Những người đứng đầu các gia đình có thế lực nhất, hay những nhà samurai bị nông dân hoáluôn giữ cương vị cao nhất trong làng, chi phối mọi hoạt động của làng. Chính đặc tính nàyđã làm cho quan hệ cộng đồng trong xã hội nông thôn Nhật Bản mang kết cấu hình tháp (17) ,chứ không phải mô thức đa nguyên (18) và dường như có một truyền thống dân chủ (với sựhiện diện độc đáo của đình làng), truyền thống nữ quyền (19) như trong làng Việt.5. Thời Tokugawa, Mạc phủ đã dùng ruộng đất để ràng buộc các lãnh chúa phongkiến và lấy đó làm cơ sở thực hiện quyền lực của mình. Trải qua hơn 200 năm, làng Nhậtđược coi là đã phát triển đến độ chín muồi vào đầu thời Edo nhưng từ giữa thế kỷ XVIII trởđi, dưới tác động ngày càng mạnh mẽ của kinh tế hàng hoá, làng và quan hệ làng xã đã trảiqua những biến chuyển sâu sắc. Quá trình phân hoá và tình trạng bần cùng hoá trong nôngthôn ngày một sâu sắc. Nhiều nông dân phải cầm cố ruộng đất dài hạn hoặc bán đứt cho địachủ, thương nhân rồi trở thành tá điền. Mặc dù luật pháp cấm việc mua bán ruộng đất nhưngtừ giữa thế kỷ XVIII, trong nông thôn Nhật Bản đâu đâu cũng có chuyện gá nợ, chuyểnnhượng ruộng đất (20) . Do bị mất đất, không được kế thừa tài sản, để sống, hàng loạt nông dânđành phải bỏ làng quê vào làm thuê trong các xưởng thủ công, chuyển sang buôn bán hay kéovào thành thị kiếm sống. Một thị trường lao động hội tụ từ nguồn sức lao động dư thừa ởnông thôn đã xuất hiện ở Nhật Bản.Trong sự phát triển mang tính cạnh tranh giữa các lãnh chúa thời Edo, làng là điểmnút cuối cùng của hệ thống quản chế đồng thời cũng là thực thể quan trọng nhất để các cấpchính quyền có thể kiểm nghiệm tính thiết thực, hiệu quả của nhiều chính sách kinh tế, xãhội. Dưới tác động của kinh tế hàng hoá cùng những nhân tố xã hội mới, nông nghiệp NhậtBản đã cho thấy khả năng tự điều chỉnh cao và đạt được những phát triển nổi bật. Sự pháttriển đó trước hết được thể hiện ở mức tăng sản lượng lương thực: Năm 1600: 19,7 triệukoku, năm 1720 tăng lên gấp đôi và đến cuối thời kỳ Tokugawa là 48,6 triệu koku. Sản lượnglương thực gia tăng là nhân tố bảo đảm cho sự tăng trưởng dân số, bổ sung thêm nguồn nhânlực trong nông thôn. Nhờ đó, các lãnh chúa đã có thể thực hiện được nhiều kế hoạch pháttriển nông nghiệp với quy mô lớn. Đồng thời, mỗi hộ nông dân cũng có thêm sức lao độngcần thiết để tồn tại với tư cách là những đơn vị kinh tế độc lập.Thời Edo, ngoài lúa là cây lương thực chính (và cũng là loại thương phẩm có giá trị)nhiều giống cây công nghiệp cũng được gieo trồng ở Nhật Bản. Sản phẩm thu được thườngđem lại nguồn lợi kinh tế lớn cho chủ canh tác vì được miễn thuế hay chỉ bị đánh thuế nhẹ.Do nông sản được thương mại hoá mà ở nhiều vùng đời sống nông dân được nâng cao rõ rệt.Kết quả là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp thay đổi, các khu chuyên canh xuất hiện ngày mộtnhiều để cung cấp nguồn nguyên liệu cho các ngành sản xuất thủ công. Sự phát triển của kinhtế nông nghiệp mang tính chất thương mại đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình tái sản xuất mởrộng ngay trong chính bản thân kinh tế nông nghiệp. Từ thế kỷ XVII, nông thôn Nhật Bảntrải qua một cuộc chuyển mình lớn. Với không gian kinh tế tương đối rộng mở, tiền tệ ngàycàng là nhân tố quan trọng trong đời sống nông dân. Trong điều kiện đó, nền nông nghiệpkiểu mẫu của Nhật Bản không còn cơ sở tồn tại, những điều kiện sinh hoạt kinh tế chật hẹpcủa nền nông nghiệp ấy cũng bị tan rã (21) . Thủ công nghiệp, thương nghiệp đã tách hẳn rakhỏi kinh tế nông nghiệp và trở thành hai ngành kinh tế độc lập. Nhiều nơi nông dân khôngsản xuất nông nghiệp nữa mà chuyển sang làm hàng thủ công hay chế biến những đặc sản nổitiếng của địa phương. Mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế trong làng và giữa các làngnông nghiệp với làng thủ công nghiệp, làng buôn cũng như quan hệ giữa các làng buôn vớinhau không ngừng được củng cố để hình thành nên quan hệ "liên làng". Trên cơ sở đó, mạnglưới kinh tế vùng được thiết lập ở Nhật Bản. Các vùng kinh tế đã gắn kết nông thôn với thànhthị trong mạng lưới kinh tế thống nhất chung của cả nước. Tất cả những yếu tố trên đây đãtạo ra năng lực tập trung cho quá trình tích tụ tư bản, từng bước phá vỡ khuôn khổ nền kinh tế
tự nhiên đồng thời làm biến đổi kết cấu xã hội trên cơ sở phân công lao động theo hướngchuyên môn hoá trong từng ngành nghề. Hệ quả là, một bộ phận không nhỏ cư dân nôngnghiệp đã thoát ra khỏi xã hội truyền thống để tham gia vào sản xuất, kinh doanh trong nhữnglĩnh vực kinh tế mới.Trong cùng thời điểm lịch sử đó, vào thế kỷ XVII - XVIII, tại Việt Nam những mầmmống kinh tế tư bản chủ nghĩa tuy có những phát triển nhất định nhưng còn hết sức yếu ớt,chưa đủ sức tạo nên những chuyển biến đáng kể trong kết cấu kinh tế-xã hội (22) . Sản phẩmtrao đổi trên thương trường vẫn chủ yếu là nông phẩm. Đội ngũ thương nhân cơ bản là nôngdân kiêm nghiệp, hoạt động theo kiểu thời vụ, "lấy công làm lãi" trong hệ thống chợ làng. Dođó, khó có thể coi chợ làng Việt Nam là "một nhân tố củng cố mối liên hệ dân tộc". Hơn thế,chợ làng và hoạt động buôn bán ở làng quê đã cắt bớt một phần nhựa sống của thành thị,làm cho thành thị không thể phát triển (23) . "Chợ làng đã tồn tại hàng nghìn năm bên cạnh kinhtế tiểu nông, góp phần củng cố kinh tế tiểu nông" (24) . Đội ngũ tiểu thương sau một thời gianbuôn bán có vốn thường "chôn tiền" bằng cách về quê mua đất. Vì nhiều nguyên nhân, ViệtNam không có một đội ngũ thương nhân thị dân chuyên nghiệp, được tổ chức chặt chẽ có tíchluỹ vốn lớn như hiện tượng Mitsui, Konoikeya, Yodoya... ở Nhật Bản (25) . Thành thị cận đạiViệt Nam cũng không thể trở thành những thực thể phát triển độc lập, giữ vị trí trung tâmkinh tế, sản xuất có khả năng thu hút nguồn lao động dư thừa từ nông thôn. Do không có điềukiện tham gia vào các ngành kinh tế công - thương và trở thành thị dân như ở Nhật Bản, trướcsự bùng nổ dân số, nông dân Việt Nam phải bỏ làng đi phiêu tán hay chìm đắm trong cuộcsống khốn cùng ở thôn quê.Đó là hai hình ảnh chung nhất, hai mô hình diễn tiến của xã hội nông thôn Nhật Bản,Việt Nam thời cận thế.Chú thích:1. Bùi Huy Đáp - Nguyễn Điền, Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới, NXB Chính trịQuốc gia, Hà Nội,1996, Tr. 80.2. Hà Văn Tấn, Các hệ sinh thái Nhiệt đới với tiền sử Việt Nam và Đông Nam Á. Tạp chí Khảo cổhọc, số 3, 1980.3. Sakurai Yumio, Thử phác dựng cấu trúc lịch sử Đông Nam Á (thông qua mối liên hệ giữa biển vàlục địa), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4. 1996.4. Watabe Tadaio, Con đường lúa gạo, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1988, Tr. 209.5. Nhật Bản tăng cường hiểu biết và hợp tác. NXB Giáo Dục, 1996, Tr. 198 - 199.6. Phan Đại Doãn, Làng Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế xã hội, NXB Khoa hoc Xã hội, Hà Nội,1992.7. Peter Duus, Feudalism in Japan, Stanford University Press, 1993.8. Viện sử học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.9. Bùi Xuân Đính, Lệ làng phép nước. NXB Pháp lý, Hà Nội, 1985, Tr. 42. Có thể tham khảo thêmPhan Huy Lê - Vũ Minh Giang, Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay. Đề tài KX07-02, Hà Nội, 1996.