hằng trên màn mắt...Nhưng trước mặt, hai bên, trên chiếc trực thăng bây giờ tôiđang bị vây quanh bởi nón ông soa, nón cối, áo đại quân, áo tác chiến vải kaki <strong>Nam</strong>Định và thuốc lá Điện Biên bay mùi khét... Thượng Đế ơi, phải chăng người muốnném tôi vào một cơn đùa !!? Hằng ngày đi bộ từ nơi của Nghiêm, (Tiểu Đoàn PhóTiểu Đoàn ! Thủy Quân Lục Chiến) căn nhà lầu có lò gạch mà mùa Xuân Mậu Thântôi đã đến ở và chiến đấu...Trí nhớ vận dụng tối đa cũng không thể xác định đượcnơi chốn đã một lần trú ngụ...Và Quốc Lộ 1, Đường Nguyễn Hoàng, Đường GiaLong, trạm xăng xưa tôi và Mễ mua xăng theo lối ‘’ủng hộ’’, quán sách đối diện CổThành, quán bún bò ở bờ sông...Tất cả chốn xưa mỗi ngày mỗi giờ đi qua vẫn khôngthể tìm ra dấu tích...Quảng Trị ơi, trái tim muốn vỡ tan dưới tiếng than im lặng. Và tôilại đến ngồi ở bến sông, nơi tọa độ YD3...Lịch sự, hòa nhã, kiềm chế hết phẫn nộ, đèxuống hết tức tưởi...Thông báo cùng quý vị, thể hiện tinh thần hòa giải, thi hànhnghiêm chỉnh Nghị Định Thư...Tôi phải đối mặt với một kẻ thù vẫn còn rất mới. Ngàynày, tại đây, mùa Hè năm trước. Trước mặt, Quảng Trị tan vỡ chập chùng qua lớpnước mắt vô hìnhThương thân, thương bè bạn, thương người, thương Thành Phố. Nỗi thươngmến mênh mông nhưng dày đặc, thương mến rộn rã đau đớn, thương mến ngất bồnchồn...Mỗi lần ngồi xuống chiếc canô chạy qua bờ Bắc Thạch Hãn, thấy lá Cờ Vàngphất phới trên điêu tàn, lòng trùng xuống, độ phiền muộn sâu như hố thẳm...Đêmkhuya, sương mù mịt, trăng lạnh dọi xuống giòng sông đang lách tách con nước vềbiển xa, nhìn phía núi nơi bạn thân đang co mình dưới hầm để qua cơn pháo tậptrung từ Gio Linh đổ xuống...Đêm qua dần dần, ngày đến, trăng lặn vào nơi xa, màuvàng đục phiền muộn như nỗi uất ức...Ngày hết hẳn, trời sáng, lính và dân tập họpđầy ở bờ sông để đón ‘’anh em mình’’ về và chứng kiến những phương thức biểu lộ‘’đấu tranh cách mạng’’ hạ cấp, cố chấp và bỉ ổi của lũ tù được trả về bên kia. Nơikhông có con người...Đứng trong đêm, nghĩ chuyện trong ngày để thấy bội phục vôvàn lòng cao cả và sức chịu đựng siêu đẳng của Người Việt Miền <strong>Nam</strong>. Nhữngngười lính vừa qua đêm dài dưới pháo nổ và người dân còn hằn vết dấu kinh hoàng.Quảng Trị, nơi họ chứng kiến lũ tù cộng sản đi qua thoảng tiếng tru của lũ chó hoangđi tìm chủ.Lòng cố chấp và sự căm hờn, những khuyết điểm mà người viết dù ở hoàncảnh nào cũng phải nên chối bỏ. Nhưng trong hoàn cảnh đau đớn này, phải cho tôiquyền phẫn nộ. Tính chất cần thiết để bảo vệ con người trước bạo lực. Cuốn sáchđã hình thành trong cơn đau đớn, lần in thứ hai này người viết xin được gởi kèmtheo một tình ý mới. Xin được coi như một vũ khí bảo vệ con người. Lời nói khôngphải mang tính chất kệch cỡm của một đại ngôn láo xược nhưng xin được nghĩ là sựcầu khẩn phát xuất từ một người Việt <strong>Nam</strong> trong hoàn cảnh bi thiết hào hùng. Hoàncảnh của chính quê hương Việt <strong>Nam</strong>.Một năm qua, những người lính được kể đến đã có nhiều biến đổi. Rất nhiềungười thay cấp bậc và chức vụ, nhiều người tạm biệt chiến trường và những ngườiđã...chết. Bên cạnh đó, có những người sống lại, những người trở về và hỏa ngụccộng sản đã được xác nhận là một thực thể. Đồng thời những chuyến đi kế tiếp còncho biết có rất nhiều trận lớn đã không được ghi nhận, như trận ‘’Quận Triệu Phong’’của Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến, trận đánh mẫu chốt mở đường cho chiếndịch tái chiếm Quảng Trị. Quận Đường Triệu Phong, chốt chận đường tiếp vận củaBắc quân từ phía Bắc theo Sông Thạch Hãn vào Quảng Trị. Thế nên, phải xin lập lạimột lần câu tạ lỗi. Một cá nhân trong thời gian giữa các chuyến đi không thể nào cókhả năng ghi nhận đủ toàn thể một cuộc chiến vĩ đại. Cuộc chiến vượt hết cả cuộcchiến lịch sử chiến tranh loài người.Quảng Trị72MÙA HÈ ĐỎ LỬA
