Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
hoa sẵn, rồi mặc áo tang ra bờ sông khấn
vái. Lạy xong bà gọi "Hoàng thúc, thiếp
theo chàng đây" rồi lao mình xuống giòng
Trường Giang cuồn cuộn sóng. Mọi người
kinh hãi, tìm cách cứu, một mặt cấp báo
với Tôn Quyền nhưng khi Tôn Quyền đến
nơi thì chỉ thấy sóng nước nhấp nhô dưới
trời thanh đãng. Người đời sau lập đền thờ
Tôn phu nhân trên bến sông, gọi là đền
Khiêu Cơ.
Cụ Phan Kế Bính có thơ khen rằng:
Tiên chủ thua quân tới Bạch Thành,
Phu nhân nghe nạn vội quyên sinh.
Bến sông nay vẫn còn bia tạc,
Chói lọi nghìn thu tiếng gái trinh.
------------------
N
hà thơ Tôn Thọ Tường đã dựa vào
điển tích này mà viết bài "Tôn phu
nhân qui Thục". Ông tự ví mình như Tôn
phu nhân, lấy chồng thì phải theo chồng,
dù vẫn nặng lòng với cố hương. Ông ra
làm việc với người Pháp, không có nghĩa
là không nặng lòng với quê cha đất tổ!
Ông tận tụy với chức vụ, được người Pháp
nể trọng, sau thăng đến chức Đốc phủ sứ.
Trong một chuyến công du ra Bắc cùng
với viên Lãnh sự Pháp, ông bị bệnh và
chết, lúc chết vẫn nghèo như trước, rõ ràng
việc ông cộng tác với người Pháp không
hẳn là để cầu vinh.
Ông luôn bày tỏ niềm u uất đối với những
lời khích bác, chê bai của phe bài chống
Pháp, nên gửi tâm sự vào thơ để bày tỏ nỗi
lòng, biện bạch cho việc "qui Pháp" của
ông. Bài Tôn phu nhân qui Thục; hay bài
Từ Thứ qui Tào là những thí dụ điển hình.
Tôn phu nhân một lòng thờ chồng mà theo
về Thục, Từ Thứ vì mẹ mà phải bỏ Thục
theo Tào, ra đi mà ruột đứt lòng đau!
Bài Tôn phu nhân qui Thục chỉ vỏn vẹn 8
câu, Tôn Thọ Tường ca ngợi Tôn phu nhân
"Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông",
cùng lời nhắn nhủ của Tôn phu nhân gửi
đến đô đốc Chu Du ở 4 câu cuối:
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông.
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.
Bài thơ đã tạo nên một trận bút chiến với
nhiều bài họa lại, có ý châm chích ông,
điển hình là bài của cụ Phan Văn Trị, cũng
tả cảnh lúc Tôn phu nhân bịn rịn rời đất
Đông Ngô như: "mặt ngả trời chiều biệt
cõi Đông", và kết thúc với 4 câu, mượn lời
nhắn nhủ của Tôn phu nhân gửi đến anh
trai Tôn Quyền, chủ ý là để "mắng" Tôn
Thọ Tường:
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một gánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
Ý nhắn nhủ với Tôn Thọ Tường rằng: Tôn
phu nhân là gái, phải theo chồng là lẽ
thường rồi (hai vai tơ tóc…), chưa kể bà
còn là gạch nối để giữ vững tình hòa hảo
giữa Ngô-Thục (gánh cương thường nặng
núi sông). Chứ còn Tôn Thọ Tường có
phải là gái đâu, mà giặc Pháp có phải là
chồng của ông đâu mà nói là ông "phải"
theo! Ông là trai thì phải thờ chúa chứ!
Chuyện bút chiến, xin không phê phán,
việc đó đã có lịch sử phê phán rồi.
Cũng trong tâm trạng biện bạch đó, Tôn
Thọ Tường còn có bài thơ Từ Thứ qui Tào.
Từ Thứ là một mưu sĩ của Lưu Bị, rất được
trọng dụng và đã nhiều lần bày mưu giúp
______________________________________________________________________
Văn Đàn Lá Phong Hải Phong 33