đá tan vỡ, màu tươi rói bắn ra tia thấm đẫm bạt vào người bên cạnh. Không biết aitrúng đạn, ai còn sống, khoảng cách quá gần và trời quá tối, những người thoát đạnxốc tới... Xung phong...xung phong!!Cùng lúc phía Tây-<strong>Nam</strong>, Đại Đội của Đại Úy Định (Định ‘’con’’, để phân biệtvới Đại Tá Định, Lữ Đoàn Trưởng 369) thuộc Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến khinghe tiếng hô rền từ cánh quân bạn cũng đồng bật dậy, bỏ vị trí xốc tới...xungphong...xung...xung phong! Giữa bóng tối mù mịt, qua ánh chớp đạn pháo binh địch,và lóe sắc của lựu đạn đánh cận chiến, bóng hình người Thủy Quân Lục Chiến àolên thấp thoáng, vùn vụt trên những khối đen của dãy tường Thành loang lỗ chậpchờn lửa dậy. Bốn giờ sáng, trời vừa hừng đông, được tăng thêm độ sáng do đạnlửa của pháo hỏa tiễn cộng sản bắn tràn lên vị trí để các đơn vị bộ đội địch tháochạy, những người lính Thần Ưng (Tiểu Đoàn 6), Sói Biển (Tiểu Đoàn 3) hoàn toànlàm chủ, tràn ngập trên bờ thành phía <strong>Nam</strong>, về phía Đông, khu trách nhiệm của TiểuĐoàn 8, Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Phán vượt lên tuyến đầu đíchthân thúc quân ép sát vào bờ Thành bởi nhận ra sức chiến đấu của đám lính cộngsản cố thủ yếu dần, đang thất thần tìm đường lẩn trốn trước đợt tiến công dồn dậpuy mãnh của lính miền <strong>Nam</strong>, những tên không tháo chạy được đồng bị thanh toán tạihầm bằng lựu đạn, hoặc súng tay bắn với khoảng cách gần nhất, đạn xuyên vào dathịt người nghe lụp bụp, thân người nẩy ngược lên. Hướng chính Tây, mặt tấn côngcủa Tiểu Đoàn 2 cùng Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, lực lượng xung kích ào vào chânthành như thác lùa, lũ lớn theo những khoảng vỡ đổ của bức tường Thành nay đãbiến dạng thành khối hình ngổn ngang chồng chất, lính ‘’Trâu Điên’’ xốc tới như tênhiệu đơn vị, những con trâu trong cơn phẫn nộ hung hãm, đánh phục thù cho trận luibinh oan nghiệt cuối tháng Tư mà họ đã tận mắt chứng kiến. Đến chiều 14 tháng 9,Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến kiểm soát toàn phần bờ Thành, khu vực phía<strong>Nam</strong>, chia quân lục soát những khu hầm nhốt tù (do người Pháp xây dựng đầu thếkỷ) mà sau nầy, trước tháng 4.1975, Tiểu Khu Quảng Trị, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BộBinh đặt Trung Tâm Hành Quân, đám lính cộng sản ném súng, lội Sông Thạch Hãntháo chạy về phía Bắc như đàn vịt nháo nhác trên khoảng sông phơi đáy cát. Mộtchiếc L-19 (máy bay quan sát) bay lờ lững trên cao, anh Phi Công tinh nghịch ràxuống sát mặt nước, bắn ra trái đạn khói, những tên lính cộng sản chạy trốn hốthoảng đưa tay đầu hàng, đứng ngơ ngác trên giòng sông mờ đục trống trải.Đêm 14 tháng 9, lần đầu tiên sau 48 ngày, đêm, Đại Úy Thạch Đại ĐộiTrưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn ‘’Sói Biển’’, đơn vị tiên phong của đợt đột kích dứt điểnCổ Thành được ngủ một giấc dài vì đôi giày đã được cởi ra. Nhiều người lính củamặt trận Quảng Trị cũng được ‘’hạnh phúc’’ nhỏ bé tầm thường tội nghiệp nầy. Sánghôm sau, ngày 15 tháng 9.1972 từ căn hầm phòng thủ nơi đặt Ban Chỉ Huy Đại Đội,qua lỗ hổng, Thạch thấy rừng rực lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bay uy nghi trong gió sớmlẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẳn. Anh thấy cay cay trong mắt với cảm giác nônnao thầm lặng...Cảm xúc từ rất lâu anh không có. Cảm giác muốn khóc về một điềubi phẩm. Thạch nhìn quanh, những người lính đồng có sắc đỏ sẫm ươn ướt nơitròng mắt. Những khuôn mặt chai cứng, hư hao, loang lỗ lấm láp khói đạn, bụi đấtđồng duỗi ra theo độ sáng của ngày mới vẻ kiên nghị kiêu hãnh xem lẫn đau đớnkìm giữ. Thạch nhìn xuống những xác binh sĩ đồng bạn mới đem về, nằm bó gọntrong những poncho phủ bụi đất, bê bết máu. Anh lơ đãng nghe báo cáo về số lượngvũ khí sơ khởi được tịch thu, đâu khoảng hai tấn rưỡi, phải cần tới một GMC mớichở hết.Nơi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I ở ThànhMang Cá, Huế, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cất chiếc nón sắt đã đội suốt từ110 MÙA HÈ ĐỎ LỬA