Tháng 3.73CHƯƠNG XXVIÂm Vọng của Mùa HèCâu chuyện có vẻ giả tưởng hoang đường quả hiện thực với Người Lính ViếtVăn và khối bằng hữu vô vàm của anh khắp nơi trên thế giới. Từ một chốn đông đúcNgười Việt như orange County, <strong>Nam</strong> Cali đến hải đảo Nanaimo xa xôi, cực TâyCanada, nơi chỉ có vài ngàn người Việt phân tán trên vùng đất hẻo lánh rộng bằngnửa nước Việt <strong>Nam</strong> hoặc từ cực Bắc bán cầu, Montréal, Vancouver Canada xuốngđịa cực phương <strong>Nam</strong>, Perth, sydney, Melbourn... Nhưng những người việt sống rảirác khắp địa cầu kia đã đồng tập họp do nguồn thúc dục cảm động: Lực bền bỉ thựclòng Bằng Hữu-Huynh Đệ. họ cũng gặp gỡ, đến với nhau từ cố kết của CHỮ Vật thểthừa thãi, vô dụng giữa cuộc tranh sống cực độ tàn nhẫn, khắc nghiệt nơi xã hội vănminh kỹ thuật Tây phương. Mà cho là người sinh quán bản địa cũng có phần coithường, nghi hoặc. Khối Người Việt tỵ nạn ấy cũng đến với nhau bởi nỗi thiết mongđược Đối Thoại và Lắng Nghe: Năng lực, nhu cầu từ lâu bị nghi ngờ, phủ nhận,xuyên tạc, lợi dụng sau hơn hai mươi năm phiêu dạt, phân tán nơi đất người.Chữ Viết từ khổ nạn, Tiếng Lời cất lên giữa vũng tối vô tận Việt <strong>Nam</strong> qua<strong>Phan</strong> Nhật <strong>Nam</strong> đã được cổ vũ, hòa nhịp và hiệp thông. Sự kiện này hiện thực mốisắt son, giữ vững Sức Tự Tin dù đang trong cảnh mùa Đông điêu tàn mà toàn DânViệt đang gánh chịu không đường bức thoát từ ngày 30 tháng Tư. 1975. Đấy cũng làLực Tự Tin của Mùa Hè lẫm liệt năm xưa. Buổi Dân Quân Miền <strong>Nam</strong> nắm chắc vũkhí và oai hùng chiến thắng: Ngày Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.Đi Về Phía TâySau loạt thành công ở Orange County, Sau José, California trong những ngày14 và 28 tháng 6. Portland, Orange 20.6. Seattle, Washington 21.6. Vancouver, BC22.6 ở Canada. Bằng Hữu Tây Âu lên tiếng gọi. anh tiếp tục lên đường. Và lần gặpgỡ tại Trung Tâm FIAP PARIS ngày 6 tháng 7.1997 là thành quả hãnh diện giữaNgười Viết-Bạn Đọc qua tương quan Khổ Nạn Việt <strong>Nam</strong> mà Người Lính đã trungtrực tường trình với Chữ Nghĩa-Tiếng Lời phát xuất từ Lòng Thành, Tính Thật.Phòng Hội Sudasie, mang số 13 của trung tâm vốn chỉ được trù liệu với sứcchứa 200 người, nhưng Ban Tổ Chức hôm ấy đã phải mở rộng cửa ra vào thông rahai hành lang, sếp thêm ghế, điều động số lượng ghế dự trù của những phòngkhác...100, 150, 200. Cuối cùng, những người đến sau phải chịu vị thế đứng suốtbuổi nói chuyện. Nhưng không hề gì. Người Bạn đã đến từ phương xa. Rất xa, bênkia bờ đại dương, nỗi khó khăn kia cũng không đáng kể vì mỗi người Việt <strong>Nam</strong> hằngchịu đựng mối khổ vô lượng, tràn bờ...Nào phải xa lạ ? Chính là bằng hữu, anh emta hằng hai mươi, ba nưoi năm qua. Từ 1954, từ 1945, Người Lính Viết Văn hầu nhưnhớ hết, biết đủ những người hằng mấy mươi năm không gặp...Những Lâm VănRớt, Nguyễn Hữu Chí ở nhảy Dù. Quỳnh ‘’Lõi’’ Mẫn ‘’Giáo Sư’’ của sinh hoạt đặc thùLa pagode, Sài Gòn trước 1975, với Nguyễn Trọng Chín, Nguyễn Văn Trượng củahơn bốn mươi năm trước nơi <strong>Phan</strong> Châu Trinh, Đà Nẵng. Gặp nhau là quý, biết ra làcòn sống sót là được. Kể gì ba chuyện lẻ tẻ, trước sau cũng y như là cách lính tráng,trẻ thơ 40, 50 năm trước. Không có một chút nhỏ thay đổi. Có bạn chấp nhận việccảnh sát câu móc, biên phạt chiếc xe đậu sái chỗ quy định trước cửa trung tâm thayvì rời khỏi chỗ ngồi, vì muốn được theo dõi liên tục đủ buổi nói chuyện của anh. Chitiết nhỏ nhặt nhưng giúp hiểu tận lòng người thắm thiết.Mở đầu, Người Tổ Chức Trung Tâm <strong>Nam</strong> Á, cơ sở xuất bản phát hành đầutiên, lớn nhất của Cộng Đồng Người Việt ở Paris, cả Tây Âu, khắp Âu Châu, MaiTrung Ngọc, đại diện Ban Tổ Chức trình bày mục đích buổi gặp mặt. Tất cả bắt đầu73MÙA HÈ ĐỎ LỬA
- Page 6 and 7:
Nam và Quân Đội Mỹ) toàn di
- Page 8 and 9:
Sài gòn thất thủ như một l
- Page 11 and 12:
công vào Tân Cảnh, Kontum, hư
- Page 13 and 14:
Đấy không còn là người v
- Page 15 and 16:
- Tiên sư, bom ném thì hay như
- Page 17 and 18:
Lính Đại Đội Thinh nhỏm d
- Page 19 and 20:
được, Mễ thử bung quân ra
- Page 21 and 22: Trời tối dần, hơi núi đùn
- Page 23 and 24: Rất cẩn thận, Mễ cho Hùng
- Page 25 and 26: chiếc lưng gù xuống chịu đ
- Page 27 and 28: vào một cõi xa xăm mất hút.
- Page 29 and 30: Đêm xuống thật nhanh trong r
- Page 31 and 32: không đi từng luồn như ở H
- Page 33 and 34: dân tộc. Để lịch sử mãi
- Page 35 and 36: Hưu ạ, nói mãi cũng không h
- Page 37 and 38: sau khi Bạch Lê mang về nhà.
- Page 39 and 40: Từ kinh nghiệm của đêm đen
- Page 41 and 42: Khi Bạch Lê trở về nhà thì
- Page 43 and 44: em...Em chạy ra xe lẹ lắm cô
- Page 45 and 46: lửa dậy, băng trên những g
- Page 47 and 48: thương yêu. Đêm Giáng Sinh 19
- Page 49 and 50: Thành Phố đầu tiên hứng ch
- Page 51 and 52: Chỉ còn tiếng nói và hình
- Page 53 and 54: ồi...Qua một quán nước, án
- Page 55 and 56: Dậy đường tử khíKhông kh
- Page 57 and 58: đó ngã xuống ? Tội nghiệp,
- Page 59 and 60: Nguyễn Xuân Phúc Khóa 16 Trư
- Page 61 and 62: trong Thế Chiến Thứ 2 do Tư
- Page 63 and 64: ghê hồn của hỏa lực phi ph
- Page 65 and 66: vùng, pháo binh diện địa 175
- Page 67 and 68: Ngày 14 tháng 9 lần đầu tiê
- Page 69 and 70: chặt ô rô, cóc kèn, dừa nư
- Page 71: còn một ngón, người sĩ quan
- Page 75 and 76: đến lúc tàn cuộc một phậ
- Page 77 and 78: vùng dầy đặc giữ mọi ch
- Page 79 and 80: trầm lặng như đặc thù chun
- Page 81 and 82: Thế Kỷ 11, 12 nào khác Thế
- Page 83 and 84: độ (trở thành hai mặt tươ
- Page 85 and 86: chỉ là đám du kích ngu ngơ n
- Page 87 and 88: chế...lực lượng cộng sản
- Page 89 and 90: Đồng Quân Lực (10 tháng 3) v
- Page 91 and 92: ‘’Đây cũng là lúc quyết
- Page 93 and 94: trận chiến đang bùng nổ gi
- Page 95 and 96: Thắng lợi tin vui khắp mọi
- Page 97 and 98: màu vàng, xanh, đỏ được b
- Page 99 and 100: Nhựt tiến chiếm ngôi chùa.
- Page 101 and 102: một thế kỷ qua kể từ năm
- Page 103 and 104: 10 cây số. 9 giờ sáng, cuộc
- Page 105 and 106: đột kích bắt đầu. 18 pháo
- Page 107 and 108: Chiến Việt Nam đặt trên So
- Page 109 and 110: Thành ngạo nghễ kiên cố kia
- Page 111 and 112: ao ngày đêm. Người chỉ huy
- Page 113 and 114: 15.- Bình Giả, Tỉnh Phước T
- Page 115 and 116: chết do bất ngờ, vì không l
- Page 117 and 118: kể đến chăng thì cũng chỉ
- Page 119 and 120: Đối mặt binh đội của Tư
- Page 121 and 122: chỉ huy của Sư Đoàn 18 và h
- Page 123 and 124:
Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, l
- Page 125:
9-10.- Richard H. Schultz, The Secr