PHAI TRAI DUNG SAI - MICHAEL SANDEL
Phải Trái Đúng Sai - Cánh Cửa Mở Rộng- Bản dịch TIẾNG VIỆT PHẢI TRÁI ĐÚNG SAI là quyển sách best-seller tại Mỹ của giáo sư Michael Sandel, đại học Harvard. Sách bàn về vấn đề đạo đức dưới cái nhìn triết học. Tác giả đưa ra các vụ việc gây tranh cãi về vấn đề đạo đức để mổ xẻ dưới nhiều góc độ, theo quan điểm của các học thuyết triết học khác nhau, mỗi chương trình bày sâu về một học thuyết. Nhờ vậy, tư tưởng của Aristotle, Jeremy Bentham, Immanuel Kant, John Stuart Mill, Robert Nozick, và John Rawl được trình bày với sự rõ ràng và gần gũi, mà theo New York Times là "hiếm khi được giải thích dễ hiểu đến như vậy".
Phải Trái Đúng Sai - Cánh Cửa Mở Rộng- Bản dịch TIẾNG VIỆT
PHẢI TRÁI ĐÚNG SAI là quyển sách best-seller tại Mỹ của giáo sư Michael Sandel, đại học Harvard.
Sách bàn về vấn đề đạo đức dưới cái nhìn triết học. Tác giả đưa ra các vụ việc gây tranh cãi về vấn đề đạo đức để mổ xẻ dưới nhiều góc độ, theo quan điểm của các học thuyết triết học khác nhau, mỗi chương trình bày sâu về một học thuyết. Nhờ vậy, tư tưởng của Aristotle, Jeremy Bentham, Immanuel Kant, John Stuart Mill, Robert Nozick, và John Rawl được trình bày với sự rõ ràng và gần gũi, mà theo New York Times là "hiếm khi được giải thích dễ hiểu đến như vậy".
You also want an ePaper? Increase the reach of your titles
YUMPU automatically turns print PDFs into web optimized ePapers that Google loves.
Aristotle có vẻ ý thức luận điểm của mình có vấn đề, bởi vì ông nhanh chóng
làm rõ: “Nhưng dễ dàng nhận thấy những người có quan điểm trái ngược
cũng có thể đúng”. Nhìn vào thực trạng chế độ nô lệ ở thành bang Athens
thời đó, Aristotle đã phải thừa nhận rằng các nhà phê bình đã có ý kiến đúng.
Nhiều người có thân phận nô lệ chỉ vì nguyên nhân hoàn toàn ngẫu nhiên:
trước khi bị bắt trong chiến tranh, họ là người tự do. Thân phận nô lệ của họ
chẳng liên quan gì đến việc họ có thích hợp với vai trò này hay không. Với
họ, thân phận nô lệ không phải tự nhiên, mà là sự bất hạnh. Theo tiêu chuẩn
riêng của Aristotles, tình cảnh nô lệ của họ là bất công: “Không phải tất cả
những người đáng làm nô lệ, hoặc người tự do, là bẩm sinh nô lệ hoặc bẩm
sinh tự do”.
Aristotle hỏi: Làm thế nào bạn có thể nói ai thích hợp làm nô lệ? Về nguyên
tắc, bạn sẽ phải xem ai - nếu có - vui vẻ khi là nô lệ, và ai giận dữ trong vai
trò đó hoặc cố gắng trốn chạy. Sự cần thiết phải cưỡng bức là dấu hiệu rõ
ràng chỉ ra người nô lệ đang xét đến không phù hợp với vai trò đó.
Với Aristotle, cưỡng bức là dấu hiệu bất công, không phải vì sự đồng ý hợp
thức hóa tất cả các vai trò, mà vì cưỡng bức chứng tỏ sự thích hợp trái tự
nhiên. Những người đảm nhận vai trò phù hợp với bản chất bẩm sinh của
mình không cần bị ép buộc. Với lý luận chính trị của chủ nghĩa tự do, chế độ
nô lệ bất công vì mang tính cưỡng bức. Với thuyết mục đích luận, chế độ nô
lệ bất công vì đi ngược với bản chất của chúng ta, cưỡng bức là dấu hiệu chứ
không phải là nguồn gốc của bất công. Hoàn toàn có thể giải thích sự bất
công của chế độ nô lệ theo đạo đức telos và sự thích hợp, và Aristotle đã đi
được một đoạn đường theo hướng đó (mặc dù chưa đi trọn con đường)
Đạo đức telos và sự thích hợp thực ra đã đặt ra tiêu chuẩn đạo đức cho công
lý lao động khắt khe hơn so với nguyên tắc lựa chọn và đồng thuận của chủ
nghĩa tự do dân .chủ, Xem xét một công việc nguy hiểm, lặp đi lặp lại như
làm việc nhiều giờ trên dây chuyền tại một nhà máy chế biến thịt gà. Hình
thức lao động này công bằng hay bất công?
Với chủ nghĩa tự do cá nhân cá nhân, câu trả lời phụ thuộc vào việc liệu
công nhân có tự do lựa chọn công việc này để lĩnh lương: nếu có, việc này
công bằng. Đối với Rawls, cách sắp xếp thế chỉ công bằng khi trao đổi lao
động tự do diễn ra với trạng thái nền tảng công bằng. Với Aristotle, thậm chí
sự đồng ý cùng với trạng thái nền tảng công bằng vẫn không đủ, để công
bằng, công việc phải phù hợp với bản chất của người lao động thực hiện nó.
Một số công việc không vượt qua bài kiểm tra này. Chúng rất nguy hiểm, lặp
đi lặp lại, và hoàn toàn không thích hợp cho con người. Khi đó, công lý yêu