cầu gỗ cháy từ bao ngày trước còn bốc khói, nhịp cầu sắt bị đổ xuống không đủcường độ để gợi lên không khí bi thảm của trận chiến vừa xẩy ra cách đây mườingày trên con đường nhựa bên kia sông, nơi bãi cát đìu hiu lặng đứng những khómtre còm cõi...Những tang thương trầm thống của những ngày qua tan biến trong ánhnắng đẹp đẽ vàng rực của buổi sớm mai này. Có tiếng chim cu gáy ở bên kia sông,tiếng chim mộc mạc ấm áp như giọng cười khúc khích của đứa trẻ.- Đấy, toa thấy cái lũy tre ở đầu con sông nơi chỗ quanh của con sông không? Liễn chỉ tay về hướng Đông, nơi con sông quanh một vòng thật đẹp để đổ vào PháTam Giang.- Ờ, tôi thấy rồi, chỗ đó tôi đã đóng quân. Làng nội tôi đấy, làng Vân Trình, tênnghe hay không, mỗi vụ Hè tôi về đây chơi, năm mười tuổi đã lội qua sông nàyđược...Hai mươi năm sau cho bạc triệu tôi cũng không qua được bên kia một mình.- Ừ. Tôi lơ đãng nhìn theo con sông, nơi này mùa đông xưa tôi đứng trên bờđợi Mễ cởi áo bơi qua sông mua rượu, phía trái nơi xa có bãi đất bồi thửa ruộng,bắp lên những lá xanh ngắt...- Người miền Trung cực quá, không đủ đất trồng lúa, có chút đất bồi là bámvào ngay. Ba mươi cây số từ núi ra biển không có chút đất màu, toàn cát và cát, cằncỗi xám xịt không như cát vùng Nha Trang, Cam Ranh.Súng nổ sát bờ sông, súng nhỏ, Bộ Binh Bắc quân mở đường, đánh thămdò...Chúng trở về nơi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Phúc đang báo cáo với Lữ Đoàn.- Đó là tiền phương bộ binh của tụi nó xuống quan sát mình, chẳng hiểu nóbắn súng cối và 57 như vậy để làm gì ? C...Mày gọi pháo binh làm mười tràng vàonơi yếu tố mà toán viễn thám ghi nhận tiếng départ. Phúc nói với Tiền, Sĩ Quan Ban3.Pháo từ Phong Điền rơi lên ào ạt. Bắc quân ngưng tác xạ, họ xuống hầm hayđã bị chết, không biết được, những đám bụi do đạn nổ bốc lên tan đi thật nhanh, chỉcòn luồng khói đen cuồng cuộn bốc cao. Một ngôi nhà bị cháy. Có tiếng gắt của anhPhúc: ‘’Tụi nó đặt súng ở đấy thì xin bắn ở đấy, làm sao biết viễn thám đêm vừa rồicó ngửi đúng hay không ? Tiên sư có vợ, bị cặm sừng cũng đếch biết nữa là...’’ Anhném cái ống liên hợp vào một góc nhà tụt xuống hầm chỉ huy xỏ chân vào đôi dép đivào nhà thờ...Đường về, trời nắng gió im buổi trưa mùa hè miền Trung bốc cháy toàn thểcảnh vật, núi im lìm rung rinh sau lớp hơi đá mờ nhạt, người lính bị thương ngồibăng sau gác bàn chân sưng đỏ máu đẫm ướt cuộn băng bày. Qua Phong Điền, xebị kẹt, ngừng lại dưới tàng cây nhìn Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến di chuyển chocuộc hành quân đang khai diễn. Họ nhìn tôi tò mò, áo lính Nhẩy Dù đi xe Thủy QuânLục Chiến, tóc dài và chiếc máy ảnh ở ngực... Tôi trông chẳng giống ai ! Tôi cũngbiết thế nên lúng túng đưa máy hình lên chụp loạn xạ. Ôi tôi hành nghề báo. Có mộtđiều gì buồn buồn trong thân.Mỹ Chánh không có gì, quả thật vậy, tôi về Sài Gòn, thay lớp áo quần dơ vàướt, uống ly rượu có đá lạnh, chạnh nhớ những người bạn ở nơi xa đang ao ướcmột tờ báo, dù tờ báo đã cũ từ ngày 30 tháng Tư...Điều này làm lòng tan vỡ, nhữngngười sống trên khổ nhọc miệt mài, trong núi xanh, trên cồn cát, những ‘’sinh vật’’lính quen thuộc và thân ái bị quay cuồng níu kéo hoài vào gian nguy triềnmiên...Không phải chỉ có ở Mỹ Chánh với Trâu Điên, nhưng khắp cùng đất nước, từnúi cao xuống đồng bằng, có đủ trên mỗi phần đất của quê hương. Mỹ Chánh khôngcó gì ngoài hai xác chết bên kia sông cạnh chiếc xe tăng bị cháy, tiếng nổ B-52 ầmvang đều đặn và núi rung rinh, cây cầu bốc khói xám. Những người và cảnh chếtnày có nổi yên nghỉ riêng, lòng có xốn xang là hình ảnh người lính mang dép Nhật,chống cây gậy đi trên thôn xóm tan vỡ, người lính không đầy 20 tuổi...Em bị thương !50MÙA HÈ ĐỎ LỬA
Chỉ còn tiếng nói và hình ảnh đó đè nặng ở đỉnh đầu, tay tôi run và nặng khi viếtnhững dòng chữ vô nghĩa này.Quả bom chiến lược hay viên đạn súng colt chỉ gây một tiếng nổ, cũng chỉ viếtthành ‘’một chữ’’ trên trang giấy, nhưng trầm thống của con người thì mênh mông.Chữ nghĩa vô tri viết được mấy cho vừa.CHƯƠNG XXHuế còn thởHuế sống, chắc chắn như thế. Sống vì trong lòng Huế có những kháng tố âmthầm lặng lẽ, những phản ứng kín đáo mang sức mạnh sinh tồn của con người khi bịép đến cuối chân tường, đưa đôi tay tuyệt vọng lên đầu, đánh đòn quyết tử để vượtqua biên giới giữa chết và sống. Huế sống, dù mệt mỏi, tàn tạ đau đớn, tất cả phảiđược vượt qua, qua hết để gánh chịu nỗi kiêu hãnh ngậm ngùi của một dân tộc tồntại sau hằng hằng điêu linh. Huế phải sống vì số kiếp bi tráng thê thảm đó. Quêhương tôi không chết được...Huế còn thở.Quê hương, nghe như lời mai mỉa, như tiếng cười khủng khỉnh lạnh nhạt. Quêhương đó và tôi xa lạ, lạ từ đường tóc giòng máu, lạ ở tiếng nói cách cười, xa lạhoàn toàn trong lối sống và nhìn đời. Nơi chốn đó với tôi có một cách xa không bùtrừ được. Nhưng tôi phải nhớ đến Huế, phải nghĩ đến, phải đau đớn bồi hồi khi đi lạitrên những con đường vắng bóng người, không phải sự vắng vẻ yên tĩnh của hàngcây xanh lá vang động tiếng ve. Sự yên tĩnh ở đây nín lặng và đau đớn như ngôi nhàđóng cửa với tấm bảng ‘’Nhà đang có chủ ở’’. Giòng chữ không làm nóng khônggian, chỉ tăng thêm sự run rẩy lo sợ thiếu hơi ấm của người. Tôi đến Huế vào ngàyHuế vừa hé cửa như con voi già mở đôi mắt nhỏ từ đồi cao nhìn xuống đám rừngxưa nơi phần mộ của giòng giống nó. Con voi chưa chết được, Huế vẫn thế, Huếchưa đi hết đời của mình, Huế đang sống, còn sống. Tôi đau đớn ngất ngư, thấynhói ở trong lòng, từng cơn đau có thật khi đi qua cửa Chánh Tây bị đổ nát, qua cáckhẩu súng đồng mà ngày nào trong thuở nhỏ, hai mươi năm trước, tôi ao ước đượcbò lên ngồi trên đầu nòng súng rồi nhẩy từ đây xuống. Tôi phải đau với Huế vì thấpthoáng trong không gian mờ nhạt của Huế co ro ướt át, tối mùa Đông năm 1949,Cầu Gia Hội đang sửa chữa, tôi loay hoay lạc lối trên những con Đường Ngự Viên,Trung Bộ, lạc qua Cầu Đông Ba về đến cống Phát Lát, thằng bé đội nón cối trắng vàđi ba ta quai chéo, quần dài xanh có tấm yếm trước ngực ‘’để che gió máy’’ Tôi đấy,tôi của tuổi ấu thơ hỗn độn những rung động chưa đặt tên trong một Thành Phố âmthầm thê thiết. Tôi đau với Huế, phải nhức nhối từng hồi, giật giật ở thái dương khinhìn cảnh người đàn bà tất tả gánh đứa con đi trên Đường Hương Thủy, Gia Lê, haivạt áo dài đen đánh phần phật vào đôi chân luống cuống. Thuở xưa cũng thế, cũngchạy giặc, cũng ‘’vỡ mặt trận’’, cũng tan nát lửa đỏ và điêu tàn hừng hực. ‘’Tây từbên Tòa Khâm đánh qua, mẹ bỏ con trong thúng và gánh đi trong lửa đạn’’. Thế nêntôi phải đau cùng Huế, dù quê hương đó bạc đãi, phân lìa...Huế sống, cũng như sau bao nhiêu đại loạn, Huế chậm rãi chắc chắn chốnggậy, lấn từng tấc, từng phân dựng đứng cơ thể tàn tạ và hồi sinh. Lần này cũng vậy,sau khi mất Đông Hà và Quảng Trị bị vây khốn, đồng bào Quảng Trị băng qua vùngHải Lăng, Lương Điền chạy về Mỹ Chánh, dân Mỹ Chánh nhập vào lui xuống PhongĐiền, An Lỗ...Nhưng Phong Điền, An Lỗ đâu phải là phòng tuyến ‘’tử thủ’’ được, haicon sông cạn đáy phơi lòng cát khô khan dưới mặt trời hạ chí...Những người dânnày lui thẳng về Huế...Và Huế bắt đầu thất thần hoảng hốt. Nhưng vẫn rất nhiềungười tin tưởng: ‘’Phe mình giữ được Quảng Trị, can chi mô, vài bữa mình lấy lạiĐông Hà mấy hồ...’’ Nhưng niềm tin tin tưởng như quả bóng căng hơi sau khi nhậnmũi kim đâm ngập. Quảng Trị mất, mất chưng hửng tức tối. Biệt Động Quân nương51MÙA HÈ ĐỎ LỬA
- Page 6 and 7: Nam và Quân Đội Mỹ) toàn di
- Page 8 and 9: Sài gòn thất thủ như một l
- Page 11 and 12: công vào Tân Cảnh, Kontum, hư
- Page 13 and 14: Đấy không còn là người v
- Page 15 and 16: - Tiên sư, bom ném thì hay như
- Page 17 and 18: Lính Đại Đội Thinh nhỏm d
- Page 19 and 20: được, Mễ thử bung quân ra
- Page 21 and 22: Trời tối dần, hơi núi đùn
- Page 23 and 24: Rất cẩn thận, Mễ cho Hùng
- Page 25 and 26: chiếc lưng gù xuống chịu đ
- Page 27 and 28: vào một cõi xa xăm mất hút.
- Page 29 and 30: Đêm xuống thật nhanh trong r
- Page 31 and 32: không đi từng luồn như ở H
- Page 33 and 34: dân tộc. Để lịch sử mãi
- Page 35 and 36: Hưu ạ, nói mãi cũng không h
- Page 37 and 38: sau khi Bạch Lê mang về nhà.
- Page 39 and 40: Từ kinh nghiệm của đêm đen
- Page 41 and 42: Khi Bạch Lê trở về nhà thì
- Page 43 and 44: em...Em chạy ra xe lẹ lắm cô
- Page 45 and 46: lửa dậy, băng trên những g
- Page 47 and 48: thương yêu. Đêm Giáng Sinh 19
- Page 49: Thành Phố đầu tiên hứng ch
- Page 53 and 54: ồi...Qua một quán nước, án
- Page 55 and 56: Dậy đường tử khíKhông kh
- Page 57 and 58: đó ngã xuống ? Tội nghiệp,
- Page 59 and 60: Nguyễn Xuân Phúc Khóa 16 Trư
- Page 61 and 62: trong Thế Chiến Thứ 2 do Tư
- Page 63 and 64: ghê hồn của hỏa lực phi ph
- Page 65 and 66: vùng, pháo binh diện địa 175
- Page 67 and 68: Ngày 14 tháng 9 lần đầu tiê
- Page 69 and 70: chặt ô rô, cóc kèn, dừa nư
- Page 71 and 72: còn một ngón, người sĩ quan
- Page 73 and 74: Tháng 3.73CHƯƠNG XXVIÂm Vọng
- Page 75 and 76: đến lúc tàn cuộc một phậ
- Page 77 and 78: vùng dầy đặc giữ mọi ch
- Page 79 and 80: trầm lặng như đặc thù chun
- Page 81 and 82: Thế Kỷ 11, 12 nào khác Thế
- Page 83 and 84: độ (trở thành hai mặt tươ
- Page 85 and 86: chỉ là đám du kích ngu ngơ n
- Page 87 and 88: chế...lực lượng cộng sản
- Page 89 and 90: Đồng Quân Lực (10 tháng 3) v
- Page 91 and 92: ‘’Đây cũng là lúc quyết
- Page 93 and 94: trận chiến đang bùng nổ gi
- Page 95 and 96: Thắng lợi tin vui khắp mọi
- Page 97 and 98: màu vàng, xanh, đỏ được b
- Page 99 and 100: Nhựt tiến chiếm ngôi chùa.
- Page 101 and 102:
một thế kỷ qua kể từ năm
- Page 103 and 104:
10 cây số. 9 giờ sáng, cuộc
- Page 105 and 106:
đột kích bắt đầu. 18 pháo
- Page 107 and 108:
Chiến Việt Nam đặt trên So
- Page 109 and 110:
Thành ngạo nghễ kiên cố kia
- Page 111 and 112:
ao ngày đêm. Người chỉ huy
- Page 113 and 114:
15.- Bình Giả, Tỉnh Phước T
- Page 115 and 116:
chết do bất ngờ, vì không l
- Page 117 and 118:
kể đến chăng thì cũng chỉ
- Page 119 and 120:
Đối mặt binh đội của Tư
- Page 121 and 122:
chỉ huy của Sư Đoàn 18 và h
- Page 123 and 124:
Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, l
- Page 125:
9-10.- Richard H. Schultz, The Secr