ao ngày đêm. Người chỉ huy chiến trường ngồi lặng im rất lâu, mặt ông trầm xuốngkhông gợn nét, đổi sắc.KẾT TỪ VỀ MỘT NGƯỜI LÍNHBa mươi năm sau, báo chí Mỹ, cho dù tờ báo khách quan, đứng đắn, hoặcgiới học giả, nghiên cứu (với những con người được tin cậy, kính phục như Giáo SưW. Tuchman) khi viết về Lịch Sử, Quân Sử Việt <strong>Nam</strong> (giai đoạn sau Mậu Thân 1968,trước Hiệp Định Paris 1973) đã không hề có một giòng chữ ngắn đối với chiến cônglẫm liệt kể trên. Phim ảnh, sách, báo chí Mỹ với những đầu óc chủ bại lẫn tự tôn(khiếp nhược trước kẻ nghịch, bất nhân với bạn hữu), thiển cận từ tư cách chuyênnghiệp, bác học của văn minh kỹ thuật cao (thật sự do không đủ can đảm trí thức tựnhận nỗi bất lực thảm hại của bản thân, xã hội, bộ máy cầm quyền của quốc giamình) nên đã không nhìn rõ địch tình, đánh giá thấp, không tận hiểu đúng sức mạnhtinh thần của một Dân Tộc, Quân Đội bạn, điển hình như Thượng Nghị Sĩ Bob Kerry,kẻ viết biên khảo Stanley Karnow, Đạo Diễn phim ảnh Oliver Stone v.v...đã sử dụnghệ thống thông tin đại chúng Mỹ để trút lỗi lầm thất bại, gánh nặng ‘’hội chứng Việt<strong>Nam</strong>’’ lên lưng người Lính Việt với một lý luận hàm hồ chung nhất: ‘’Quân Lực Việt<strong>Nam</strong> Cộng Hòa không chịu chiến đấu dù rằng người Mỹ đã góp nên trị giá 58.000người chết và hơn 100 tỷ đô la trong cuộc chiến với cộng sản Việt <strong>Nam</strong>’’ Những kẻnày đã không hề biết đến (hoặc cố tình không biết) những số liệu: 587 Tù binh Mỹ vàngười nước ngoài (gồm một binh sĩ Đại Hàn và hai binh sĩ Thái) Số liệu của BanLiên Hợp Quân Sự do chính bản thân người viết làm báo cáo là 585) trao trả theođiều khoản của Nghị Định Thư Tù Binh. Hiệp Định Paris gồm 473 nhân viên quân sựthuộc thành phần Phi Hành Đoàn của những phi cơ bị bắn hạ trên lãnh thổ Bắc Việtkể từ khi Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc do cớ sự vụ tàu Maddox (tháng 8.1964) (23)Hiệu số của 585 và 473 là 112, trừ thêm ba (3) Quân Nhân có quốc tịch nước ngoàikể trên, ta có con số: 109 người là tổng số tù binh Mỹ bị bắt ở miền <strong>Nam</strong>, gồmthường dân, nhân viên Tình Báo, cố vấn Cơ Quan Bình Định, và Quân Nhân bộ binhMỹ (24) Trong khi ấy phía Việt <strong>Nam</strong> Cộng Hòa trao trả về phía cộng sản 26.508 nhânviên quân sự và nhận về 5.081 người lính từ Binh Nhì đến cấp Đại Tá (25). Cơ sởRand Mc Nelly sử dụng trong Chronicle of 20 Century còn cho thêm số liệu 924.048lính cộng sản tử thương (26) ở chiến trường. Từ những chứng số kể trên (do nhữngcơ quan thống kế, chắc chắn không do cảm tình với chính phủ, Quân Đội Việt <strong>Nam</strong>Cộng Hòa, nếu không nói là ngược lại) chúng ta có thể kết luận với mức độ chínhxác nhất: Trong suốt chiến tranh Việt <strong>Nam</strong> từ khi Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến Mỹlâm chiến. Cuộc hành quân Starlight, tháng 5.1965 đến 27 tháng 3 năm 1973, bộbinh cộng sản hoàn toàn né tránh các đại đơn vị bộ chiến Mỹ, nếu có đụng độ chăngchỉ là những đơn vị cấp Đại Đội, phía Mỹ bị thương vong phần lớn do bị đánh mìnbẫy, phục kích, phòng không, pháo kích. Số lượng 924.048 bộ đội cộng sản tửthương, 26.508 tù binh bị bắt đổi lại 5.081 người của Việt <strong>Nam</strong> Cộng Hòa (chưa kểsố lượng 200.000 cán binh cộng sản đầu hàng Quân Đội Việt <strong>Nam</strong> Cộng Hòa tại trậnđịa, hồi chánh chính phủ Việt <strong>Nam</strong> Cộng Hòa với nhiều hình thức, tại nhiều địaphương trong nhiều trường hợp) đã xác chứng: Quân Đội Việt <strong>Nam</strong> Cộng Hòa làđơn vị chủ động chiến trường do đã kiên cường chiến đấu và uy hùng chiến thắngtrên chiến địa. Nói như thế để cùng nhau hiểu một điều đau đớn: Ngày 30.4.1975 làmột bi thảm phẩn uất suốt giải quê hương, nỗi oan khiên chung của toàn Dân TộcViệt <strong>Nam</strong>. Nhưng đây là đề tài thuộc về những biên khảo khác.Để kết luận, ta thử tìm so sánh: Người Đức bao vây Stalingrad 76 ngày, ngườiMỹ giữ Bataan trong 66 ngày, Corregidor 26 ngày, Quân Lực Anh và Khối ThịnhVượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày, phải mất đến bốn ngày kịch chiến, một111 MÙA HÈ ĐỎ LỬA
- Page 6 and 7:
Nam và Quân Đội Mỹ) toàn di
- Page 8 and 9:
Sài gòn thất thủ như một l
- Page 11 and 12:
công vào Tân Cảnh, Kontum, hư
- Page 13 and 14:
Đấy không còn là người v
- Page 15 and 16:
- Tiên sư, bom ném thì hay như
- Page 17 and 18:
Lính Đại Đội Thinh nhỏm d
- Page 19 and 20:
được, Mễ thử bung quân ra
- Page 21 and 22:
Trời tối dần, hơi núi đùn
- Page 23 and 24:
Rất cẩn thận, Mễ cho Hùng
- Page 25 and 26:
chiếc lưng gù xuống chịu đ
- Page 27 and 28:
vào một cõi xa xăm mất hút.
- Page 29 and 30:
Đêm xuống thật nhanh trong r
- Page 31 and 32:
không đi từng luồn như ở H
- Page 33 and 34:
dân tộc. Để lịch sử mãi
- Page 35 and 36:
Hưu ạ, nói mãi cũng không h
- Page 37 and 38:
sau khi Bạch Lê mang về nhà.
- Page 39 and 40:
Từ kinh nghiệm của đêm đen
- Page 41 and 42:
Khi Bạch Lê trở về nhà thì
- Page 43 and 44:
em...Em chạy ra xe lẹ lắm cô
- Page 45 and 46:
lửa dậy, băng trên những g
- Page 47 and 48:
thương yêu. Đêm Giáng Sinh 19
- Page 49 and 50:
Thành Phố đầu tiên hứng ch
- Page 51 and 52:
Chỉ còn tiếng nói và hình
- Page 53 and 54:
ồi...Qua một quán nước, án
- Page 55 and 56:
Dậy đường tử khíKhông kh
- Page 57 and 58:
đó ngã xuống ? Tội nghiệp,
- Page 59 and 60: Nguyễn Xuân Phúc Khóa 16 Trư
- Page 61 and 62: trong Thế Chiến Thứ 2 do Tư
- Page 63 and 64: ghê hồn của hỏa lực phi ph
- Page 65 and 66: vùng, pháo binh diện địa 175
- Page 67 and 68: Ngày 14 tháng 9 lần đầu tiê
- Page 69 and 70: chặt ô rô, cóc kèn, dừa nư
- Page 71 and 72: còn một ngón, người sĩ quan
- Page 73 and 74: Tháng 3.73CHƯƠNG XXVIÂm Vọng
- Page 75 and 76: đến lúc tàn cuộc một phậ
- Page 77 and 78: vùng dầy đặc giữ mọi ch
- Page 79 and 80: trầm lặng như đặc thù chun
- Page 81 and 82: Thế Kỷ 11, 12 nào khác Thế
- Page 83 and 84: độ (trở thành hai mặt tươ
- Page 85 and 86: chỉ là đám du kích ngu ngơ n
- Page 87 and 88: chế...lực lượng cộng sản
- Page 89 and 90: Đồng Quân Lực (10 tháng 3) v
- Page 91 and 92: ‘’Đây cũng là lúc quyết
- Page 93 and 94: trận chiến đang bùng nổ gi
- Page 95 and 96: Thắng lợi tin vui khắp mọi
- Page 97 and 98: màu vàng, xanh, đỏ được b
- Page 99 and 100: Nhựt tiến chiếm ngôi chùa.
- Page 101 and 102: một thế kỷ qua kể từ năm
- Page 103 and 104: 10 cây số. 9 giờ sáng, cuộc
- Page 105 and 106: đột kích bắt đầu. 18 pháo
- Page 107 and 108: Chiến Việt Nam đặt trên So
- Page 109: Thành ngạo nghễ kiên cố kia
- Page 113 and 114: 15.- Bình Giả, Tỉnh Phước T
- Page 115 and 116: chết do bất ngờ, vì không l
- Page 117 and 118: kể đến chăng thì cũng chỉ
- Page 119 and 120: Đối mặt binh đội của Tư
- Page 121 and 122: chỉ huy của Sư Đoàn 18 và h
- Page 123 and 124: Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, l
- Page 125: 9-10.- Richard H. Schultz, The Secr