Dez, trang 128) (1). Người thứ nhì coi thi ca như một vấn đề triết học là Heidegger.Đối với Heidegger, nhiều học giả cho rằng ông là triết gia của "chân lý về hữu thể",tức là thực tại hằng cửu ẩn đàng sau hiện tượng, nhưng "hữu thể" này đào sâu đếnnền tảng, không phải loại hữu thể đã biến thành sự vật như "bản thể" trong triết họccổ điển. Ngoài tính chất sự vật tính, hữu thể trong triết học cổ điển là cái gì quá trừutượng khô lạnh, vì đã phủi sạch những vấn vương sương khói của huyền học. Vậymà hữu thể trong triết lý Heidegger cũng không phải là cõi siêu hình đối lập với thếgiới hữu hình, nó là giải sương mù huyền hoặc đầy tính chất lãng mạn và bí ẩn, môtả là ở trên đối nghịch hữu hình và vô hình, tinh thần và vật chất, thời gian và vĩnhcửu. Nó là "logos" tức "nguyên ngôn" dung hòa mọi dị biệt, nhưng cũng không thểhiểu nó như một sự vật, khó đem ra diễn tả bằng lời, thấu rõ bằng lý trí. TheoHeidegger, trước khi đi tìm hữu thể của vạn vật, ta hãy mô tả hữu thể con ngườitrước đã. Hữu thể con người được gọi là "Dasein". Ông còn chủ trương thi ca cũnglà một cửa ngõ đi tìm hữu thể, bởi vì thi ca là sáng tác (Poiesis), mà sáng tạo là đemcái gì từ hư vô ra ánh sáng.Thi ca theo nghĩa nguyên thủy là sáng tác, nên việc đó có thể đem hữu thểcòn ẩn dấu ra ánh sáng. Tại sao thi ca lại có thể làm xuất lộ hữu thể, tức bản chấtcủa sự vật ? Theo Heidegger, ngôn từ của thi ca là nhà ở, là nơi ẩn dật của hữu thể(le langage est la maison de l'être). Căn cứ vào chỗ này, Giáo Sư Trần Thái Đỉnh,trong tạp chí "Đại Học", xuất bản tại Huế, viết nơi bài "Heidegger và bản chất thi ca",đã cho rằng quan niệm về thi ca của Heidegger khác với cách hiểu thi ca có màu sắcvăn nghệ văn chương. Đó là nhận xét thật chuyên môn về phương diện "bản thể"bởi vì thi ca theo nghĩa của triết lý Heidegger là một vấn đề của siêu hình học.Nhưng có lẽ nhận xét ấy chưa đặt vấn đề quan trọng này: Tại sao Heidegger lại chủtrương việc đi tìm bản thể bằng thi ca mà lại không bằng âm nhạc hay hội họa haycác nghệ thuật khác ? Đặt vấn đề như vậy là tìm hiểu nguồn gốc cảm hứng củaHeidegger đối với thi ca, trước khi ông bàn về triết học. Có lẽ Heideger là người đãtìm thấy cái thâm sâu ẩn dấu của thi ca mà ông Bùi Giáng gọi là phần vô ngôn, cái ởbên kia lời, vì Heidegger đã từng viết "Plus l'oeuvre d'un p.ete est poétique et plusson dire est libre: plus ouvert à l'imprévu, plus prêt à l'accepter" (Trong bài "L'hommehabite en poete", bản dịch ra Pháp ngữ của André Préau đăng trong tạp chí "Cahierdu Sud", số 344 năm 1958) (2). Thấu hiểu được tính cách xuất lộ bất ngờ đó của thica, Heidegger mới chủ trương thi ca là cửa ngõ đi tìm hữu thể, như vậy "ăn khớp"với chủ trương chân lý là sự "vén màn" của sự vật, nhằm làm xuất lộ ra thực tại linhđộng. (Vẫn là bản thể, nhưng Heidegger không ưa Sự Vật Tính). Từ nguồn gốc cảmhứng thi ca trên bình diện văn chương, Heidegger đã chuyển thi ca vào bình diệntriết học, trở thành một vấn đề của Bản Thể Học. Vậy xin nhắc lại, đây không phải làmột bài nghiên cứu về thi ca, cũng không phải là bài nghiên cứu về một vấn đề triếthọc lấy đối tượng thi ca. Bài này tự giới hạn ở chỗ đi tìm tính chất thi ca nằm trongcác trang chữ triết học. Có thể nói rằng công việc này ngược lại với công việc củacác triết gia ngày nay như Heidegger, Bachelard, Jean Whal, họ đã đi tìm những vấnđề siêu hình nằm trong thi ca. Còn bài này thì lại đi tìm những hình thức thuộc vềvăn chương trong triết học, và những nội dung gợi cảm thơ. Tại sao có thể đặt đượcvấn đề có tính chất thi ca trong tác phẩm triết học. Vấn đề được đặt ra là vì thực sựta cảm nhận vẻ mỹ cảm của ngôn ngữ diễn tả triết học. Đó là các văn ảnh và huyềntruyện thấp thoáng đó đây trong triết học. Ngoài hình thức văn chương, chất thơcũng do từ nội dung triết lý làm lay động đến tâm tình của con người, khi đọc tớinhững đoạn bàn đến vũ trụ bao la, đời người vô nghĩa, vạn vật vô thường, hoặc chobiết còn một thực tại hằng cửu ở đàng sau những biến dịch đổi dời. Chất thơ cũngdo các nội dung về Tâm Lý Học. Chẳng hạn William James nói tâm hồn con người66 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
như những lớp sóng, hết lớp nọ đến lớp kia, tạo nên một dòng nước ý thức sinhđộng: Như nghe một tiếng sấm thì không phải chỉ nghe tiếng sấm đó mà thôi, nhưngbao hàm nghe được sự im lặng mới đó đã bị xé rách. Thật là thơ khi Bà Bá Tước DeNouailles nói không bao giờ ta còn gặp lại tâm hồn chiều nay của chúng ta v.v...Văn ảnh và huyền truyện. Nội dung siêu hình và sự đào sâu tâm lý. Đó lànhững tính chất thi ca trong triết học.(Phần A viết tại Sài Gòn, khoảng năm 1965)B. Chất Thơ Trong Văn XuôiTa thử phân biệt "Thơ: Một vấn đề của triết học" và "Tính chất thơ trong triếthọc".Có lẽ trong lịch sử triết học (ít nhất là trong triết học Tây Phương), chỉ có triếtgia Đức tên là Martin Heidegger (1889-1976) là người đã đặt thi ca thành một vấn đềcủa triết học. Ông đã dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp Poiesis, dịch ra là thi ca, mà thi catheo nguyên ngữ này có nghĩa là vén màn hư ảo, là làm xuất hiện cái vô ngôn ẩntàng sau ngôn ngữ, là làm phơi bày ra ánh sáng cái ẩn thể ẩn tàng sau hiện tượng tatrông thấy và thâu nhận hàng ngày. Chân lý theo Heidegger là làm sao bắt gặp cáiẩn thể đó, mà hiểu được chỉ có cách là làm quen, giao tiếp thân mật, không thể hiểuđược bằng khoa học, bằng định luật vật lý, bằng suy luận, nói chung là không thểthông cảm cái ẩn tàng bằng sự học thức.Cũng giống như những con đường rừng chằng chịt, chỉ có người tiều phu đốncủi là rành rọt đường đi lối về, vì người tiều phu là kẻ thân thuộc, là bạn thân thiếtcủa những con đường mòn đó. Từ quan niệm đặc biệt về thi ca như vậy, Heideggermới chú giải thơ Holderlin (cũng là một Thi Sĩ người Đức) như một cuộc hành trìnhtrở về quê hương, tức là nguồn cội của ẩn thể, và chú giải ngôn ngữ như một ngôinhà, (nhà ở đây có nghĩa là nơi tàng trữ cái sâu xa bí ẩn), và chú giải Thi Sĩ như mộtkẻ chăn cừu vì chỉ Thi Sĩ mới chăn dắt được thi ca, (thi ca ở đây có nghĩa là vén mànbí mật). Từ quan niệm thi ca như một vấn đề triết học của Heidegger, từ quan niệmthi ca đồng nghĩa với hé lộ ẩn thể của ông, ta không thể không liên tưởng đến hồnsông núi trong ngôn ngữ mỗi dân tộc. Như lời ca dao thắm thiết, như tiếng hát ru conngậm ngùi, chắc chỉ có ta là thông cảm được cái hay vì là kẻ quen thuộc thân thiết,mà người ngoại quốc dù có thông bác ngôn ngữ ta đến đâu có lẽ cũng không làmsao bắt gặp được hồn thiêng sông núi đó.Còn như chất thơ trong triết học là một vấn đề thuộc lãnh vực văn chương.Tương tự như ta có thể tìm thấy chất thơ khi ta đọc tới những biển dâu dời đổi trongmôn địa chất học, hoặc tìm thấy chất thơ khi đọc tới những huyền ảo của khám phákhoa học về sự thống nhất thể từ vật chất siêu vi tới những thiên hà vĩ đại trong vũtrụ trong ngành vật lý thiên thể hiện đại (Astrophysics) (3). Ta đọc tới là đọc tới quangôn ngữ diễn đạt, không phải qua những dụng cụ khoa học, thì phải chăng vănchương vẫn giữ một vai trò quan trọng đối với ta, khởi điểm để biết khoa học. Cũngvậy, ta cảm thấy cái hay của triết học nhiều khi không hẳn là qua lý luận, mà qua cáisâu xa của ẩn dụ, thâm trầm của huyền truyện: Huyền truyện tù nhân trong thạchđộng của Triết Gia Platon, huyền truyện cánh chim bằng bay về ao trời của TrangTử. Một dòng nước chảy tượng trưng cho dòng thời gian với suối nguồn là quá khứ,biển cả là tương lai, nơi ta chứng kiến nước đang qua là hiện tại. Triết học Phật Giáođầy những ẩn dụ: Bãi cát Sông Hằng, mặt biển sinh diệt, bờ biển đam mê, conthuyền giác ngộ, giải sương mù ảo hóa, tiếng dội hải triều âm...Ta thử đọc một đoạntrích trong triết học Phật Giáo:"- Này Đại Vương, nếu có người thắp một ngọn đèn lên, ngọn đèn có thể cháysuốt đêm được không ?- Bạch ngài, ngọn đèn có thể cháy đến sáng!67 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16: Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18: ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20: Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22: các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24: Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26: (Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28: Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30: Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32: Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34: lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36: miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38: tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40: Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42: Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44: iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46: nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48: Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50: thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52: Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54: (Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56: ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58: cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60: tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62: Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64: (Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65: văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 69 and 70: tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72: cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74: Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76: trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78: Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80: chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82: sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84: Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86: ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88: nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90: "Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92: (2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94: Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118:
tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120:
đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122:
ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124:
hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126:
nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128:
nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130:
Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132:
một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134:
Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136:
thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138:
nhận định văn chương một
- Page 139 and 140:
sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142:
những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144:
quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146:
tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148:
văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150:
xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152:
như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154:
Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156:
hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158:
cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160:
(2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162:
cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164:
Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166:
Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168:
mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170:
Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172:
Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174:
không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176:
Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178:
Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180:
Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182:
Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184:
trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186:
nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188:
hướng về những người con
- Page 189 and 190:
những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192:
Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194:
trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196:
Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư