Đại Tá Ngô Quang Trưởng nhận đơn vị, Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong một hoàncảnh bất lợi toàn diện. Những Quân Nhân giữ chức trọng yếu, kể cả Sĩ Quan chỉ huytrung cấp và Hạ Sĩ Quan (nếu là gốc Phật Giáo) đồng bị tuyên chuyển sang nhữngđơn vị thuộc các vùng chiến thuật khác, người còn lại không tin những bạn đồng ngũmới tuyên chuyển đến (tình hình tương tự ở các cấp chính quyền, quân sự miền<strong>Nam</strong> như sau đảo chánh 1 tháng 11.1963). Nhưng Đại Tá Trưởng vững tin nơi bảnlĩnh cá nhân mình, cùng khả năng đơn vị, đã được thử sức sau hơn mười năm dàichiến trận miền <strong>Nam</strong>. Ông cũng rất cậy trông vào vị Tư Lệnh Phó, người có khảnăng Tham Mưu, tổ chức cao, tâm chất trung trực, đạo đức, thế nên chỉ sau một thờigian ngắn, Sư Đoàn đã chỉnh đốn lại đội ngũ, phục hồi tư thế chiến đấu như hằngcó. Bắt đầu với những sĩ quan trẻ, những sĩ quan cấp Úy thuộc các Khóa 14, 16 đến20 Võ Bị Đà Lạt hoặc các Khóa tương đương của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức,đơn vị dần thâu đạt những tiến bộ vượt bực sau một thời gian ngắn ngũi trong vòngmột năm. Chiến trận Mậu Thân 1968, Hành Quân Lam Sơn 719 và cuộc phản kíchmùa Hè 1972 sau nầy là những bằng cớ chứng thực. Đơn vị thuộc quyền của NgườiChỉ Huy Ngô Quang Trưởng là Sư Đoàn Bộ Binh tác chiến hàng đầu của Quân Lực.Không chỉ với Quân Đội miền <strong>Nam</strong> nhưng nếu so sánh cùng thế giới, chúng ta vẫngiữ toàn quyền hãnh diện. Đại Tướng Abrams sau nầy, khi thay thế TướngWestmoreland chỉ huy Quân Đội Mỹ tại Việt <strong>Nam</strong> đã nói cùng những sĩ quan, Tướnglãnh của ông: ‘’Sư Đoàn của Tướng Trưởng tác chiến trong rừng giỏi hơn chúng ta’’(13). Sự biến đổi thần kỳ nầy không là chuyện hoang đường. Trận làng Lương Cổ,Thừa Thiên đầu năm 1967 là một thí dụ điển hình của lần vượt dậy hào hùng kia.Hệ thống các làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá thuộc Huyện Hương Trà,Thừa Thiên, Tây-Bắc Thành Phố Huế, kết thành một giải hành lang thiên nhiên màcác đơn vị bộ đội cộng sản từ các mật khu vùng Tây-<strong>Nam</strong> Huế (A Sao, A Lưới),thường sử dụng để xâm nhập tiếp cận Thành Phố (do cố tránh các tiền đồn thượngnguồn sông Hương, mặt <strong>Nam</strong> Thành Phố). Những làng nầy từ chiến tranh 1945-1954 đã là những căn cứ địa vững chắc ‘’những chiến khu-vùng tự do’’, mà quân độiLiên Hiệp Pháp không thể nào kiểm soát được, bởi hệ thống kinh lạch của ba consông, sông Hương, sông Bồ, sông Mỹ Chánh tạo nên một vùng trũng thấp nằm giữaPhá Tam Giang, cửa Thuận An và Quốc Lộ I ngăn cản sức tiến của bộ binh, khảnăng cơ động của những người chỉ huy quân sự vùng Thừa Thiên-Huế. Lực lượngcộng sản bám chắc củng cố vùng bản lề nầy bởi đấy cũng là nơi ém quân để mởnhững chiến dịch quan trọng: Cắt đường số I, chận viện lên mặt phía Bắc (QuảngTrị, Đông Hà và xa hơn, Cồn Tiên, Gio Linh, Khe Sanh...) Đại Tá Trưởng sử dụngmột Tiểu Đoàn Bộ binh cơ hữu làm thành phần nút chặn dùng Đại Đội Thám Kíchcủa Sư Đoàn, Đại Đội Hắc Báo và Tiểu Đoàn 9 Dù (tăng phái), hợp cùng Chi Đoàn2/7 Thiết Vận Xa M-113, đơn vị thống thuộc của Sư Đoàn mở hai mũi dùi tấn côngchính vào hệ thống công sự, giao thông hào mà có lẽ đã đào từ ngày bắt đầu cuộcchiến và càng ngày càng củng cố độ dày để chịu đựng nổi pháo binh cùng phi cơoanh kích. Và cũng có thể đây là lần đầu tiên phía bộ đội cộng sản gặp phải một đốithủ kỳ lạ những địch thủ tiến thẳng vào hàng rào hỏa lực của họ. Trận chiến kéo dàitừ sáng sớm kéo qua trưa, phía Nhảy Dù, Bộ Binh, Thiết Giáp đồng bị thiệt hại khánặng nhưng vẫn không thể tiến vào khu làng qua những cánh đồng ngập nước. Cuốicùng Đại Tá Trưởng chuyển lệnh trực tiếp đến cùng với Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhã,Tiểu Đoàn 9 Dù, đơn vị tăng phái cho khu chiến thuật: ‘’Đơn vị mới thành lập (do biếtrõ khi ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Dù), anh lại vừa thay thế anhHuệ (viên Tiểu Đoàn Trưởng vừa tử trận tháng trước trong trận Đèo Ba Giốc, vùngPhi Quân Sự), thế nên tất cả thành bại của đơn vị là ở trận nầy đây.’’ Ông không nóihết lời, nhưng người Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng đơn vị Dù tăng phái hiểu được ý:90MÙA HÈ ĐỎ LỬA
‘’Đây cũng là lúc quyết định một phần sự nghiệp riêng của chính ông, viên Tư Lệnhchiến trường một Tướng lãnh xuất thân từ Binh Chủng Nhẩy dù và cả danh dự BinhChủng cũng sẽ được chứng thực nơi chiến trường hiểm hóc, xa xôi này’’. Thiếu TáNhã chuyển lại lệnh cho các Đại Đội Trưởng tác chiến. Và trên cánh đồng loángnước, trong ánh sáng chập choạng của buổi chiều diễn ra một cảnh tượng khốc liệthùng tráng...Những chiếc M-113 theo lệnh của Đại Úy Hóa, Chi Đoàn Trưởng đồngmở bung pháo tháp, các xạ thủ đại liên 50 siết cứng ngón tay vào lẩy cò tuôn loạtđạn công phá mở toang các vị trí cố thủ của đơn vị việt cộng, lính Nhảy Dù tùng thiếtvượt qua mặt chiến xa, tiến lên thanh toán mục tiêu bằng cận chiến. Những ThiếuÚy Thuận Văn Chàng, Phạm Văn Thành, Chuẩn Úy Nguyễn Thành Văn...xông lêntrước hàng quân với lựu đạn mở chốt cầm sẵn ở tay. Thân hình họ lảo đảo ngãxuống bờ ruộng xong đứng lên lại với những tiếng hô...xung phong...xung phong hòalẫn tiếng đạn súng tay nổ bục trong thân thể, da thịt người vì đường đạn đi quá ngắn.Đám bộ đội cộng sản cố thủ không lường được thế trận với những người lính đốiphương quá đỗi kiên cường, nên đồng loạt đứng dậy khỏi giao thông hào, đưa caotay đầu hàng. Trận chiến kết thúc với lời khai: ‘’Chúng cháu được lệnh cố thủ vị trí vìđây là vùng giải phóng, quê nhà của đồng chí Đại Tướng!’’ Hóa ra Đại Tá NgôQuang Trưởng đã phá vỡ huyền thoại từ đã lâu được phổ biến trong bộ đội cộng sảnmiền Bắc: ‘’Quân giải phóng đã kiểm soát được ba phần tư lãnh thổ miền <strong>Nam</strong>, nhấtlà những vùng căn cứ địa cách mạng cũ (trước năm 1954), hoặc cơ sở địa phương,quê hương các đồng chí lãnh đạo’’. Làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá là quêhương của Nguyễn chí Thanh, nhưng bộ đội miền Bắc đã không vào tiếp thu với‘’chào đón của nhân dân giác ngộ cách mạng’’, mà bởi những người lính Cộng Hòatheo một cách thế khác hẳn lời tuyên truyền. Tuy nhiên, trận làng Lương Cổ đầunăm 1967, hoặc lần đánh bật toàn diện hạ tầng cơ sở, đơn vị du kích, lực lượng địaphương của bộ đội cộng sản vùng mật khu Phú Thứ, Tây-<strong>Nam</strong> Huế, bên trái QuốcLộ 1 đường đi Đà Nẵng vào khoảng gần cuối năm sau nầy chỉ là phần dạo đầu. Phảiđợi đến buổi thử sức toàn diện. Khi cộng sản quyết tâm giải phóng miền <strong>Nam</strong> bằngcuộc Tổng công kích-Tổng nổi dậy theo lời thúc dục từ Hà Nội, với lời thơ ‘’ChúcTết’’ của Hồ chí Minh đọc trong đêm <strong>Giao</strong> Thừa Tết Mậu Thân 1968. Trận thử sứclàm sáng tỏ một điều đơn giản cao quý: Quân đội của bên nào thật sự nắm giữ sắccờ Nhân Nghĩa của Quê Hương.27 tháng 2 năm 1968. Những giờ cuối cùng ở Ngũ Giác Đài, Mc<strong>Nam</strong>ara sửdụng quyền lực còn lại sau 1558 ngày nắm giữ chức vụ trọng yếu nhất nền QuốcPhòng Mỹ để phủ quyết yêu cầu của Tướng Westmoreland về đề nghị tăng cườngthêm 200.000 nhân sự bổ sung trong các lãnh vực Chính Trị, Kinh Tế, Quân Sự vàChiến Tranh Tâm Lý. Hành động ‘’được ăn cả ngã về không’’ gọi là khôn ngoan nầykhông phải do trí lực sáng tạo riêng, nhưng ông ta đã họ được từ Dean Acheson,theo cách người nầy đã một lần từ nhiệm chức vụ Thứ Trưởng Tài Chánh khi khôngđồng ý với chính sách tài chánh của Tổng Thống F. Roosevelt đầu thập niên 1930.Nhưng thật chỉ là một cách nói, bởi Mc<strong>Nam</strong>ara đã giữ chức vụ lâu hơn bất kỳ vị tiềnnhiệm nào, lâu đến bảy năm với khả năng quyền lực đặc biệt giành riêng qua hai đờiTổng Thống. Danh tính ‘’Mc<strong>Nam</strong>ara’’ đã được dùng để đặt tên cho một phòng tuyếncăn cứ hỏa lực chạy dài từ Cửa Việt ở biển Đông đến Trại Lực Lượng Đặc Biệt LàngVei sát biên giới Lào-Việt. Cần nói thêm một điều: Chiến tranh Việt <strong>Nam</strong> có lúc đượcgiới nghiên cứu chiến lược quốc tế gọi là ‘’cuộc chiến Mc<strong>Nam</strong>ara’’ vì người này đã‘’tổ chức’’ hoạt động quân sự ở Việt <strong>Nam</strong> kia thành một tiến trình tiếp vận khổng lồvới phí tổn đến 4 Tỷ Đô la khởi đi từ 1965, thời điểm lực lượng bộ binh Mỹ bắt đầutham chiến ở Việt <strong>Nam</strong>. Sư Đoàn 1 Không Kỵ, lực lượng bộ binh cơ động nhất thếgiới với một Sư Đoàn trực thăng hơn 400 chiếc cơ hữu cũng là sản phẩm đắc ý nhất91MÙA HÈ ĐỎ LỬA
- Page 6 and 7:
Nam và Quân Đội Mỹ) toàn di
- Page 8 and 9:
Sài gòn thất thủ như một l
- Page 11 and 12:
công vào Tân Cảnh, Kontum, hư
- Page 13 and 14:
Đấy không còn là người v
- Page 15 and 16:
- Tiên sư, bom ném thì hay như
- Page 17 and 18:
Lính Đại Đội Thinh nhỏm d
- Page 19 and 20:
được, Mễ thử bung quân ra
- Page 21 and 22:
Trời tối dần, hơi núi đùn
- Page 23 and 24:
Rất cẩn thận, Mễ cho Hùng
- Page 25 and 26:
chiếc lưng gù xuống chịu đ
- Page 27 and 28:
vào một cõi xa xăm mất hút.
- Page 29 and 30:
Đêm xuống thật nhanh trong r
- Page 31 and 32:
không đi từng luồn như ở H
- Page 33 and 34:
dân tộc. Để lịch sử mãi
- Page 35 and 36:
Hưu ạ, nói mãi cũng không h
- Page 37 and 38:
sau khi Bạch Lê mang về nhà.
- Page 39 and 40: Từ kinh nghiệm của đêm đen
- Page 41 and 42: Khi Bạch Lê trở về nhà thì
- Page 43 and 44: em...Em chạy ra xe lẹ lắm cô
- Page 45 and 46: lửa dậy, băng trên những g
- Page 47 and 48: thương yêu. Đêm Giáng Sinh 19
- Page 49 and 50: Thành Phố đầu tiên hứng ch
- Page 51 and 52: Chỉ còn tiếng nói và hình
- Page 53 and 54: ồi...Qua một quán nước, án
- Page 55 and 56: Dậy đường tử khíKhông kh
- Page 57 and 58: đó ngã xuống ? Tội nghiệp,
- Page 59 and 60: Nguyễn Xuân Phúc Khóa 16 Trư
- Page 61 and 62: trong Thế Chiến Thứ 2 do Tư
- Page 63 and 64: ghê hồn của hỏa lực phi ph
- Page 65 and 66: vùng, pháo binh diện địa 175
- Page 67 and 68: Ngày 14 tháng 9 lần đầu tiê
- Page 69 and 70: chặt ô rô, cóc kèn, dừa nư
- Page 71 and 72: còn một ngón, người sĩ quan
- Page 73 and 74: Tháng 3.73CHƯƠNG XXVIÂm Vọng
- Page 75 and 76: đến lúc tàn cuộc một phậ
- Page 77 and 78: vùng dầy đặc giữ mọi ch
- Page 79 and 80: trầm lặng như đặc thù chun
- Page 81 and 82: Thế Kỷ 11, 12 nào khác Thế
- Page 83 and 84: độ (trở thành hai mặt tươ
- Page 85 and 86: chỉ là đám du kích ngu ngơ n
- Page 87 and 88: chế...lực lượng cộng sản
- Page 89: Đồng Quân Lực (10 tháng 3) v
- Page 93 and 94: trận chiến đang bùng nổ gi
- Page 95 and 96: Thắng lợi tin vui khắp mọi
- Page 97 and 98: màu vàng, xanh, đỏ được b
- Page 99 and 100: Nhựt tiến chiếm ngôi chùa.
- Page 101 and 102: một thế kỷ qua kể từ năm
- Page 103 and 104: 10 cây số. 9 giờ sáng, cuộc
- Page 105 and 106: đột kích bắt đầu. 18 pháo
- Page 107 and 108: Chiến Việt Nam đặt trên So
- Page 109 and 110: Thành ngạo nghễ kiên cố kia
- Page 111 and 112: ao ngày đêm. Người chỉ huy
- Page 113 and 114: 15.- Bình Giả, Tỉnh Phước T
- Page 115 and 116: chết do bất ngờ, vì không l
- Page 117 and 118: kể đến chăng thì cũng chỉ
- Page 119 and 120: Đối mặt binh đội của Tư
- Page 121 and 122: chỉ huy của Sư Đoàn 18 và h
- Page 123 and 124: Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, l
- Page 125: 9-10.- Richard H. Schultz, The Secr