PHAI TRAI DUNG SAI - MICHAEL SANDEL
Phải Trái Đúng Sai - Cánh Cửa Mở Rộng- Bản dịch TIẾNG VIỆT PHẢI TRÁI ĐÚNG SAI là quyển sách best-seller tại Mỹ của giáo sư Michael Sandel, đại học Harvard. Sách bàn về vấn đề đạo đức dưới cái nhìn triết học. Tác giả đưa ra các vụ việc gây tranh cãi về vấn đề đạo đức để mổ xẻ dưới nhiều góc độ, theo quan điểm của các học thuyết triết học khác nhau, mỗi chương trình bày sâu về một học thuyết. Nhờ vậy, tư tưởng của Aristotle, Jeremy Bentham, Immanuel Kant, John Stuart Mill, Robert Nozick, và John Rawl được trình bày với sự rõ ràng và gần gũi, mà theo New York Times là "hiếm khi được giải thích dễ hiểu đến như vậy".
Phải Trái Đúng Sai - Cánh Cửa Mở Rộng- Bản dịch TIẾNG VIỆT
PHẢI TRÁI ĐÚNG SAI là quyển sách best-seller tại Mỹ của giáo sư Michael Sandel, đại học Harvard.
Sách bàn về vấn đề đạo đức dưới cái nhìn triết học. Tác giả đưa ra các vụ việc gây tranh cãi về vấn đề đạo đức để mổ xẻ dưới nhiều góc độ, theo quan điểm của các học thuyết triết học khác nhau, mỗi chương trình bày sâu về một học thuyết. Nhờ vậy, tư tưởng của Aristotle, Jeremy Bentham, Immanuel Kant, John Stuart Mill, Robert Nozick, và John Rawl được trình bày với sự rõ ràng và gần gũi, mà theo New York Times là "hiếm khi được giải thích dễ hiểu đến như vậy".
Create successful ePaper yourself
Turn your PDF publications into a flip-book with our unique Google optimized e-Paper software.
(chính sách 1) bất công vì đó là cưỡng chế - một hình thức nô lệ. Điều đó
ngụ ý nhà nước sở hữu công dân của mình và có thể làm gì với họ tùy thích,
kể cả buộc họ phải chiến đấu và hy sinh mạng sống trong chiến tranh. Nghị
sĩ đảng Cộng hòa Ron Paul - người theo chủ nghĩa tự do hàng đầu - gần đây
đã tuyên bố chống lại lời kêu gọi phục hồi chê độ quân dịch trong Chiến
tranh Iraq như sau: “Đơn giản và rõ ràng, quân dịch là chế độ nô lệ. Và tu
chính án 13[13] quy định chế độ nô lệ là bất hợp pháp, và nghiêm cấm tình
trạng nô lệ không tự nguyện. Một người lính có khả năng bị chết khi là lính
quân dịch, khiến quân dịch là một dạng nô lệ nguy hiểm”.
Nhưng ngay cả nếu không coi quân dịch tương đương với chế độ nô lệ thì
bạn vẫn có thể chống quân dịch với lý do nó hạn chế quyền tự do lựa chọn
của người dân, và do đó làm giảm hạnh phúc chung. Đây là lý luận chống
quân dịch của thuyết vị lợi. So với hệ thống cho phép thuê người thay thế,
quân dịch làm giảm phúc lợi của người dân bằng cách ngăn chặn hai bên
giao dịch thuận lợi. Nếu Andrew Carnegie và người thay thế ông muốn có
một giao kèo, tại sao ngăn cản họ làm vậy? Sự tự do tham gia trao đổi dường
như làm tăng lợi ích của mỗi bên mà không làm giảm lợi ích của bất cứ ai
khác. Do đó, với chủ nghĩa vị lợi, hệ thống thời Nội chiến (chính sách 2) tốt
hơn chế độ quân dịch thuần túy (chính sách 1).
Thật dễ dàng thấy cách giả định của thuyết vị lợi ủng hộ lý giải về thị
trường. Nếu cho rằng một giao dịch tự nguyện làm lợi cho cả hai bên trao
đổi mà không gây tổn hại đến bất kỳ người khác, bạn sử dụng lý giải của
thuyết vị lợi để cho phép thị trường chi phối.
Chúng ta có thể thấy điều này nếu so sánh hệ thống thời Nội chiến (chính
sách 2) với quân đội tình nguyện (chính sách 3).
Các lập luận logic cho phép người bị bắt lính đi thuê người thay thế cũng
ủng hộ giải pháp thị trường: Nếu bạn cho phép thuê người thay thế thì tại sao
lại bắt quân dịch trước? Tại sao không đơn giản chỉ tuyển quân qua thị
trường lao động? Hãy thiết lập mức tiền lương và lợi ích nào cần thiết để thu
hút được số lượng và chất lượng binh sĩ cần thiết, và để cho người ta tự lựa
chọn có nhận công việc này hay không. Không ai bị ép buộc nhập ngũ trái
với nguyện vọng, và những người sẵn lòng phục vụ có thể quyết định xem
nhập ngũ có hơn những lựa chọn khác không, sau khi đã xem xét mọi khía
cạnh.
Vì vậy, đối với chủ nghĩa vị lợi, quân đội tình nguyện dường như là giải
pháp tốt nhất: Cho phép mọi người tự do lựa chọn. Những người muốn nhập