Bộ đề thi thử 2019 môn Ngữ Văn - Từ ThS Đỗ Ngọc Thống, ThS Nguyễn Thành Huân gồm 49 đề có lời giải chi tiết (cập nhật đến 14.6.2019)
https://app.box.com/s/oluxh6eurjfnl6hnzmctvf8luhuf36wj
https://app.box.com/s/oluxh6eurjfnl6hnzmctvf8luhuf36wj
You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
- Người lái đò còn <strong>có</strong> một tâm hồn cao đẹp, phong thái ung dung của những đáng tài hoa tài tử. Sau cuộc<br />
vượt thác, “Sông nước Đà giang xèo xèo tan trong trí nhớ và không ai bàn thêm một <strong>lời</strong> nào về chuyện vừa<br />
qua nơi cửa ải nước. Họ chỉ bàn tán về cá dầm xanh, cá anh vũ và những ống cơm lam trong hang đá”.<br />
Người lái đò sông Đà coi việc đối mặt với sông nước hung bạo là chuyện thường tình, không <strong>có</strong> gì đáng nói<br />
những hồi ức về sự hiểm nguy <strong>đề</strong>u không <strong>có</strong> mà tất cả <strong>đề</strong>u là sự lãng mạn ngọt ngào. Đó là khí chất nghệ sĩ ở<br />
mỗi con người bình thường luôn ung dung thanh thản sau những thác lũ cuộc đời, nó làm nên sự khác biệt<br />
với những người bình thường khác.<br />
- Có thể nói khả năng làm chủ ngôn ngữ của <strong>Nguyễn</strong> Tuân thật phi thường muốn “vẫy gió tuôn mưa”, “hô<br />
phong hoán vũ” để từ đó dựng cảnh cho người lái đò xuất hiện với tất cả sự tài hoa của người nghệ sĩ lái đò –<br />
một nhân vật đạt <strong>đến</strong> đỉnh cao của sự toàn mĩ trong công việc của mình.<br />
- Người lái đò trí dũng và tài hoa trên dòng sông hung bạo và trữ tình. Vẻ đẹp của những người lái đò – vẻ<br />
đẹp bình dị, thầm lặng nhưng đầy trí tuệ và sức mạnh, đầy ý chí và nghị lực, tài năng và tài hoa <strong>có</strong> khả năng<br />
<strong>chi</strong>nh phục <strong>thi</strong>ên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người dựng xây đất nước chính là “chất vàng mười” của con<br />
người Tây Bắc nói riêng và người lao đông Việt Nam nói chung trong thời kì mới.<br />
2.5. Liên hệ<br />
a. Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù<br />
- “Cảnh tượng xưa nay chưa từng <strong>có</strong>” chứng minh cho sự thăng hoa của tài năng nghệ Huấn Cao, giúp nhân<br />
vật được tỏa sáng. Ở cảnh này <strong>Nguyễn</strong> Tuân đã gia công kĩ lưỡng bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập: ánh sáng<br />
– bóng tối, nhà tù – tự do, cao cả – tầm thường… tất cả <strong>đề</strong>u chứng minh cái đẹp đã thống trị trong cảnh<br />
huống này.<br />
- Một cảnh tượng giàu ý nghĩa bởi mọi ranh giới và quyền lực của sự tăm tối bị xóa mờ, thay vào đó là cái<br />
đẹp lên ngôi. Nó không còn là hình ảnh của người tử tù, thầy thơ lại, quản ngục mà chỉ còn lại những người<br />
bạn tri âm tri kỉ được tận hiến trong không gian nghệ thuật.<br />
- Cảnh cho chữ của <strong>Nguyễn</strong> Tuân khẳng định được giá trị bất tận của cái đẹp. nó không những soi sáng cho<br />
con người trong <strong>thi</strong>ên lương mà còn cảm hóa và thanh lọc tâm hồn con người <strong>đến</strong> đời sống văn minh, trong<br />
sạch hơn. Rõ ràng, cảnh cho chữ diễn ra trong nhà tù, nhưng mọi rào cản của tù tội đã biến mất.<br />
- Kết thúc cảnh cho chữ Huấn Cao đã khuyên quản ngục chuyển chỗ ở để giữ <strong>thi</strong>ên lương cho lành vững và<br />
quản ngục đã bái lĩnh trong niềm xúc động nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Điều đó chứng minh<br />
cho giá trị của nghệ thuật: cảm hóa và hướng <strong>thi</strong>ện cho con người.<br />
Bằng đam mê và khát vọng săn tìm cái đẹp, <strong>Nguyễn</strong> Tuân đã khẳng định được vị thế của nó đối với con<br />
người và xã hội. Tuy nó không <strong>có</strong> sức mạnh, không <strong>có</strong> quyền lực nhưng nó lại mang tính thống trị, <strong>có</strong> thể<br />
hóa <strong>giải</strong> mọi khổ đau, tăm tối trong cuộc đời này.<br />
b. Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí<br />
NGUYEN THANH TU PRODUCTION<br />
- Đọc Tiểu Thanh kí là bài thơ gửi gắm tâm sự đồng cảm dành cho những người phụ nữ <strong>có</strong> tài, <strong>có</strong> sắc nhưng<br />
<strong>có</strong> số phận đau khổ. Cùng với Tiểu Thanh, đó là Dương Quý Phi, là nàng Đạm Tiên, là Thúy Kiều, là người<br />
phụ nữ gảy đàn ở Thăng Long…<br />
- Bốn câu đầu là tiếng khóc người, thương người, là lệ dành cho Tiểu Thanh. <strong>Nguyễn</strong> Du <strong>đến</strong> với Tiểu Thanh<br />
trong một hoàn cảnh <strong>có</strong> phần giống Kiều <strong>đến</strong> với Đạm Tiên. Nấm mồ Đạm Tiên: “Sè sè nấm đất bên đường/<br />
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” gợi lên ở Kiều bao mối thương tâm. Cái gò hoang nơi chôn Tiểu<br />
Thanh gợi lên ở <strong>Nguyễn</strong> Du bao điều thổn thức.<br />
- Thế giới của văn chương và người đời hoàn toàn khác nhau, không thể nào hàn gắn cho văn chương cùng<br />
Trang 7