sanche tài sản của tiện nữ, và<br />
mong don Sanche để tiện nữ yên sống trong một dòng kín thiêng liêng, nơi tiện nữ sẽ không ngừng<br />
khóc cha và và khóc người tình, cho đến hơi thở cuối cùng của mình.<br />
Don Diègue: Vậy là nàng yêu hắn đấy, tâu Bệ hạ, và không còn cho đó là có tội nữa sau khi miệng<br />
nàng thú nhận một tình yêu chân chính.<br />
Don Fernand: Chimène à, có sự nhầm lẫn đấy, người yêu của con không chết đâu. Và don Sanche bị<br />
thua đã tường trình sai với nàng đấy.<br />
Don Sanche: Tâu Hoàng thượng, hơi quá nhiệt thành, dẫu hạ thần không muốn, khiến nàng bị thất<br />
vọng: hạ thần đến để kể với nàng câu chuyện. Chàng chiến sĩ quảng đại ấy với một trái tim dễ thương,<br />
nói với hạ thần sau khi thu được gươm của hạ thần rằng: “Đừng sợ gì cả. Tôi đã để cuộc đấu bất phân<br />
thắng, bại, hơn là đổ máu liều lĩnh cho Chimène; nhưng vì bổn phận của tôi gọi tôi tới bên vua, vậy nhờ<br />
ông thay tôi đến nói chuyện với nàng và thay mặt người chiến thắng hãy đem gươm của ông tới cho<br />
nàng.” Tâu Bệ hạ, hạ thần đến: chiếc gươm này khiến nàng tưởng nhầm. Khi thấy hạ thần trở về, nàng<br />
tưởng hạ thần là người thắng, và đột nhiên sự giận dữ của nàng đã thú nhận tình nàng với Rodrigue.<br />
Nàng nói nhiều và đầy nóng nẩy khiến cho hạ thần chẳng nói xen vào được câu nào. Đối với hạ thần,<br />
dù thật là thua, hạ thần lại thấy mừng; và mặc dầu quyền lợi tình cảm si tình của mình bị mất vĩnh viễn,<br />
thì hạ thần vẫn thích sự thua thiệt của mình vì đã làm nên sự thành công tuyệt mỹ cho một mối tình<br />
tuyệt hảo.<br />
Don Fernand: Ái nữ của trẫm, chẳng việc gì phải đỏ mặt vì một mối tình đẹp như thế, cũng không cần<br />
tìm cách để đưa ra sự phủ nhận. Một sự hổ thẹn đáng ngợi khen đang mời mọc con một cách vô ích.<br />
Cái thanh danh của con đã được giải phóng và bổn phận của con đã xong. Cha con đã được toại nguyện<br />
và chính chuyện trả thù đã khiến Rodrigue bao lần phải đứng trước hiểm nguy. Con thấy trời đã an bài<br />
khác đi ra sao khi trời làm bao nhiêu cho Rodrigue, thì trời cũng làm vài điều cho con. Và hãy đừng cãi<br />
lời của Trẫm là người cho con một người chồng hết sức được quý yêu.<br />
CẢNH VII – Don Fernand, don Diègue, don Arias, don Rodrigue, don Sanche<br />
Dona Urraque, Chimène, Léonor, Elvire<br />
Dona Urraque: Hãy lau nước mắt đi Chimène, và hãy ngưng buồn bã đón nhận, từ tay công nương của<br />
em, người tráng sĩ hào hùng này.<br />
Rodrigue: Tấu xin Bệ hạ hãy đừng mất lòng, nếu trước mặt rồng, một kẻ si tình quý trọng phủ phục<br />
duới chân ngài. Hạ thần không phải chỉ đến đây để đòi hỏi giải thưởng của hạ thần, hạ thần đến để một
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 154<br />
lần nữa lại xin hiến dâng thủ cấp của hạ thần. Thưa cô nương, mối tình của tôi không hề được sử dụng<br />
cho tôi, hay cho luật của cuộc giao đấu, hoặc cho ý muốn của quân vương. Nếu tất cả mọi thành tựu<br />
còn quá ít cho thân phụ nàng, xin nàng cho biết những đường lối nào sẽ làm nàng hài lòng. Tôi có cần<br />
phải giao đấu hàng ngàn và hàng ngàn địch thủ. Với những công tác ở hai cực trái đất, hãy buộc tôi đơn<br />
thương độc mã chiến đấu, đánh đuổi một đạo quân, những anh hùng oanh liệt danh nổi cồn nơi họ đi<br />
qua. Nếu ở đó sau cùng tội lỗi của tôi được rửa sạch, thì tôi xin xông pha và hoàn thành hết thẩy.<br />
Nhưng nếu cái danh dự cao ngạo đó cứ tiếp tục không lung lạc được, và không thể làm dịu đi mà không<br />
có cái chết của kẻ phạm tội; xin hãy đừng dùng sức mạnh của con người để chống lại tôi: đầu tôi ở dưới<br />
chân nàng, hãy trả thù cho nàng bằng chính tay nàng. Chỉ có tay nàng mới có quyền đánh thua một<br />
người bách chiến bách thắng. Để cho những người khác phục thù sẽ là điều bất khả. Nhưng ít ra cái<br />
chết của tôi đủ để trừng phạt tôi thì xin nàng hãy đừng cấm tôi hiện diện trong ký ức của nàng; và vì cái<br />
chết của tôi giữ vững thanh danh nàng và vì nàng đã được phục thù, xin nàng hãy gìn giữ kỷ niệm của<br />
tôi, và một đôi lần, khi thương cảm cho số phận của tôi, xin nàng hãy nói : “Nếu chàng đừng yêu ta thì<br />
chàng đã không chết!”<br />
Chimène: Hãy đứng lên đi Rodrigue, muôn tâu Bệ hạ, tiện nữ phải thú nhận, tiện nữ đã nói với Hòang<br />
thượng quá nhiều để không muốn nói đi nói lại. Rodrigue có những đức tính mà tiện nữ không thể nào<br />
ghét được: và khi một quân vương đã ra lệnh thì thiên hạ phải tuân theo. Nhưng với điều kiện mà<br />
hòang thượng đã bó buộc tiện nữ thì với nhãn quan của ngài, ngài có chịu cho phép cuộc hôn nhân này<br />
chăng? Và khi Hoàng thượng muốn thấy nỗ lực này là vì bổn phận của tiện nữ; vậy trọn công lý của<br />
Hoàng thượng có được thuận ý chăng? Nếu Rodrigue trở nên thật cần thiết cho quốc gia thì tiện nữ có<br />
phải là tiền công trả cho những sự phục vụ Hoàng thượng của chàng chăng, và tự nộp mình cho sự<br />
khiển trách muôn đời là đã nhúng tay vào máu của thân phụ tiện nữ chăng?<br />
Don Fernand: Thường khi thời gian đủ làm cho hợp pháp điều, tiên khởi có vẻ là bất khả, nếu không<br />
là có tội. Rodrigue đã thắng được con, và con phải thuộc về chàng. Nhưng dù cho cái dũng mãnh của<br />
chàng đã chinh phục được con, thì ta lại là kẻ thù của thanh danh con nếu ta trao cho chàng quá sớm<br />
phần thưởng của chàng. Cuộc hôn nhân trì hoãn này không có gì phạm pháp, và dù không ghi rõ thời<br />
gian thì đã được sự tin cẩn của con. Nếu con muốn thì hãy lấy một năm để lau khô những giọt lệ của<br />
con. Tuy nhiên Rodrigue thì sẽ còn phải lâm trận. Sau khi chiến thắng quân Moor trên đất nhà, thì<br />
Rodrigue sẽ còn phải đến tận nước họ, phá vỡ những mưu đồ của họ, đẩy lui những nỗ lực của họ, đem<br />
chiến tranh vào chính đất nước họ, chỉ huy đạo quân của Trẫm và tàn phá đất nước họ. Chỉ riêng vương<br />
danh Cid là họ đã sợ khiếp vía rồi; họ đã phong khanh là quân vương, và muốn khanh là vua. Nhưng<br />
đứng giữa danh vang đó khanh hãy luôn trung thành với nàng; hãy trở về với lòng trung thành ấy, và<br />
nếu có thể hãy tự làm khanh được xứng đáng hơn nữa với nàng; và với những chiến công hiển hách,<br />
hãy làm khanh thật xứng đáng để nàng được lừng danh khi thành hôn với khanh.<br />
Don Rodrigue: Để sở hữu được Chimène, và để phụng sự Hoàng thượng thì có lệnh gì cho hạ thần mà<br />
cánh tay hạ thần lại không làm được. Dù phải chịu đựng xa mặt nàng thì đó cũng là sự may mắn quá<br />
lớn mà hạ thần có thể mong ước.<br />
Don Fernand: Hy vọng vào sự dũng cảm của khanh, hy vọng vào lời hứa hẹn của Trẫm; và đã chiếm<br />
được trái tim nàng rồi thì hãy để thời gian, sự dũng mãnh của khanh, và quân vương của khanh chiến<br />
thắng một điểm danh dự đang chống lại khanh ■<br />
HẾT
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 155<br />
Du LÎch Liên Bang Nga và B¡c Âu,<br />
(PhÀn-Lan, Thøy-ñi‹n, ñan-Måch)<br />
PhÀn II<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
(Tiếp theo)<br />
Chuyến đi thăm Nga với Voyages Saigon đã giúp người viết biết thêm rất nhiều về Liên bang Nga.<br />
Ông Trần Chính, trưởng đoàn hướng dẫn với kinh nghiệm thấu đáo về lịch sử và văn hóa Nga đã làm<br />
cho chuyến du lịch thêm ý nghĩa và quên cả giờ giấc.<br />
Trước khi tiếp tục phần du lịch, xin nói qua về lịch sử của quốc gia Nga. (*)<br />
Tóm lược Lịch sử nước Nga<br />
Quốc gia Nga, hay Liên bang Nga ngày nay nằm ở phía Bắc lục địa Âu châu và Á châu. Từ tây bắc<br />
sang đông nam, Nga giáp biên giới với Na Uy, Phần Lan, Estonia, Litva, và Balan. Nói về hải phận thì<br />
Nga có biên giới với Hoa Kỳ qua eo biển Bering, và với Nhật bản qua biển Oklotsk Với diện tích hơn<br />
17 triệu cây số vuông, Nga là quốc gia lớn nhất thế giới, chiếm hơn 1/9 diện tích lục địa thế giới. Nga<br />
với hơn 142 triệu người, là nước có dân số cao thứ chín trên thế giới. Nga nằm ngang từ toàn bộ phía<br />
bắc châu Á và chiếm 40% châu Âu, trải cả 11 múi giờ. Nga cũng có số lượng rừng cây nhiều nhất thế<br />
giới, và các hồ nước của Nga chứa khoảng ¼ nước ngọt không đóng băng trên thế giới<br />
Nga là một nước đã từng có quyền lực và ảnh hưởng khắp thế giới từ thời cổ Đế chế Nga cho<br />
đến Liên bang Xô-viết theo xã hội chủ nghĩa. Nga đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của Đồng<br />
Minh trong Thế chiến thứ II. Năm 1991 Liên bang Xô viết được giải tán và chuyển thành Liên bang<br />
Nga. Trải qua nhiều thế kỷ biến động và nhiều giai đoạn từ vua chúa Sa Hoàng, Liên Xô đến Liên bang<br />
Nga, nước Nga hiện đại đã mất vị trí siêu cường.<br />
Lịch sử Nga (rất vắn tắt) bắt đầu từ Kiev, nước Đông Slav đầu tiên. Từ thuở đầu (trước năm<br />
999) đã chấp nhận Ki tô giáo từ đông La mã truyền sang. Nước Nga Kiev bị quân Mông cổ xâm chiếm<br />
từ những năm1230 và mau chóng tan rã. Tuy nhiên một số lãnh đạo tại xứ Novgorod và Pskov đã duy<br />
trì đuợc một di sản văn hóa của nước Nga Kiev. Sau thế kỷ 13, Moskva mở rộng bờ cõi dưới sự trị vì<br />
của những sa hoàng và nữ hoàng nổi tiếng của Nga như Anna, Elizabeth, Catherine II, v.v… Chế độ<br />
nông nô đuợc bãi bỏ năm 1861. Nước Nga trải qua nhiều thay đổi cải cách và sau đó Cuộc Cách Mạng<br />
năm 1917 dẫn đến sự bộc phát của Cộng Sản Bolshevik vào mùa thu năm 1917. Từ năm 1918 cho đến<br />
năm 1991, nước Nga được mang tên nước Nga Liên Xô viết. Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ thì Liên<br />
Bang Nga chính thức thành hình cho đến hiện tại.<br />
Nói về đế chế Nga từ thời cổ đại đến hiện tại thì Ivan <strong>The</strong> Terrible (Hung sa Ivan IV) là vị vua<br />
đầu tiên xưng tước vị Sa hoàng và Nicholas II là vị vua cuối cùng của triều đại Romanov.<br />
Hung sa Ivan (1530-1584). Sa hoàng Ivan IV được mệnh danh là Hung Sa Ivan hay Bạo chúa Ivan vì<br />
lối cai trị độc ác, nắm hết quyền hành nhưng Ivan IV là sa hoàng có tài và mở rộng được bờ cõi đế chế<br />
Nga. Ivan IV là con trai trưởng của Vasilij III. Khi Vasilij chết Ivan mới có 3 tuổi, mẹ Ivan tên Yelena là<br />
người tạm thời nắm giữ quyền hành cho đến khi chết vào năm Ivan mới tám tuổi. Năm 1547 khi Ivan<br />
17 tuổi lên ngôi vua và ngay lập tức tự nhận là Czar (Sa hoàng). Cùng năm Ivan lấy Anastasia<br />
Romanov làm vợ. Sau khi Anastasia chết, Ivan lấy vợ nhiều lần nữa. Sau khi Nga chiến thắng quân<br />
Mông cổ, thánh đuờng St. Basil được xây cất tại Quảng trường đỏ để kỷ niệm cuộc chiến thắng này.<br />
Sự tàn bạo của Ivan thật khủng khiếp: biết đến nhất là hàng chục ngàn người bị đày đi Siberia<br />
và hơn 60,000 dân Nga bị hành hạ đến chết trong chiến trận tại vùng Novgorod vào năm 1569. Năm
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 156<br />
1571 quân Tartars chiếm phá Moscow, bắt dân Nga làm nô lệ và Ivan phải trốn chạy khỏi Moscow hơn<br />
mười năm, Ivan trở lại ngôi vị vào năm 1581. Năm 1582, trong một cơn giận quá độ, Ivan đã dùng gậy<br />
sắt nhọn đâm chết người con trai đầu lòng Ivan Ivanovich, hình ảnh này đã đuợc họa sĩ Ilya Repin<br />
miêu tả trong bức họa nổi tiếng Ivan Bạo chúa giết con trai ngày 16 tháng 11 năm 1582.<br />
Sau khi Hung Sa Ivan IV chết ngày 18 tháng 3, 1584. Feodor I là người nối ngôi.<br />
Feodor I (1557-1598) là con trai thứ hai của Ivan và Anastasia Romanov. Feodor I lên ngôi vào năm<br />
1584. Feodor I là một Sa hoàng bạc nhược, không quan tâm đến chánh trị mà chỉ hướng về tôn giáo và<br />
lòng tin. Ông cũng là vị Sa hoàng cuối cùng của triều đại Rurik. Nối tiếp triều đại Rurik là triều đại<br />
Romanov.<br />
Triều đại Rurik do Rurik và các anh em của Rurik sáng lập và vào giữa thế kỷ 12, đã chia ra<br />
làm nhiều nhánh tộc, mỗi nhánh trị vì một vùng. Đó là nhánh Olgovichesw, Yuryeviches, và<br />
Romanoviches.<br />
-Nhánh Romanoviches là hậu duệ của La mã Vĩ đại.<br />
-Nhánh Yuryeviches với Hung sa Ivan là người đã cai trị và được mệnh danh là Sa hoàng của tất<br />
cả nước Nga.<br />
Triều đại Rurik (Rurik Dynasty) bắt đầu từ năm 842-862 do hoàng tử Rurik thành lập, và coi<br />
như chấm dứt vào năm 1598 (1157-1598), (và kế tiếp là triều đại Romanov kéo dài từ 1613 cho đến<br />
1917).<br />
Ở Nga, tên các triều đại thường có tiếp vĩ ngữ "ovich": thí dụ nhà Rurik mang tên Rurikovich.<br />
Nhưng qua triều đại Romanov thì lại dùng họ làm tên triều đại (Romanov với vua Mikhail Romanov)<br />
Trong vài thế hệ đầu tiên, dòng họ Romanov có công lớn đưa nước Nga đến thịnh vượng với<br />
sự thay đổi nhanh chóng trong nền kinh tế và chính trị, lập nên một đế quốc Nga hùng mạnh ở châu<br />
Âu. Giai đoạn này, Peter Đại Đế là vị Sa Hoàng có công được toàn dân Nga ngưỡng phục.<br />
Đại đế Peter (Peter <strong>The</strong> Great)<br />
Đại đế Peter là con của Sa hoàng Alexis và Nataliya. Sa hoàng Alexis, cha của Peter <strong>The</strong> Great có hai<br />
vợ.<br />
Vợ 1: Mariya là mẹ của Sophia (sinh năm 1657), Fyodor (1661) và Ivan V (1666). Ivan V<br />
(1668-1682-1696) lấy vợ có con gái sau làm nữ hoàng đế Anna Ivanovna (1693-1730-1740) và có cháu<br />
nội gái khác là Anna <strong>Le</strong>poldovna là mẹ của Ivan VI hậu duệ cuối cùng của nhánh Peter và Mariya.<br />
Vợ thứ 2: Nataliya là mẹ của Peter the Great.<br />
Sau khi Aleixis chết, Fyodor lên ngôi trị vì được vài năm thì chết, sau đó Ivan V và Peter được<br />
phong làm nhị Sa hoàng đồng cai trị Nga vào ngày 26 tháng 6 1682 (trong Bảo tàng Điện Kremlin có<br />
chiếc ngai hai chỗ ngồi của nhị Sa hoàng bằng vàng trạm trổ tinh vi). Khi người chị khác mẹ Sophia<br />
âm mưu tiếm vị thì Peter cất chức Sophia và giam bà vào tu viện Novodevichy .<br />
Peter Đại đế cũng có hai vợ.<br />
Vợ 1: Eudoxia sinh Alexis là cha của Peter II (1715-1727-1730)<br />
Vợ 2: Catherine I có 7 người con. Một người con gái của Catherine với Peter tên là Elizabeth<br />
(1709-1741-1762). Bà Elizabeth này trị vì từ 1641 đến 1762.<br />
Một người con gái khác của Peter the Great tên Anna Petrova là mẹ của Peter III (vua kế vị<br />
chính thức được chọn), vợ của Peter III là Catherine II. Bà Catherine II này tiếm vị ngôi của Peter III,<br />
có công trong việc mở mang, cải cách nước Nga, bà được gọi là Catherine the Great (1762-1796). Con<br />
trai của Peter III và Catherine <strong>The</strong> Great tên Paul (1784-1796-1801) sau đó kế vị ngôi vua.<br />
Thứ tự Sa hoàng, Nữ hoàng trị vì Nga, con số đầu tiên là năm sinh, số thứ hai và chót là thời<br />
gian trên ngai vàng.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 157<br />
Ivan IV Alexis (1629-1645-1676)<br />
Fyodor III (1661-1676-1682)<br />
Ivan (1666) và Peter (1672) đồng trị vì với Ivan (1682-1696), Peter (1682-1725)<br />
Catherine I (…-1725-1727) (vợ Peter the Great)<br />
Peter II (1715-1727-1730)<br />
Anna Ivanovna (1693-1730-1740)<br />
Ivan VI (…-1740-1741)<br />
Elizabeth (1709- 1741-1762)<br />
Peter III (1728-1762-1762)<br />
Catherine II (…-1762-1796) (vợ Peter III)<br />
Paul (1784- 1796- 1801)<br />
Sau khi Peter Đại đế qua đời năm 1725 thì Catherine, vợ Peter đã thành công trong mưu đồ trở<br />
thành Nữ hoàng đầu tiên của Nga. Sau bà là một loạt Nữ hoàng lên cầm quyền. Họ là những người góp<br />
nhiều công lao trong việc tu bổ, xây dựng quốc gia, nhất là Catherine II.<br />
Catherine, vợ Peter <strong>The</strong> Great, tên thật là Marta Skavronskaya, bà thuộc nguồn gốc nông dân, bị mồ côi<br />
từ khi còn nhỏ và được một mục sư nuôi tại Marienburg. Khi người Nga chiếm được Marienburg năm<br />
1702, bà bị một người chỉ huy quân đội Nga bắt rồi bán bà lại cho nhà quí tộc Aleksandr Menshikov,<br />
một viên quan cận thần của Peter I Đại Đế. Chẳng bao lâu sau bà đã trở thành tình nhân của Peter I Đại<br />
Đế và là một người có thế lực rất lớn bên cạnh Peter Hoàng Đế. Catherine có người hai con gái với<br />
Peter. Catherine chỉ cầm quyền đuợc hai năm thì qua đời. Không lâu sau khi Catherine qua đời, vào<br />
năm 1730 Anna Ioannovna là cháu gái của Peter Đại Đế lên nắm quyền cai trị nước Nga<br />
Anna Ioannovna (Anna I) là con gái của Nga Hoàng Ivan V Alexis, và là cháu gái của Peter<br />
Đại Đế, cai trị nước Nga từ năm 1730 đến năm 1740.<br />
Ngày 28/10/1740, Nữ hoàng Anna Ioannovna băng hà do bệnh nặng. Sau khi bà mất, Ivan VI<br />
mới một tuổi lên ngôi Hoàng đế của nước Nga và mẹ của Ivan VI là Anna <strong>Le</strong>opoldovna lên nắm quyền<br />
nhiếp chính.<br />
Là cháu gái của Nữ hoàng Anna Ioanovna (trị vì 1730-40), Anna <strong>Le</strong>opoldovna kết hôn với cháu<br />
trai của Hoàng đế Charles VI sinh ra một người con trai là Ivan (2/8 1740), Ivan là người đã được chỉ<br />
định kế vị ngai vàng của nước Nga năm 1740. Tuy nhiên, dân Nga không phục chế độ nhiếp chính của<br />
Anna <strong>Le</strong>opoldovna. Ngày 25/11 năm 1741 Elizabeth, con gái của Peter Đại Đế lật đổ Anna và chính<br />
thức lên ngôi Nữ hoàng vào năm 1741.<br />
Elizabeth Petrovna (1709-1741-1762)<br />
Yelizaveta Petrovna hay còn được gọi là Elizabeth là con gái đầu lòng của Peter với Catherine I. Bà có<br />
công phát triển nghệ thuật văn hóa cùng kiến trúc tại Nga. Cung điện Mùa Đông và Thánh đường<br />
Smolny ở St. Petersburg là công trình của Elizabeth.<br />
Vào ngày 5/1/1762, nữ Hoàng Elizabeth băng hà. Sau khi bà mất, Catherine đệ nhị (II) lên nắm<br />
quyền trị vị nước Nga. Nước Nga dưới sự lãnh đạo của Catherine II đã trở thành một quốc gia hùng<br />
mạnh nhất Âu châu. Bà được dân Nga gọi là Nữ Hoàng Catherine Vĩ đại.<br />
Catherine <strong>The</strong> Great (1729-1762-1796).<br />
Catherine giòng dõi người Đức. Năm 1745 Catherine thành hôn với Peter III, người được thừa kế ngai<br />
vàng nước Nga vào năm 1762. Peter III không có tài và bị ngự vệ quân Nga lật đổ và Catherine được<br />
đưa lên ngôi vào tháng 7 1762. Catherine được sự ủng hộ của giới quý tộc Nga. Bà thực hiện được<br />
nhiều cải cách quan trọng trong văn hóa nghệ thuật. Lãnh thổ Nga cũng được mở rộng, Nga chiếm
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 158<br />
được sự kiểm soát nhiều vùng đất rộng lớn của Balan và Latvi.<br />
Sau khi Catherine II chết, thái tử Paul, con trai Catherine II lên ngôi cầm quyền được 5 năm.<br />
Sau Paul I là Alexander I (1801). Alexander I là người có công trong trận chiến thắng của Nga vào năm<br />
1812 với Napoleon Bonapart. Tác phẩm 1812 Overture của Tchaikovsky đề cao trận chiến thắng đã<br />
được dân Nga xem là một trong những tuyệt tác của Tchaikovsky.<br />
Năm 1894, Nicholas II lên nối ngôi. Sự thất bại trong chính sách đối nội, đối ngoại của<br />
Nicholas đã làm tan rã triều đại Romanov vào năm 1917 và cái chết thảm khốc của toàn gia đình<br />
Nicholas II gồm vợ và năm con, cùng nhân viên trung thành với ông vào ngày 17 tháng 7 năm 1918 do<br />
nhóm Bolsheviks chủ động. Tại nhà thờ Peter và Paul có một phòng thờ riêng cho gia đình Nicholas.<br />
Ông cũng được coi như Thánh hiển linh nhưng không phải do tử vì đạo mà do chịu nhiều khổ nhục.<br />
Như vậy là triều đại Romanov do Mikhail Romanov (1613-1645) mở đầu vào năm 1613 và<br />
chấm dứt vào năm 1917 sau cách mạng tháng Hai.<br />
Biểu tượng Triều đại Nga cổ xưa Biểu tượng Liên bang Nga. Cờ Liên bang Nga<br />
Biểu tượng đại bàng hai đầu.<br />
Đại bàng hai đầu, biểu tượng quyền lực phổ biến ở Byzantine và châu Âu, cũng được dùng làm biểu<br />
tượng của Nga từ thời cổ đại. Năm 1672, quốc hiệu của nhà nước Nga được công bố là đại bàng hai<br />
đầu đội vương miện, hai vuốt giữ quả cầu và cây quyền trượng, ở giữa là hình thánh George tay cầm<br />
giáo mác đang đâm rồng có cánh. Biểu tượng đại bàng hai đầu có thay đổi qua các thế kỷ, bị biến mất<br />
dưới thời Cộng sản và được dùng lại sau khi chế độ Liên bang Xô viết chấm dứt.<br />
Quốc kỳ Liên bang Nga: Quốc kỳ của liên bang Nga hiện đại được biểu hiệu bởi ba dải màu nằm<br />
ngang bằng nhau, màu trắng bên trên, ở giữa là màu xanh và màu đỏ phía dưới.<br />
Vào giai đoạn cuối của Cách mạng tháng Mười năm 1917, Cộng sản Bolshevik dưới sự lãnh<br />
đạo của Vladimir Ilyich <strong>Le</strong>nin đã thành lập nước Nga Liên xô. Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa<br />
Xô viết Nga hay Liên bang Xô Viết cùng với các nước cộng hòa thuộc Liên xô khác dưới sự lãnh đạo<br />
của Đảng Cộng Sản đã chính thức thành lập Liên bang Xô viết ngày 30 tháng 12 năm 1922. Liên bang<br />
Xô viết kéo dài được 89 năm và kết thúc vào năm 1991.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 159<br />
Sau khi <strong>Le</strong>nin chết vào năm 1924, thì Joseph Stalin lên thay thế . Stalin dựng một nền kinh tế<br />
chỉ huy, công nghiệp hóa đất nước, và tập thể hóa nền nông nghiệp. Chính sách của Stalin với những<br />
cuộc đại thanh trừng đã gây cái chết của hàng triệu dân Nga.<br />
Những lãnh tụ của Cộng Sản Xô Viết Nga từ 1922-1991.<br />
Vladimir Iliych <strong>Le</strong>nin Chủ tịch Hội đồng Dân ủy 26 tháng 10, 1917 - 21 tháng 1, 1924<br />
Iosif Vissarionovich<br />
Stalin<br />
Georgi<br />
Maksimilianovich<br />
Malenkov<br />
Nikita Sergeyevich<br />
Khrushchov<br />
<strong>Le</strong>onid Iliych<br />
Brezhnev<br />
Yuri Vladimirovich<br />
Andropov<br />
Konstantin<br />
Ustinovich<br />
Chernenko<br />
Mikhail Sergeyevich<br />
Gorbachov<br />
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô 3 tháng 4, 1922 - 3 tháng 3, 1953<br />
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng 6 tháng 5, 1941 - 5 tháng 3, 1953<br />
Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô 1 tháng 7, 1948 - 14 tháng 3, 1953<br />
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng 5 tháng 3, 1953 - 8 tháng 2, 1955<br />
Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô 7 tháng 9, 1953 - 14 tháng 10, 1964<br />
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng 27 tháng 3, 1958 - 14 tháng 10, 1964<br />
Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô 14 tháng 10, 1964 - 8 tháng 4, 1966<br />
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô 8 tháng 4, 1966 - 10 tháng 11, 1982<br />
Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên<br />
Xô<br />
16 tháng 6, 1977 - 10 tháng 11, 1982<br />
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô 12 tháng 11, 1982 - 9 tháng 2, 1984<br />
Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên<br />
Xô<br />
16 tháng 6, 1983 - 9 tháng 2, 1984<br />
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô 13 tháng 2, 1984 - 10 tháng 3, 1985<br />
Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên<br />
Xô<br />
11 tháng 4, 1984 - 10 tháng 3, 1985<br />
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô 11 tháng 3, 1985 - 24 tháng 8, 1991<br />
Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên<br />
Xô<br />
1 tháng 10, 1988 - 25 tháng 5, 1989<br />
Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô 25 tháng 5, 1989 - 15 tháng 3, 1990<br />
Tổng thống Liên Xô 15 tháng 3, 1990 - 25 tháng 12, 1991<br />
(Cờ Liên bang Nga, biểu tượng và tài liệu danh sách lãnh tụ Liên xô Nga trích từ Wikipedia)<br />
Ngày 31 tháng 12, 1991 lá cờ Xô viết trên đỉnh điện Kremlin được thay thế bằng lá cờ ba<br />
màu của Liên bang Nga. Sau khi Liên Xô tan rã, chức vụ Tổng thống (nguyên thủ quốc gia) được thành<br />
lập. Người được bầu qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 12 tháng 6 1991 là Boris Yeltsin. Yeltsin giữ chức<br />
vụ Tổng thống 8 năm (1991-1999). Tổng thống thứ hai là Vladimir Putin (1999-2008). Tổng thống<br />
đương nhiệm Dmitry Medvedev cầm quyền từ tháng 5 2008 đến hiện tại (tháng 9, 2011).<br />
Tổng thống là chức vụ cao nhất của Nga. Quyền hành pháp được phân chia giữa Tổng thống<br />
và Thủ tướng, người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng đương nhiệm là cựu Tổng thống Vladimir Putin.<br />
Trở lại với chuyến du lịch Moscov
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 160<br />
Moscow có một khu phố trên đường Arbat dành riêng cho khách bộ hành với nhiều “họa sĩ đường phố”<br />
trưng bày tranh.<br />
Đường phố cổ Arbat là một con đuờng dài cỡ 1 cây số (1km) ở tại trung tâm lịch sử của<br />
Moscow; phố này có lẽ có từ thế kỷ 15. Hiện nay phố chỉ dành cho người đi bộ. Phố cổ Arbat có trưng<br />
dọc theo đuờng một tượng điêu khắc một nhà thơ văn nhạc sĩ Nga Bulat Shavolvich Okudzhava<br />
(1924-1997) chuyên viết lời cho nhạc Nga. Okudzhava viết trên hơn 200 bài nhạc là một hỗn hợp của<br />
thơ Nga và dân ca cổ truyền hòa lẫn với bài hát Pháp. Trên phố cổ Arbat có rất nhiều tiệm bán đồ đặc<br />
sản của Nga, thí dụ như loại búp bê gỗ mang tên matryoshka hay còn được gọi là Russian nesting dolls,<br />
một bộ búp bê rỗng bằng gỗ với kích thước nhỏ dần có thể xếp trong nhau. Bộ búp bê gỗ đầu tiên do<br />
Sasily Zvyozdochkin khắc vào năm 1890. Hình vẽ trên bộ búp bê thường là người đàn bà mặc safaran<br />
(một loại jumper của Nga). Hiện nay hình vẽ trên bộ búp bê này có thể một cô gái đẹp hay một chính<br />
trị gia hay lãnh tụ Nga. Một bộ búp bê Nga thường gồm ít nhất là năm lớp và thường là con số lẻ.<br />
Matryoshka có nghĩa little matron, một loại thu nhỏ tên Matryona của một người đàn bà.<br />
Okudzhava Matryoshka<br />
Từ phố cổ Arbat, đoàn được đưa đi xem hệ thống metro nằm dưới mặt đường.<br />
Hệ thống Metro tại Moscov<br />
Những trạm thuộc hệ thống tàu điện ngầm (métro) của Moscov được gọi là “những cung điện xây dưới<br />
lòng đất” với kiến trúc và trang trí rất huy hoàng, đặc trưng của Mỹ thuật Xô-Viết.<br />
Hệ thống xe điện ngầm (metro) của Nga quả thật có một không hai trên toàn thế giới, với một<br />
hệ thống hơn 180 trạm ga, trạm đầu tiên bắt đầu từ năm 1835 và tiếp tục bành trướng cho đến ngày<br />
nay. Hầu hết các trạm ga đều được thiết kế và trang trí vô cùng mỹ thuật do những nhà họa sĩ và điêu<br />
khắc có tiếng của Liên bang Sô Viết vẽ kiểu. Hệ thống metro hiện nay gồm 11 tuyến đường.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 161<br />
Hai trạm tiêu biểu trong nhiều trạm tráng lệ là Smolenskaya, và Kievskaya nằm trên tuyến số 3<br />
Arbatsko-Pokrovskaya màu tím đậm. Trạm Smolenskaya thuộc tuyến số 3 Arbatsko-Pokrovskaya có<br />
một quảng trường với những cột đá cẩm thạch tròn mầu trắng. Tại cuối platform, có một điêu khắc nổi<br />
mang tựa <strong>The</strong> Defenders of Russia trình bày cảnh Hồng quân đang chiến đấu. Ngoài trạm Smolenskaya<br />
trên tuyến số 3 Arbatsko-Pokroskaya này còn có trạm Smolenskaya trên tuyến số 4 Filyovskaya, trạm<br />
này thiết kế với những cột đá vuông.<br />
Cửa vào trạm Kievskaya (Entrance = Vkhot) chung với hai tuyến số 4 Filyovskaya (màu xanh<br />
blue nhạt) và số 5 Koltsevaya (tím nhạt/lavender), trang trí với những tấm tranh bằng đá ghép<br />
(mosaic).<br />
Kievskaya<br />
Một số trạm metro của Moscow có thể xem như là những bảo tàng viện. Tường và trần thấp trang trí<br />
với những hình mosaic miêu tả đời sống dân Nga thời Sô viết. Ánh sáng nhẹ và ấm là từ những đèn<br />
theo lối cổ xưa. Đá cẩm thạch đuợc dùng để xây cất trong hầu hết những trạm metro cổ. Đá cẩm thạch<br />
này đuợc mang đến từ nhiều vùng của Nga Sô viết, đặc biệt đá cẩm thạch đỏ Georgia tại trạm Krasnye<br />
Vorota. Hầu hết những bức họa trong hệ thống metro ngầm đều miêu tả đời sống hay công việc của dân<br />
chúng thời Sô viết như nhân công các nhà máy, chiến sĩ đệ nhị thế chiến, chiến tranh Ái quốc của Sô<br />
viết, nghệ thuật văn hóa, nhạc sĩ, và cả những cảnh như một đám cưới, buổi hòa nhạc, v.v….<br />
Mayakoskaya station Prospekt Mira
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 162<br />
Krasnopresnenskaya Komsomolskaya<br />
(Hình từ WidgetBucks - Trend Watch - WidgetBucks.com)<br />
NGÀY THỨ 04. Thứ Bảy 10 Sept.<br />
Buổi sáng: Thăm Đại Thánh đường Chúa Ki-tô Cứu thế/Cathedral of Christ <strong>The</strong> Savior (Khram<br />
Khrista Spasitelya), biểu tượng của sự phục hồi của Chính Thống-giáo Nga.<br />
Nhà thờ Christ the Savior được hoàng đế Alexander I cho xây bắt đầu từ năm 1812 sau khi đạo quân<br />
của Napoleon rút khỏi Matxcơva. Trải qua nhiều biến cố và nhiều thay đổi cho đến năm 1883 nhà thờ<br />
được chính thức công nhận trong buổi đăng quang của Alexander III ngày 26 tháng 5, 1883. Một năm<br />
trước đó, bản hòa tấu bất hủ 1812 Overture của Tchaikovsky được trình diễn lần đầu tiên ở đó. Thánh<br />
đường bị phá hủy hoàn toàn vào cuối năm 1931 theo lệnh của Stalin. Nhà thờ được chính thức cho<br />
phép xây lại vào đầu năm 1990. Nhà thờ được xem như đã hoàn tất vào mười năm sau, vào tháng tám<br />
năm 2000. Sự trở lại của biểu tượng chiến thắng của lien bang Nga này được cho là chủ yếu nhờ công<br />
của Yury Luzhkov, thị trưởng thành phố Moscow từ năm 1992 cho đến mùa thu 2010.<br />
Christ <strong>The</strong> Savior Thánh đường St. Basil
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 163<br />
Quảng trường Đỏ chụp từ nhà thờ Thánh Basil từ tượng đài Minin & Pozharsky có thương xá Gum bên phải<br />
Thăm Quảng Trường Đỏ Krasnya Ploshchad.<br />
Tòa nhà bắt mắt nhất ngay khi vừa tới Red Square phải là nhà thờ Thánh Basil. Trong hình đứng từ nhà<br />
thờ St Basil (phía nam) chụp thẳng lên hướng bắc đối diện Bảo tàng viện Lịch sử Quốc gia thì thấy:<br />
tháp cao màu trắng là tháp St Nicholas, mà ngay bên phải là tháp Corner Arsenal. Bên giữa là State<br />
History Museum, và bên cạnh là Resurrection gate có cửa hình vòm. Đối diện lăng <strong>Le</strong>nin và bên phía<br />
đông của quảng trường là Thương xá Gum.<br />
Nếu đứng từ phía bắc từ Resurrection Gate cạnh State History Museum chụp xuống phía nam<br />
của Quảng trường đỏ Red Square thì thấy Nhà thờ St Basil ở đằng xa phía bên trái. Chữ “đỏ” của<br />
Quảng trường Đỏ không phải tượng trưng cho cộng sản hay ngay cả bức tường màu đỏ chung quanh<br />
quảng trường, mà chỉ có ý muốn nói về St Basil. Chữ Nga krasnaya có nghĩa là đẹp và cũng có nghĩa là<br />
đỏ, do đó từ ý nghĩa đẹp ám chỉ nhà thờ đã dần dần bị biến chuyển thành một địa danh mang tên Red<br />
Square.<br />
Quảng Trường Đỏ chỉ được gọi như thế từ giữa thế kỷ thứ 17, trước đó thì mang tên Trinity<br />
Square và nhà thờ Basil có tên nhà thờ Trinity (Troitskaya) vì nằm trong Quảng trường Trinity. Thông<br />
dụng hơn với người dân Nga thì quảng trường này mang tên là “quảng trường lửa” để phản ảnh không<br />
biết bao nhiêu lần Moscow đã bị đốt cháy.<br />
Nhà thờ thánh Basil (Vasiliya Sobor) là một nhà thờ Cơ đốc Chính thống, đã được xây dựng<br />
trên Red Square từ năm 1555 đến 1561. Ivan IV của Nga đã ra lệnh cho xây nhà thờ để kỷ niệm chiến<br />
thắng quân Mông cổ. Khởi thủy nhà thờ gồm tám nhà thờ nhỏ bao quanh nhà thờ thứ chín ở giữa. Kiến<br />
trúc nhà thờ có dạng như những ngọn lửa bốc thẳng lên trời không được phỏng theo bất cứ kiến trúc<br />
nào trước đó ở Nga. Nhà thờ Basil được sử dụng như một nhánh của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia<br />
từ năm 1928. Trong thời trị vì của Liên bang Sô Viết, Stalin đã có ý định phá đổ nhà thờ này vì nó là<br />
chướng ngại, cản trở những cuộc duyệt binh trên Red Square. Cũng vì nhờ Kiến trúc sư Pyotr<br />
Baranovsky quyết liệt từ chối phá đổ mà nhà thờ đã được Stalin cho giữ nguyên lại, nhưng Baranovsky<br />
đã phải đánh đổi với cái giá năm năm tù vì trái lệnh.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 164<br />
Nếu đứng từ thánh đuờng St Basil nhìn ra quản trường đỏ thì bên phải là toà tháp cao nhất và<br />
đẹp nhất (Spasskaya Tower), xa hơn một chút là lăng <strong>Le</strong>nin; sau lăng <strong>Le</strong>nin là bức tường Kremlin, và<br />
Senate building (trong thành Kremlin) phía sau bức tường.<br />
Ngay phía trước nhà thờ Thánh Basil xế bên trái có tượng đài Minin và Pozharsky. Xế một chút bên<br />
phải phía trước nhà thờ Thánh Basil thì có khán đài bằng đá hình tròn mang tên Lobnoe Mesto. Đây là<br />
nơi để Hoàng đế và sau này những người lãnh đạo lên tuyên bố trước quần chúng.<br />
Ở cửa bắc của Red Square có tượng đài Thống chế Zhukov, vị anh hùng dân tộc trong cuộc<br />
Chiến tranh Vệ quốc (1941-1945) chống chủ nghĩa Phát-xít Đức. Thống chế Zhulov đã sống sót được<br />
sau cuộc tẩy trừ đẫm máu của Stalin trước đại chiến thế giới thứ hai và trở nên một lãnh đạo của một<br />
trận chiến tranh lớn giữa Nga và Nhật năm 1939, và khi Đức ập vào Moscow năm 1941, Zhulov được<br />
chỉ định phòng giữ Moscov. Tượng cho thấy con ngựa Zhulov cưỡi đang bước lên một con phượng<br />
hoàng tượng trưng cho Đức quốc xã.<br />
Thương xá Gum là một siêu thị của quốc gia, gồm ba dẫy cửa hàng trên ba tầng trong toà dinh<br />
thự này. Gum được xem như là nơi mua sắm của giới giàu có.<br />
Buổi chiều: Thăm khuôn viên của Thành cổ Kremlin. Điện Kremlin vốn là trung tâm quyền lực<br />
của chính phủ Xô Viết ngày xưa và chính phủ Liên bang Nga ngày nay. Nơi đây đã từng là dinh thự<br />
của Sa hoàng Nga, và sau đó là của các đại diện giáo chủ.<br />
Trong thành cổ Kremlin có nhiều thánh đường và dinh thự xây cất từ thế kỷ 15 đến 20 và được<br />
phân chia thành nhiều quảng trường. Đáng kể nhất là hai quảng trường Sobornaya (Cathedral) và<br />
Ivanovskaya. Và trong Kremlin cũng có Viện bảo tàng Orujeinaia Palata, nơi trưng bày kho tàng vô giá<br />
của các triều đại Sa Hoàng.<br />
<strong>The</strong> Archangel Michael Cathedral<br />
Cathedral of <strong>The</strong> Annunciation<br />
Quảng trường thánh đường (Cathedral square) nằm ngay giữa Kremlin thường đón khách vào<br />
qua cửa chính. Mang tên Quảng trường Thánh đường, nơi này có ba Thánh đuờng nổi tiếng của hoàng<br />
tộc Nga, nổi bật với những mái vòm thếp vàng rực rỡ: hai nhà thờ Đức Bà lên Trời (Uspenskii<br />
Sobor/Cathedral of the Assumption) và nhà thờ Đức Tổng lãnh Thiên thần (Arkhangelskii Sobor/<strong>The</strong><br />
Archangel Michael Cathedral) – sự kết hợp tuyệt đẹp của kiến trúc Cổ-điển Nga với kiến trúc Phụchưng<br />
Ý, và nhà thờ Đức Thiên thần Truyền tin (Blagoveshchenskii Sobor/Cathedral of <strong>The</strong><br />
Annunciation). Ngoài ra còn có Nhà thờ của Mười hai Sứ đồ của Cơ đốc (Apostles), và nhà thờ<br />
Deposition of the Robe.<br />
Đại thánh đường Uspenskii (Nhà thờ Đức bà lên trời/Cathedral of the Assumption) là nhà thờ<br />
cổ nhất của Kremlin và cũng quan trọng nhất: chỗ ngồi của Nhà thờ Chính Thống Cơ đốc được chuyển
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 165<br />
từ Vladimir đến đây vào năm 1326. Hoàng đế Nga đuợc lên ngôi ở đây, kể cả trước đó là phong vương<br />
các Sa hoàng và phong chức các nhà quyền quý. Tổng trưởng, lãnh đạo nhà thờ, các bishop cũng được<br />
phong chức tại đây. Trong Thánh đuờng có Patriarch’s Seat, và Ngai vàng của Monomakh khắc chạm<br />
vào năm 1551 cho Ivan the Terrible.<br />
Đại thánh đường Archangel Michael xây cất vào khoảng năm 1505-1508 rất đố sộ và là nơi yên<br />
nghỉ của các Hoàng gia Nga. Tổng số mộ theo tài liệu là 54 nhưng chỉ có 46 mộ được trang hoàng, đây<br />
là mộ của tất cả các lãnh đạo trị vì Muscovy và Nga từ thế kỷ 14 cho đến khi Peter the Great chuyển<br />
thủ đô sang St. Petersburg.<br />
Ngay cạnh quảng trường Thánh đường là Ivanovskaya Square. Quảng trường này có chứa Tháp<br />
Chuông Ivan the Great. Đây cũng là nơi mà chính quyền thông báo tin tức cho dân chúng. Gần Tháp<br />
Chuông vua Ivan (Ivan <strong>The</strong> Great Bell tower) có Chuông Sa hoàng (Tsar Bell), một quả chuông đồng<br />
nặng 200 tấn lớn nhất Châu Âu.<br />
Dormition Cathedral Tháp chuông Ivan <strong>The</strong> Great Chuông Sa hoàng<br />
NGÀY THỨ 05: Chủ Nhật 11 September<br />
Sau khi thăm Viện bảo tàng Tretiakov-Mới, nơi trữ những tác phẩm đẹp và tiêu biểu nhất của Mỹ thuật<br />
Tạo hình Xô-Viết (1917-1991) như đã nhắc đến trong phần I của bài viết, đoàn được đưa đi thăm<br />
Nghĩa trang nằm trong Tu viện cổ Novodevitchy (Nobodevichy cemetery), nơi an nghỉ của các nhà<br />
hoạt động chính trị, các triết gia và văn nghệ sĩ nổi tiếng.<br />
Nhiều sách du lịch viết về những nghĩa trang nổi tiếng của một thành phố, và nhiều tour du lịch đã bao<br />
gồm cả thăm viếng nghĩa trang vào lộ trình. Thí dụ khi đi Paris thì có nghĩa trang Montparnasse và<br />
Père La Chaise, và đi Moscow thì ghé thăm nghĩa trang tại tu viện Novodevichy.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 166<br />
Mộ Shostakovich với mô hình D-E♭-C-B của ông<br />
Nikita Khrushchev<br />
Tu viện Novodevichy được Sa hoàng Vasilly III (1479-1533) cho xây cất để kỷ niệm chiếm<br />
đuợc Smolenski từ Lithuana. Khởi đầu tu viện xây với mục đích tôn giáo và cũng là thành trì bảo vệ<br />
với bức tường cao gồm 12 tòa tháp chiến đấu. Sau đó tu viện được dùng như một nơi để giam giữ<br />
những hoàng tộc nổi loạn chống lại Sa hoàng đương thời cai trị kể cả những kẻ thất sủng như người chị<br />
khác mẹ của Peter Đại đế (Sophia Alekseyevna), và người vợ đầu của ông (Eudoxia Lopukhina). Tu<br />
viện đóng một thời gian, dùng làm bảo tàng một thời gian, rồi được trao trở lại cho Cơ đốc thống giáo<br />
Nga. Hiện tại chính thức là một bảo tàng viện tuy vẫn có một phần do nữ tu đảm trách cho tu viện.<br />
Trong toàn khu vực tu viện có nhiều nhà thờ, quan trọng nhất là nhà thờ Cathedral of the Virgin of<br />
Smolensk nhìn tương tự như nhà thờ Annunciation của điện Kremlin., trong nhà thờ có bình phong<br />
tượng thánh với 84 cột gỗ cổ từ thế kỷ 16 và 17. Phía trong bức tường tu viện có một số mộ như mộ<br />
Sergey Solovyov, và Alexei Brusilov. Vào năm 1898, Nghĩa địa Novodevichy nằm cạnh tu viện<br />
Novodevichy được xây cất ở phía ngoài bức tường. Đây là nơi chôn cất rất nhiều nhân vật tên tuổi của<br />
Nga từ lãnh tụ chính trị, nhà thơ, nhà văn, nhà sạn nhạc, khoa học gia, kịch nghệ, tài tử, v.v…<br />
Tên tuổi một số danh nhân Nga đuợc chôn ở nghĩa trang Novodevichy:<br />
Nadezhda Alliluyeva-Stalin, (1902–1932), vợ thứ hai của Josef Stalin<br />
Raisa Gorbachev, (1932–1999), vợ Gorbachev<br />
Mikhail Bulgakov, (1881–1940), kịch gia<br />
Nikolai Gogol, (1809–1852), văn hào<br />
Anton Chekhov, (1860–1904), văn hào<br />
Nikita Khrushchev, (1894–1971), lãnh tụ chính trị<br />
Sergei Prokofiev, (1891–1953), nhà soạn nhạc<br />
Dmitri Shostakovich, (1906–1975), nhà soạn nhạc<br />
Boris Yeltsin (1931-2007), lãnh tụ chính trị.<br />
Galina Ulanova (1910-1998), vũ công Ballet<br />
Vladimir Mayakovsky, văn sĩ<br />
Aleksandr Skryabin, nhà soạn nhạc<br />
Andrei Tupolev, nhà vẽ kiểu máy bay<br />
Gần bên là hồ Novodevichy với cảnh trí rất thơ mộng. Một tòa tháp gần bên với cột tám cạnh và<br />
có 6 tầng tháp cao 72 m trông rất đẹp.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 167<br />
NGÀY THỨ 06: Thứ Hai 12 September<br />
Buổi sáng: Rời Maxcơva để đi Veliky Novgorod. Trên đường vào buổi trưa: Ghé thị trấn Klin để<br />
thăm Nhà bảo tàng Tchaikovsky, nơi nhà soạn nhạc thiên tài của thời kỳ Lãng-mạn Nga (thế kỷ thứ 19)<br />
sống và sáng tác trong những tháng cuối đời của ông (**).<br />
Đến Novgorod vào buổi chiều. Novgorod, cách Moscow khoảng 490 km (hơn 300 miles) và<br />
cách St. Petersburg khoảng 200 km (cỡ 130 miles). Novgorod là một thành phố cổ xây dựng dọc theo<br />
bờ sông Volkhov, và là một trong những Quận Quốc của nước Nga phân liệt thời Trung-cổ. ■<br />
(…còn tiếp…)<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
02 February 2012<br />
Ghi chú:<br />
Mời đọc (*) bài viết về Liên Bang Nga phần I, và (**) Tchaikovsky trong số <strong>Firmament</strong><br />
January, 2012, Thế Hữu Văn Đàn.<br />
Hình ảnh thuộc bộ hình riêng của người viết ngoại trừ hình biểu tượng, và những tấm hình trạm<br />
metro.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 168<br />
NghŒ ThuÆt C¡m Hoa Ikebana<br />
Cûa NgÜ©i NhÆt<br />
Minh Thu sưu tầm và biên soạn sau chuyến viễn du Nhật Bản.<br />
Như nhận xét thông thường của những người (không phải là nguời Nhật) thích thưởng hoa và mua hoa<br />
về trưng, thì nói chung họ nghĩ là chỉ cần cắm vào chiếc bình hoa những bông hoa cùng với các cành,<br />
cuống, và lá sao cho cân xứng là nghệ thuật rồi.<br />
Đối với người Nhật cắm hoa không chỉ đơn giản như thế. Nghệ thuật cắm hoa của xứ Phù Tang,<br />
gọi là Ikebana, tuy phức tạp nhưng mang nhiều ý nghĩa và có nhiều trường phái. Nghệ thuật này còn<br />
được gọi la Hoa đạo bắt nguồn từ nghi lễ dâng hoa trong các chùa chiền từ thế kỷ thứ 6 rồi phát triền<br />
lần hồi thành một nghệ thuật vào thế kỷ thứ 15 với nhiều nghi thức và trường phái khác nhau.<br />
Các trường phái cắm hoa của Nhật.<br />
Những trường phái cắm hoa được ưa chuộng nhất gồm có Ikenobo, Sogetsu và Ohara. Ngoài ra, có<br />
những lối cắm hoa khác tùy theo các lớp dậy cắm hoa khác nhau, và tùy thuộc vào hoa, lá, cuống và<br />
cành cùng loại bình cắm hoa.<br />
Ikenobo là trường phái Ikebana cổ nhất do tu sĩ Phật giáo Ikenobo Senkei sáng lập hồi thế kỷ<br />
thứ 15. Sư ông được cho là nhà sáng tạo ra lối cắm hoa rikka (Hình 1) tức là lối cắm hoa thẳng đứng.<br />
Hình 1.- Lối cắm hoa kiểu Rikka, của trường Sen’nei Ikenobo.<br />
Nguồn: Wikipedia.<br />
Kiểu cắm hoa này được phát triển như một sự biểu tỏ của Phật giáo về cái đẹp của thiên nhiên, với bẩy<br />
cành tượng trưng cho những núi đồi, suối nước, thung lũng v… v... được sắp xếp tỉ mỉ. Kiểu này phản<br />
ánh sự phô bầy tuyệt vời của thiên nhiên qua cách dùng hoa, lá, cành v… v… chẳng hạn những cành<br />
thông tượng trưng cho đá và sỏi, hoa cúc trắng tượng trưng cho một dòng sông hay một dòng suối nhỏ.<br />
Kiểu Rikka đã trở nên được ưa thích vào hồi thế kỷ thứ 17 và được trưng vào những ngày quốc lễ hay<br />
vào các dịp lễ hội.<br />
Kiểu cắm hoa này được giới tu sĩ Phật giáo và giới quý tộc càng ngày càng coi như kiểu cách<br />
cầu kỳ, nhiêu khê dùng trong các lễ nghi; cho đến cuối thế kỷ thứ 17, giới con buôn lớn mạnh, đã phát<br />
triển lối cắm hoa giản dị hơn gọi là seika hay shoka (Hình 2).
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 169<br />
Hình 2.- Lối cắm hoa kiểu Shoka của trường Ikenobo. Nguồn: Wikipedia.<br />
Kiểu Shoka chỉ dùng ba cành chính, được gọi là ten (thiên), chi (địa) và jin (nhân), được cắm<br />
để thể hiện vẻ đẹp của chính cành hoa.<br />
Ông Sen’nei Ikenobo, đương kim Hiệu trưởng của trường mang tên ông, thì thuộc thế hệ thứ<br />
45 của dòng họ Ikenobo. Trường này được đặt trong đền Rokkakudo ở Kyoto và đuợc cho là đã do<br />
Hoàng tử Shotoku sáng lập.<br />
Trường cắm hoa đầu tiên thuộc trường phái hiện đại Ohara đã đuợc thành lập khi Ohara<br />
Unshin tách ra khỏi trường phái Ikenobo vào cuối thế kỷ thứ 19 giữa triều đại Meiji. Nói chung trường<br />
phái Ohara xếp đặt những cành lá thẳng đứng gọi là kiểu cắm hoa Moribana cơ bản (Hình 3), trong<br />
chiếc bình thấp. Trường phái này đã khởi đầu vào thời điểm văn hóa phương Tây có ảnh hưởng mạnh<br />
đối với Nhật bản, và kiểu cắm hoa Moribana đã xử dụng nhiều những loại hoa Tây phương, nhưng vẫn<br />
còn được coi là kiểu cắm hoa cầu kỳ.<br />
Hình 3.- Kiểu cắm hoa Moribana, với đĩa đựng hoa thấp. Nguồn: Wikipedia.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 170<br />
Trường phái Sogetsu thì xử dụng một loạt Kakei (kiểu mẫu) cho mỗi lối cắm hoa ngõ hầu cho ngay cả<br />
những người mới học cắm cũng có thể mau chóng sáng tạo ra những cách cắm hoa của riêng mình.<br />
Trường phái này, do Teshigahara Sofu sáng lập vào năm 1927, thì dậy môn zen-eibana tức là môn<br />
Ikebana cấp tiến và đã du nhập đủ mọi loại vật liệu mới như pờ-lát-tích, vôi vữa và thép.<br />
Shushi là ba cành chính – shin cành chính, soe cành thứ và hikae cành dung hòa được vẽ họa<br />
trong một giản đồ gọi là Kakeisu trong hình dưới đây: (Hình 4)<br />
Hình 4.- Giản đồ Kakeisu với những kiểu mẫu cho lối cắm hoa cho thấy mặt tiền của tác phẩm. Nguồn:<br />
Wikipedia.<br />
Dựa theo giản đồ này thì nói chung cách cắm hoa của Nhật gồm ba nhóm hoa hay cành, lá xếp<br />
đặt theo hình tam giác. Nhóm chính ở giữa, thẳng đứng, nhóm thứ nhì nghiêng về một bên so với nhóm<br />
chính và nhóm thứ ba ngược lại, nghiêng về phía đối nghịch với nhóm thứ nhì. Ngoài ra, ba đuờng nét<br />
chính trong bình hoa hay lẵng hoa là tượng trưng cho Trời, Đất, Người (Thiên, Địa, Nhân). Cách cắm<br />
hoa Ikebana đã được chính cấu trúc này tạo ra. Cành hoa tượng trưng cho (Shin) Trời (Thiên) mang<br />
nét quan trọng nhất vì là trung tâm đạo của bình hoa hay lẵng hoa, nên người ta phải chọn cành hoa nào<br />
mạnh nhất giữ vai trò này. Sau cành chính là cành thứ (Soe) đại diện cho Người (Nhân), cành này phải<br />
đuợc xếp đặt sao cho diễn tả đuợc đường hướng phát triển bung ra từ trung tâm đạo. Cành thứ ba<br />
(Hikae) tượng trưng cho Đất (Địa) là cành ngắn nhất, được đặt xoay về phía trước hoặc hơi đối nghịch<br />
với phía gốc của hai cành kia. Tất cả ba phần dều được cột chặt vào môt cái chốt bằng thép gọi là<br />
Kenzan. Sau đó các bông hoa khác mới được cắm thêm vào mỗi phần, nhưng cách bố cục khéo léo của<br />
ba phần chính ghi trên đây được coi là có tính cách quan trọng. Nhưng rồi ảnh hưởng của những phong<br />
trào nghệ thuật của hồi đầu thế kỷ 20 đã đưa đến lối cắm hoa tự do gọi là Jiyuka. Nhưng dù có những<br />
thay đổi này thì tựu chung Ikebana vẫn chỉ thuộc về giới thượng lưu.<br />
Trường phái Sogetsu dựa vào ý niệm rằng bất cứ ai, ở bất cư nơi nào, và vào thời điểm nào đi<br />
nữa đều có thể kiến tạo lối cắm hoa nghệ thuật Ikebana bằng bất cứ loại vật liệu nào họ bất ngờ tìm<br />
được chứ không nhất thiết phải tìm đúng những loại hoa lá cố định. (Hình 5).
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 171<br />
Hình 5.- Lối cắm hoa theo trường phái Sogetsu. Nguồn: Wikipedia<br />
Ý nghĩa của nghệ thuật cắm hoa Ikebana.<br />
Ikebana được lập ra để tiêu biểu cho một số quan niệm triết học của đạo Phật ở Nhật. Nhưng qua thời<br />
gian, ý niệm riêng của người Nhật đã làm cho nghệ thuật cắm hoa cầu kỳ này mất dần ý nghĩa tôn giáo<br />
và thay vào đó là sự chú trọng vào đặc tính thiên nhiên trong cách cắm hoa.<br />
Nghê thuật cắm hoa của người Nhật nhất thiết phải biểu hiện được thời gian, tháng, mùa cũng như sự<br />
tăng trưởng liên tục của vật liệu sử dụng. Vì thế khi muốn thể hiện quá khứ thì dùng hoa nở hết, trái<br />
cây khô hay lá cây khô. Về hiện tại thì dùng hoa nở nửa chừng hay lá cây hoàn hảo. Về tương lai thì<br />
dùng nụ hoa, nụ lá hầu hứa hẹn sự tăng trưởng sắp tới.<br />
Về các mùa thì mùa Xuân cách xếp đặt phải đầy sức sống với các đường cong biểu hiệu sinh<br />
lực. (Hình 6).
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 172<br />
Hình 6.- Bình hoa biểu hiệu mùa Xuân. Hình: Tác giả sưu tầm.<br />
Về mủa Hạ thì bình hoa phải cho thấy được tỏa rộng và chan hòa. (Hình 7).<br />
Hình 7.- Bình hoa biểu hiệu mùa Hạ . Hình: Tác giả sưu tầm.<br />
Về mùa Thu bình hoa phải được cắm cho mỏng và thưa thớt. (Hình 8).
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 173<br />
Hình 8.- Bình hoa tượng trưng cho mùa Thu. Hình: Tác giả sưu tầm.<br />
Về mùa Đông bình hoa phải đượm vẻ u buồn lắng đọng. (Hình 9).<br />
Hình 9.- Bình hoa tượng trưng cho mùa Đông. Hình: Tác giả sưu tầm.<br />
Ý nghĩa trong phương pháp cắm hoa Ikebana.<br />
Phương pháp cắm hoa phải mang tính cách tượng trưng, mô tả, nhưng một số hình thể của hoa lá lại<br />
phải được phối hợp với phong tục, tập quán và văn hóa. Nhất là nghệ thuật cắm hoa Ikebana thì gắn<br />
liền với đời sống và thiên nhiên. Người phương Tây thường dùng các loại hoa với nhiều mầu sắc, nhiều
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 174<br />
hình dạng vào việc trang trí. Người Nhật thì lại dùng cả lá cây, cành cây cho sự trang hoàng, vì thế họ<br />
không bị giới hạn vào mầu sắc của bông hoa mà còn nghĩ đến vẻ đẹp hình thể của hoa, lá cùng là sự<br />
tăng trưởng của hoa, lá trong thiên nhiên.<br />
Khi cắm hoa nghệ thuật Ikebana người Nhật ưa dùng nụ lá, nụ hoa hơn vì ở trạng thái nụ vẻ đẹp của<br />
cành hoa không bị che khuất, và người thưởng hoa có được niềm vui thú nhìn những nụ này nở ra từ từ,<br />
chậm chạp. Như thế nghệ thuật cắm hoa mang theo ý nghĩa phát triển liên tục của cuộc sống. Nghệ<br />
thuật cắm hoa của người Nhật đặt căn bản trên mầu sắc, đường nét, và sự nhịp nhàng hài hòa dể cố<br />
gắng diễn tả cách tăng trưởng của hoa.<br />
Trong thập niên 1930 và rồi vào hồi hậu chiến sự chú ý vào nghệ thuật Ikebana đã trở nên lan<br />
tràn rộng rãi hơn. Các lớp học cắm hoa nghệ thuật được ồ ạt mở ra thu hút dân chúng thuộc mọi tầng<br />
lớp theo học. Trong thời Mỹ chiếm đóng, nhiều bà vợ các quân nhân Mỹ đã học hỏi nghệ thuật này mà<br />
sau đó đã giúp cho Ikebana lan tràn ra hải ngoại. Ngày nay trong nước Nhật có khoảng 3.000 trường<br />
dậy môn Ikebana và hàng ngàn trường nữa thì ở khắp thế giới. Riêng trường phái Ikenobo có chừng<br />
60.000 giáo viên trên thế giới. Ikebana đuợc vào khoảng 15 triệu người Nhật thực tập cắm hoa, phần<br />
lớn trong số này là nữ giới. ■<br />
Minh Thu<br />
Melbourne, February 2012<br />
Nguồn:<br />
- Ikebana.Wikipedia.<br />
- Japanese Culture – Art. Wikipedia.<br />
- Ikebana - Japanese Flower Arrangement - Ikebana History - Ikebana Pictures. Wikipedia.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 175<br />
Cänh ñËp Paris<br />
Dã Thäo<br />
Như thường lệ, qua bài viết ngắn ngủi nầy, hôm nay Dã Thảo lại giới thiệu đến các bạn ba nơi chốn<br />
khác của thành phố Paris, mà Dã Thảo chắc chắn là các bạn sẽ yêu thích. Cố nhiên, Dã Thảo không dắt<br />
các bạn « đi loanh quoanh cho đời mỏi mệt » như một bài hát nào của anh nhạc sĩ họ Trịnh, chúng ta<br />
chỉ đi gần thôi….Paris thì các bạn đã biết rồi, chả có một nơi nào hay một gốc cạnh nào mà thiếu vắng<br />
sự lãng mạn, từ một quán càphê, một ghế đá công viên, một hàng bán hoa, một trạm métro…là nơi đó<br />
có môi hôn, có tay quàng vai khắn khít, có những giọt nước mắt đưa tiễn, để về sau, mỗi người sẽ ôm<br />
cả một khung trời kỷ niệm cho đời đời nhớ nhau. Ngoài cái khía cạnh gọi là trữ tình đó, du khách sẽ<br />
còn được mục kích, vì như được sống lại với những giai đoạn lịch sử đã sang trang của nước Pháp, với<br />
những di tích của các thời đại huy hoàng cổ đại nhất, lẫn những nhân vật nổi tiếng nhất của ngày qua<br />
và ngày hôm nay..<br />
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài nầy, Dã Thảo không đi lại cái lộ trình mà khách viễn du đến<br />
Paris thường đi, Dã Thảo chỉ muốn giới thiệu với các bạn ba địa điểm rất bình thường, nhưng không<br />
kém phần ngoạn mục, mà cũng chỉ ở ngay trung tâm Paris mà thôi :<br />
<strong>Le</strong>s Buttes De Chaumont<br />
Các bạn đã từng nghe đến tên nầy chưa ? Đó là một đại công viên được khánh thành vào năm 1867,<br />
nằm trên vị trí của những công trường khai thác thạch cao cũ. Những hai mươi lăm hecta của công viên<br />
nầy trình bày nặng theo các cảnh sắc kiểu Anh, từ những lối đi tản bộ cho đến các khóm hoa, cùng các<br />
trang thiết bị dành cho những cuộc giải trí. Đáng nói nhất là cái thác nước với bề cao ba mươi hai<br />
thước, gây chú ý nhất cho các khách nhàn du, đến đây tìm những giây phút tĩnh lặng.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 176
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 177<br />
Quang cảnh từ nơi cao nhất của công viên, cho cặp mắt chúng ta ôm trọn tất cả vùng bắc Paris, và còn<br />
có thể nhìn quá xa hơn khu Montmartre. Những vùng phụ cận của Buttes de Chaumont, còn gây sự<br />
ngạc nhiên, thích thú cho du khách, từ chỗ gọi một « Châu Mỹ nhỏ » (la petite Amérique) đến khu<br />
« Mouzaia », ta tưởng chừng như đang đứng trước những « mảnh thôn quê » đầy màu sắc của hoa và<br />
nồng nặc hương thơm hoang dại. Lúc ấy, các bạn sẽ tự đặt câu hỏi : « có phải là ta vẫn còn đang đứng<br />
giữa trời Paris hay không » ?<br />
Qua các hình ảnh nầy, ắt hẳn là các bạn sẽ đồng ý với Dã Thảo rằng bài giới thiệu nầy không<br />
ngoa, vậy thì xin các bạn hãy ghi nhớ tên nầy vào chương trình du lịch Paris sắp tới của các bạn đi nhé.<br />
Ít ra ngay phố chợ Paris hoa lệ, các bạn cũng sẽ thưởng ngoạn được những giây phút vừa thần tiên, vừa<br />
thanh thoát mùi đồng nội.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 178
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 179<br />
Bây giờ, Dã Thảo xin tiếp tục giới thiệu với các bạn một khám phá thứ hai, không còn cái không khí<br />
luyến lưu hương vị đồng nội với những màu sắc của hoa dại, với những con đường nhỏ quanh co,<br />
những cầu bắt ngang giòng suối chảy, và những cổ thụ trăm năm làm tàng cho những ghế cây xiêu<br />
vẹo. Nhưng đây cũng là một khu phố mà các bạn không thể nào bỏ qua, đó là khu mà những con người<br />
nổi tiếng Paris đã và đang có mặt, điển hình là ông Dominique Strauss Kahn, (nói tắt là DSK), một<br />
gương mặt hàng đầu của F.M.I. (Fonds Monétaire International), người đã gây sóng gió những tháng<br />
vừa qua vang dội cả báo chí thế giới.<br />
<strong>Le</strong> Marais<br />
Vậy thì các bạn hãy nghe Dã Thảo kể về khu phố lừng danh <strong>Le</strong> Marais nầy qua những thời đại…Chúng<br />
ta hãy đi bộ và làm một cuộc sưu tầm về khu phố , thì sẽ nhận ra cái dáng vẻ của nó như là một phố thị<br />
có một lịch sử vô vàn phong phú, với những giáo đường, trong ấy có giáo đường Saint Paul mà vào<br />
thời ấy, là giáo đường to lớn nhất Paris, những dinh thự riêng như dinh thự Sully, cho đến hôm nay vẫn<br />
còn giữ khuôn mẫu gốc của nó, những trung tâm văn hóa Âu Châu, những bảo tàng viện nghệ thuật và<br />
lịch sử, những khuôn sân phía trong rất âm thầm, và những mẫu vườn lặng lẽ, những tiệm buôn rất thời<br />
trang và đầy kinh ngạc cho khách, những quảng trường nhỏ theo kiểu miền nam nước Pháp, với những<br />
con đường rất sống động của nó. Tất cả những thứ ấy đã đóng góp để tạo cho khu <strong>Le</strong> Marais, thành một<br />
trong những khu phố có giá trị thật cao và đông người qua lại nhất Paris.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 180<br />
Đây là cảnh một sân trong nhà của bà Einstein ở khu <strong>Le</strong> Marais.<br />
Khu nầy được đăng ký trong một tam giác được hình thành vừa bởi Toà Thị Chính Paris (Hôtel<br />
de Ville de Paris), quảng trường Bastille (Place de la Bastille) và quảng trường République (Place de la<br />
République). Khu phố Paris của <strong>Le</strong> Marais nằm trong một phần của quận ba và quận tư của thủ đô, trên<br />
cánh hữu ngạn sông Seine.<br />
Đây là một khu phố rất kỳ diệu, ôm trọn những di sản có kiến trúc ngoại lệ. <strong>Le</strong> Marais là nhân<br />
chứng cho lịch sử thành phố Paris với những dân cư của nó. Đặt chân tới đây, các bạn sẽ như lạc vào<br />
một cuộc phiêu lưu đầy cả ngạc nhiên, sửng sốt, về một khu phố rất giàu tương phản, khi thì cho vẻ rất<br />
thanh cao và đường bệ, lúc thì vô cùng linh động và náo nhiệt, hoặc còn là huyền bí và khác thường<br />
nữa.<br />
Muốn đi viếng khu nầy, ít ra các bạn cũng phải dành gần ba tiếng đồng hồ. Ở đây, các bạn sẽ bắt<br />
gặp những tường thành của thời Trung cổ, những dinh thự tư nhân lộng lẫy, những công trình tôn giáo<br />
đa dạng, những con đường hẻm quanh co và những quảng trường nhỏ đẹp như tranh, và cố nhiên,<br />
những dân cư lừng danh của nó. Cuộc viếng thăm nầy sẽ đưa các bạn đi ngang qua nhiều thời đại, và<br />
các bạn có thể chiêm ngưỡng những công trình như :
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 181<br />
Hôtel de Beauvais hiện nay là Toà Thượng Thẩm Hành Chính Paris.<br />
Hôtel Carnavalet (hiện nay là Thư Viện lịch sử thành phố Paris)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 182<br />
Place des Vosges (dinh thự của nhiều nhân vật nổi tiếng)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 183<br />
Hôtel de Sully.<br />
Sau đây là nơi cuối cùng Dã Thảo xin giới thiệu với các bạn :<br />
Château de Vincennes<br />
Được dựng lên từ giữa thế kỷ mười bốn và mười bảy, đúng vị trí của một chòi săn cũ. Quả thực sự đó<br />
là một thành cổ để tăng cường phòng thủ. Cái vọng lâu thành của nó, cao năm mươi hai thước, dự kiến<br />
lúc khởi thủy, dùng làm nơi ở cho gia đình hoàng tộc trong trường hợp nguy cơ. Vọng lâu thành nầy<br />
bao phủ và chế ngự luôn toàn bộ khu rừng xưa cũ Vincennes. Về sau, trở thành nhà ngục quốc gia cho<br />
vài vị « khách mời » nổi tiếng như ông Nicolas Fouquet, trước khi bị vĩnh viễn vứt bỏ bởi Vua Louis<br />
mười bốn để chọn lựa Versailles. Kiến trúc sư Viollet-le-Duc trùng tu lại vọng lâu thành và nhà thờ nhỏ<br />
riêng của nó. Một chiến dịch kêu gọi công tác mới đây, đã làm cho lâu đài Vincennes trở thành một<br />
trong những di tích của thời Trung cổ kỳ diệu nhất cho vùng nầy.<br />
Château de Vincennes là một pháo đài nằm ở phía tây của Paris, trong thị xã Vincennes. Hình<br />
thể hơi nặng nề nầy được dựng lên ở bià rừng cùng tên gọi, và cái vọng lâu thành của nó rất oai vệ vừa<br />
mới được trùng tu với năm mưoi hai thước bề cao, được xem như cao nhất Âu Châu.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 184<br />
Thuở ban đầu (ở thế kỷ mười ba), nó chỉ là một căn nhà nhỏ, dùng vào việc đi săn, rất đơn giản, nhưng<br />
từ thế kỷ mười bốn đến mười bảy, lâu đài nầy đã trở thành nơi cư trú hoàng gia, có tăng cường phòng<br />
thủ đàng hoàng và có thiên hướng bảo vệ trong nhiều thời kỳ, gia quyến của vua cùng toàn bộ các<br />
người phục dịch, cũng như một phần của ban chỉ đạo hành chánh của vương quốc, cùng số quân đội<br />
cần thiết cho việc phòng thủ.<br />
Chỗ cư trú nầy của hoàng gia bị phế bỏ, sau khi Vua Louis mười bốn dọn về Versailles. Nó trở<br />
thành nhà giam quốc gia cho đến năm 1796, là kho trữ vũ khí đạn dược, và rồi về sau, hoàng đế Nã Phá<br />
Luân đệ nhất biến đổi quang cảnh nầy thành một trung tâm quân sự lớn. Hiện nay, Château de<br />
Vincennes thuộc quyền xử dụng vừa là của Bộ Văn Hóa (Ministère de la Culture), vì nó là một công<br />
trình lịch sử (monument historique), cũng vừa là của Bộ Quốc Phòng (Ministère de la Défense) vì lâu<br />
đài nầy cũng là nơi trú cho Cục Lịch Sử Quốc Phòng (Service Historique de la Défense).<br />
Sự Cấu Tạo Château de Vincennes<br />
Lâu đài gồm có một tường dài vây quanh (xây dựng từ thế kỷ mười bốn), kèm bên sườn ba cửa, với lúc<br />
khởi thủy có chín tháp cao từ bốn mươi đến bốn mươi hai thước, xử dụng vừa là nơi cư ngụ và vừa là<br />
những bộ phận phòng vệ. Bảy trong số chín tháp đã được làm lại bởi Napoléon để có thể tiếp nhận<br />
những pháo. Tường vây quanh đó bảo bọc cho một diện tích mênh mông, trong ấy chế ngự bởi tháp<br />
canh, những toà nhà dân sự, hành chính và quân sự, kể cả một nhà thờ nhỏ.<br />
Tháp canh (le donjon) (xây dựng vào thế kỷ 14), được dự kiến dùng làm nơi ở cho các vua nước
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 185<br />
Pháp trong trường hợp nguy cơ. Tự riêng nó, đã là một pháo đài phòng thủ gồm có : những hào nước<br />
bao quanh rộng lớn,(douves), một pháo đài nhỏ (un châtelet) (mà cửa đi vô ra viền quanh bởi hai tháp),<br />
và hai cầu rút (pont levis) để bảo đảm cho sự phòng vệ. Tầng thấp nhất dùng để dự trữ nước và lương<br />
thực. Tầng một và tầng hai tương xứng với những căn hộ hoàng gia. Còn ba tầng thượng khác để tiếp<br />
nhận những gia nhân và binh lính.<br />
Nhà thờ nhỏ (la sainte chapelle) : khởi đầu dưới triều Vua Charles V (ở thế kỷ 14). Việc xây<br />
dựng nhà thờ hoàn tất bởi vua Henri II (thế kỷ 16). <strong>The</strong>o hình dáng và bản đồ của nó, nhà thờ nhỏ nầy<br />
gần giống với nhà thờ của Palais de la Cité, trữ những kính ghép màu và những chi tiết có tính cách<br />
trang trí, công trình nầy hoàn toàn theo dạng gôtic.<br />
Những căn hộ thông thường được liệt vào những xây dựng quan trọng, thực hiện vào thế kỷ<br />
mười bảy theo sự yêu cầu của ông Mazarin, rồi sau đó của Vua Louis XIV. Căn nhà của Vua nằm phía<br />
tay mặt và của Hoàng Hậu nằm ở phía trái, với một sự đối xứng hoàn hảo, tạo thành một tổng thể liên<br />
kết chăt chẽ về phong cách cổ điển, với nhữnh lỗ khoét trong thành lũy phía nam, thành bên rừng biến<br />
đổi thành khải hoàn môn và những hành lang với các cửa vòm.<br />
Sự viếng thăm tháp canh cũng rất lý thú. Dù ở bên trong trống rỗng, không có đồ đạc, nhưng nó<br />
cũng sẽ gợi lên trong lòng người khách ít nhiều thương cảm, khi chợt nghĩ tới cách sống của những gia<br />
đình hoàng gia đã từng một thời lưu lại trong ấy. ■<br />
Dã-Thảo – Paris (8/3/2012)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 186
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 187<br />
Tình Cûa CÕ<br />
Dã Thäo<br />
Ra m¡t låi cùng các Çc giä
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 188<br />
MÜa Trong VÜ©n Nhà Em<br />
Mưa trong vườn nhà Em hay mưa trong Anh ?<br />
Giọt buồn nào đơn lẻ chợt vỡ long lanh<br />
Tí tách rơi từng hạt, trên bờ thềm hoang vắng<br />
Cành trơ xương khóc mướt, mưa gió chạy quanh<br />
Mưa trong vườn nhà Jeannine hay mưa trong Anh ?<br />
Bài hát tình đầy uẩn khúc, nhạc êm xanh<br />
Ôm Em, Anh hôn nhẹ, giọt rơi ngoài ngõ<br />
Bao giờ cho nắng đến, hong ấm tim Anh ?<br />
Mưa trong vườn nhà Em hay mưa trong Anh ?<br />
Hai đứa hôn nhau, để mặc gió mưa quanh<br />
Bắt Em ngồi xuống, ôm chặt Em, Anh hát<br />
Chuyện tình mình tuyệt đẹp, tình ôi mong manh<br />
Mưa trong vườn nhà Jeannine, hay mưa trong Anh ?<br />
Bản nhạc tình vưà dứt, tình cũng hết xanh<br />
Nụ hôn chưa xóa hết hương thơm ân ái<br />
Tình cũng đã xa vời, mưa vẫn khóc Anh…..■<br />
Dã-Thảo / TÌNH CỦA CỎ<br />
(Viết sau khi Dế đã làm bài Mưa trong vườn nhà cô Jeannine) – 9/12/1986<br />
Thª Dài<br />
Sao cứ hỏi vì sao ta buồn bã ?<br />
Vì cuộc sống ? Vì tâm hồn già nua ?<br />
Vì chuyện đời ? Vì thế sự ganh đua ?<br />
Hay đang chết giữa trần gian cuốn xoáy ?<br />
Ta chẳng biết nhưng lòng ta chán ngấy<br />
Ta mãi sầu với tình cảm mông mênh<br />
Chưa kịp vui thì nước mắt chảy quanh<br />
Ta vẫn khóc những đêm dài cô quạnh<br />
Chuyện lứa đôi cũng một đời ghẻ lạnh<br />
Tình có buồn ta đã sống bao năm<br />
Quen dần rồi những u uẩn xa xăm<br />
Ta vẫn sống với thiên đường hoang vắngl ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 189<br />
Dã-Thảo / TÌNH CỦA CỎ<br />
PARIS (5/2/1987)<br />
VÜ©n Hoang<br />
Một khoảng trời buồn vẫn cách xa<br />
Thu phong cây lá đã nhạt nhoà<br />
Lạnh theo từng bước tìm Đông đến<br />
Tuyết băng nào tới với MI – TA<br />
Vườn lòng nhà MI lá còn xanh ?<br />
Vườn TA vàng đổ lá chẳng đành<br />
Vui buồn vá víu theo năm tháng<br />
Thở dài đâu đó tiếc loanh quoanh<br />
Một ít tâm tình gửi cuối năm<br />
Chúc bạn vun thêm khoảng « đất thầm »<br />
Vườn lòng năm cũ tươi thêm sắc<br />
TA xin liếc nhẹ, chớ bận tâm. ■<br />
Dã-Thảo / TÌNH CỦA CỎ<br />
(Tặng Kim Min – 10/12/1987)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 190<br />
Fables<br />
Æsop (Sixth century B.C.)<br />
A NEW TRANSLATION BY<br />
S. VERNON JONES<br />
<strong>The</strong> Kingdom of the Lion<br />
THE BEASTS of the field and forest had a Lion as their king. He was neither wrathful, cruel, nor<br />
tyrannical, but just and gentle as a king could be. During his reign he made a royal proclamation for a<br />
general assembly of all the birds and beasts, and drew up conditions for a universal league, in which the<br />
Wolf and the Lamb, the Panther and the Kid, the Tiger and the Stag, the Dog and the Hare, should live<br />
together in perfect peace and amity. <strong>The</strong> Hare said, "Oh, how I have longed to see this day, in which the<br />
weak shall take their place with impunity by the side of the strong." And after the Hare said this, he ran<br />
for his life. ■<br />
<strong>The</strong> Wolf and the Crane<br />
A WOLF who had a bone stuck in his throat hired a Crane, for a large sum, to put her head into his<br />
mouth and draw out the bone. When the Crane had extracted the bone and demanded the promised<br />
payment, the Wolf, grinning and grinding his teeth, exclaimed: "Why, you have surely already had a<br />
sufficient recompense, in having been permitted to draw out your head in safety from the mouth and<br />
jaws of a wolf." In serving the wicked, expect no reward, and be thankful if you escape injury for your<br />
pains. ■<br />
<strong>The</strong> Fisherman Piping<br />
A FISHERMAN skilled in music took his flute and his nets to the seashore. Standing on a projecting<br />
rock, he played several tunes in the hope that the fish, attracted by his melody, would of their own<br />
