uổi này sẽ không còn đủ sức để phát minh ra những văn phong mới. (Nguyễn ThịNgọc Nhung dịch)...Chủ nghĩa Hậu Hiện Đại chủ trương phi-tâm-hóa, do đó chấp nhận nhữnglấp ghép ngẫu nhiên và những sự nhại lại (Nguyễn Hưng Quốc) (2). Qua các minh thịvẻ đặc thù như trên của Hậu Hiện Đại ta thấy thơ Tân Hình Thức Việt Nam khôngmấy giống với Chủ Nghĩa Hậu Hiện Đại, không giống những điều như liên-văn-bản(intertextuality), sự lấp ghép (collage), sự nhại lại (pastiche). Không giống với chủnghĩa hậu hiện đại triển khai từ lý thuyết "Giải Thể Cơ Cấu Luận" của JacquesDerrida, một triết gia người Pháp, và thơ Tân Hình Thức Việt Nam cũng chỉ chịu vàiảnh hưởng thơ Hậu Hiện Đại Hoa Kỳ như phục hồi tính truyện kể, thơ cần phải đọclên (nhưng Thơ Hậu Hiện Đại Hoa Kỳ coi đọc thơ như một nghi lễ, còn Tân HìnhThức Việt Nam coi đọc thơ là một cách tạo vần, tạo nhịp, trở về Thể Hát Dạo ViệtNam), và như đã nói, Tân Hình Thức Việt Nam chịu ảnh hương ở giọng thơ thách đốmỹ cảm của thi ca. Đọc vài tài liệu, ta phân vân vì Hậu Hiện Đại như muốn gồm thâuvào mình các người làm văn chương độc lập như Gabriel Garcia Marquez vớikhuynh hướng Hiện Thực Huyền Ảo (Magic Realism), Nhà Văn Salman Rusdie vớitác phẩm "Quỷ Thi" bị Giáo Chủ nước IRAN kết án tử hình, Nhà Văn Đức giải NobelVăn Chương Gunter Grass…: "Other discernible features of postmodernism arean eclectic approach, aleatory writing, parody and pastiche. Nor should weforget the importance of what is called magic realism…" (3)Nền tảng lý thuyết văn chương hậu hiện đại là sự giải thể Cơ Cấu Luận (GiảiCơ Cấu), triết luận của Jacques Derrida. Theo bài giới thiệu của ông Nguyễn MinhQuân thì sự giải thể cơ cấu dựa vào một luận cứ có thể đặt vào khuôn khổ triết lýDuy Tâm Khách Quan (Objective Idealism): "Mọi cấu trúc và mọi hệ thống luôn luôntồn tại một trung tâm khác biệt...Thượng Đế sáng tạo ra thế giới muôn loài bằng sựphát ngôn, Thượng Đế là nguồn cội của câu Khải Huyền...Thượng Đế sáng tạo thếgiới và vũ trụ, điều hành mọi biến cố xảy ra trong vũ trụ nhưng không phải là một yếutố của vũ trụ. Như vậy Trung Tâm là nơi phát xuất sự mâu thuẫn...tính chất TrungTâm tự bản chất của nó đã bị phân tâm hóa (De-Centeralization). Cấu trúc TrungTâm của Cấu Trúc Luận trở thành mâu thuẫn trong tính chặt chẽ của no. Nhân tố tựdo, vượt thoát khỏi Trung Tâm, Derrida gọi là Trò Chơi" (4). Như vậy Trung Tâm TốiThượng trong triết lý Derrida là một Khách Thể Siêu Hình, phát ngôn (câu KhảiHuyền) làm ra vũ trụ, giống như Tinh Thần Tuyệt Đối trong triết lý Hegel đi xuốngcuộc hành trình vạn hóa vào hiện tượng, tức là từ Hư Vô mà đi vào ánh sáng.(Nhưng triết lý Hegel khó hiểu và thần bí ở chỗ đó là cuộc “Hành trình đi lên”, tức từtâm trí cá nhân mà tìm lại các chặng đường vạn hóa, cuối cùng đồng hóa thành TinhThần Tuyệt Đối). Trung Tâm hay Tinh Thần Tuyệt Đối phát sinh ra vật chất, đó làTriết Lý Duy Tâm Khách Quan, công nhận có Khách Thể Tuyệt Đối ngoài tâm conngười, và đã sáng tạo ra thế giới và nhân loại. Nhưng đọc qua một tài liệu khác, tacũng nhận ra triết lý Derrida về giải thể cơ cấu là học thuyết Duy Tâm Chủ Quan(Subjective Idealism). Đó là triết lý chủ trương thực tại thế giới được thực hữu hóado tâm trí con người, ngoài tâm trí ta thì vật giới chưa là gì hết. Derrida xoay quanhthuật ngữ "Dị biệt hóa" (Differance) để giải thích tại sao mọi sự đều bị giải thể, khôngcó cơ cấu nào bền vững, tất cả đều phải chờ đợi, một nỗi triền miên hoài hương vềcái đang vắng mặt. Áp dụng vào văn chương thì không một văn bản nào là có ýnghĩa cố định hay được giải thích bằng cơ cấu tập trung như bản năng tình dục, vôthức siêu thực, vô thức tập thể, vong thân, hạ tầng kinh tế chi phối, bi đát hiện sinh,tham vọng quyền lực, tiến hóa đào thải, mâu thuẫn chủng tộc, siêu nhân thốngtrị...Không còn trung tâm cơ cấu nào để giải thích văn bản, tất cả đều bị giải thể. Tuyvậy, tất cả đều do con người, tức là triết lý duy tâm chủ quan:88 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
"Derrida thay cách đánh vần trong Pháp ngữ về sự dị biệt, từ differenceđổi thành differance, để làm cho thuật ngữ dị-biệt-hóa đó mang hai ý nghĩa rõrệt. Trước tiên, nó có nghĩa là dị biệt, phân chia, kỳ thị. Thứ hai, nó muốn làmtriển hạn, làm chậm lại (không vội có nghĩa) tạm hoãn (định lại ý nghĩa) Dị biệthóa (differance) không phải là hóa giải, một Thể-Cách-Thứ-Ba trong biệnchứng Mâu Thuẫn của Triết Lý Hegelý Derrida không muốn (giải quyết bằng)Tổng Hợp Đề...Khi ta không thể trình diện một điều nào đó thì ta giữ lấy nó,phô trương nó, ta dùng một chỉ dấu, ta phát biểu một triển hạn hiện diện, mộtcái gì vắng mặt...Không phải chủ thể hay khách thể hiện hữu nguyên thủy hơn,có trước, biệt lập hay nằm ngoài cuộc vận hành dị biệt hóa. Viết xuống là vậnhành một lực tương tranh dị biệt hóa để không ngừng sản xuất ngôn ngữ nóivà viết, từ đó ta tạo lập ra ta và thế giới" (5) Nói Khách Thể hay Chủ Thể khôngcái nào là nguyên ủy, để rồi lại nói ta tạo lập ra ta và thế giới thì có khác gì Triết LýDuy Tâm Chủ Quan.Trong "Tạp Chí Thơ" số mùa Thu năm 2002, có một bài thơ của Đỗ Kh. rápnối nhiều câu thơ văn của các văn Thi Sĩ nổi tiếng thuộc văn học miền Nam và hảingoại, bài "Liên Khúc Ngũ Ngôn" có lẽ đó là bài đầu tiên áp dụng thể thức liên-vănbản(intertextuality) của văn chương giải thể cơ cấu (Deconstruction). Vì mới đây thôitrên "Tạp Chí Thơ", phần trích nguyên bài thơ này không nêu ra đây nhưng sẽ dẫnchứng trong phần "Thơ Tuyển" trong sách "Thi Nhân Việt Nam Hải Ngoại": Phầnchứng liệu thuộc 3 chương viết về "Ngôn Ngữ Mới- Văn Thể Mới-Nhạc Tính Mới".Cho đến nay thì bài thơ liên-văn-bản ấy có thể liệt vào văn chương hậu-hiện-đại hảingoại mà "Tạp Chí Việt" bên Úc đã ra công giới thiệu. Đã có hai cuốn sách dầy vềchủ nghĩa hậu-hiện-đại trong văn chương được xuất bản tại hải ngoại, của NguyễnHưng Quốc và Hoàng Ngọc Tuấn (phần lớn đã đăng báo), do nhà xuất bản "VănNghệ", Westminster, CA. ấn hành năm 2001 và 2002. Trước đây, trong thời Văn HọcMiền Nam 1954-1975, cũng có vài bài giới thiệu Cơ-Cấu-Luận (Structuralism), nhưbài của Giáo Sư Nguyễn Văn Trung về Cơ Cấu Luận của Claude Levi Strauss. Nhàdân tộc học này đi tìm cơ cấu mạch lạc trong các truyện kể thần thoại của các dântộc ta gọi là sơ khai, kết luận tâm trí nhân loại dù văn minh hay sơ khai đều sinh hoạttrên căn bản mạch-lạc-luận-lý, hệ-thống-hóa (6).Như bài "Phê bình Cơ Cấu Hình Thức của Roland Barthes", cũng của GiáoSư Nguyễn Văn Trung, giới thiệu loại phê bình không phải nêu ra nội dung viết cái gìmà cốt nêu ra các tín hiệu nào vãng lai trong tác phẩm, những tín hiệu làm nên cơcấu có ý nghĩa của tác phẩm (7). Phê bình kiểu đó là truy tìm "trung tâm", không phải"phi-tâm-hóa" như thuyết giải-thể cơ-cấu xuất hiện sau này, và chính RolandBarthes, cũng đã ngả về thuyết Giải-Cơ-Cấu, phát biểu trong lời tuyên bố điều tamuốn viết ra không còn nữa, "The Death of the Author". Và có bài của Giáo Sư NgôTrọng Anh về cơ-cấu-luận xuất hiện thời văn học Miền Nam 1954-1975, một đoạnnhư sau: "Phương pháp để đi vào huyền sử chính thống là Thiền định và tríhuệ đầy sáng tác chứ không phải bằng phương pháp phân tích cơ cấu, bằng tríthông minh đầy kiến tạo. Phải Thiền Định mới có thể không tìm mà thấy nhữngtương quan siêu hình Hoàng Cực hay trùng trùng duyên khởi Hoa Nghiêmtrong cánh hoa bồ công anh" (8). Thời Văn Học Miền Nam, giới hạn từ 1954 đến1975, nên thuyết Giải Cơ Cấu của Derrida xuất hiện sau 1975 đã dĩ nhiên không cóai trong số những người bàn về triết lý thời đó nói đên. Nhân đây, xin nêu ra nhữngtác giả có sách báo về triết lý thời văn học miền Nam mà người viết bài này đã đọcvà thâu nhận một số kiến thức do họ giới thiệu, gồm có: Tam Ích, Nguyễn VănTrung, Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, KimĐịnh, Lê Xuân Khoa, Trần Thiện Đạo, Trần Văn Toàn, Bùi Giáng, Lê Tuyên, Đỗ Long89 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38: tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40: Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42: Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44: iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46: nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48: Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50: thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52: Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54: (Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56: ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58: cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60: tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62: Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64: (Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66: văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68: như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70: tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72: cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74: Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76: trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78: Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80: chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82: sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84: Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86: ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87: nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 91 and 92: (2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94: Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140:
sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142:
những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144:
quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146:
tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148:
văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150:
xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152:
như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154:
Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156:
hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158:
cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160:
(2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162:
cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164:
Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166:
Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168:
mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170:
Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172:
Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174:
không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176:
Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178:
Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180:
Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182:
Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184:
trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186:
nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188:
hướng về những người con
- Page 189 and 190:
những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192:
Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194:
trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196:
Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư