TOAN-KIỀM, DỊCH VÀ ĐIỆN GIẢI - [NHÓM BIÊN DỊCH] DIỄN ĐÀN Y KHOA
LINK BOX: https://app.box.com/s/35q9jv5eo4ikm6vmjmr4l0mkcu9ytzbe LINK DOCS.GOOGLE: https://drive.google.com/file/d/1s9KnTNPy9MIzM8BnhF7pgv_gINawKnzb/view?usp=sharing
LINK BOX:
https://app.box.com/s/35q9jv5eo4ikm6vmjmr4l0mkcu9ytzbe
LINK DOCS.GOOGLE:
https://drive.google.com/file/d/1s9KnTNPy9MIzM8BnhF7pgv_gINawKnzb/view?usp=sharing
You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
Minmin, vagabondTM, lutembacher, hand_in_hand<br />
Các hệ thống điều chỉnh lượng natri và nước trong cơ thể hoạt động cùng nhau<br />
nhằm:<br />
• Giữ nồng độ natri ngoại bào trong một giới hạn hẹp (135- 145 mEq/L).<br />
• Giữ thể tích dịch khoang ngoại bào (ECFV) trong giới hạn hợp lý.<br />
Sinh lý Natri- Sự điều chỉnh ECFV<br />
Natri là cation chính của ngoại bào và chịu trách nhiệm cho lực thẩm thấu giúp duy<br />
trì ECFV. Tổng lượng natri trong dịch ngoại bào (ECF) là yếu tố xác định chính kích<br />
thước của ECFV.<br />
Nếu tổng lượng Natri trong dịch ngoại bào tăng, thì kích thước của ECFV cũng tăng<br />
theo, và hậu quả cuối cùng sẽ là quá tải ECFV. Các tình trạng phù- suy tim xung huyết,<br />
xơ gan, và hội chứng thận hư- là những ví dụ về các tình trạng bệnh lý có tăng lượng<br />
natri trong dịch ngoại bào gây quá tải ECFV (còn được gọi đơn giản là “quá tải thể<br />
tích”).<br />
Tăng lượng Natri trong dịch ngoại bào dẫn tới sự bành trướng của ECFV và biểu hiện<br />
lâm sàng bởi phù. Những chỉ điểm lâm sàng khác của quá tải ECFV là tràn dịch màng<br />
phổi, phù phổ, và cổ trướng. Nếu tổng lượng Natri trong khoang ngoại bào giảm, thì<br />
ECFV cũng giảm theo, và cuối cùng dẫn đến hậu quả là sự thiếu hụt ECFV. Sự thiếu<br />
hụt ECFV (còn gọi đơn giản là “thiếu hụt thể tích”) biểu hiện bởi giảm độ căng của da,<br />
nhịp tim nhanh, và hạ huyết áp tư thế đứng.<br />
Quá tải ECFV gây ra do quá nhiều natri trong khoang dịch ngoại bào, và thiếu hụt<br />
ECFV gây ra do quá ít natri trong khoang dịch ngoại bào.<br />
Do natri bị giới hạn bởi khoang ngoại bào, lượng natri trong khoang ngoại bào thỉnh<br />
thoảng được quy là tổng natri cơ thể. Thuật ngữ này gần đúng do có một lượng<br />
tương đối nhỏ natri trong nội bào. Nếu tổng natri cơ thể tăng, ECFV sẽ tăng và cuối<br />
cùng dẫn đến phù. Nếu tổng lượng natri cơ thể giảm, ECFV sẽ giảm và cuối cùng dẫn<br />
đến thiếu hụt ECFV.<br />
Cân bằng giữa natri đưa vào và natri thải ra bởi thận xác định lượng natri trong<br />
khoang ngoại bào và từ đó xác định kích thước của ECFV. Bình thường thận điều<br />
chỉnh sự thải natri để duy trì kích thước của ECFV trong giới hạn chấp nhận được. Khi<br />
ECFV tăng, thận tăng thải natri để ngăn quá tải ECFV. Khi ECFV giảm, thận giảm thải<br />
ECFV để ngăn thiếu hụt ECFV.<br />
Ba hệ thống điều chỉnh tổng natri cơ thể và từ đó điều chỉnh kích thước ECFV. Mỗi<br />
một trong ba hệ thống này có một “nhánh vào” (cảm giác) và một “nhánh ra” (tác<br />
động) trong kiểm soát natri. “Nhánh vào” nhận cảm về kích thước của ECFV, và<br />
“nhánh ra” làm tăng hoặc giảm sự bài tiết natri của thận một cách phù hợp.<br />
• Các receptor nằm tại các tế bào cạnh cầu thận nhận cảm những thay đổi trong<br />
sự tưới máu thận và đáp ứng bằng những thay đổi trong sự tiết renin, nhờ đó<br />
hoạt hóa hệ thống renin-angiotensin-aldosterone. Renin được giải phóng khi<br />
có sự giảm tưới máu thận. Renin sau đó hoạt động chuyển angiotensinogen<br />
thành angiotensin I, chất này được chuyển thành angiotensin II bởi enzym<br />
chuyển angiotensin (ACE). Angiotensin II trực tiếp làm tăng giữ natri bởi thận<br />
www.diendanykhoa.com Page 7