accord dance into his net, which he had placed below. At last, having long waited in vain, he laid aside<br />
his flute, and casting his net into the sea, made an excellent haul of fish. When he saw them leaping<br />
about in the net upon the rock he said: "O you most perverse creatures, when I piped you would not<br />
dance, but now that I have ceased you do so merrily." ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 191<br />
Fire and Ice: Robert Frost and Cosmology<br />
( continued)<br />
By Thomas D. <strong>Le</strong><br />
Note: <strong>The</strong> first installment of this article appeared in <strong>Firmament</strong> October 2011, the second in<br />
<strong>Firmament</strong> January 2012. <strong>The</strong>y are available respectively from:<br />
and<br />
http://thehuuvandan.org/firmamentoctober2011.pdf<br />
http://thehuuvandan.org/firmamentjanuary2012.pdf<br />
<strong>The</strong> German School of Geopolitik<br />
Despite what might be suggested by the heading, this study is not about politics but about how<br />
history shows that desire dominates the behavior of human communities equipped with any<br />
organizational skills. <strong>The</strong> idea that history is unintelligible without an elementary knowledge of<br />
geography need not be emphasized, nor need the relation between geography and history be<br />
demonstrated. A reader of history does not fail to notice how geography determines, at least in part, a<br />
state's economy and underlie its policies of war and peace. Vast historical overland movements of<br />
peoples for peaceful or aggressive purposes could easily be seen to correlate with geographical<br />
imperatives. <strong>The</strong> powerful sweeps of Mongolian hordes out of their homeland would not have carried<br />
them to the gates of Europe without the flat steppes dotted with fertile river-bred oases that enabled<br />
men riding horses sufficient sustenance and shelter over long distances with few hindrances. Even<br />
water, of which seventy percent of the earth's surface is covered, was eventually put to use by mankind<br />
to reach unknown destinations and establish outposts that ensured control of the resources of the land<br />
on the coast and beyond. Thus, the relatively new concept of Geopolitics or Geopolitik should be<br />
broadened to encompass human history although for the better part of history, systematic strategic<br />
thinking was constrained by knowledge of the land and command of communication and weapons<br />
technology. This study briefly examines the works of various geographers and historians who tried to<br />
demonstrate the role played on a grand scale by geography in the making of history, and in the process<br />
hopes to show that behind all the strategic thoughts lie, among other emotions, the powerful motivators<br />
which are desire and hate.<br />
Because German Geopolitik owes its origin so much to a number of geographers, historians,<br />
and geostrategists, it is appropriate to preface a discussion of Geopolitik with a brief survey of these<br />
scholars. We will see how their ideas were borrowed and practiced by the Germans during both world<br />
wars.<br />
<strong>The</strong> <strong>The</strong>ory of the Heartland<br />
Among the first students of the relations between history and geography, Halford J. Mackinder (1861-<br />
1947), English geographer, was Reader in Geography at the University of Oxford (1887), one of the<br />
founders of the Geographical Association (1893), for which he served as President from 1916, and of<br />
the London School of Economics (1895). After helping to create the School of Geography at Oxford,<br />
he led the first-ever expedition to climb Mount Kenya. Among his early publications, Britain and the<br />
British Seas (1902) became a classic in regional geography. From 1903-1908 he became Director of
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 192<br />
the London School of Economics. Failing to obtain a chair at Oxford, Mackinder entered politics and<br />
was elected Member of Parliament in 1910. More than any other geographers Mackinder was<br />
responsible for establishing geography as a separate discipline at the university, and was regarded as<br />
the father of geopolitics and geostrategy. Some German adherents of Geopolitik, such as Karl<br />
Haushofer during the Third Reich, derived their strategic ideas from Mackinder's seminal theory.<br />
Two of his publications are briefly reviewed here for their relevance to the broader scope and<br />
purpose of this work. <strong>The</strong> first one is a speech pronounced in 1904 before the Royal Geographical<br />
Society titled “<strong>The</strong> Geographical Pivot of History,” and published by the Society, in which he<br />
introduced the <strong>The</strong>ory of the Heartland, which was to play an influential role in the foreign policies of<br />
world powers and was studied and discussed among academic geographers and foreign policy experts.<br />
Though he never used the term geopolitics, the paper is widely acknowledged as among the first<br />
formulations that established geopolitics as a field of study. It met with great interest among<br />
geographers, historians, and students of geopolitics.<br />
<strong>The</strong> second, a 1919 book titled Democratic Ideals and Reality, is a broad analysis of history in<br />
light of geography, building upon the ideas put forth in the preceding 1904 address. Using the events of<br />
past history and more recently of the First World War, Mackinder offered a general discussion of the<br />
world's history shaped by geographic reality. He expanded the theory of the Heartland, which he first<br />
proposed in his 1904 speech, and attempted some policy prescriptions intended to foster world peace.<br />
As a geographer, Mackinder analyzed history from the landman's point of view as well as the seaman's,<br />
and saw that the problem facing the world after the Great War lies in East Europe between the German<br />
and the Slav, one that he urged permanent resolution by maintaining mutual independence and balance<br />
between them, lest ambition and rivalry might reignite in future and result in further conflict. Using the<br />
analogy of a Roman general in his triumphal march through the city who had a slave whispering in his<br />
ear that he was mortal, Mackinder (1919) counseled wisdom in dealing with the defeated Germany by<br />
having a cherub whisper into the ears of the victorious statesmen at the peace conference the nowfamous<br />
quote (here separated out for emphasis):<br />
“Who rules East Europe commands the Heartland; who rules the Heartland commands the<br />
World Island; who rules the World Island commands the World.” (p. 194)<br />
This very quote was used in the United States World War II propaganda film <strong>The</strong> Nazis Strike<br />
without attribution but with the obvious reference to the Third Reich's territorial ambitions. This<br />
warning implied that a future conflict might just well be over control of East Europe, i.e., primarily the<br />
land of the Slavs, whom, according to Mackinder, the Greeks had converted to Orthodox Christianity.<br />
In fact, the German-Slav conflict is a historical fact of migration and settlement dating back to the<br />
Middle Ages and continuing into the twentieth century.<br />
East Europe was defined by Mackinder as that part of Europe, which contains both Berlin and<br />
Vienna, lying east of a line drawn from the North Sea to the Adriatic Sea to a line extending from St.<br />
Petersburg to Kazan on the bend of the Volga, following the river course as it turns south on its way to<br />
the Caspian Sea and continuing on to the Black Sea. Most Russians were concentrated in this area.<br />
Beyond the St. Petersburg-Kazan line lies North Russia and its forests, sparsely populated by hardy<br />
independent forest dwellers, and hence during the Civil War beyond the reach of the Bolsheviks, whose<br />
strength derived from the masses of peasants settled farther south. Western powers preferred North<br />
Russia for its accessibility by sea through Murmansk and Archangelsk, by way of which men and<br />
equipment could easily be brought in and out. <strong>The</strong> Slav territory, whose western borders touch sizable<br />
German settlements in Prussia and Austria as well as scattered from the Baltic to the Black Sea, was to<br />
be a temptation for the expansionist designs of the Germans, whom the Romans had civilized and<br />
converted to the Roman Catholic faith.<br />
It is not true that Germans coveted the land to the east only in recent times. By 1000 BC
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 193<br />
Germanic tribes had begun migrating southward and westward from Scandinavia and Denmark and<br />
neighboring Baltic lands. <strong>The</strong>y pushed the Celts west to the Rhine by 200 BC, reaching Roman Gaul<br />
by 100 BC. Another wave swept eastward to the coast of the Baltic Sea between 600 and 300 BC.<br />
During the first phase of the Migration Period (or Barbarian Invasions) between 300-500 AD the<br />
Germanic tribes reached the Western Roman Empire. <strong>The</strong> Visigoths had fought the Huns and pillaged<br />
Rome by 410 AD and settled in Iberia; they were followed by the Ostrogoths, who settled in Italy. <strong>The</strong><br />
Franks entered Gaul and had to fight the Alemanni, Visigoths and Burgundians, all of Germanic stock.<br />
During the second phase, 500-700 AD, the Slavic tribes settled in Central and Eastern Europe.<br />
Migrations or invasions continued in the Middle Ages. <strong>The</strong> German settlement in the east (known as<br />
Ostsiedlung) started in the Middle Ages, when Wendish (West Slavs) had already been established in<br />
the same land. <strong>The</strong> interpenetration of cultures and languages in contact further complicates the picture<br />
so that notions of race are but romanticization rather than biological fact.<br />
<strong>The</strong> construction of a history of any ethnicity, the Germans, the Slavs, and so on, rests on<br />
archaelogical, historiographical, and linguistic evidence, none of which suffices independently of the<br />
others. In the eighteenth and nineteenth centuries, with nationalism on the rise, scholars tend to view<br />
the history of their own country in more favorable light than that of others, with the result that their<br />
narratives and theories were too politicized to be reliable.<br />
Mackinder's 1919 book expounds a British geographer's view of his seafaring nation, who<br />
through control of the seas held a vast global empire while keeping all land powers at bay because<br />
Britain's rule of the waters, supported by a strong home base, and small strategically placed land-based<br />
military contingents along the oceans' edges and in insular stations, could be quickly brought to bear<br />
from one base to another, to deny other European powers the use of the high seas as they saw fit. <strong>The</strong><br />
navies of the world used the oceans by the sufferance of the British navy. He called the Indian Ocean a<br />
'closed sea', as it was effectively controlled by the British, not so much by their troops in northwest<br />
India as by a far-reaching navy tethered to the home base. In contrast, the Mediterranean was a Roman<br />
lake, controlled not by a navy but by their <strong>Le</strong>gions. Britain's sea power was remarkable in that it owed<br />
its sustenance to a home base consisting of a modest-sized fertile central plain endowed with iron and<br />
coal, the basic ingredients of the muscle behind her mighty fleet, which equaled the next top three<br />
navies of the world. It was a home base consisting of one people united under a parliamentarian<br />
monarchy, and a strong trading economy, controlled from a single great financial hub and commercial<br />
port of London, and virtually immune from foreign meddling since the Norman invasion. From this<br />
insular base Britain was able to withstand over the past three hundred years four separate attempts to<br />
destroy her sea power by the continental, which Mackinder called “peninsular,” powers of Spain,<br />
Holland, and France, converting the opposite continental coastline into an impregnable boundary for<br />
herself. As we know it, Hitler too failed to invade England as did Napoleon before him. This<br />
privileged and secure position behind the Channel and other seas must have given rise to envy from<br />
other continental sea powers, who were vulnerable to attacks by land. However, after World War I<br />
reality would be different. In the contest between the sea power of Britain and the land power of<br />
Germany, Britain and her ally France prevailed. After surveying past history when large peninsular<br />
bases were able to conquer insular bases, Mackinder warned against complacency and total reliance on<br />
sea power although thus far Britain's impressive empire had been built on sea power, and that in spite<br />
of the fact that the Great War, which started as a conflict between land powers, demonstrated the<br />
decisive application of sea power. <strong>The</strong> same could be said, in retrospect, of the Second World War.<br />
To Mackinder the continuous extent of Europe, Asia and Africa makes up the largest land mass<br />
of the world, but in fact is an island, which he called 'World Island' although no one had<br />
circumnavigated it because of the Arctic icecap. In the north center of the World Island lies the
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 194<br />
generally flat Heartland or Northern Heartland, bounded by the Volga, the Arctic Ocean, and extending<br />
from Siberia to Arabia and the coast of Baluchistan (now in Pakistan) on the Arabian Sea, an area<br />
encompassing half of Asia and a quarter of Europe. This vast Eurasian land mass is drained by a<br />
myriad large and small rivers that do not reach any navigable oceans: <strong>The</strong> great rivers <strong>Le</strong>na, Obi and<br />
Yenisei empty in the frozen Arctic Ocean while the Volga and rivers of the Urals feed into the salt<br />
Caspian Sea, and the Oxus, the Jaxartes into the salt Sea of Aral. <strong>The</strong> Heartland with its tundras,<br />
steppes, taiga, permafrost, deserts, forests, rivers, lakes, plateaus, was thus defined by drainage alone.<br />
Until Mackinder's time, most of the Heartland was sparsely settled, traversed by nomads and their<br />
cattle and sheep, and largely uncultivated, i.e., was still awaiting development. But it held great<br />
promises of economic expansion when its immense untapped resources would be exploited for<br />
agriculture and industry. Today we know that Russia with its vast Siberia is rich in valuable minerals,<br />
such as gold, diamond, nickel, silver, coal, lead, molybdenum, oil, natural gas, and timber. Protected<br />
from the oceans, and hence from attacks by sea power, the Heartland is the locus of enormous land<br />
power. Modern Europe, which to Mackinder was Peninsular Europe, owed its future to the resistance<br />
by the Germanic tribes against the pounding of the Hunnish hordes of Attila, the Avars, who absorbed<br />
them, the Tartars (or Tatars), the Magyar Turks, all land power coming from the Heartland. This whole<br />
area, Mackinder called the pivot of history in his 1904 speech mentioned above. It was a land whose<br />
history was shaped by the nomads of the steppes. Mackinder thought it was probably under the<br />
nomads' pressure that the Angles and Saxons left their homeland for Britain. Centuries later, the<br />
Vikings in their longships from the northern seas and the Saracens from their ships in the<br />
Mediterranean Sea completed the work of shaping Christian Europe with their sea power. For<br />
hundreds of years Britain, lying on the periphery of Peninsular Europe, benefited from the sea as a<br />
bulwark against continental land-based power to build a worldwide empire. However, Mackinder<br />
argued that the Great War marked the beginning of the waning of sea power, so that the future would<br />
lie with countries possessed of land power.<br />
<strong>The</strong> Heartland corresponded to the 'Pivot area', which had played a pivotal role in history. But<br />
for strategic planning purposes, Mackinder distinguished the Heartland as comprising “the Baltic Sea,<br />
the navigable Middle and Lower Danube, the Black Sea, Asia Minor, Armenia, Persia, Tibet, and<br />
Mongolia,... Brandeburg-Prussia,... Austria-Hungary, as well as Russia” (1919, p.141). This area<br />
extended much farther west than the Heartland defined above, perhaps because most Russians who<br />
inhabit the Heartland were concentrated in the European side of the Heartland right next to the potential<br />
areas of future conflict. Within the World Island, a second Heartland called the Southern Heartland<br />
lying south of the Sahara is connected with the Northern Heartland by the steppes of Arabia with its<br />
southern sliver (Yemen) almost touching the northeastern corner of the Southern Heartland, providing a<br />
continuous corridor for men on horseback from Siberia or camel-back from Arabia to reach the Sudan,<br />
and beyond if they had not been stopped by disease. For over a thousand years (fifth to sixteenth<br />
century) nomads from Asia, Huns, Avars, Magyars, Bulgarians, Mongols, and other nomadic peoples<br />
had poured westward across the steppes reaching well into western Europe. <strong>The</strong> one unifying<br />
characteristic of the Heartlands is that both are largely inaccessible to sea-going vessels but are<br />
accessible to the horse and the camel. Crowded into the remaining one-fifth of the World Island<br />
outside Arabia, the Sahara and the two Heartlands, four-fifths of the population of the World Island<br />
dwelling on the European peninsulas and in the remaining lands of South Asia and both North and<br />
South East Asia, write some of the modern world's most important history. Mackinder called these<br />
regions the Coastlands, which are endowed with fertile soils and easy communication through<br />
navigable rivers to the oceans, divided into the European Coastland and the Monsoon Coastland.<br />
Beyond these land powers lie an outer crescent of insular sea power bases: Britain, Canada, the United<br />
States, South Africa (Mackinder considered South Africa an island, probably due to its linguistic
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 195<br />
affiliation), Australia, and Japan.<br />
Against the contention that only the history of the European and Mediterranean peoples matters,<br />
Mackinder (1904) argued that the great European nations such as France, England, even Russia, were<br />
formed and whipped into shape by the enormous pressure of the nomads issuing from the steppes of the<br />
Heartland four thousand miles to the east in the Mongolian desert. As he put it, “...it is under the<br />
pressure of external barbarism that Europe achieved its civilization.” (p. 429). It must be noted that<br />
the term “barbarism” used here retrospectively should not be taken literally. <strong>The</strong> Greeks first used the<br />
term to designate the Persians, who were their enemies, the Turks, the Egyptians, the Medes, the Celts,<br />
the Germanic peoples, the Phoenicians, and in general any non-Greeks, whose speech sounded to<br />
Greek ears like the word they used to call them. <strong>The</strong> word seemed to have an onomatopoeic origin. To<br />
the Romans anyone living outside the pale of the Roman Empire was a barbarian by definition.<br />
Regardless, Mackinder's thesis is that the vast Eurasian land mass, inaccessible from the oceans, but<br />
easily traversed by men on horseback, enabled conquests by nomads from Asia and should be regarded<br />
as the pivot area of history.<br />
To support this thesis and concomitantly illustrate the important role of Asia in shaping world<br />
history, the emergence of two empires could be cited: the Hunnic Empire and the Mongol Empire, both<br />
originating from the same general locale in the Heartland.<br />
<strong>The</strong> Hunnic Empire<br />
<strong>The</strong> Hunnic Empire sprang up in the third century BC in what is now Mongolia and was known<br />
in Chinese historiography as the Xiongnu. Historians did not reach a consensus as to its origins,<br />
however. Firmer evidence suggested that by the fourth century, the Huns had settled in the northwest<br />
area of the Caspian Sea and continued their westward push, destroying the Avars and the Ostrogothic<br />
kingdom. By the end of the fourth century they had reached the Caucasus Mountains, laid waste to<br />
Armenia, and invaded a province of the Eastern Roman Empire. By 420 the Hun leader Oktar had<br />
consolidated the empire, which was a confederation of multi-ethnic tribes, which must have included<br />
besides the Huns,Teutonic, Finnish and Slavic nations. Under his brother Rugila, the Huns exerted<br />
pressure on the Western Roman Empire. At his death the Empire fell into the hands of two nephews,<br />
Bleda and Attila. Bleda's death, engineered by Attila, left the Empire to the undisputed leadership of<br />
the wily warrior in 445. <strong>The</strong> Hunnic Empire reached its zenith under Attila, who continued to march<br />
westward as far as Aurelianum (present-day Orléans) in 451, which his army wasted little time to leave.<br />
<strong>The</strong>re ensued the Battle of the Catalaunian Plains, better known as the Battle of Châlons (Châlons-sur-<br />
Marne renamed Châlons-en-Champagne in 1998) pitting the predominantly Christian coalition army of<br />
Romans under General Flavius Aëtius, virtual head of the Western Roman Empire, who had spent a<br />
brief exile among the Huns in 433 and forged friendly relations with Attila, Visigoths under King<br />
<strong>The</strong>odoric I, Alans, Franks, Saxons, Burgundians, and other Germanic tribes against the pagan<br />
coalition under Attila of Huns, Franks, Burgundians, Ostrogoths, Gepids, and other Germanic tribes.<br />
Some Germanic tribes fought on both sides. A number of historians take the traditional view that the<br />
Battle of Châlons was of major strategic importance while others disagree. Aëtius was content with the<br />
outcome since his potentially troublesome ally King <strong>The</strong>odoric died in battle and his nemesis Attila did<br />
not carry the day, leaving him looking victorious. Still, Châlons could not arrest the decline of the<br />
Western Roman Empire, which continued its inevitable course to demise anyway. Though the losses<br />
were heavy on both sides and the battle was really indecisive, the retreat of Attila's coalition did not<br />
diminish the Huns' reputation of invincibility or encourage renewed rebellions from the occupied<br />
tribes. Proof of the Huns' staying power was furnished when the following year Attila launched a<br />
destructive offensive on Italy to loot and demand the hand of Princess Honoria, sister of Emperor
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 196<br />
Valentinian III, who had appealed to him to deliver her from an unwanted betrothal. <strong>The</strong> country might<br />
have sustained more severe damage but for the pleas by Pope <strong>Le</strong>o I. Mackinder argued that, out of the<br />
common effort put up by Germanic and Celtic tribes and Romans, the French people eventually<br />
emerged. With Attila's sudden death in 453 and the ensuing war of succession waged among his heirs,<br />
the Hunnic Empire crumbled and ceased to be a threat to Europe.<br />
Even during his lifetime Attila was the stuff of legend. Far from being the uncouth chieftain of<br />
barbaric conquerors, he was possessed with organizational talent and military skills. Brave, selfassured,<br />
decisive, remorseless, genial in war; austere, sober, deliberate, even-handed, just in peace, he<br />
earned the admiration of friends and the awe of foes. Sophisticated propagandist in an age of<br />
superstition, he knew how to promote his image, self-styling “Attila, Descendent of the Great Nimrod.<br />
Nurtured in Engaddi. By the Grace of God, King of the Huns, the Goths, the Danes, and the Medes.<br />
<strong>The</strong> Dread of the World” (Creasy, 1852, p.225). By including the Danes and the Medes in his title he<br />
made sure no one would miss the extent of his dominion. Creasy continued his account of the Huns as<br />
follows. Centuries later, Attila the warrior and his military exploits so fired up the imagination and<br />
admiration of the Germanic tribes that they enthroned him in their legend as Etzel in the Sagas of<br />
Norway and Iceland, and the famous poem Nibelungenlied. We know he even inspired an 1846 opera<br />
by Giuseppe Verdi! Earlier Hungarians inserted the name of Attila in their Kings' names. Modern<br />
Hungarians, whose Finno-Ugric forebears did not descend to settle their present territory until four<br />
centuries after Attila (called Atzel in Hungarian), claim him as their ancestor since Magyars and Huns<br />
came from the same racial stock. <strong>The</strong>re seems to be no harm to claim an ancestry that once was<br />
dreaded throughout Europe. In any case, since the Hunnic Empire was a multi-ethnic entity, it would<br />
lend some support to reasonable-sounding claims of affiliation.<br />
<strong>The</strong> debatable question still remains, where did the Huns come from? As just seen, Creasy<br />
(1852) gave the Huns a pedigree that included the Turkish, which was closely related in language and<br />
habits to Finno-Ugrian tribes of the Urals. But he never went farther east than Central Asia or High<br />
Asia, as the Trans-Himalayan region is called. Others, with as much plausibility as controversy,<br />
identified them with the nomadic tribes of Hung Nô in Vietnamese or the Xiongnu in Chinese, whose<br />
name was first mentioned in 244 BC in Chinese records. Edward Gibbon (1754) favored the Chinese<br />
connection, which he described in rather poetic terms. <strong>The</strong> Xiongnu, who lived in Mongolia and north<br />
China, were expert archers on horseback. <strong>The</strong> relations between the Xiongnu and the Chinese were<br />
complex. After unifying China the Emperor Qinshihuang (Tần Thủy Hoàng) built the Great Wall in<br />
215 BC from a series of existing defensive fortresses to keep the Xiongnu out. In 209 BC, the Xiongnu<br />
established a confederacy of tribes to achieve political unity and coordinate strategic military actions.<br />
This was a remarkable feat of empire-building for a group of nomadic tribes. <strong>The</strong>ir leaders met<br />
annually at Longcheng, which served as a state capital. In 174 BC they occupied the western Xinjiang<br />
region. <strong>The</strong> Han Dynasty, which succeeded the Qin Dynasty, met the barbarians' threat by waging war.<br />
When defeated, the Chinese resorted to paying them tribute or offering princesses in marriage to gain<br />
peace. Such a tributary arrangement assured peace for sixty years during which time nine peace<br />
treaties were renewed, each time increasing the amount of gifts at the expense of the Chinese. After<br />
building enough force, the Han Chinese launched an all-out war in 133 BC, which ultimately broke the<br />
back of the Xiongnu, who now split in two rival groups: the Northern Xiongnu becoming independent<br />
and strong, and the Southern Xiongnu growing weaker and dependent on the Chinese. <strong>The</strong> tables were<br />
turned in 53 BC, when the Xiongnu became a tributary to Han China. <strong>The</strong>y continued to play a role in<br />
Chinese history, until the absorption of the Southern Xiongnu into the Chinese population was<br />
complete by the fifth century. <strong>The</strong> Northern Xiongnu had ceased to be mentioned in Chinese history<br />
by 155 AD.<br />
By 380 AD the Huns had already settled the land north of the Caspian Sea and in southern
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 197<br />
Russia, according to ancient records. In the middle of the fifth century the Hunnic Empire, centered in<br />
Hungary, had reached its apogee under Attila. By a dual kingship arrangement, the empire was ruled by<br />
Attila and his brother Bleda, whose name was later given to the city of Buda (of Budapest). <strong>The</strong>y<br />
entered into wars with the Eastern Roman Empire and forced it to accept a tributary relationship. It is<br />
possible, though not universally agreed, that during the interval of about three centuries the restless and<br />
energetic Northern Xiongnu, who had exited Chinese history, had migrated westward, and mingled<br />
with other steppe peoples who spoke a Turkic language. Culturally the term Turkic encompasses a large<br />
number of ethnic peoples, who spoke 30 different languages, distributed from Siberia to Central Asia<br />
and Eastern Europe, the largest concentration being in Central Asia: Azerbaijan, Uzbekistan,<br />
Kyrgyzstan, Kazakhstan, Turkmenistan, and elsewhere in Turkey, with settlements in Russia (which<br />
includes Siberia), the Crimea, the Balkans, Iran, Iraq, Afghanistan, Pakistan, and western China.<br />
Racially the Turkic peoples exhibit a mixture of Caucasoid and Northern Mongoloid traits with the<br />
Caucasoid being more pronounced among Uyghurs of Xinjiang in western China, Uzbeks, and<br />
Turkmen. Mongoloid features are more pronounced among the Kazakhs and Kyrgyz, and Turks of<br />
Central Asia Notwithstanding the lack of scholarly consensus as to the ethnic origin of the Huns and<br />
the predominant theory believing the Huns spoke a Turkic language nothing of which remains, they<br />
might have been descendents of the Xiongnu. It is not far-fetched to regard the Huns and Xyungno as<br />
part of the great variety of peoples lumped under the umbrella term “Turkic” by some historians,<br />
although the majority of these peoples historically lived in China, on the northern and western<br />
periphery of which a Turkic language was spoken. It is useful to note, however, the factors that seem<br />
to support the far-eastern origin of the Huns: (1) <strong>The</strong> migration of the northern Huns westward after<br />
their defeat by the Mongolians in 93 AD was known. (2) <strong>The</strong> military tactic of mounted archery, in<br />
which the Mongols were reputed to excel, was shared by both groups. <strong>The</strong> Huns and the Mongols were<br />
formidable horse-riding archer-warriors. No other peoples in the past were known for the same skills.<br />
(3) Mongolians and Huns used bronze cauldrons virtually identical in material, shape and style, which<br />
had been buried along river banks in Hungary and in Ordos, a city in Inner Mongolia today. (4) <strong>The</strong><br />
physical descriptions of the Huns that suggest their origin. None of the surviving accounts of the Huns<br />
left by the Roman diplomat Priscus, Attila's contemporary, or the Goth historian Jordanes, who wrote a<br />
hundred years after Attila's death, described the Huns in more flattering terms than short in stature,<br />
quick in movement, swarthy, tan-skinned, flat-nosed, broad-chested, with a shapeless lump for head<br />
and pinholes for eyes, foul-smelling, savage, scarcely human, cruel as wild beast, living in swamps,<br />
speaking a language hardly resembling human speech. Many of the physical features seemed accurate<br />
while others were simply impressionistic and judgmental. Obviously the Huns had few friends among<br />
the peoples they fought or subjugated. All these pieces of evidence did not count records from the<br />
Chinese, who had a greater contact with and knowledge of the peoples living in their midst or in their<br />
surroundings than any Europeans of the day. <strong>The</strong>y knew the Huns and the Mongols long before these<br />
nomads set out to conquer Europe.<br />
<strong>The</strong>ories derived from linguistic comparison, though indicative, were messy. <strong>The</strong>y have<br />
suggested that the Hunnic language was affiliated with Turkic, Indo-European, Uralic, Mongolian, Old<br />
Bulgarian, Tocharian, Xiongnu, among others, based on extremely scant evidence (three words<br />
recorded by Priscus, medos, kamos, strava, and a few names). Most of these theories were but<br />
speculations arisen from the multiplicity of ethnic groups within the Hunnic Empire. It is only expected<br />
that people in an Empire so vast in the days of slow communication spoke their own languages<br />
including Latin, Gothic and other languages of subjugated tribes although Gothic was preferred by the<br />
Huns as the lingua franca. <strong>The</strong> three Hunnic words recorded by Priscus raise a question, though. As a<br />
member of a Byzantine diplomatic mission to the court of Attila the Hun, Priscus had a privileged<br />
position to observe the Huns and their language up close. Also he was the author of an eight-volume
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 198<br />
history of Byzantium that included the rise of Attila. I find it remarkable that the scholarly Priscus<br />
found enough time to debate with a Greek merchant living among the Huns who had been captured,<br />
made a slave then freed by a Hun nobleman, about the justice systems of the Byzantine Empire and the<br />
Hunnic Empire, but no more time and effort than to record just three Hunnic words. Languages can be<br />
an indication of ethnicity only in a static situation, which fosters homogeneity and uniformity, barring<br />
language variation. It is in the realm of possibility that where migration and conquest resulted in a<br />
dynamic mixture of peoples, such as the Hunnic Empire, languages could, over long enough periods of<br />
time, be modified through borrowing, coining, simplification, adoption, assimilation, absorption, and<br />
adaptation, even total disappearance. This is what happened to English, whose language is a fusion of<br />
the West Germanic, the North Germanic, and the Romance stocks. It took two centuries after the<br />
Anglo-Saxon invasion to get to the Old English stage of the first known poem (a hymn to God in poetic<br />
form) by the illiterate cowherd Cædmon. One could imagine these centuries as an incubation period of<br />
melting together the speeches of the Angles, the Saxons, the Jutes and their dialects. It also happened<br />
to the speech of the Norsemen whose raids had ended as settlements in Normandy, and who, in five<br />
generations, had so completely lost their North Germanic speech and ways that by the time of the<br />
Norman Conquest of 1066, the Duke of Normandy, William the Conqueror and his nobility brought to<br />
Britain a French-speaking court along with French culture. Modern historians resort to ethnogenesis to<br />
tackle the origin of the Huns, using culture, tradition, including ethnic affiliations to determine a<br />
group's identity. By the middle of the fifth century, when the Huns rose in the consciousness of west<br />
Europe under the leadership of the terrible Attila, their empire had covered the area west of the Urals<br />
and the Black Sea to the edges of the Western and Eastern Roman Empire and encompassed parts of<br />
present-day Russia, the Balkans, the Ukraine, Austria, Germany, with a base in Hungary. <strong>The</strong>re is no<br />
evidence that the Hunnic language had undergone the same process that English had. As to the origin of<br />
the Hunnic language, researchers had a field day inventing their theories.<br />
<strong>The</strong> Hunnic Empire illustrates the first demonstration of the power, spirit, resourcefulness,<br />
stamina, organization, and fighting capacity of Asian nomads of the Heartland in shaping the future of<br />
Europe. Under the waves of the ferocious Hunnish cavalry, the first true blitzkrieg of history, Europe<br />
lay prostrate. It took a coalition of Romans and those tribes whom they considered barbarians to blunt<br />
the Hunnic fury. It would be enlightening, though idle, to speculate on the destiny of Europe if Attila's<br />
unexplained sudden death had not occurred too soon in 451. Many historians called the Huns<br />
barbarians in retrospect. But the term was also applied to non-Greeks by the Greeks, to non-Romans<br />
by the Romans, and to non-Chinese by the Chinese. Out of the necessity to confront the Huns,<br />
Europeans coalesced and developed a certain sense of cohesion and unity. In this sense, the Hunnic<br />
invasion of Europe had an unintended but felicitous effect.<br />
<strong>The</strong> Mongol Empire<br />
After the first shock of Asian invasion in Late Antiquity and Early Middle Age, Europe at the<br />
dawn of the Renaissance was subjected to the second wave originating from the same vast steppes of<br />
Mongolia that had given birth to the hardy breed of restless, energetic, free-spirited horsemen, whom<br />
the afflicted inchoate Christian Europe had called the “scourge of God” about nine centuries earlier.<br />
<strong>The</strong>se nomadic tribes from northeast Asia created the largest land empire in history, extending nearly<br />
ten thousand kilometers in length and covering 24 million square kilometers, from Eastern Europe to<br />
the Sea of Japan during the thirteenth and fourteenth centuries. <strong>The</strong> Mongol Empire was twice as large<br />
as the Roman Empire and the Muslim Caliphate. It covered Korea, large parts of Siberia in the east<br />
and north, China, northern India, Persia, the Middle East in the south, the Caucasus, Ukraine to Kiev,<br />
Russia with Moscow in the west and north, i.e., much of Kievan Rus'. This time there was no
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 199<br />
controversy as to the identity of the invaders. <strong>The</strong> Mongols had their day in history when Genghis<br />
Khan, after uniting all Mongol and Turkic tribes, founded the Mongol Empire in 1206, which lasted<br />
until 1368 when it fell with the fall of the Yuan Dynasty. <strong>The</strong>ir empire was built with a military might<br />
renowned for their unrivaled horseback mobility, deadly marksmanship with the bow, martial-art skill<br />
with the javelin and sword, blitzkrieg-like assault tactic, speed of execution, discipline, endurance, and<br />
almost all-weather operational capability. Genghis Khan, feared in war for the incredible<br />
destructiveness and cruelty of his lethal shock cavalry, established Pax Mongolica, which was<br />
surprisingly enlightened; for under it ideas, trade, science, technology, education, religion flourished<br />
without hindrance. After Genghis Khan's death, the empire comprised four vast regions, each an<br />
empire with its own interests: the Golden Horde Khanate in the northwest centered on Russia and areas<br />
to its south, the Chagatai Khanate in the west, the IlKhanate in southwest covering the Middle East,<br />
and the Yuan Khanate anchored in China as the Yuan Dynasty, all controlled by the latter. <strong>The</strong> Golden<br />
Horde Khanate (1241-1502), inhabited among others by Turks, was delimited in Eastern Europe by the<br />
Urals eastward into Siberia, south to the right bank of the Danube, the Black Sea, the Caucasus<br />
Mountains, and abutting the Ilkhanate. Originally a Mongol khanate, the Golden Horde Khanate<br />
evolved into a Turkic one. <strong>The</strong> Chagatai Khanate (1225-1687), a Turco-Mongol empire initially ruled<br />
by Genghis Khan's second son Chagatai Khan and his descendents, was lodged between the Golden<br />
Horde Khanate and the Ilkhanate to the west, covering parts of Uzbekistan, Tajikistan, Kyrgystan, and<br />
lying south of Kazakhstan. <strong>The</strong> Ilkhanate (1256-1335) extended through southwest Asia from Turkey,<br />
Georgia, to Iraq, Persia, Afghanistan and Pakistan, ruled by the Il Khan (Il meaning subordinate). <strong>The</strong><br />
conquest of Song China took several attempts over four decades starting from 1235. With China only<br />
partially conquered, Kublai Khan proclaimed the Yuan Dynasty in 1271; and it was not until 1279 that<br />
they succeeded in annihilating the remnants of Southern Song to unify Chinese rule under the Mongols.<br />
We will not linger over how the Mongol Empire fared until its demise except for one period in<br />
the second half of the thirteenth century, when Kublai Khan's reign, before and after being firmly in<br />
control of China as the Nguyên (Yuan) Dynasty after their elimination of the Tống (Song), tried to<br />
subjugate Ðại Việt (<strong>The</strong> Great Land of Viet, as Vietnam was called then). Thành Các Tư Hãn (Genghis<br />
Khan), founder of the Mongol Empire, bequeathed it at his death to his third son, A Loa Ðài (Ogedei)<br />
<strong>The</strong> Mongols were at their apogee of power. <strong>The</strong> Mongol capital Karakorum swarmed with foreign<br />
ambassadors from Europe and other capitals within the Empire. Parts of Karakorum were built and<br />
decorated by foreign workers from Europe, Persia, and China as befit the metropolis of an empire.<br />
After Ogedei's death, his widow Toregene took over the regency and with the support of other<br />
aristocrats placed her son Quí Do (Guyuk) on the throne. His coronation in 1246 was attended by<br />
envoys from east to west, among whom: the Vatican ambassador sent by Pope Innocent IV, the Grand<br />
Duke of Moscow Yaroslav II of Vladimir, envoys from Georgia, Armenia, the Sultanate of Rum, the<br />
empire of India, the Abassid Caliphate. Countries, such as Cilician Armenia, willingly submitted as<br />
vassals to Mongol rule without a fight. Cilician Armenia was rewarded by exemption from taxation<br />
and supervision by a darughachi or resident overseer. After a brief reign of less than two years, Guyuk<br />
died. <strong>The</strong> throne passed to Mông Kha (Mongke, 1209-1259), a son of Genghis Khan's youngest son<br />
Tolui, who was Ogedei's brother. Mongke was the fourth Great Khan of the Mongol Empire and the<br />
first from the Tolui line. Though not well-known or influential, Tolui had four sons: Mông Kha<br />
(Mongke), Hốt Tất Liệt (Kublai Khan), Hạt Lỗ (Hulegu), and Ariq Boke, who played a crucial role in<br />
shaping the future of the Mongol Empire, and most of the world.<br />
Once crowned as the fourth Great Khan, Mongke faced a plot by the Ogedei line of aristocrats,<br />
whom he purged by execution He then instituted far-reaching reforms in government, the economy,<br />
taxation, religious freedom, and undertook a great building program in the capital Karakorum<br />
employing artists and builders from throughout the Empire. He ordered a census of resources in all
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 200<br />
khanates. His court was an equal opportunity employer for Empire-wide talents although he preferred<br />
the Muslims. He received a French ambassador, William Rubruck, sent by King Louis IX to seek an<br />
alliance against Islam and permission to spread Christianity. In religious matters he offered tolerance<br />
but warned the French ambassador of a stern response to any military intervention like a crusade. By<br />
the time of his death in 1259 the Mongol Empire had reached its greatest extent.<br />
All countries, lands, and peoples in the vast Mongol Empire had their tales of woe to tell. Only<br />
Vietnam had a different narrative, one that continues to resonate wherever the descendents of Ðại Việt<br />
settled, and for all time. Mông Kha (Mongke) and Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) contributed to that<br />
narrative too, but theirs was not a story of triumph and victory but of defeat and humiliation. <strong>The</strong><br />
following will contain more details than the rest for the reason that it is part of Vietnamese history.<br />
First Mongol invasion of Ðại Việt (Vietnam, 1257). Not long after his ascension as the<br />
fourth Great Khan, Mông Kha (Mongke) turned his attention toward south China and Ðại Việt<br />
(Vietnam). Desirous of achieving total control of China to make his Empire complete, Mongke<br />
planned to attack the Southern Song from three directions. Korea and Dali were the first targets. <strong>The</strong><br />
pattern was familiar: first demand the king of the country to be invaded to report to the Mongol court<br />
and to send a royal prince to the Mongol court as hostage. <strong>The</strong>n if that attempt failed, military action<br />
would ensue. His troops marched against Korea and succeeded in securing it as a northern base from<br />
which a strike against the Southern Song might be staged. At the same time Mongke dispatched his<br />
brother Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) to lead an expedition against the Đại Lý (Dali) Kingdom in Yunnan.<br />
Together with Ngột Lương Hợp Thái (Uryankhadai), the son of Genghis Khan's general Subotai,<br />
Kublai secured Dali in 1256, making it a western base of operation against Song China. As preparation<br />
for an attack on the Southern Song, in 1257 Ngột Lương Hợp Thái (Uryankhadai) sent envoys to Ðại<br />
Việt to demand submission or to ask for a (southern) corridor of invasion into Song territory. Knowing<br />
what the Mongols really wanted, the Vietnamese Emperor Trần Thái Tông not only refused but<br />
imprisoned the envoys and ordered Trần Quốc Tuấn to hold a defensive line in the north. Uryankhadai<br />
marched on Ðại Việt from Yunnan with an army of 3,000 Mongols and 10,000 Yi tribesmen, following<br />
the Thao Giang River valley in Hưng Hóa Province to attack Thăng Long (renamed Hà Nội in 1831).<br />
With too small a contingent, Trần Quốc Tuấn was forced to retreat to Sơn Tây. <strong>Le</strong>ading his troops<br />
King Trần Thái Tông tried unsuccessfully to stop the Mongols; he withdrew to the Red River. <strong>The</strong><br />
Mongols pushed the Trần to east of Nhị Hà River, forcing Thái Tông to abandon Thăng Long for the<br />
safety of Thiên Mặc River in Hưng Yên Province. <strong>The</strong> invaders entered Thăng Long, freed their<br />
envoys, and seeing that one of them had died, rampaged through the city pillaging and murdering every<br />
man, woman, and child they could find. <strong>The</strong> Mongols could find little else thanks to the scorched-earth<br />
tactic of the Vietnamese. Facing dire straits, Trần Thái Tông went by boat to solicit advice from Prince<br />
Trần Nhật Hiệu, who, without saying a word, moored his boat and wrote down two Chinese characters,<br />
“Nhập Tống” (Join the Song), in the water. Unimpressed, the King went on to consult Counselor<br />
Trần Thủ Độ, who reassured him, “As long as my head has not rolled to the ground, Your Majesty need<br />
not worry.” Thái Tông regained his confidence. In the end the Mongols had to retreat back to Yunnan,<br />
overcome by fatigue, disease, the climate, and the guerillas. Seizing the opportunity, Thái Tông<br />
launched a counteroffensive to Đông Bộ Ðầu, inflicting considerable losses to the Mongols. When the<br />
retreating Mongols reached a farm in Qui Hóa the owner gathered up a local militia and caused further<br />
havoc. <strong>The</strong> enemy was too demoralized and beaten to loot during their retreat. Mông Kha died while<br />
his troops were fighting the Song, and was succeeded by Hốt Tất Liệt (Kublai Khan), who finished up<br />
the conquest of China after putting an end to the Song Dynasty in 1279. It devolved on Hốt Tất Liệt to<br />
invade Ðại Việt twice more, without success. <strong>The</strong> first Mongol foray into Ðại Việt, though initially<br />
victorious, had ended in failure and retreat.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 201<br />
As we reflect upon the causes of the first invasion of Vietnam by the Mongols, one fact stands<br />
out: <strong>The</strong> world's largest empire in history had not yet conquered its back yard or even its own house.<br />
<strong>The</strong> Southern Song were still tenaciously fighting for survival; and until this Dynasty was eliminated<br />
there was no solid foundation for the far-flung empire to anchor its power base. <strong>The</strong> Mongol capital<br />
Karakorum was nothing compared with the great cities of China like Beijing. Being nomadic the<br />
Mongols had at best a precarious semi-agricultural economy and little to no industry. <strong>The</strong>y needed a<br />
stable and thriving economy for sustenance. In administration, Mongol tribal governance paled besides<br />
the sophisticated bureaucratic establishment of China. In education, science, technology, they had to<br />
borrow. <strong>The</strong> Southern Song and China, in general, could provide the wherewithal with which to<br />
administer an empire. However, until the Song Dynasty was destroyed or absorbed into their Yuan<br />
Dynasty, the Song remained a thorn in their side. Hence the need to conquer the Song. But did they<br />
need an invasion route through Ðại Việt to attack the Song? No. <strong>The</strong> proof was that Kublai Khan<br />
destroyed the Song without using Vietnamese territory at all. But the excuse of “just passing through”<br />
was employed repeatedly by the invader. And the ancestors of the Vietnamese were right in rejecting<br />
any demand or request from their neighbor to the north to allow use of their land as a jump-off point for<br />
an invasion of other countries. <strong>The</strong> Vietnamese always thwarted imperialist desire.<br />
<strong>The</strong> precarious peace between Ðại Việt and Nguyên (Yuan) China. While they had not quite<br />
brought China under their sway, the Mongols wanted Ðại Việt. However, with memory of the previous<br />
debacle still fresh the Mongols lost any appetite for another military adventure. <strong>The</strong>y figured<br />
persuasion was better than war. Hence, every few years they would send emissaries to entice or<br />
demand that the Trần Emperor appear in person at their court in what is now Beijing to accept tributary<br />
status. <strong>The</strong> Vietnamese Emperor refused to budge, proffering one excuse after another, causing no<br />
small amount of irritation in the Nguyên (Yuan) court. To buy peace and time, Thái Tông dispatched<br />
an embassy headed by Lê Phụ Trần to the Nguyên (Yuan) court to promise a tribute every three years.<br />
<strong>The</strong> Yuan Dynasty records showed that Ðại Việt accepted a Ðạt lỗ hoa xích (darughachi or overseer)<br />
and paid tribute as promised. A Ðạt lỗ hoa xích (darughachi) was a Mongolian official competent in<br />
civil and military affairs stationed in the tributary country to serve as the eye and ear for the Yuan<br />
Emperor. <strong>The</strong> idea is to spy on the Vietnamese and their resources, and gain a knowledge which would<br />
be used in case of war or occupation. His unspoken role was to gradually convert Ðại Việt into a<br />
protectorate. In 1258 Trần Thái Tông abdicated in favor of his son Prince Hoảng, who acceded to the<br />
throne as Emperor Trần Thánh Tông; Thái Tông became Thái Thượng Hoàng (Retired Emperor).<br />
When the Mongol Yuan learned of the succession, they hastily dispatched an embassy to crown the<br />
Vietnamese Emperor and exact tribute. <strong>The</strong> triennial tribute consisted of products and manpower:<br />
rhinoceros horns, elephant tusks, tortoise shells, precious stones, and other exotic items; three each of<br />
scholars, herb doctors, chiromancers, astrologers, craftsmen of various skills. Though outwardly<br />
accepting to be a tributary, Emperor Trần Thánh Tông knew the Mongols were only biding their time<br />
waiting for an opportune time to pounce on his country. He prepared for war. Military recruitment<br />
proceeded apace; soldiers were organized into a hierarchy of units, training intensified, and weapons<br />
stockpiled. A precarious peace between the two countries lasted until 1266. <strong>The</strong> Yuan began to tighten<br />
their hold on Ðại Việt with a fresh mission. <strong>The</strong> Vietnamese responded with one of their own to the<br />
Yuan court, asking that no persons would be part of the tribute and no darughachi would be stationed<br />
in Ðại Việt. <strong>The</strong> Yuan emperor countered with six demands: (1) the Vietnamese Emperor must report<br />
in person to the court of Yuan; (2) a son or brother of the Emperor must be offered as hostage; (3) a<br />
population census must be furnished; (4) men must serve in the Yuan military; (5) tax receipts must be<br />
turned over to the Yuan; and (6) the Ðạt lỗ hoa xích (darughachi or overseer) must stay. To the<br />
Mongols' demands, the Vietnamese employed dilatory tactics and excuses such as illness to postpone
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 202<br />
acceding to them and to hold off war for as long as possible in order to build forces strong enough for a<br />
showdown with the world's hegemon. In 1275, the Vietnamese Emperor dispatched emissaries to the<br />
Yuan court asking for a recall of the darughachi on the grounds that Ðại Việt was not a barbarian<br />
country that needed overseeing, and in the meantime for the official's title to be changed to Senior<br />
Advisor. <strong>The</strong> Yuan Emperor rejected the request, and reiterated the six demands. <strong>The</strong> Vietnamese<br />
Emperor stonewalled. With that defiance the die was cast. Now the Mongols had their hearts set for<br />
war. It was only a matter of time. <strong>The</strong>ir border garrisons were instructed to reconnoiter the terrain. <strong>The</strong><br />
Vietnamese too stiffened their border defenses.<br />
In 1277 Emperor Trần Thái Tông died, and the following year Thánh Tông ceded the throne to<br />
Prince Khâm, who became Emperor Trần Nhân Tông. Upon learning of Thái Tông's death and Nhân<br />
Tông's coronation, the Yuan Emperor sent his Minister of Rites Sài Thung to deliver a message to the<br />
new Emperor: Attend the Yuan court in person. <strong>The</strong> latter's arrogant attitude, spurning a welcoming<br />
party from the Vietnamese court, reprimanding the Vietnamese Emperor for not seeking prior approval,<br />
and refusing to attend a banquet in his honor, caused great anger among the Vietnamese court nobility.<br />
Only after a state dinner was set at Tập Hiền Palace and repeated invitations extended did Sài Thung<br />
finally relent. During the meal and after a few drinks, Emperor Nhân Tông told the Chinese<br />
ambassador, “I was born in the palace and am not accustomed to the weather. I cannot possibly take<br />
any trips.” After a few days Sài Thung left. Emperor Nhân Tông followed up with the same rebuff in<br />
writing to the Yuan Emperor, who wanted nothing more now than to punish defiant Ðại Việt. But he<br />
hesitated because China was still not pacified. A standoff resulted. Ðại Việt had once again stood up<br />
to Yuan China.<br />
Second Mongol invasion of Vietnam (1284-1285). As the northern neighbor was wont to do,<br />
Mông Kha's (Mongke) successor, Hốt Tất Liệt (Kublai Khan, 1215-1294) plotted to bring Ðại Việt into<br />
the Mongol orbit. True to Vietnam's tradition, the Trần Dynasty decided to resist.<br />
What are the causes of the second invasion of the Mongols? <strong>The</strong>re is only one cause: <strong>The</strong><br />
Mongols' desire to conquer and subjugate.<br />
Knowing he needed time to prepare for invasion, in 1282 Hốt Tất Liệt dispatched an envoy to<br />
deliver the message: If the Vietnamese Emperor cannot appear at the Yuan court, he must send gold and<br />
precious stones, and two each of scholars, astrologers, and skilled craftsmen. Instead, Emperor Nhân<br />
Tông sent an uncle, Trần Di Ái, and two aides Lê Tuân and Lê Mục in an act of appeasement. Intent on<br />
seizing direct control, Kublai set up a commission of bureaucrats ready to take over Ðại Việt's<br />
governmental functions. On arrival, the Mongol delegation of functionaries were refused by Emperor<br />
Nhân Tông and returned to China. In response to the Vietnamese act of defiance, Kublai made Trần Di<br />
Ái King of Annam (the Chinese term for the Vietnamese), Lê Mục Scholar-Academician, and Lê Tuân<br />
State Minister. <strong>The</strong>n he put Sài Thung in command of a 1,000-men force to escort them back to Ðại<br />
Việt. Trần Di Ái accepted the Mongol favor because he had figured that with luck he would be the next<br />
Emperor of Ðại Việt; and if things did not pan out, he could claim having been coerced by the Yuan.<br />
<strong>The</strong> Mongol column had barely reached the Nam Quan Pass at the border when, alerted by scouts, a<br />
Vietnamese strike force ambushed it. Sài Thung lost an eye to a Vietnamese archer and fled back to<br />
China. <strong>The</strong> turncoat Trần Di Ái and his party were captured and demoted to the rank of private.<br />
In 1282, anticipating war in the aftermath of these events, and with news of impending invasion<br />
relayed by the Governor of the frontier Province of Lạng Sơn, the Retired Emperor and Emperor Nhân<br />
Tông convened a meeting of the royal family, aristocrats and commanders at the confluence of Bình<br />
Thang, Thái Bình and Ðuống Rivers to devise a plan of defense. <strong>The</strong>re were hawks and doves among<br />
the conferees. Some doves suggested letting the Mongols pass through to Champa, as the enemy<br />
always used borrowing a land route as an excuse; others favored appeasement by a tribute mission. But
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 203<br />
Trần Quốc Tuấn and Trần Khánh Dư were adamant about mounting a strong defense at strategic choke<br />
points to keep the invader out. Emperor Nhân Tông, leaning towards resistance, appointed in 1283<br />
Prince Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn (also known as Trần Hưng Ðạo) commander-in-chief of the<br />
200,000-men Vietnamese forces. Trần Hưng Ðạo had authored a manual on war strategy, and used his<br />
expertise to put his troops through intensive military exercises. He then assigned Trần Bình Trọng the<br />
task of deploying defensive strongpoints along the Bình Thang River. Trần Khánh Dư would defend<br />
the Vân Ðồn sector in Quảng Yên Province. Other commanders would man defenses at all critical<br />
points. He himself would station the main force at Vạn Kiếp in Hải Dương Province as a strategic<br />
reserve for intervention where needed.<br />
Sài Thung's failure to effect regime change in Ðại Việt had so angered Kublai Khan that he<br />
ordered his son Prince Thoát Hoan (Toghan) to cross into Ðại Việt in December 1284 with Ô Mã Nhi<br />
(Omar, a Muslim), Toa Ðô (Sogetu) and half a million troops, ostensibly to borrow a passage to<br />
Champa. <strong>The</strong> Mongols were equipped with state-of-the-art weapons, including siege equipment,<br />
artillery, and river-crossing pontoons. <strong>The</strong> Yuan land forces had assembled in their staging area at Hồ<br />
Quảng, and would soon reach the Lạng Sơn border. <strong>The</strong> Yuan strategy was to attack in two prongs to<br />
crush the Vietnamese forces in a pincer movement. Thoát Hoan (Toghan) would cross the mountainous<br />
frontier with the main force and strike south. Toa Ðô (Sogetu) would jump off from Quảng Châu to<br />
execute an amphibious landing with 100,000 troops on Champa, then wheel northward as the second<br />
prong of the envelopment.<br />
This piece of intelligence on the Yuan's strategy obtained by the Vietnamese unnerved Emperor<br />
Nhân Tông, who was conscious of the numerical inferiority of his army. His outnumbered force was<br />
poorly equipped in comparison and already spread too thin. To forestall the inevitable, he tried a<br />
belated gesture of appeasement with a tributary mission to Kublai Khan, requesting negotiation. <strong>The</strong><br />
Mongol Emperor turned a deaf ear and ordered Thoát Hoan (Toghan) to march. With 500,000 men the<br />
Mongols had a commanding lead over the 200,000 Vietnamese. Many of their army came from various<br />
parts of the Mongol Empire and were battle-tested veterans of other wars. <strong>The</strong> Vietnamese, on the<br />
other hand, consisted of conscripts, but mainly of peasant-soldiers who not too long ago had been<br />
wielding the plow and not the sword. But they were animated with the same spirit that had driven their<br />
ancestors to throw off the Chinese yoke after a thousand years of domination. And under master<br />
strategist General Trần Quốc Tuấn, they were galvanized into a fighting force to be reckoned with. Still<br />
it was going to be an asymmetrical conflict.<br />
<strong>The</strong> initial setbacks. At this juncture the Vietnamese faced the most perilous situation in their<br />
history. To gauge the mood of the country, Emperor Nhân Tông convened an assembly of the notables<br />
and elders of the land at Diên Hồng Palace and asked just one question, Do you want war or peace?<br />
To a man, they thundered, War! <strong>The</strong> nation had spoken.<br />
Upon reaching the border, Thoát Hoan (Toghan) sent a letter saying his forces needed a passage<br />
to Champa. Emperor Nhân Tông replied, “<strong>The</strong>re are no convenient routes by land or water from our<br />
country to Champa.” As soon as he received the Vietnamese rebuff, the infuriated Thoát Hoan crossed<br />
the border at Lạng Sơn, then dispatched an aide named A Lý to deliver the ultimatum: “We only want<br />
to pass through your country on our way to Champa and have no other motives, so you should not<br />
worry. Just open your gates to let our troops in. We will need some food supply along our way. When<br />
we have defeated Champa, we will reward you for your cooperation. However, if you choose to resist,<br />
we will show no quarter and destroy your country. It would then be too late to regret.” General Trần<br />
Quốc Tuấn angrily sent A Lý back with a categorical rejection, then immediately ordered the Khả Li<br />
and Lộc Châu passes in Lạng Sơn strengthened while he positioned his main force at Kì Cấp Mountain.<br />
<strong>The</strong> navy was positioned to guard the approaches to the Bái Tân crossing.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 204<br />
Thoát Hoan hurled his formations against the Vietnamese defenses, but the furious battle at Kì<br />
Cấp Mountain raged on indecisively until Khả Li and Lộc Châu fell. <strong>The</strong> crumbling defenses<br />
compelled General Trần Quốc Tuấn to fall back to Chi Lăng Pass with Thoát Hoan in hot pursuit.<br />
Under overwhelming Mongol pressure General Trần Quốc Tuấn and his household aides Yết Kiêu and<br />
Dã Tượng quickly escaped to the Bái Tân dock, where they took a river route to Vạn Kiếp.<br />
Commanders who had not deserted or defected soon came straggling in with their decimated units. On<br />
hearing the news of serious Vietnamese reverses, Emperor Nhân Tông hastened to Hải Dương in a<br />
small boat, then summoned Quốc Tuấn for consultation. Seeing that his troops had been beaten<br />
everywhere, the worried Emperor told his commander-in-chief that he was thinking about surrendering<br />
to save lives. <strong>The</strong> imperturbable general replied, “It is humane of you to say so, but what would<br />
happen to the temples and monuments to our ancestors, our land? If you want to surrender, you must<br />
first cut off my head!” Those brave words reassured the monarch.<br />
Gradually the Vietnamese forces regrouped, replenished, and grew more confident. General<br />
Trần Quốc Tuấn, brilliant military strategist, then turned accomplished psychological warfare<br />
practitioner. To his assembled commanding officers at Vạn Kiếp, he delivered a proclamation to instill<br />
resolve, hatred, and aggressiveness, with injunctions to train their men and conquer the enemy. He<br />
concluded:<br />
I have compiled a manual of military strategy. If you train with this book and follow its<br />
directions, you are loyal; but if you spurn this book, and act against its counsel, you are the<br />
enemy. Why? Because we and the Mongols are implacable enemies. We cannot live under the<br />
same sky with them. If you remain impassive and fail to take revenge or train your troops, you<br />
might as well join them, surrender to them, and reap dishonor forever. <strong>The</strong>n how could you<br />
proudly take your rightful place between heaven and earth?<br />
<strong>The</strong> commanders were moved by the general's exhortations, trained hard, and resolved to fight the<br />
enemy. <strong>The</strong>y tattooed two words on their arms, “Sát Đát” (Death to the Mongols!)<br />
Having crushed all resistance in the Lạng Sơn sector, Thoát Hoan (Toghan) headed for Vạn<br />
Kiếp. <strong>The</strong> weaker Vietnamese forces were shattered, put to flight, and lost all their boats. All those<br />
who were captured with the “Sát Đát” tattoos were executed. <strong>The</strong> Mongols then advanced to the Kinh<br />
Bắc front. <strong>The</strong>re Thoát Hoan unleashed his troops to sack and pillage Võ Ninh, Gia Lâm, and Đông<br />
Ngạn, then set up defenses on a beachhead at Đông Bộ Đầu. General Trần Hưng Ðao took up<br />
defensive positions on the south bank. When he observed a Vietnamese troop position on the south<br />
side of the Red River, Thoát Hoan destroyed it with artillery bombardment and scattered the defenders.<br />
<strong>The</strong>n the Mongol engineers built pontoon bridges across the river for their infantry to move right up to<br />
the foot of Thăng Long fortress. General Trần Hưng Ðao had earlier escorted the Retired Emperor and<br />
Emperor Nhân Tông out of Thăng Long, leaving a few generals behind to defend the citadel. Only<br />
after seizing Thăng Long did Thoát Hoan know of the Emperors' escape. He sent his generals to<br />
pursue the escapees.<br />
On their side Toa Ðô (Sogetu) and his marines had been trying unsuccessfully to gain a toehold<br />
on the Champa coastline. Kublai dispatched him an imperial order to take a land route farther north to<br />
attack Nghệ An in coordination with Thoát Hoan's forces, who were occupying all river landings on the<br />
Red River from Thăng Long to the Ðại Hoàng River in Hà Nam Province. <strong>The</strong> latter ordered General<br />
Ô Mã Nhi (Omar) to take a sea route to link up with Toa Ðô's army in its northward thrust. <strong>The</strong><br />
situation became desperate for the Vietnamese. If the two Mongol thrusts succeeded in closing the vise<br />
shut, the Vietnamese royal family and much of the army would be trapped in a narrow pocket with few<br />
escape routes available. Trần Hưng Ðao advised the Emperor the dispatch Grand General Trần Quang
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 205<br />
Khải to block Toa Ðô at Nghệ An, and General Trần Bình Trọng to hold Thiên Trường against Thoát<br />
Hoan while he and other generals escorted the royal party to Thiên Trường and on to Hải Dương. At<br />
Nghệ An the combined forces of Toa Ðô (Sogetu) and Ô Mã Nhi (Omar) were so overwhelming that<br />
Trần Quang Khải had to retreat northward while the commander of Nghệ An's garrison Trần Kiện<br />
surrendered himself and his entire family to the Mongols. Toa Ðô ordered an immediate evacuation of<br />
the Trần Kiện family to Beijing. Having learned of the evacuation, Trần Hưng Ðao dispatched a<br />
column in pursuit. At Lạng Sơn Trần Kiện's escorting party was ambushed by the local militia under<br />
the command of tribal leaders Nguyễn Thế Lộc and Nguyễn Lĩnh. Trần Kiện was killed and buried by<br />
one in his household named Lê Tắc, who managed to escape to China. Here Lê Tắc wrote An Nam Sử<br />
Lược (A Short History of Vietnam), which still exists in China and Japan. Back at Thiên Trường, as the<br />
Mongols were approaching, Trần Bình Trọng led his troops to intercept them. Unfortunately he was<br />
surrounded and captured. Thoát Hoan had heard of the Vietnamese general and respected his strength<br />
and skill. So he treated his prisoner with consideration and tried to convert him to the Mongol cause.<br />
Trần Bình Trọng retorted, “I would rather be a ghost of the South than a king of the North!” Knowing<br />
he could not sway Trần Bình Trọng, he ordered him beheaded.<br />
Trần Bình Trọng's death not only caused considerable grief for the nation but also underlined<br />
the dire situation facing it. Now Trần Hưng Ðao once again had to move the royal family to safety, this<br />
time to Quảng Yên on the Tam Chỉ River while a decoy royal party was heading toward Ngọc Sơn.<br />
<strong>The</strong> Mongols found out the ruse and launched a pursuit to Tam Chỉ. But they were too late. Trần Hưng<br />
Ðao and the royal party had taken a land route to Bạch Đằng River, from where they crossed the Ðai<br />
Bàng estuary into Thanh Hóa Province. <strong>The</strong> Mongols were everywhere: in the north Thăng Long, Bắc<br />
Ninh, Thiên Trường had fallen; in the south their forces under Toa Ðô (Sogetu) and Ô Mã Nhi (Omar)<br />
were advancing toward Nghệ An. Several relatives in the royal family, such as Trần Tú Viên, Trần Ích<br />
Tắc had defected to the Mongols. Only Trần Hưng Ðao remained to protect the royal family although<br />
his skills were certainly needed to repulse the enemy.<br />
<strong>The</strong> turning point: <strong>The</strong> battle of Hàm Tử (1285). After repeated failures to make a<br />
breakthrough at Nghệ An, Toa Ðô (Sogetu) and Ô Mã Nhi (Omar), whose forces had been worn down<br />
during their Champa campaign, now faced a serious supply problem. <strong>The</strong>y decided to sail north to link<br />
up with Thoát Hoan. Trần Quang Khải reported the news to the Emperor in Thanh Hóa. This was the<br />
golden opportunity. that Trần Hưng Ðao would not fail to seize. At a strategy meeting of commanders<br />
convened by Nhân Tông, Hưng Ðao reasoned that Toa Ðô's army must have suffered considerable<br />
losses, hardship, privation, and fatigue from their Champa campaign, the overland marches through the<br />
Ô and Lý Districts of Thuận Hóa, the Hoan District of Nghệ An, and the Ái District of Thanh Hóa<br />
Provinces and now the coastal sea-lift northward. A strong enough combat army of interception under<br />
an aggressive leadership would have an excellent chance of victory. Nhân Tông approved the plan, and<br />
appointed Prince Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật commander and Trần Quốc Toản deputy<br />
commander, augmented by General Nguyễn Khoái, to maneuver a 50,000-strong army into blocking<br />
positions at Hải Dương. In the fourth lunar month of 1285, as Trần Nhật Duật had finished deploying<br />
his men at the Hàm Tử estuary in Hưng Yên Province, the Mongol flotilla under Toa Ðô arrived. Nhật<br />
Duật hurled his forces upon the Mongols. Among his units there was one under a Song General by the<br />
name of Triệu Trung, who had fled China with his men during the last Mongol offensive that destroyed<br />
the Southern Song Dynasty. Now on the Vietnamese side, he and his contingent, dressed up in Song<br />
uniforms, joined the battle against the Mongols. Thinking that the Song had reconquered China and had<br />
sent expeditions to aid Ðại Việt, and under the merciless pummeling of the Vietnamese formations, the<br />
panicked Mongols fled and were slaughtered in great numbers. <strong>The</strong> carnage forced Toa Ðô back to the<br />
Thiên Trường estuary. <strong>The</strong> victorious Nhật Duật sent via his deputy Quốc Toản the good news to the
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 206<br />
Emperor at Thanh Hóa. <strong>The</strong>re was great rejoicing at the court. Hưng Ðao then counseled the Emperor<br />
to keep pressing the enemy, explaining that, having scored the first victory after a series of setbacks, the<br />
Vietnamese were eager to exploit the opportunity and keep up the momentum while the Mongols, who<br />
had been used to easy gains, recently had the first taste of defeat and had begun to feel apprehension<br />
and doubt. Now was the time to attack Thoát Hoan (Toghan) and liberate the capital Thăng Long.<br />
Nhân Tông approved the plan. Preparations were under way when Grand General Trần Quang Khải<br />
arrived from Nghệ An. He volunteered to lead the offensive. <strong>The</strong> Emperor assigned Trần Quang Khải<br />
the mission to retake Thăng Long and Trần Nhật Duật the mission to prevent Toa Ðô from joining with<br />
Thoát Hoan.<br />
<strong>The</strong> battle of Chương Dương and liberation of Thăng Long (1285). At the time, Thoát Hoan's<br />
main force was occupying Thăng Long and vicinity whereas their war vessels were anchored at the<br />
Chương Dương river base. Generals Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, and Phạm Ngũ Lão took their<br />
troops on an amphibious operation from Thanh Hóa to their target landing at Chương Dương. <strong>The</strong>ir<br />
assaults with shock troops and ferocious hard-hitting raiding tactics put the Mongols to rout. <strong>The</strong><br />
Vietnamese jumped ashore and pursued the enemy all the way to the Thăng Long citadel before<br />
stopping to set up siege. Thoát Hoan led his main force out to the rescue but fell into an ambush<br />
prepared by Trần Quang Khải. <strong>The</strong> Mongols fled in disarray, flushed out of Thăng Long, and did not<br />
stop until they reached the Red River on the Kinh Bắc (Bắc Ninh) line. Trần Quang Khải then sent<br />
word of the liberation of Thăng Long to the Emperor in Thanh Hóa, who was elated that the<br />
Vietnamese had finally turned the tide. His armed forces, initially beaten and beset with desertions and<br />
defections, had within two months reversed the trend by winning two major battles in which the enemy<br />
suffered heavy, irreplaceable losses. <strong>The</strong> Mongol forces were now widely separated from one another<br />
and lost contact with one another.<br />
<strong>The</strong> battle of Tây Kết (1285). His battered army massed in Thiên Trường, Toa Ðô had no idea<br />
that Thoát Hoan's main force had been routed and had withdrawn to Bắc Giang, 200 miles from him.<br />
He then moved his army to a position on the Thiên Mạc River, a branch of the Red River, with the<br />
intention of executing an enveloping maneuver with Thoát Hoan's army. After a few days he learned<br />
that his advance column had been routed, and all river crossings were defended by the Vietnamese. He<br />
had no choice but to retreat to Tây Kết and sent out scouting parties to find Thoát Hoan's whereabouts.<br />
Meanwhile the two consecutive victories at Hàm Tử and Chương Dương sent the Vietnamese' morale<br />
and fighting spirit soaring. Hưng Ðạo advised the Emperor to charge Trần Quang Khải and Trần Nhật<br />
Duật with blocking all passages and roads to prevent Toa Ðô and Thoát Hoan communicating with<br />
each other. Hưng Ðạo himself would first destroy Toa Ðô's army, then annihilate Thoát Hoan's.<br />
Emperor Nhân Tông approved his strategy and gave him carte blanche to carry out his plan of<br />
operation. When the Vietnamese forces arrived at Tây Kết, they split their formations to take on all of<br />
Toa Ðô's positions, and set up ambushes to snare Toa Ðô. <strong>The</strong>ir assaults overwhelmed the Mongols.<br />
Toa Ðô (Sogetu) and Ô Mã Nhi (Omar) fled with their infantry to the sea. As soon as they rounded a<br />
mountain a Vietnamese ambush sprang and had them surrounded. Toa Ðô (Sogetu) was killed by an<br />
arrow while Ô Mã Nhi (Omar) tried to escape to Thanh Hóa. Closely pursued by the Vietnamese, he<br />
had to beat a solitary path to the sea on a skiff to find his way back to China. <strong>The</strong> battle of Tây Kết was<br />
fought in the fifth lunar month of 1285. <strong>The</strong> Vietnamese had taken 30,000 prisoners and captured large<br />
quantities of ships and weapons.<br />
<strong>The</strong> battle of Vạn Kiếp: End of the second Mongol invasion (1285). After a victory celebration<br />
and award ceremony, General Trần Hưng Ðao went after the last Mongol commander, Thoát Hoan
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 207<br />
(Toghan), whose army was still entrenched in Bắc Giang. Trần Hưng Ðạo based his plan on certain<br />
known facts. <strong>The</strong> Mongols had heard of the debacle suffered by Toa Ðô (Sogetu)'s army, of his death,<br />
and of Ô Mã Nhi (Omar)'s escape by sea to China. <strong>The</strong> destruction of an army of 100,000 had<br />
seriously sapped what fighting spirit they still had, and their thought was to pull up stakes and head<br />
home. It was now the sixth lunar month of 1285, and the weather had begun to bring the unbearable<br />
summer heat back with its attendant diseases. In addition to the disheartening news, Hưng Ðao's<br />
strategy could only spell more misery and grief to the invader. He prepared a network of ambushes<br />
along the expected routes of Mongol withdrawal back to China. Nguyễn Khoái and Phạm Ngũ Lão<br />
would deploy 30,000 men in the reed thickets along the foothill banks of the Vạn Kiếp River. His two<br />
sons Hưng Võ Vương Nghiễn and Hưng Hiếu Vương Úy would take another 30,000 troops to set up<br />
blocking positions in Quảng Yên to deny the enemy access to Tư Minh District. Once the trap was set,<br />
Hưng Ðạo led his strike force to Bắc Giang to deliver the telling punch. <strong>The</strong> Yuan Mongols under<br />
Thoát Hoan broke ranks and ran to Vạn Kiếp as anticipated. Nguyễn Khoái intercepted them and<br />
inflicted heavy casualties. <strong>The</strong> Mongols lost half their number. <strong>The</strong> Yuan General Lý Hằng was killed<br />
by an arrow. Other Mongol leaders, Thoát Hoan (Toghan), Phàn Tiếp, A Bát Xích, and Lý Quán,<br />
fought their way out as best they could. With the Vietnamese in hot pursuit, Thoát Hoan climbed into a<br />
bronze tube and had his troops carry him out of danger. When they reached Tư Minh District, the<br />
Hưng Võ Vương Nghiễn and Hưng Hiếu Vương Úy men unleashed additional volleys of death. Lý<br />
Quán was struck down by an arrow while Thoát Hoan (Toghan), Phàn Tiếp, A Bát Xích narrowly<br />
escaped to limp back to China.<br />
In a little more than six months, from December 1284 to June 1285 (there is a difference of<br />
about 30 days or so between the lunar calendar and the Gregorian calendar), the mighty invading force<br />
of 500,000 consisting of war veterans from the Mongol Empire equipped with superior arms and<br />
materiel was shattered by 200,000 Vietnamese peasant-soldiers.<br />
Third and last Mongol invasion of Vietnam (1287-1288). <strong>The</strong> third Mongol invasion was<br />
motivated by revenge. When Thoát Hoan (Toghan) and his generals reported back to the Yuan court,<br />
there was nothing but shame and anger. <strong>The</strong> Mongols had wasted manpower, war materials, and their<br />
reputation of invincibility. Now the only thought was to exact revenge on the Trần Dynasty and their<br />
Ðại Việt Kingdom. Repressing his anger and impulse to execute his military commanders, Hốt Tất<br />
Liệt (Kublai Khan) put his plan to invade Japan on hold, ordered the building of 300 additional<br />
warships, and intensive troop training in Giang Hoài, Giang Tây and Hô Quảng Provinces for an<br />
expedition against Ðại Việt in August. But his advisors won his approval of a delay to allow more time<br />
to prepare.<br />
When Emperor Trần Nhân Tông got the information about the Mongols' intention, he asked<br />
Hưng Ðạo for advice. <strong>The</strong> general reassured the monarch. During the last invasion, the Vietnamese<br />
were at first ill-prepared because they had enjoyed decades of peace. Yet after just a few months of<br />
fighting they had learned to fight well. Now they were far better prepared. <strong>The</strong> Mongols, on the other<br />
hand, still remembered the great losses they had suffered, especially the losses in the senior ranks of<br />
command. This knowledge would impair their fighting spirit and instill fear. Hưng Ðạo ordered<br />
recruitment of fresh troops and intensive tactical training. This time the Vietnamese would be ready.<br />
In the second lunar month of 1287, Kublai planned a massive invasion force with more than<br />
300,000 handpicked men and a 500-ship navy under the supreme command of Thoát Hoan (Toghan).<br />
Assisting him were Generals Ô Mã Nhi (Omar), Phàn Tiếp, A Bát Xích, and Áo Lỗ Xích. <strong>The</strong>ir main<br />
food and arms supply would be assured by a flotilla that carried 170,000 rations under the command of<br />
Trương Văn Hổ. As in the second invasion, the Mongol command structure seemed to be multi-ethnic<br />
as exemplified by such names as Ô Mã Nhi (Omar), A Bát Xích (Abassid?). And it may be safe to
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 208<br />
assume that their rank and file was too. <strong>The</strong> invasion force would bring with them Trần Ích Tắc, a<br />
prince who had defected, and whom they had named King of Annam to replace the reigning Emperor<br />
Trần Nhân Tông once they had deposed him.<br />
In the eleventh lunar month of 1287, the invasion was spearheaded by Thoát Hoan, who led the<br />
bulk of his army through the Khâm, Liêm, Tư Minh Districts corridor. Trương Ngọc took command of<br />
the land supply train with 2,000 men. Áo Lỗ Xích and Trình Bằng Phi advanced with 10,000 foot<br />
soldiers each. Ô Mã Nhi and Phàn Tiếp headed the naval force. When intelligence reached Thăng<br />
Long of the Mongol invasion, Nhân Tông convened a strategy meeting of his court ministers and<br />
military leaders. Some of them suggested recruiting additional troops; but Hưng Ðạo reasoned that<br />
quality in a fighting force counts more than quantity. As in the previous war, General Trần Hưng Ðạo<br />
was the supreme commander. He put Nguyễn Khoái and Trần Nhật Duật in charge of the Lạng Sơn<br />
front to block the entry points with 30,000 men. <strong>The</strong>se border crossing points are traditional invasion<br />
routes for the Chinese because there were few options elsewhere along the mountain-bound frontier.<br />
And the Vietnamese and the tribes who lived in the area commanded an advantage over the invader,<br />
who was much less familiar with the terrain. <strong>The</strong> enemy had to mass overwhelming force to smash<br />
through every time. In the southern sector, Trần Hưng Ðạo assigned another thirty thousand troops to<br />
Trần Quốc Toản and Lê Phu Trần to repel a seaborne invasion in the Nghệ An sector. He set up three<br />
strongpoints in the Tư Minh District. <strong>The</strong> Đại Than estuary in Hải Dương Province was also<br />
reinforced. With the remaining bulk of the army Trần Hưng Ðạo fortified the Phù Sơn Mountain sector<br />
and kept as strategic reserve.<br />
As in the last invasion, the Mongols enjoyed initial success. One by one the defenses at Phả Lại<br />
and Chí Linh mountains crumbled. Thoát Hoan then threw 20,000 men under Trình Bằng Phi on the<br />
Vạn Kiếp fortress. Ô Mã Nhi and A Bát Xích jumped off from Lục Đầu River to put pressure on Red<br />
River defenses. Trần Hưng Ðạo was forced to fall back to protect the capital and ensure the safe<br />
evacuation of the royal family. Pursued by Ô Mã Nhi the royal party had to abandon land escape and<br />
take a sea route to Thanh Hóa. When his prey had slipped beyond his grasp, Ô Mã Nhi turned back,<br />
and on the way to Long Hưng, he desecrated the Trần's ancestors' burial ground in Chiêu Lăng. This<br />
action sealed his fate, as will be seen below. Thoát Hoan himself directed the assault on Thăng Long,<br />
but the Vietnamese spirited defense repeatedly repulsed him At last he resigned himself to setting up<br />
defensive positions along the Vạn Kiếp-Phả Lại-Chí Linh line. Trần Hưng Ðạo moved up and dug in<br />
to face his enemy, resulting in a stalemate.<br />
<strong>The</strong> battle of Vân Ðồn. <strong>The</strong> stalemate did not favor the invader at all since his strategy was not<br />
a protracted war but a decisive lightning strike at the heart of the enemy. This Thoát Hoan failed to<br />
pull off. More worrisome, the longer the status quo lasted, the worse the supply situation became. To<br />
relieve the supply crunch Thoát Hoan dispatched a column of marines under Ô Mã Nhi to the Đại<br />
Bàng estuary in Hải Dương Province to escort the supply convoy commanded by Trương Văn Hổ.<br />
When he reached the Vân Ðồn Pass in Quảng Yên Province, he ran into the blocking forces of Trần<br />
Khánh Dư, which he forcefully dispersed. He found the way clear to the sea. <strong>The</strong> news of Trần Khánh<br />
Dư's inability to block Ô Mã Nhi prompted Retired Emperor to summon the Vietnamese commander<br />
to answer for his failure. Trần Khánh Dư asked for a stay of execution while he tried to redeem<br />
himself. He reasoned that after routing the Vietnamese, Ô Mã Nhi would become complacent and<br />
make mistakes. Khánh Dư gathered up the remnants of his naval unit and placed his men in ambush<br />
positions along the supply waterway. Just as he expected, Ô Mã Nhi's naval unit returned in a few<br />
days to clear the way through the Lục Thủy Dương estuary for the supply flotilla. Once Ô Mã Nhi's<br />
escort had passed, Khánh Dư's men from both sides pounded the supply vessels with withering<br />
barrages of arrows. Convoy Commander Trương Văn Hổ, overcome by the ferocity of the assault,
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 209<br />
escaped to Quỳnh Châu in a small boat, leaving in Vietnamese hands huge supplies of food and<br />
weapons of all kinds. On news of the victory the Retired Emperor was so happy he never mentioned<br />
Khánh Dư's original failure. Trần Hưng Ðạo then counseled the Retired Emperor on the next step.<br />
Now that the enemy's supply of rations and weapons was in Vietnamese hands, it would only be a<br />
matter time before their supply situation would reach crisis proportions and severely affect their morale<br />
and fighting capability. But the enemy did not know his plight yet. It would then be wise to release the<br />
prisoners of war so they could carry the disastrous news back to their commanders. <strong>The</strong>ir accounts<br />
would do incredible damage to the enemy's morale, leaving them more vulnerable to our assaults.<br />
Thus, the POWs were released. For his part, after rejoining his command center, Ô Mã Nhi waited in<br />
vain for the arrival of the supply convoy. Out of frustration, he destroyed the An Hưng garrison then<br />
withdrew to Vạn Kiếp.<br />
<strong>The</strong> battle of Bạch Đằng Giang (1288). <strong>The</strong> Battle of Bạch Đằng Giang of 1288 ranks among<br />
the proudest moments of Vietnamese history. It took place in the third lunar month, nearly seven and a<br />
half centuries ago. For their role in preserving the freedom and independence of Ðại Việt, the river<br />
Bạch Đằng Giang and the hero Trần Hưng Ðạo are enshrined in the hearts of Vietnamese everywhere<br />
for all time.<br />
In the aftermath of the Vân Ðồn debacle the Mongols saw their food supplies dwindling day by<br />
day. Thoát Hoan (Toghan) wanted to send messengers back to China to request resupply. But Trần<br />
Hưng Ðạo had anticipated their intention and ordered Kì Cấp Mountain and Nữ Nhi Pass in the Lạng<br />
Sơn sector blocked and ambushed to interdict any communication with China. Thoát Hoan's staff<br />
reasoned that the Mongols' situation was perilous. <strong>The</strong>y had no fortified positions for protection; their<br />
food supply was shrinking fast; all critical points were lost to the Vietnamese; the summer heat was fast<br />
settling in. It would be better to retreat back to China and wait for a more propitious time. Assessing<br />
the situation, Thoát Hoan concluded that Trần Hưng Ðạo's forces were too strong to defeat and that<br />
withdrawal would be the only viable alternative. He ordered a two-route approach: Ô Mã Nhi, Phàn<br />
Tiếp and their marines would evacuate by sea via the Bạch Đằng River; and the rest would take the<br />
land route protected by a rear guard under the command of Trình Bằng Phi and Trương Quân. <strong>The</strong><br />
plan would take effect after a few days of preparation to break camp. Trần Hưng Ðạo knew of the<br />
Mongols' evacuation plan. He ordered Nguyễn Khoái to take a shortcut to an ambush site farther<br />
upstream on the Bạch Đằng River. Here Nguyễn Khoái and his men were to plant iron-tipped stakes in<br />
the riverbed that would be covered by the high tide but exposed at low tide. <strong>The</strong> plan was to lure the<br />
Mongols' seaborne forces into the trap, then turn back at the precise time when the tide began to retreat<br />
for the counterattack. This same strategy had been first employed by the military genius Ngô Quyền to<br />
destroy the Chinese invader in 938 and inaugurate the era of national independence. To annihilate the<br />
Mongols in their land retreat, Trần Hưng Ðạo assigned Phạm Ngũ Lão and Nguyễn Chế Nghĩa the<br />
mission of ambushing them at Nội Bàng Pass in the Lạng Sơn sector.<br />
All preparations completed, Trần Hưng Ðạo was starting to move out when news came that Ô<br />
Mã Nhi's forces had reached the Bạch Đằng River. He pointed at the Hóa Giang River and pledged, “If<br />
I do not destroy the Yuan in this battle, I shall not come back to this river!” His troops were all excited<br />
and rushed to the Bạch Đằng. According to plan, General Nguyễn Khoái launched a boat formation to<br />
engage Ô Mã Nhi's flotilla on its way out. Infuriated by the sight of the Vietnamese provocation, the<br />
Mongol general ordered his squadron to turn around and do battle. <strong>The</strong> smaller Vietnamese riverine<br />
force was soon compelled to retreat upstream. Ô Mã Nhi issued orders to give chase. Once the entire<br />
Mongol force was deep into the trap, and at the moment when the tide was beginning to ebb, Nguyễn<br />
Khoái made an about-face. <strong>The</strong> Vietnamese riverine units, and Trần Hưng Ðạo's formations who were<br />
arriving began pelting the Mongols with storms of fire arrows. Under tremendous pressure, Ô Mã Nhi
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 210<br />
and Phàn Tiếp gave orders to disengage and pull back. When they reached the trapped section, the<br />
ebbing tide was exposing the deadly points of the iron-tipped stakes. <strong>The</strong> relentless barrages of arrows<br />
did their ghastly work on the trapped Mongols. <strong>The</strong>ir vessels were immobilized, impaled, capsized,<br />
sunk, or burned by fire arrows. In the melee countless Mongols were burned or killed, their blood<br />
coloring entire sections of the Bạch Đằng River. <strong>The</strong> Mongol senior commanders Ô Mã Nhi, Phàn<br />
Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc were captured along with thousands of their men, and more than 400 vessels.<br />
History had repeated itself because Ô Mã Nhi had failed to heed its lesson.<br />
<strong>The</strong> complete rout of the Mongol army (1288). News of the Bạch Đằng carnage shook the<br />
Mongols to the core. <strong>The</strong> entire Mongol senior command structure, Thoát Hoan (Toghan), Trình Bằng<br />
Phi, Trương Quân, Trương Ngọc, A Bát Xích, and Áo Lỗ Xích took the land route out. When they<br />
reached Nội Bàng Pass, they fell into an ambush prepared by Phạm Ngũ Lão. <strong>The</strong> senior commanders<br />
did their best to protect Thoát Hoan, fighting while fleeing. Trương Quân, who covered the rear with<br />
3,000 men, was slashed to death. <strong>The</strong> entire Mongol army so far had lost 50 to 60% of its strength. <strong>The</strong><br />
fleeing troops were further terrified when the scouts reported that the hundred miles between Nữ Nhi<br />
Pass and Kì Cấp Mountain swarmed with Vietnamese strongpoints. This coupled with the loud din of<br />
pursuing Vietnamese units added to their consternation. Thoát Hoan (Toghan) ordered Trương Ngọc<br />
and A Bát Xích to lead the withdrawal and Áo Lỗ Xích to cover its rear. Soon the two point<br />
commanders Trương Ngọc and A Bát Xích perished in a hail of poison arrows that also killed Mongol<br />
troops by the hundreds. Trình Bằng Phi served as Thoát Hoan's bodyguard to lead him out of danger<br />
and back to Tư Minh District. Áo Lỗ Xích, fighting rear guard action, picked up remnants of the<br />
tattered army and helped them back to Beijing. <strong>The</strong> Yuan Mongol force of revenge had ceased to exist.<br />
<strong>The</strong> Vietnamese sued for peace. It might sound paradoxical that after destroying two Mongol<br />
armies and killed tens of thousands of their soldiers, the Vietnamese decided it was time to mollify the<br />
country they had humiliated. By a simple calculus of Realpolitik the Trần Vietnamese knew that<br />
victories notwithstanding, Đại Việt could not possibly sustain years of continuous warfare with its huge<br />
northern neighbor. <strong>The</strong> Mongols had been properly chastened and taught a lesson. <strong>The</strong>y had left but<br />
could come back again for revenge. In fact, the Yuan court had already started to plan the next<br />
expedition when Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) died. It was therefore more prudent to revert to the status<br />
quo ante bellum than to indulge in vainglorious triumphalism.<br />
Along that line of thought the Vietnamese sent a delegation to the Yuan court asking to resume<br />
triennual tributes. <strong>The</strong>re was an exchange of POWs, in which all captured Mongol generals were<br />
released. All but one were freed in the conventional way, on land. Ô Mã Nhi (Omar), who had<br />
desecrated the tombs of the Trần ancestors and murdered too many innocent Vietnamese, could not be<br />
freed on land. At the suggestion of Trần Hưng Ðạo, Ô Mã Nhi (Omar) was returned to China by sea.<br />
<strong>The</strong>n while en route, an “accident” occurred and sank his boat. Đại Việt's request to resume tribute was<br />
accepted, but the Yuan Dynasty still insisted on the Vietnamese Emperor reporting in person to the<br />
Yuan court as a sign of submission. As always, the Vietnamese Emperor found enough excuses for not<br />
showing up, which never ceased to infuriate the Yuan. Mourning, illnesses, promises were all offered<br />
as excuses. Finally, Kublai Khan's death put an end to Mongol preoccupation with the little but<br />
unconquerable kingdom called Đại Việt. <strong>The</strong> Yuan Dynasty was content with triennial tributes and no<br />
court attendance. That was a sign that the Yuan court had resigned itself to Realpolitik.<br />
Some Reflections on the Heartland <strong>The</strong>ory<br />
<strong>The</strong> Hunnic and Mongol Empires are two examples that provide some support to Mackinder's <strong>The</strong>ory
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 211<br />
of the Heartland. Both originated from East Asia and were built by vigorous nomads on horseback.<br />
Both helped to shape the destiny of Europe and the regions they encompassed at a time when science<br />
and technology played a rather small role in human life. However, the days when nomads could build<br />
empires have passed. But the Heartland remains important since its vast resources are still largely<br />
untapped.<br />
<strong>The</strong> (Northern) Heartland took on greater importance now that Russia, having come down from<br />
the northern forest lands, has replaced the Mongol Empire. And the horse that had ruled the flat<br />
steppes was being replaced by the railway, which Mackinder foresaw would in due time be<br />
crisscrossing the area with fast and efficient communication and spur economic growth. Perhaps<br />
cognizant of the utter defeat during the Great War of Russia by Germany, who imposed the crushing<br />
Treaty of Brest-Litovsk on a country gripped by revolution, Mackinder the geographer quickly<br />
supplemented his pivot area thesis with an astute remark of a geostrategist.<br />
<strong>The</strong> actual balance of political power at any given time is, of course, the product, on the one<br />
hand, of geographical conditions, both economic and strategic, and, on the other hand, of the<br />
relative number, virility, equipment, and organization of the competing peoples. (1904, p. 437)<br />
<strong>The</strong> realization that geography contributes to the greatness of a nation only in so far as the<br />
people occupying the land have the “number, virility, equipment, and organization” to put it to work<br />
lies at the heart of political geography. Following on the heels of World War I, Mackinder's book could<br />
only see an incipient civil war pitting the non-Bolshevik White Army, which France, Britain, the United<br />
States, and Japan supported with equipment and/or men, against the revolutionary Red Army, which<br />
was made up of Bolsheviks fighting for their socialist future. He could not predict the advances of<br />
weapons technology since the First World War that rendered obsolete notions of inaccessibility.<br />
Rockets, missiles, aircraft carriers, and long-range bombers leave no corners of the earth unreachable.<br />
<strong>The</strong> question is not technology; it is cost. On the human side of the equation, “virility, equipment, and<br />
organization,” we can see that World War II has demonstrated the Russian command of these factors<br />
with their victory over Nazi Germany. However, in terms of population, the “relative number,“ Russia<br />
is encountering crippling circumstances that do not bode well over the long term. After the dissolution<br />
of the Soviet Union in 1991, ending the Cold War, Russia inherited the vast Heartland and a diminished<br />
population. With 143 millions, compared with the United States population of 313 millions, it would<br />
be quite a challenge for Russia to defend and develop a land almost twice as large as the United States.<br />
Until Russia's population increases sufficiently in “relative number,” the Heartland may not play such a<br />
crucial role as Mackinder had theorized. As of today, it seems that the Middle East with its huge oil<br />
reserves is the pivot area of history for the twenty-first century. ■<br />
1 April 2012<br />
(to be continued)
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 212<br />
Bibliography<br />
Creasy, E. S. (1852). <strong>The</strong> fifteen decisive battles of the world: From Marathon to Waterloo. London,<br />
England: Richard Bentley.<br />
Gibbon, E. (1754). <strong>The</strong> history of the decline and fall of the Roman empire. [PDF document]<br />
Hobsbawm, E. (1996). <strong>The</strong> age of extremes: A history of the world, 1914-1991. New York: NY:<br />
Vintage Books.<br />
Mackinder, H. J. (1904, April) <strong>The</strong> geographical pivot of history. <strong>The</strong> Geographical Journal, 23(4),<br />
421-437.<br />
Mackinder, H. J. (1919). Democratic ideals and reality: A study in the politics of reconstruction.<br />
London, England: Constable and Company Ltd.<br />
Palmer, R.R, Colton, J., & Kramer, L. (2007). A history of the modern world. Boston, MA: McGraw-<br />
Hill.<br />
Rana, L. (2008). Evolution of geographical thought: A systematic record of evolution. New Delhi,<br />
India: Concept Publishing Company.<br />
Roberts, A. (2006). A history of the English-speaking peoples since 1900. London, England:<br />
Weidenfeld & Nicolson.<br />
Tran Hung Dao's Proclamation to his officers. (1284). (G. F. Schultz, Trans.). Retrieved March 29,<br />
2012 from http://www.webcitation.org/query?<br />
url=http://www.geocities.com/SoHo/Den/5908/history/tranhungdao.html&date=2009-10-<br />
25+09:59:39<br />
Trần Trọng Kim. (2006). Việt Nam sử lược. Hà Nội, Việt Nam: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin.
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 213<br />
PhÜ®ng Hoàng<br />
Mt Loåi Cây ‘’M§i‘’ Ÿ ViŒt Nam<br />
Sóng ViŒt ñàm Giang<br />
Cây hoa Phượng Hoàng<br />
Cây hoa Phượng hoàng, Chuông đỏ, Sò đo cam hay nhiều tên khác nữa như Hồng kỳ, Phượng hoàng<br />
đỏ, Đỉnh phượng hoàng, Tulip châu Phi, Uất kim hương châu Phi… là một loài cây gốc từ vùng tây<br />
châu Phi được thấy xuất hiện ở Đà Nẵng, Nha Trang, rất nhiều ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, Đà Lạt, trên con<br />
đường từ phi trường Liên Khương vào Đà Lạt, trên con đường Nguyễn Văn Linh, Quận 7, TP Saigon,<br />
Vũng Tàu, Long Hải, và nhiều nơi nữa.<br />
Cây hoa phượng hoàng đỏ (Sò đo cam) thấy rất nhiều ở những đảo Caribbean khi người viết có<br />
dịp thăm viếng những đảo này. Cây này người viết cũng đã thấy ở hai tỉnh Siem Riep và Phnom Penh,<br />
Cambodia, và khá thường tại nhiều tỉnh ở Việt Nam. Bài viết ngắn này phỏng theo tài liệu thu thập trên<br />
Internet.<br />
Cây hoa phượng hoàng là một loại cây trong gia đình họ Bignoniaceae. Tên latin là spathodea<br />
campanulata với những tên English như Fountain tree, African tulip tree, Flame of the Forest, Nandi<br />
Flame hay Rudra Palash, Pichkari, v.v.. Cây trưởng thành có thể cao đến 15 m. Cây được trồng nhiều ở<br />
vùng nhiệt đới vì cây chịu nóng tốt, và vì hoa của cây màu đỏ cam lớn rất rực rỡ và bắt mắt. Đôi khi<br />
cũng có một vài cây với hoa màu vàng. Gỗ cây mềm và dòn. Và vì cây mọc rất dễ qua chiết cành nên<br />
phát triển khá nhanh.<br />
Hiện nay ở Việt Nam, cũng giống như một số quốc gia trên thế giới, cây hoa Sò đỏ cam bị đặt<br />
vào trong nhóm cây có xâm hại cho sinh thái cần kiểm soát.<br />
Nói riêng ở Việt Nam, được biết cây hoa phương hoàng (Sò đỏ cam) này xuất hiện đầu tiên ở<br />
Đà Lạt vào năm 1965, một quà tặng của một người bạn bên châu Phi cho kỹ sư Lương Văn Sáu, và ông<br />
Sáu đã xin phép trồng cây hoa chuông đỏ này tại khuôn viên chùa Quan Thế Âm, Đà lạt. Vào thời đó<br />
phương pháp chiết cành chưa đuợc thịnh hành, và sự thụ phấn của cây này cần có sự hiện diện của một<br />
vài loại chim hummingbird mới đơm trái nên cây này được xem là một cây hiếm ở Việt Nam (vì Việt<br />
Nam không có loại chim gây thụ phấn này).<br />
Nụ hoa là cả từng chùm hình ống chuông và chứa nước. Nụ hoa này khi ngắt và bóp thì phụt<br />
nước ra. Hoa nở hình ống và giữ nước và suơng ở trong. Ngoài chim hummingbird có mỏ dài thường
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 214<br />
hút nhụy, ngoài ra còn có những chú ong chui vào hút nhụy và rồi chết chìm trong nhụy hoa cùng làm<br />
mồi ngon cho sinh vật khác. Hoa từng cụm ở đầu cành. Trái khi chín là một nang khô dài màu nâu sậm,<br />
khi chín già thì tự mở ra để phát tán những hạt mỏng có cánh nhẹ theo gió bay đi khắp nơi.<br />
Hoa và Nụ<br />
Hạt<br />
Vỏ và lá cây đã được dùng như thuốc cổ truyền ở một số quốc gia vùng nhiệt đới. Vỏ cây được<br />
dùng làm lành vết thương nhất là vết bỏng. Vỏ và lá được dân địa phương dùng như thuốc sát trùng và<br />
sản phẩm trích từ lá đã được xem như có công dụng trị sốt rét. Vỏ cọng qua thử nghiệm cho biết có tác<br />
dụng giảm đường trong máu ở loài chuột.<br />
Cây này hiện nay chưa được coi như mọc tự nhiên khắp nơi mà chỉ hoàn toàn do gây trồng ở<br />
nhiều nơi như là một cây vườn cảnh, hay cây trồng dọc theo đường phố. Những cây tự nhiên mọc lên<br />
do hạt theo gió bay có thể thấy ở những vùng đất nông nghiệp bỏ hoang, dọc theo đuờng, rãnh nước,<br />
ven rừng, v.v….<br />
Nhắc lại những đặc điểm của cây là: cây lớn, có từng chùm lá kép mọc dọc theo cành, hoa có<br />
thể lớn đến cỡ 10-12 cm, có cấu trúc từng chùm ở ngọn cành. Và quả là những nang lớn khá dài có thể<br />
dài đến 30 cm giống như cácloại nang hạt đậu và khi chín nang tách đôi để phát tán những hạt có cánh<br />
nhẹ như giấy.<br />
Nói tóm lại cây hoa Phượng hoàng hay Sò Đo cam là một cây khá mới ở Việt Nam (kể từ năm<br />
1965). Cây được trồng nhiều ven đường lớn mới xây cất vì cây chiết mau lớn, chịu đựng khí hậu vùng<br />
nhiệt đới tốt, cây có lá xanh rất đẹp, và có hoa đỏ rực rỡ lớn bắt mắt. Sư tô điểm thẩm mỹ cho các đô<br />
thành đã mang lại màu sắc và ấn tượng thêm cho thành phố. Sư lo ngại về sự xâm lấn nguy hại cho môi<br />
trường cũng đáng để ý. Mặc dù nhiều tên đuợc gọi nhưng người viết đắc ý nhất với tên Phương hoàng.<br />
Việt Nam đã có hoa tên phượng vĩ, phượng tím và bây giờ phượng hoàng, thật không gì hay hơn. Cũng<br />
cần lưu ý tên gọi phượng hoàng có thể là do vì cây đầu tiên được trồng tại chùa Quan Thế Âm, nên<br />
những vị trụ trì đã gọi cây này là phượng vàng thay vì phượng đỏ. Và vì thế mà nay có tên là phượng<br />
hoàng chăng?<br />
Tóm lại<br />
Cây “mới” Phượng hoàng ở Việt Nam dù đẹp, hoa đỏ rực rỡ, lá xanh mướt nhưng chắc chắn không bao<br />
giờ có thể thay thế, hay mang được cái chất thơ mộng vào tuổi học trò cho hàng ngàn, hàng vạn nam nữ<br />
sinh trung học trên khắp đất nước Việt Nam như cây Phượng vĩ đỏ. ■
<strong>Firmament</strong> Volume 5, No. 1, April 2012 215<br />
Sóng Việt Đàm Giang<br />
March 30, 2012