You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
13<br />
Hôn ước trong Luật Gia Đình 1959 đã được qui định một cách tỉ mỉ hơn.<br />
Hôn ước phải được lập bằng văn bản trước khi kết hôn, được công chứng và<br />
phải được công bố. Điều 46 Luật Gia Đình qui định: “hôn ước phải làm bằng<br />
chứng thư trước mặt trưởng khế hay một viên chức có thẩm quyền thị thực”,<br />
việc thị thực ở đây thực chất là công chứng 32 . Hôn ước phải được lập trước khi<br />
kết hôn và phải được ghi vào trong giấy giá thú, vì như thế mới đảm bảo cho<br />
hôn ước có giá trị với người thứ ba. Riêng đối với những người buôn bán, thì<br />
hôn ước của họ phải được niêm yết tại tòa thương mại và chủ cước vào sổ<br />
thương mại do phòng lục sự tòa này giữ 33 . Luật Gia đình còn qui định cả về sự<br />
vô hiệu của hôn ước, hôn ước sẽ vô hiệu nếu như không đảm bảo các điều kiện<br />
về nội dung và hình thức; hôn ước không công bố thì không vô hiệu, nó chỉ<br />
không có hiệu lực với người thứ ba mà thôi; khi hôn ước vô hiệu thì chế độ tài<br />
sản của vợ chồng sẽ là chế độ tài sản pháp định (cộng đồng toàn sản); sự vô hiệu<br />
của hôn ước không ảnh hưởng tới việc kết hôn, nhưng ngược lại nếu việc kết<br />
hôn bị vô hiệu thì đương nhiên hôn ước cũng vô hiệu, Luật cũng qui định là hôn<br />
ước chỉ có hiệu lực trong thời kì hôn nhân. Trong suốt thời kì hôn nhân, hôn ước<br />
không thể được sửa đổi. Khác với Dân luật Trung kì và Bắc kì, Luật Gia đình<br />
1959 qui định tương đối kĩ về vấn đề li thân, Luật Gia đình 1959 cấm li hôn (chỉ<br />
được li hôn khi được sự chấp thuận của tổng thống) và qui định tương đối tỉ mỉ<br />
về chế định li thân cho nên có thể coi rằng hôn ước là một giải pháp để cho<br />
những cặp đôi sống li thân có điều kiện để tiếp tục sống thoải mái.<br />
� Bộ luật dân sự năm 1972<br />
Ngày 20/12/1972 chính quyền Việt Nam cộng hòa có ban hành Bộ luật<br />
Dân sự năm 1972 trong đó phần phu phụ tài sản cũng dành các Điều từ 144 đến<br />
149 để qui định về hôn ước với những qui định tương đối chung chung và không<br />
được tỉ mỉ như Luật Gia đình năm 1959. Bộ luật này cũng chỉ được áp dụng<br />
32 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 42 viết “thể thức thị thực khác với sự nhận thực<br />
chữ kí. Khi nhận thực chữ kí, cơ quan hành chánh hay cơ quan tư pháp chỉ chứng nhận rằng về phương diện vật<br />
chất chữ kí trên giấy tờ quả thật là chữ kí của người kí, giấy tờ có chữ kí được nhận thực là một tư chứng thư. Trái<br />
lại, khi thị thực một chứng thư, viên chức can thiệp vào việc lập chứng thư bằng cách đích thân ghi chép lời giao<br />
ước của đương sự hoặc bằng cách hỏi lại để biết đích rằng chứng thư nhận đúng lời giao ước của người kí. Chứng<br />
thư thị thực là một công chứng thư”.<br />
33 Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, sđd, tr. 43