nhưng không quá ám ảnh bóng tối nơi khổ ải lưu vong do thiên lệch vì tình yêu quêhương sâu đậm, cũng không quá lạc quan tô hồng những điều không có nơi miềnviễn xứ. Ta muốn nói đến những tác phẩm văn chương thuần túy ở ngoài nhữngước lệ về ngôn ngữ, ước lệ về tâm tình. Ta muốn nói đến tác phẩm văn chươngthuần túy, viết bằng ngôn ngữ tinh luyện, đề tài không đóng khung hiện thực đờisống, dấn thân chính trị, viết trong khung cảnh ta đang sống, ở Mỹ, ở Pháp, ở mọinơi trên thế giới. Làm sao không có dấu vết đời sống hằng ngày trong văn chương,nhưng đời sống đó chỉ là cái nền để nói những điều nào khác, nghĩa là không chỉ nóivề chính cái nền đó, cái nền lưu vong, cái nền viễn xứ, cái nền thông lệ.5. Văn Học Hải Ngoại như một món quà của truyền thống dân tộc.Món quà mà người viết văn chương gởi về cho quê hương chắc chắn sẽ làmón quà văn học, những tác phẩm văn chương, bên cạnh những món quà khác nhưnhững thành tựu về khoa học, về kinh tế, mà người Việt hải ngoại đã thành công nơixứ người. Trước hết là văn học, dồi dào hơn hết. Ta khẳng định như vậy, vì đó là hệquả của truyền thống yêu chuộng văn học của dân tộc ta. Ta khẳng định như vậy, vìchỉ cần xét về sự hiện diện của các tạp chí văn học trong suốt thời gian 20 năm hảingoại là thấy rõ. Một cộng đồng tương đối nhỏ, độ chừng 2 triệu người sống rải ráctrên khắp thế giới, mà tạp chí văn chương không khan hiếm. Người Việt chỉ thiếu vìđường xa cách trở, vì sự luân lưu phân phối không đến được, không phải thiếu vềsự hiện diện. So sánh với độc giả Hoa Kỳ, đông đảo, mà trong các siêu thị, trong cácnhà sách, số tạp chí chuyên về Văn Học rất ít, bên cạnh sự dồi dào phong phú củatạp chí giải trí, kỹ thuật chuyên môn, và khoa học.Cộng đồng ta đã có nhật báo, tuần báo, nguyệt san, bên cạnh các tạp chí vănhọc đã hiện diện lâu dài trong suốt thời gian 20 năm nơi xứ người: Tạp chí Văn, ThếKỷ 21, Văn Học, Làng Văn, Hợp Lưu, Quê Mẹ, và còn rất nhiều tạp chí văn học đãmột thời hiện diện nhưng ngắn ngủi. Các nhà sách người Việt cũng không thiếunhững tác phẩm văn chương đã được xuất bản, bên cạnh vô số các loại sách khác.Số người làm văn chương cũng rất đông đảo, nhiều nhất là các Thi Sĩ, có lẽ vì sángtác thơ tương đối ít công phu. Có thể nói, đúng vậy: Ít công phu về viết, nhưng khôngphải là ít công phu về vận dụng tâm hồn. Mà một khi bài thơ thành công thì sự "nhớđến" lại dễ dàng. Vì vậy có rất nhiều nhà thơ. Là những công trình khiêm tốn hơn âmnhạc, rất đắc dụng, vì dân tộc ta là một dân tộc Thi Sĩ, lúc nào cũng sẵn sàng, tâmhồn luôn luôn tìm đến. Ngoại cảnh nơi hải ngoại dù có khô khan, đầy tính kỹ nghệ,nhưng tâm hồn Đông Phương sẵn sàng sửa đổi, tái tạo, với sự trợ lực của thiênnhiên bao giờ cũng vậy, bao giờ cũng đẹp, chỉ vì con người quá bận rộn, bon chenvới kỹ nghệ, với thương mại, mà lãng quên, đánh mất cái thi tính. Món quà khoa học,món quà kinh tế, có thể làm giàu cho quê hương. Và món quà văn học cũng làm giàucho nền văn chương, bắc một nhịp cầu giao cảm cho người nội địa với đất trời viễnxứ. Bài thơ "Mùa Thu Paris" của Cung Trầm Tưởng, tập văn "Trời Tháng Tư" củaPhạm Công Thiện, làm ta giao cảm với thời tiết, thời tiết Tây Phương làm êm máttâm hồn ta. Ta hưởng thụ cuộc đời qua văn chương. Mỗi lần đọc bài thơ "Mùa ThuCâu Cá" của Nguyễn Khuyến là mỗi lần tâm hồn ta chùng lại, thấy lòng mình thanhtịnh như còn nghe âm hưởng tiếng cá đớp đọng dưới chân bèo. Và mỗi lần đọc lạithơ về Paris của Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Phạm Công Thiện, ta cũng thấylòng mình lọc bỏ được những phiền lụy, tan loãng vào thiên nhiên dịu nhẹ và trongsáng. Cho nên món quà gởi về quê hương, mặc dù ta muốn đánh giá nó là món quàtruyền thống, nhưng ta không trông mong nó chỉ khép kín vào những tâm tình quayvề nguồn cội, quay về làng mạc quê hương, quay về cổ tục nếp sống quê nhà. Nóitóm là ta muốn một nền Văn Học Hải Ngoại phong phú, không phải chỉ có bấy nhiêuvấn đề, bấy nhiêu tình cảm, được lặp đi lặp lại. Tại sao Văn Học Hải Ngoại chưa sản148 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
