ở bìa rừng Tây BắcKhi chúng tôi gặp nhauchàng cúi xuống hôn tôicả hai cùng khócnước mắt chàng nhuộm vàngthân thể tôitôi bật gọi tên chàngTrăng ơi!(Trọn bài “Gọi tên” của Trần Mộng Tú)Buồn và vui tương phản dễ phân biệt, nhưng trung gian là hội nhập bình thản,hội nhập tất nhiên, không vui rạng rỡ, không buồn tê tái, chỉ giữ chừng mực theodòng đời trôi thường hằng. Tính chất bình thản phản ánh qua thi ca thể hiện đặc biệtlà sự đều đều.Chỉ những thi nhân ở hải ngoại thật lâu mới có thái độ này, và dĩ nhiên thuộcthế hệ thứ nhất. Còn thế hệ thứ hai đã nhập vào dòng chính nên không có dòng nàogọi là hội nhập buồn, vui, hay dửng dưng. Nếu ta làm nghề đua chen chốn thươngtrường, đời ta thường trực với sôi nổi, dù có sống hai ba chục năm ở hải ngoại, tavẫn không cảm thức dòng đời đều đặn. Nếu ta làm nghề trong hệ thống giây chuyền,cái đều đặn trong công việc dễ làm ta chán chường, đưa tới bi quan, nếu phản ánhqua thơ thì đó là hội nhập buồn chứ không phải hội nhập bình thản. Nếu ta làm nghềlao động mệt nhọc, đêm tối trở về ngon trong giấc ngủ, cuối tuần hăm hở mua sắmvà giải trí, như vậy thì thấy thời gian qua mau, như vậy đâu gọi là hội nhập vui, đúngra phải gọi đó là sự tan loãng, nói theo triết lý là tha hóa hay vong thân. Khi về hưu,thời gian như hoàn toàn ngưng đọng nếu ta không giết thời giờ bằng đi du lịch, hayvui thú làm vườn, hay đọc sách hoặc viết sách, thì sự ngưng đọng thời gian đó cũngnằm ngoài thái độ hội nhập vui, buồn hay dửug dưng, vì hội nhập là đang ở trongđời, còn đây là đã ra khỏi đời. Chỉ có cuộc đời công nhân viên làm những việc nhànhạ, hay chuyên viên không cần di chuyển thường xuyên công tác nay chỗ này maichỗ khác, thì mới cảm thấy sự hội nhập dửng dưng, phản ánh từ việc làm không hốihả, không có gì phiền hà trong gia đình cũng như ngoài xã hội, không có cái mừngrỡ đột xuất như trúng mối lớn trong thương trường, không có sự cay đắng n.o nềnhư bị xúc phạm đôi khi xảy ra cho người lao động nơi hãng xưởng. Đối với ngườikhông có thêm nghề tay trái thuộc về tinh thần như làm thơ làm văn chương, sángtạo nghệ thuật, thì sự đều đặn đó thể hiện vào hạnh phúc gia đình, đầu tư cho sựthành công con cái, hay hướng về tu dưỡng, hay hướng về công tác thiện nguyệncho xã hội, cho cộng đồng. Biểu tượng cho thái độ hội nhập bình thản rất tương hợpvới con đường xa lộ đi về từ nhà đến sở làm, và ngược lại. Vẫn hàng cây mỗi buổisáng dẫn đường vào xa lộ, vẫn dòng xe ngày nào cũng chạy vun vút, vẫn thỉnhthoảng bị kẹt xe vì có tai nạn, vẫn quang cảnh Thành Phố cận cảnh và núi non viễncảnh, vẫn khúc quanh cuối cùng trước khi đến sở, vẫn ly cà phê phục vụ miễn phí,vẫn bấm thẻ hay cà thẻ nhân viên trước khi bước vào công việc.Chuyến đi thấy đều đặn hơn chuyến về, chuyến về thoải mái nên ta không lưuý sự trôi chảy ngày nào cũng giống nhau. Chẳng quá lạc quan, chẳng quá bi quan,như sự vận chuyển phải điều chỉnh thường xuyên của một bộ máy thi công: Đều đềunhưng lại không giống việc làm giây chuyền chìm vào tha hóa vô ý thức. Biểu tượngxa lộ trên đường đi đến sở khác với xa lộ của những chuyến du chơi có địa điểm haydu chơi lang thang. Du chơi là phần thưởng cuối tuần hay ngày nghỉ lễ hay dịp nghỉphép hàng năm, nếu không dùng phương tiện máy bay hoặc xe lửa hoặc tàu thủy,thì xa lộ mở ra một viễn tượng hân hoan, không thấy thiếu vắng viễn tượng nhưcông việc hàng ngày đến sở làm, có chăng chỉ là viễn tượng cuối tuần hay cuối116 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
tháng lãnh lương. Xa lộ đến sở làm tuy thiếu vắng viễn tượng theo nghĩa hân hoan,nhưng cũng không phải là ngõ cụt của những cuộc đời thất bại, vì ngõ cụt là chấmdứt đường đi, đâu phải là tiếp tục lên đường đều đều. Cũng chẳng phải là đường đikhông tới, đích điểm không bao giờ thành công. Nhà thơ đặc trưng của thái độ hộinhập bình thản là Nguyễn Mạnh Trinh. Ta cảm thức sự đều đặn của nhà thơ cả tronglối sống, cả trong thể thơ, cả trong ngôn ngữ, cả trong tứ thơ. Phải chăng đây là mộttrường hợp đồng bộ giữa nội dung và hình thức, giữa cuộc đời và tác phẩm.Thơ của ông đã xuất hiện trên các tạp chí văn học tại hải ngoại, rất sớm saunăm 1975, đóng góp trên hầu hết các báo. Ngoài ra, ông còn viết nhiều bài về vănchương, thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn các Nhà Văn Thơ quen thuộc. Gần đâynhất, ông viết “Tạp ghi” về văn học trên nhật báo Người Việt trong phụ trang văn họcnghệ thuật mỗi cuối tuần. Ông sáng tác hầu hết các thể thơ, thường là thơ khuônkhổ vần điệu. Nhà Thơ Nguyễn Mạnh Trinh ưa theo thể thơ bảy chữ, và trong từngđoạn thơ gồm bốn câu thì hai vần trắc ở cuối câu bắt vần với nhau, hai vần bằng bắtvần với nhau. Hầu hết thơ bảy chữ của ông đều như vậy. Ngôn ngữ thơ của ôngcũng là loại ngôn ngữ đều tay, không quy ước lắm mà cũng không tân kỳ lắm, nólưng chừng ở giữa. Để chứng minh cụ thể, ta thử cảm thức sự đong đưa giữa tân kỳvà quy ước. Nếu gọi là trung dung giữa hai điều gì được phân chia rõ rệt sẽ rất dễcho ta lấy ra, như nước mặn nước ngọt có nước lợ, màu da trắng da đen thành dangâm, đêm và ngày là lúc chạng vạng, lùn và cao thuộc cỡ tầm thước. Tới phẩm tínhtrừu tượng đã thấy bắt đầu khó. Giữa thiện và ác, thế nào là trung dung, anh hùngvà hèn nhát, thế nào là vừa phải. Tới ngôn ngữ thơ, ta thử phân tích dáng vẻ mơ hồgiữa tân kỳ và quy ước trong thơ Nguyễn Mạnh Trinh, vạch cho ra điều mà ta nói làngôn ngữ trung dung. Ví dụ như hoà lẫn một chút chính khí ca cổ điển và một chútngôn ngữ cách điệu tân kỳ, chẳng hạn “ Vỗ bàn, cơn gió vút ngoài hiên...Lạnh bủatheo mưa giọt cửa ngoài”(Trích trong bài “ Bằng hữu”, Tạp chí Hợp Lưu, số 2, tháng12/1991). Hòa lẫn một chút xa xưa trong ước lệ rượu trăng thường có ở thơ Đườngvà một chút hiện thực rất hiện đại về chiến tranh:“Thấy đủ vầng trăng chén rượutrào...Trong mình mảnh đạn lỡ nằm quên”(Trích trong bài “Thơ gửi chàng lòng tửNguyễn Bắc Sơn”, Tạp chí Văn Học, số 20). Hòa lẫn giữa thơ cực kỳ dễ hiểu nhưcâu nói đời thường và ngôn ngữ tu từ của ẩn dụ không dễ hiểu, chẳng hạn: “mộttiếng đồng hồ trên xa lộ, nghĩ mãi về đời mãi về mình...vân cẩu màu mây sao kỳ dị,ta ơi ta rêu ngút mái nhà”. Đây là bốn câu trích trong Tạp chí Văn Học của bài thơtrầm lắng suy tư trên xa lộ. Sự độc thoại triền miên bằng những đoạn thơ lặp lại, rấtđi đôi với ngoại cảnh trời đang mưa. Lái xe trên xa lộ thường ngày vẫn đi, suy nghĩvề cuộc đời đều đều tiếp diễn, không buồn lắm không vui lắm, hải ngoại đối với nhàthơ này chẳng phải là nơi của cơ hội rạng rỡ như một số người thành công chốnthương trường ca ngợi, cũng chẳng phải nơi cam go khó khăn vì nhà thơ đã là mộtchuyên viên nhiều năm kinh nghiệm ngành nghề. Vậy sự hội nhập của nhà thơ là hộinhập bình thản. Cho nên xa lộ thường ngày đi về thành biểu tượng thích đáng nhấtcủa thái độ hội nhập dửng dưng. Nhạc tính do lặp đi lặp lại vài từ ngữ như đã nóitrên, dường như được hình thành nhờ trực giác cần diễn tả triền miên, nên bài thơ“Mưa buổi sáng trên xa lộ phía Nam” của Nguyễn Mạnh Trinh là bài thơ đặc biệt diễntả trung thực thái độ hội nhập bình thản tại hải ngoại. Hội nhập vui có thể sưu tầmđược đôi ba bài, hội nhập buồn có thể sưu tầm rất nhiều bài, nhưng hội nhập bìnhthản tương hợp với biểu tượng của bài thơ này thành quý hiếm, nhờ có nhạc tính dotrực giác sáng tạo, nhiều chất thơ với độc thoại nội tâm trong cơn mưa dai dẳng. Sởdĩ tác giả có thái độ bình thản do đời sống không phải bận lo, dành nhiều phần đờicho “quê hương tinh thần”: Sự nghiệp văn chương thuộc văn học Việt Nam. Cho nênnhững thứ thành công ngoài văn chương đối với Nguyễn Mạnh Trinh trở nên không117 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66: văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68: như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70: tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72: cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74: Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76: trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78: Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80: chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82: sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84: Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86: ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88: nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90: "Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92: (2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94: Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168:
mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170:
Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172:
Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174:
không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176:
Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178:
Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180:
Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182:
Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184:
trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186:
nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188:
hướng về những người con
- Page 189 and 190:
những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192:
Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194:
trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196:
Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư