Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
II. Chữ Trực. Trực nghĩa là thẳng; vậy muốn cho thẳng phải làm sao? Phải nhớ câu:<br />
thập mục sở thị, vô khả nặc dã: mười con mắt đều thấy không có lẽ giấu đặng. Vì vậy<br />
nên chi trong chữ Trực thì có 3 chữ hội ý: 1. Là chữ thập là mười; 2. Là mục là mắt;<br />
3. Là chữ hệ là cái hòm. Song chữ hệ viết không thành, phải có một ngang trên nữa<br />
thì mới toàn chữ hệ, bởi chưng vì giấu không kín, cho nên cái hòm còn <strong>thi</strong>ếu nắp. Ấy<br />
là ý tứ chữ trực. Vậy bất luận là bậc nào muôn giục lòng mình ăn ngay ở thẳng, thì<br />
không chi bằng hằng nhớ con mắt mọi người trông thầy mình, dẫu ở nơi kín cũng nhớ<br />
như thể mười mắt đều trông xem, mười tay đều chỉ trỏ. Thập mục sở thị, thập thủ sở<br />
chỉ, kỳ nghiêm hồ! Mười mắt đều trông xem, mười tay đều chỉ trỏ, thì ta phải lo giữ<br />
biết là chừng nào! ấy lời thầy Tăng Tử khuyên ta lo giữ mình cho chính trực. Người<br />
quân tử biết thận kỳ độc, nghĩa là dẫu ở một mình cũng hằng dè giữ, vì tưởng người<br />
ta xem mình như xem thấu gan tận phổi: nhơn chi thị kỷ như kiến kỳ phế can. Đứa<br />
tiểu nhơn thì cứ sách ẩn hành tàng, song không hề tuột khỏi, bởi chưng rừng có mạch,<br />
vách có tai: người nầy không nghe người kia có thấy; mắt thế gian dễ dối, mắt Thiên<br />
Chúa khó lầm; Nhơn khả khi, <strong>thi</strong>ên bất khả khi. Phải nhớ như vầy mới giữ lòng chính<br />
trực.<br />
Có câu thập mục đừng khinh,<br />
Hãy dặn lấy mình mà ở cho ngay.<br />
Chữ chính với chữ trực thường theo nhau vì có ngay thì mới thẳng; muốn cho thẳng<br />
thì cứ đàng ngay; ở khúc khắc vạy vò, ấy là đàng quanh co chẳng chính.<br />
Một mình ở giữa đám ba quân,<br />
Nẻo thẳng đàng ngay ắt phải tuân,<br />
Mười mắt trông xem mình có một.<br />
Một đàng thẳng tới chốn <strong>thi</strong>ên xuân.<br />
BÀI THỨ V.<br />
Luận về chữ nhơn<br />
Một người giữ trọn cả hai,<br />
Hai người như một, ấy người có nhơn.<br />
Gẫm coi nét chữ Nhơn cũng nên khen người thượng cổ; vì chững chữ nghĩa tương<br />
phù mà đạo đời cũng hạp. Vậy chữ Nhơn nghĩa là gì thì có sách giải rằng: bảo tử<br />
đoan, kiêm vạn <strong>thi</strong>ện, thông ngũ thường, quán bả hạnh, thị vi nhơn dã, nghĩa là: xách<br />
cân bốn múi, có đủ muôn lành, thông suốt ngũ thường, trọn gồm trăm nết, ấy cho là<br />
nhơn. Bởi đó nhơn, nghĩa là kẻ có đức hạnh hẳn hoineets na gồm đủ. Mà đạo thánh<br />
dạy: một người mà muốn cho nên đức hạnh hẳn hoi thì phải giữ trọn hai điều là kính<br />
Chúa ái nhơn. Biết kính Chúa ái nhơn mới cho là kẻ có nhơn; dẫu luật Chúa có mười<br />
điều, song cũng qui về hai mối.<br />
Trước mười sự răn tóm về hai nầy mà chớ: trước kính chuộng một Đ.C.T trên hết mọi<br />
sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Điều ấy dạy tỏ nơi nét chữ nhơn, vì chữ nhơn<br />
là người, vì nhị là hai, thì làm nên chữ nhơn, nghĩa là nhơn đức; ấy chỉ nghĩa là<br />
người, mà muốn cho có nhơn thì phải giữ cho trọn hai điều như mới nói trước nầy.<br />
Chính nghĩa thứ nhứt chữ nhơn có nghĩa là thương yêu. Nhơn giả thân dã. Mà thương