xuất được những áng văn chương vượt tính hoài cảm quen thuộc về quê hương, tìmvề các nguồn cảm hứng phong phú hơn.Viết bằng ngôn ngữ tinh luyện mà lại không mang tính hoài niệm, có lẽ nềnvăn học đó chỉ trông mong vào các ngòi bút đã sống nơi hải ngoại lâu dài rồi, có trìnhđộ cao về Việt Ngữ. Điều đó chỉ thực hiện được bởi người thuộc thế hệ thứ nhất,muốn đóng góp những điều gì mới cho văn học quê hương, chưa có tham vọng viếttác phẩm bằng ngoại ngữ, đóng góp vào nền văn học viễn xứ. Công việc này có lẽphải dành cho những người thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba tốt nghiệp từ các trường đạihọc ở hải ngoại.Tạp chí Văn Học, số 119, tháng 3/1996, CaliforniaVăn Nghệ Đã Đi Về Đâu ?(LƯỢC TRÌNH VĂN HỌC SỬ KỂ TỪ 1954 ĐẾN 1963 VÀ VIẾT VỚI LẬPTRƯỜNG KHÔNG THEO HƯỚNG DẤN THÂN)I.- DƯ VANG VĂN NGHỆ LÒNG MẠN TIỀN CHIẾN VÀ DƯ VANG VĂNNGHỆ CHIẾN KHUKhông thể phủ nhận được giá trị của Văn Nghệ Tiền Chiến Lãng Mạn vớinhững công trình của Xuân Diệu, Huy Cận, Thạch Lam, Nguyễn Tuân...ảnh hưởngcủa nó còn kéo dài đến ngày nay. Nhưng đã bớt đi hơn thời kỳ 1954: Một số nhà thơlại nổi danh với những bài thơ lãng mạn có giá trị tập trung một phần lớn trong tuầnbáo Đời Mới: Tạ Ký, Thanh Thuyền, Huy Phương, Tạ Tỵ, Châu Liêm, Mai BăngPhương, Phong Sơn, Thế Viên. Mặc dù thơ của họ nếu so sánh với Huy Cận, ThếLữ, có lẽ cũng không kém hơn bao nhiêu, nhưng vì họ là những hậu sinh lặp lại, nênkhông được ca ngợi nhiều lắm.Cho đến ngày nay một Vũ Hoàng Chương, một Đinh Hùng đã và đang cốgắng phục hồi thời đại vàng son của thơ mới, nhưng một con én không thể đem lạimùa Xuân. Mặc dù vậy một số thơ lãng mạn của hai ông xuất hiện trong thời kỳ gầnđây cũng được ca tụng ít nhiều: "Đăng Trình" của Vũ Hoàng Chương, "Sóng NướcĐồng Chiêm" của Đinh Hùng.Trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã xuất hiện khá nhiều nhà thơ danhtiếng, phần đông là những chiến sĩ sống miền rừng rậm chiến khu. Thơ họ tiềm tàngmột tinh thần hùng tráng của những cuộc dạ hành quân miền biên giới (Tây Tiến củaQuang Dũng, Nhà Tôi của Yên Thao), hoặc phảng phất những tâm tình ly biệt vìgiống nòi, vì quê hương (Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, Đây Tha La của Vũ AnhKhanh). Sau này những người trẻ tuổi làm thơ không khỏi say sưa với nhữngchuyến đi hùng tráng mà nghe "Sông M. Gầm Lên Khúc Độc Hành" (Quang Dũng)hoặc tiếng sóng dư vang của "Tiếng Hát Sông Lô" (Văn Cao) hoặc mơ mộng thấy"Mây Trời Bàng Bạc Sầu Ai Lao" (Đỗ Hữu) hoặc ngậm ngùi cho mối tình dang dở vìchiến cuộc: "Chân đã vẹt trên nẻo đường vạn dặm, áo nào không phai lạt chút tìnhxưa" (Yên Thao)...Cũng trên tờ tuần báo "Đời Mới" của ông Trần Văn Ân, những nhàthơ Thanh Thuyền, Châu Liêm, Diên Nghị, Viên Lăng, Huyền Viêm, Dao Ca, saunày, 1956, 1958 trên tờ Nhân Loại với những Nguyên Hữu, chịu ảnh hưởng rất nhiềuthơ kháng chiến. Họ cũng nói đến những chuyến đi (như Thanh Thuyền: Sương đổbờ tre buồn dậu thắm, nhạc mùa quê cũ chớm âm vang) những cuộc lên đường:(Như Mường Sơn:Đèn bể còn ai đang đứng giữĐêm nằm nghe vọng tiếng trùng dươngChòi cao khép chặt niềm cô lữCó biết những người đi bốn phương)149 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82:
sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84:
Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86:
ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88:
nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90:
"Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92:
(2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94:
Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96:
Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184: trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186: nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188: hướng về những người con
- Page 189 and 190: những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192: Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194: trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196: Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198: Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư