đâu kỷ niệm bằng Sài Gòn, lời lẽ xác định rõ thơ tình hải ngoại mang màu sắc lưuvong chính trị: “ ...Trời Sài Gòn chiều hôm nay còn nhiều mây bay, nhiều niềm đauthương bi hận tràn đầy. Gượng nụ cười giọt lệ trên môi nhìn đất nước tơi bời một thờiem có hay. Những thành phố em sẽ đi qua. đây Ba- Lê, đây Luân- Đôn, đây Vienne,nhưng có đâu bằng Sài Gòn hôm qua, nhưng có đâu bằng Sài Gòn mai sau, em cómơ ngày hát câu hồi hương...”(Trích bài hát “ Em Có Nhớ Mùa Xuân” của Ngô Thụy Miên).Như vậy thì thơ tình hải ngoại lại phân thành hai dạng: Thơ tình trai gái thuầntúy với đôi nét tâm cảnh khi đang ở ngoài nước, dạng thứ hai là thơ tình trai gái vớiđôi nét đan chen lập trường chính trị. Gọi là đôi nét để phân biệt với thơ lưu vonghoàn toàn chính trị, thuộc một chương riêng. Cũng vậy, gọi là thơ tình hải ngoại vớiđôi nét liên hệ đến bối cảnh xa quê hương để phân biệt với thơ về lòng hoài hươngcó tính chất tổng quát bao trùm nhiều phương diện, không chỉ loay hoay chuyện đôilứa. Và thật là bất công khi ta biện biệt chỉ có thơ tình hải ngoại, chứ không phải thơtình phổ quát, mới được dành cho một chương mới trong văn học sử Việt Nam,trong khi số lượng thơ tình hải ngoại chẳng dồi dào bằng thơ tình phổ quát. Hơnnữa, thơ tình mang màu sắc chính trị chỉ mới được dẫn chứng nhờ lời ca trong vàibài hát, chưa sưu tầm được chính phần thi ca thực sự. Xét ra thì có lẽ đúng như vậy,vì văn học sử thật khắc khe: Chấp nhận những gì chỉ có một lần, không đồng dạng,không lặp lại, hoặc phải là tiếng nói đặc thù cho tâm cảnh một thời kỳ mà thôi.(Tạp chí Văn Học, California, số 212+ 213, Mùa Xuân 2004)Ba Lối Hội Nhập Đất Mới Trong Thơ Hải NgoạiHội nhập buồn, hội nhập vui, hội nhập tất nhiên, đó là ba cách ở đời củangười Việt tại hải ngoại. Ba thái độ đó đã phản ánh vào thi ca. Người Việt đã định cưtại hải ngoại qua nhiều đợt ra đi: Đợt di tản, đợt vượt biên, đợt ra đi có trật tự, đợt rađi từ các nước Đông Âu và Liên Xô, sau cùng lẻ tẻ hơn hết là đợt ra đi du học rồi tìmcách ở lại của một số ít người. Phản ánh vào văn chương sâu đậm nhất và dồi dàonằm ở ba giai đoạn đầu.Những thái độ hội nhập không phải là bất biến đối với thi nhân mà ta sẽ nêura làm đại diện, nhưng đó chính là xúc cảm đầu tiên của họ thể hiện vào thơ (Có ởtrong tình trạng định cư thì mới có thái độ, còn riêng những người do con cháu bảolãnh qua đây như một dịp đổi chỗ ở, thoắt đến thoắt đi, họ mặc nhiên nằm ngoàibuồn vui thái độ). Càng định cư lâu thì thái độ dần dần đổi khác, nhưng thơ của tâmcảnh định cư vẫn còn đó, phát biểu của họ vẫn còn đó, giúp cho ta tài liệu về thái độmột giai đoạn trong đời họ, không phải thái độ cho trọn cả cuộc đời. Tuy là giai đoạntrong đời của một cá nhân, nhưng trở thành chứng tích cho từng lối hội nhập đấtmới, nên nhà thơ làm đại diện cho đa số thầm lặng có cùng một thái độ. Ước mongcàng ngày càng dồi dào phần tuyển thơ có cùng nội dung một lối hội nhập, dĩ nhiêncũng cùng có giá trị, và phải có riêng bản sắc. Nếu dễ dãi quá thì còn đâu ý nghĩacủa từ ngữ tuyển thơ.Có một điều hình như trái ngược: Hội nhập buồn mà trở thành vui thì ta gọi làhội nhập vui, vì từ đây người buồn đã quen dần với cảnh mới, lối sống mới, đã cócông ăn việc làm, đã thành công trên thương trường, hoặc con cái đã thành đạt nênngười, thậm chí còn xuất sắc hơn người bản xứ. Nhưng hội nhập vui mà trở thànhbuồn thì ta không gọi là hội nhập buồn, vì không còn giai đoạn hội nhập nữa. Có thểhọ buồn vì làm ăn thất bại, vợ bỏ chồng bỏ, con cái không ra gì, đó là cái buồn chungcủa nhân loại trong cùng một hoàn cảnh, không vì đất mới mà đổ thừa cho hội nhập.Vậy hội nhập buồn chỉ thể hiện ở giai đoạn đầu của mỗi thời kỳ nhập cư, thời di tảncũng có, thời vượt biên cũng có, thời ra đi trật tự cũng có. Giai đoạn mới đến đất mới110 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
thời di tản 1975, có hai nhà thơ nổi tiếng là Thanh Nam và Cao Tần biểu lộ đậm néttính chất hội nhập buồn. Thơ Thanh Nam thật cảm động trong ba. “Thơ xuân đấtkhách”. Lúc đó người Việt rất ít ỏi, sống rải rác, không làm thành một cộng đồngđông vui mà cũng phức biệt như ngày nay. Cũng như thơ Cao Tần, thơ ông hiệnthực đời sống của một giai đoạn. Nhưng trong khi thơ Cao Tần hậm hực như nguyềnrủa, thơ ông chỉ ngậm ngùi buồn đau thế sự, chua chát như giọng điệu bài “HànhPhương Nam” của Nguyễn Bính:Quê người nghĩ xót thân lưu lạcĐất lạ đâu ngờ buổi viễn duThức ngủ một mình trong tủi nhụcDặm dài chân mỏi bước bơ vơGiống như người lính vừa thua trậnNằm giữa sa trường nát gió mưaKhép mắt cố quên đời chiến sĩLàm thân cây cỏ gục ven bờChợt nghe từ đáy hồn thương tíchVẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưaHình ảnh cuộc thua trận, ông vẽ ra thật thê thảm nhưng có vẻ chung chung,kiểu sách vở về chiến tranh Đông Tây Kim Cổ, lời thơ như thuộc về thời “ Chinh PhụNgâm”. Chỉ cái hiện thực đời sống là được ông nói đến một cách đặc thù, diễn racho người mới đến Hoa Kỳ. Vào năm 1975, Nhà Văn Thanh Nam đã ở vào tuổi trungniên, tất nhiên là dở dang khi hội nhập vào xứ người, khó khăn về nghề nghiệp, khókhăn về ngôn ngữ:Đổi ngược họ tên cha mẹ đặtTập làm con trẻ nói ngu ngơVùi sâu dĩ vãng vào tro bụiThân phận không bằng đứa mòng phu.Chứng nhân của thời kỳ đầu di tản sang Hoa Kỳ, đại diện rõ nét trong thi cavề hiện thực đời sống là Cao Tần và Thanh Nam. Cùng đi vào cảng mới, nhưng CaoTần bỏ neo bằng một văn phong lạ, văn phong đưa văn xuôi sống sượng vào thơnhư lời nhận định của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, trong khi đó Thanh Namchỉ bỏ neo bằng một văn phong cổ kính vào nền văn chương hải ngoại. Bây giờ đọclại những câu thơ sống sượng của Cao Tần, ta thông cảm những phẩn chí nhất thờicủa ông(Ví dụ rõ ràng hơn hết ở trong bài “ Mai mốt anh về”). Ai cũng phải trải quagiai đoạn khó khăn buổi đầu, nhưng lời nguyền rủa thực tế đáng chán của ngườikhông phải thi nhân rồi nhỏ dần, tan dần qua thời gian khi từ hội nhập buồn trở thànhhội nhập vui, họ vô danh nên không trở thành đại diện cho hôị nhập buồn đi vào vănhọc sử bằng những lời nguyền rủa lớn tiếng như thi phẩm “Thơ Cao Tần” (Nhà xuấtbản Văn Nghệ, 1987). Dù thơ Cao Tần là loại thơ thời thế, có nhiều câu như một lờichửi đổng, nhưng thiên nhiên đất nước người phản ánh vào thơ có nét đẹp của miềnbăng giá sương mù, thường là ngày ngắn đêm dài. Thơ ông cũng không thiếu nhữnglời cảm khái về nước non, về tư tưởng siêu thoát:.....Chiều mới vừa đây mà đã tốiThấy chăng sa mạc rộng hơn trời.....Chiều về lên dốc thân tơi tảMột quả hoàng hôn đỏ kín trờiMình mới ngoi lên ngày đã ngảĐêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi111 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60: tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62: Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64: (Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66: văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68: như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70: tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72: cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74: Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76: trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78: Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80: chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82: sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84: Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86: ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88: nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90: "Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92: (2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94: Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162:
cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164:
Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166:
Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168:
mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170:
Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172:
Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174:
không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176:
Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178:
Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180:
Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182:
Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184:
trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186:
nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188:
hướng về những người con
- Page 189 and 190:
những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192:
Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194:
trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196:
Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư