Cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Đằng này trâu lội năm ba trăm con, đenđầu đặc nước! Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn được thấy cảnh đó không phải dễ,giống như hồi thiên địa sở khai, càn khôn hỗn độn. Mấy ông thầy chùa, bà vãi, ẩnmình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục, vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theobầy trâu len dữ dội......Thằng Kim đã hiểu lằn đen ở chân trời khi nãy là bầy trâu vô số kể đang lặnhụp. Trâu quậy, sóng nước chuyển nghe đùng đùng, hơi trâu thở khò khè như câyrừng nổi gió.Hằng trăm cặp sừng cong vòng, nhọn lểu nhô lên bộ mặt ngơ ngác ba góc,giống hệt những trái ấu khổng lồ".Người phổ biến lý thuyết về văn chương triết lý hiện sinh có lẽ là ông NguyễnVăn Trung. Thí dụ bài "Văn Chương Và Siêu Hình Học" của ông là một bài đầu tiênbằng tiếng Việt về văn chương hiện sinh (đăng trong Sáng Tạo với bút hiệu HoàngThái Linh).Sau này ông còn đề cập nhiều trong tạp chí "Thế Kỷ 20", "Đại Học", về nềnvăn chương này và viết nhiều sách cùng một khuynh hướng lý thuyết (xây dựng tácphẩm tiểu thuyết). Ông được một số người coi như lý thuyết gia cho sự sáng tác đốivới các Nhà Văn Dương Nghiễm Mậu, Thao Trường, Thế Nguyên, (mặc dù cũng cómột số người phủ nhận), nhất là sau khi ông phân tích theo đường lối triết lý, theoviễn tượng văn chương siêu hình học, những chuyện ngắn của các Nhà Văn nàytrong "Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết". Thật ra tác phẩm của Dương Nghiễm Mậuhay không phải là hợp người "thời trang" triết lý hiện sinh, mà vì văn ông nhiều khảxúc do tính chất nghệ thuật. Cho dù ông viết chúng trong thời đại này hay trong thờiđại trước thì văn ông vẫn được ca tụng do những "cái hay" hàm chứa trong một tácphẩm nghệ thuật. Sau đây là một vài đoạn ngắn trong tác phẩm "Bên Sườn Núi Đá"đăng trong "Thế Kỷ 20", cho thấy giá trị của nghệ thuật văn chương Dương NghiễmMậu: "Cứ mỗi buổi sáng nghe tiếng kèn của Ông Hai, tiếng kèn có vẻ yếu, vọng lên ởthung lũng xa vắng và xao xuyến lạ lùng, tiếng kèn như mang tiếng nói độc nhất củacon người đến với từng thân cây, cành nhỏ, mảnh lá, cũng như từng bụi đất, mảngđá và làn nước nâu bao la vờn lên từng con sóng. Tiếng kèn muốn nhận sức có mặtnhỏ bé của con người. Ông già đốt lửa qua ngày này đêm khác không biết bao lâu.Có lúc ông chợt ngủ rồi lại thức và tiếp tục đốt lửa cho đến lúc không còn một thanhcủi, ông tìm mọi cái có thể cháy được mà đốt.Ngọn lửa tàn theo những trang sách cuối cùng. Ông già tin ở điều mình nói,nhất định thắng...Sau mùa biển động ít lâu có một chiếc xe theo con đường độc đạora ven sườn núi đá, người ta theo lời hẹn tới lấy cá, nhưng khi những người lái buôntới nơi thì không tìm thấy dấu vết gì tỏ ra rằng ở đó có bàn chân người đã đặt đến.Sườn núi đá vẫn khô cằn lầm lý, biển vẫn màu nâu. Bọn lái buôn nguyền quay xe, cókẻ nói lớn:- Tụi khốn kiếp thế mà dám giao hẹn!"Luận đề của truyện ngắn này khá rõ rệt:Sự chiến đấu vô vọng giữa con người là ông già thổi kèn với thiên nhiên làtrùng dương nổi sóng. Kết quả biển cả xóa bỏ dấu vết con người yếu đuối bên sườnnúi đó.Cái hay của truyện ngắn là ở bố cục diễn tiến và kết luận bỏ lửng của nó, ở lờivăn hình tượng nghệ thuật, còn đề tài triết lý kia bao giờ cũng có và không chắc đãthoát thai từ triết lý hiện sinh của thời này.Song song với những Nhà Văn chống đối triết lý hiện sinh, ngấm ngầm haycông khai, là nhà thơ có lập trường tiến bộ, những nhà phê bình khắt khe với tính156 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
cách xu thời của "thời trang" văn nghệ: Lối thơ tự do bí hiểm kỳ khu và triết lý bi đátchưởi bới cuộc đời. Những nhà thơ điển hình đại diện là Thi Sĩ Nguyễn Nho Sa Mạc,Hữu Phương, nhất là Hoàng Bảo Việt, từ thi phẩm "Hy Vọng" đến "Những GiòngNước Trong", lập trường tiến bộ, tin tưởng cuộc đời của tác giả thật rõ rệt. Các nhàthơ Kiên Giang (chịu ảnh hưởng của Nguyễn Bính tiền chiến) và Anh Tuyến, cũng cónhững lập trường tương tự nhưng lạm dụng những chữ nghĩa không phải là chất liệucủa ngôn ngữ thi ca mà là ngôn ngữ của đời sống hàng ngày, nên những nhà thơ ấyít được tán thưởng. Nhà phê bình đại diện cho lớp người trẻ nhìn đời không bi quan,không lạc quan (vì đời sống bao giờ cũng bao gồm hai khía cạnh thiện ác) là ĐặngTiến.Còn nhiều nhà phê bình cũng lập trường với Đặng Tiến là Phương Thảo,Phương Mai, Thư Trung, Thu Liễu, Nhất Anh, Quốc Chính, Uyên Thao. Phần lớn tậptrung trên tờ Tin Sách của Hội Văn Bút Việt Nam.V.- VĂN NGHỆ SAU NGÀY 1.11.1963Sau cuộc cách mạng 1.11.63, kết thúc một giai đoạn sôi bỏng trong nhữngngày Phật nạn, văn nghệ thuần túy nghệ thuật và văn nghệ lãng mạn quá thờinhường chỗ cho sinh hoạt báo chí được một phen cởi mở, ra nhiều đến nỗi người takhông còn nhớ có bao nhiêu tờ nhật báo. Sự sinh hoạt chính trị sôi bỏng, văn nghệlãng mạn với những Thanh Nam, Văn Quang, Tuấn Huy đều bị thờ ơ, tiểu thuyếtdiễm tình và thi ca phát hành đến Lục Tỉnh và miền Trung đều được gởi trả lại chotác giả và nhà xuất bản. Văn nghệ thuần túy nghệ thuật của thời "sáng tạo" lắngchìm. Một vài bài thơ quá hứng cảm ca tụng cuộc đảo chánh và bới đống tro tàn củachính quyền cũ không gây được một tiếng vang nào đáng kể. Người ta đang chờ đợimột nền văn nghệ mới phản ảnh thời kỳ này...Và nền văn nghệ đó đã đến với sự phát huy văn nghệ nhuốm màu tư tưởngPhật Giáo, với những Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Tam Ích, Phạm Công Thiện. Báochí của Phật Giáo, tác phẩm văn nghệ của nhà xuất bản Lá Bối phát hành đều đặn."Hải Triều Âm, Thiện Mỹ, Vạn Hạnh, Giữ Thơm Quê Mẹ..." Hoạt động mạnh nhất vềphạm vi văn hóa Phật Giáo là Đại Đức Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường (ngoài ra ông HồHữu Tường còn chủ trương đường lối phát huy văn minh tổng hợp trong tuần báoHòa Đồng). Những tạp chí khác cũng khá bổ ích cho độc giả: Phổ Thông, Văn, BáchKhoa, Văn Học.Những nhà thơ đóng góp cho sự thịnh vượng của nền văn nghệ Phật Giáo làNhất Hạnh, Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ, tập trung trong tờ "Thiện Mỹ" và "Giữ ThơmQuê Mẹ". Tựu trung chưa có ai tạo được một cái tên lớn cho văn nghệ như mộtNguyên Sa, một Thanh Tâm Tuyền, một Mai Thảo, có lẽ vì họ đặt quá nặng chủtrương phát huy văn hóa Dân Tộc, không muốn làm nghệ thuật thuần túy ở ngoàimọi chủ trương chính trị, Tôn Giáo...Đặc biệt trong thời kỳ này chuyện giải trí Kiếm Hiệp được hoan nghênh lúcđầu, sau này cũng giảm bớt đi. Một câu hỏi được nêu ra: Phải chăng có người đãkhéo tuyên truyền cho sự thịnh vượng của chuyện Kiếm Hiệp để tái vì trang tinhthần, để mã thượng hóa một thế hệ thanh niên đã quá chán chường do triết lý hiệnsinh bộc phát vì thời thế.Không nhớ trên tờ nhật báo Ngày Nay số nào, tác giả là ai, có một bài nhậnđịnh khá đúng: Sở dĩ trong thời kỳ này người ta thích chuyện Kiếm Hiệp là để thoátly thực tế (xã hội vẫn nghèo đói, chiến tranh còn tiếp diễn) và những truyện đó còncó tính cách nhân bản), vì ít ra chúng cũng vị nhân sinh một phần nào: Thỏa mònnhu cầu tưởng tượng, thoát ly thực tế phũ phàng. Có những tác phẩm văn nghệ chủtrương vị nhân sinh, vì xã hội, mà lại viết bằng một lối văn, một cấu kết phản lại xã157 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82:
sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84:
Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86:
ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88:
nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90:
"Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92:
(2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94:
Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96:
Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98:
xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100:
ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102:
mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104:
trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155: hết Đại Học, ngược lại
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184: trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186: nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188: hướng về những người con
- Page 189 and 190: những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192: Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194: trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196: Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198: Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200: Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202: người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204: Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206: Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư