như bài viết “Góp phần luận về văn chương viễn mơ” đề cao văn chương thuần túydo cấu trúc qua văn chương Nguyễn Tuân và Mai Thảo (đăng trong Tạp chí TrìnhBầy số 42 năm 1972). Cả ba bài do người viết bài này gửi đăng có tính cách cá nhântùy hứng trong các báo kể trên(1). Chủ trương ngoài thời thế thì phải đề cao văn chương vụ hình thức. Đềcao văn chương vụ hình thức thì lấy điển hình sẽ không còn ai thể hiện rõ ràng hơnbút pháp cầu kỳ của hai Nhà Văn này (nếu ta nói là văn chương sang cả thì chỉ nhấnmạnh nội dung hơn hình thức). Bị ngộ nhận từ “văn chương thiên về cấu trúc mỹcảm” thành “văn chương của đời sống giàu sang” nên mới có những bình phẩmkhuynh hướng trên là “nền văn chương ngoại lai viễn mơ của các thế lực đế quốc tráhình”. Bây giờ các nhà nghiên cứu xã hội có giải đáp nào cắt nghĩa tại sao ở vào giaiđoạn chiến tranh cao điểm, ở vào giai đoạn kinh tế lạm phát phi mã, ở vào giai đoạnxã hội đảo điên, ở vào giai đoạn triết lý bi đát...tại sao lại có khuynh hướng quay lưngvới thực tế, tìm về ước mơ ? Tác phẩm quẩn quanh nếp sống nơi thành thị “Sau giờgiới nghiêm” của Mai Thảo và mơ mộng lạc lòng đời “Vườn quên lòng” của Viên Linhxuất hiện trong thời điểm này. Mơ ước hòa bình rồi cũng thành hiện thực, nhưng làthứ hòa bình trên nền tảng bất ổn, từ đó lại nẩy sinh văn chương đối lập chính trịtrong nội bộ miền Nam để có thế mạnh đối phó tình hình Mỹ muốn ra đi.II.-Văn chương thời tạm lắng sau Hiệp định Paris.Tạm lắng trên nền tảng bất ổn vì Hiệp định Paris quy định các sư đoàn từngoài Bắc xâm nhập cứ ở nguyên vị trí, không cần rút về vĩ tuyến 17. Lực lượngxung đột hai bên tại miền Nam ở trong tình trạng da beo, xôi đậu, cài răng lược,nghĩa là vẫn đánh nhau nhưng không là trận địa chiến. Chỉ có Mỹ là rút quân, lấy vềhết phi công tù binh, bảo đảm can thiệp khi khởi phát chiến tranh lớn. Trong tìnhtrạng đó thì kinh tế miền Nam vẫn không thể tự túc, vẫn nhờ Mỹ viện trợ gạo TháiLan, vẫn nhờ Mỹ viện trợ xăng dầu, vẫn nhờ Mỹ tiếp viện súng đạn mà càng về saucàng tiếp viện hạn chế nên phải tiết kiệm hỏa lực. Nền chính trị thì suy yếu, độc diễnTổng Thống, nhưng miền Nam vẫn giữ được tình trạng sống an phận, không đến nỗihỗn độn tao loạn. Hình như người ta đã quen sống chịu đựng do cuộc chiến tranhquá dài, hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác. Nhưng những người trí thức,những Nhà Văn, những nhà báo, thì không thể an phận trước viễn tượng bất ổn vềquân sự, suy yếu về chính trị. Do đó văn chương không còn phải là than thở nỗi oantrái dân tộc, mà là dấn thân đòi làm trong sạch hàng ngũ, đối thoại với chính quyềnViệt Nam Cộng Hòa nhằm xây dựng chính phủ mạnh về chính trị. Vì vậy văn chươngthời kỳ này là những bài báo mạnh dạn của các Linh Mục Chân Tín, Nguyễn NgọcLan, Trần Hữu Thanh, các Nhà Văn trong ban biên tập của Tạp chí Trình Bầy, ĐốiDiện hậu thân của các Tạp chí Đất Nước, Hành trình thuộc giai đoạn trước. Các bàibáo chính luận chưa phải là sáng tác văn chương. Các bài báo chính văn đăng trongTrình Bầy, Đối Diện mới thuộc về văn học như “Giã từ nền văn chương trú ẩn” củaNguyên Sa, “Văn nghệ trước những mưu đồ bất chính của hệ thống chiến tranh lạnh”của Thế Nguyên...Và những Nhà Văn Nhà Thơ ngoài nhóm Trình Bày-Đối Diện cónhững sáng tác gì phản ánh giai đoạn tạm lắng sau Hiệp Định Paris. Rất ít vì nhữnglý do trình bày sau đây. Tạm lắng nên bắt đầu có những xây dựng trung bình nhưsửa lại cầu đường, xây nhiều Trường Trung Học xuống đến Quận lỵ, cải tổ giáo dụcnhư soạn lại chương trình phải tiếp tục học Quốc Văn ở lớp 12, chấn chỉnh y tếxuống đến nông thôn, mở rộng đất canh tác để phần nào bớt nhập cảng gạo TháiLan, đời sống xã hội trở về nề nếp ít xáo trộn vì Quân Đội Mỹ và Đồng Minh đã rút đicuốn theo hết những cơ sở phục dịch. Một vài sáng tác phản ánh giai đoạn này thấyrõ đã xa lìa triết lý hiện sinh, phôi pha bức tranh đen tối xã hội về thế giới đĩ điếm.Mức sống trầm trầm nên không có những bài phóng sự thế giới ăn chơi hay xã hội216 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
đen, không có cả những sách du lịch vì người dân ít đi lại, ai cũng chỉ lo sao cho đủnhu cầu hàng ngày. Tạp chí văn chương hiện diện cho đến tháng 3 năm 1975 hìnhnhư chỉ còn có tờ Thời Tập. Tạp chí đối lập chính trị Đối Diện và nhật báo thuộcthành phần thứ ba Tin Sáng gây một số dư luận trong thời kỳ này. Thời gian tạmlắng như trên cũng đủ tạo ra một chút ấm áp đời sống, người ta tìm về chuyện tìnhnhẹ nhàng, do đó có phong trào đọc tiểu thuyết Quỳnh Dao. Những cuốn như “Hảiâu phi xứ, Trôi theo dòng đời, Song ngoại, Mùa thu lá bay, Dòng sông ly biệt...” quabản dịch trong sáng của Liêu Quốc Nhĩ bán rất chạy, làm cho các Nhà Văn Thơ bấylâu nghiền ngẫm nội dung truyện phải là triết lý sâu sắc, kỹ thuật dựng truyện tân kỳphải là đa tầng của dòng ý thức hay cốt truyện không cốt truyện của Tiểu-thuyếtmới...đềumuốn chuyển hướng về văn phong dễ tiếp nhận, lãng mạn phơn phớt,không quá bi thảm, như “Hạ đỏ có chàng tới hỏi”, “Tới nơi em ở” của Viên Linh, “Hìnhnhư là tình yêu” của Hoàng Ngọc Tuấn.Góp gió làm thành một mùa dịch thuật, những tiểu thuyết tình đồ sộ nhưngxưa cũ của Tây phương lại thấy xuất hiện trong thời kỳ này như “Người tình đầu tiên,người yêu cuối cùng”, “Đỉnh gió hú”, “Xa đám người rồ dại”, “Tội ác và hình phạt”,“Một thời để yêu và một thời để chết”...Không ai tiên đoán được tương lai miền Namsẽ ra sao, trong khi những sư đoàn hai bên vẫn còn ở nguyên vị trí, trong khi kinh tếmiền Nam không phải chao đảo mà cũng không phải tự túc tự cường, trong khi chínhquyền miền Nam mặc dù kiểm soát được nội bộ, không còn những biểu tình xáotrộn, nhưng được lòng dân thì còn xa, trong khi đời sống xã hội tuy hết đảo điênnhưng toàn là an phận. Có những phanh phui thẩm lậu gạo, thẩm lậu lâm sản, thẩmlậu nhiên liệu mà hiện tượng phổ biến là đầu đường xó chợ đều thấy xăng dầu bàybán từng lít trong chai trong lọ. Tại sao có hiện tượng thẩm lậu? Bởi vì ngân khoảnviện trợ súng đạn xăng dầu của Mỹ dành cho Việt Nam Cộng Hòa bị cắt gần hết.Nhưng Hạm Đội Thứ Bảy của Hoa Kỳ vẫn bố trí ngoài Biển Đông có thể can thiệpngay tức khắc, chính vì vậy mà không ai dự trù sẽ có những biến cố lớn. Nhắc lạimột vài khía cạnh tình hình đó để tìm hiểu tại sao ít có văn thơ phản ánh giai đoạntạm lắng sau Hiệp Định Paris. Tại vì không ai tiên đoán viễn tượng Miền Nam sẽ rasao, có thể vẫn cứ tiếp tục tồn tại trong thế suy yếu mà được bảo vệ đó. Mà tìnhtrạng như vậy thì không có gì cảm xúc hay cảm hứng cho sáng tác văn học. Một làcực kỳ khốc liệt như giai đoạn trước, hai là hòa bình hạnh phúc thực sự, thì mới đivào văn chương. Cả hai đều không có trong giai đoạn này thì văn thơ đâu còn nguồnphát xuất suy tư hay tình tự. Có hai tạp chí thực sự ra đời trong khoảng thời gian tạmlắng sau Hiệp Định Paris là Đối Diện và Thời Tập (không nhớ rõ hai tạp chí tồn tạilâu đời là Bách Khoa và Văn có còn hiện diện trong lúc này hay đã đình bản). Nhưngtạp chí Đối Diện chuyên về chính trị đối lập. Chỉ còn tờ Thời Tập chuyên về văn học,trong đó không có những Nhà Văn nhà thơ nào mới tạo sự nghiệp sáng giá, nhữngtác giả tên tuổi đều thuộc các thời kỳ trước đóng góp bài vở, vẫn giữ đường hướngxưa của họ nên không phản ánh thời kỳ tạm lắng sau Hiệp Định Paris. Thiếu nhữngsáng tác phản ánh thời cuộc buồn chán, nên các tạp chí quay ra làm những số đặcbiệt văn học vinh danh tác giả, như Thời Tập với các số đặc biệt về Bình NguyênLộc, Nguyễn Tuân, Quang Dũng, Thâm Tâm, Khái Hưng, Lê Văn Trương... Giốngnhư khoảng thời gian trước đó không lâu (khoảng 1970 đến 1972) trên Tạp chí VănHọc của ông Phan Kim Thịnh có các số đặc biệt về Văn Cao, Phạm Duy, T. T. KH,Quang Dũng, Nguyễn Bính...Bài thơ “Chiều Trên Phá Tam Giang” của Tô Thùy Yênsáng tác vào tháng 6 năm 1972 phản ánh giai đoạn trước về thân phận đất nước làmbãi chiến trường quốc tế, vì không có báo nào chịu đăng, bây giờ xuất hiện trên ThờiTập vào tháng 4 năm 1974, nghĩa là đã qua thời điểm chiến tranh khốc liệt, nên cũngkhông phản ánh giai đoạn tạm lắng. Nói chung là sáng tác cạn nguồn hứng khởi do217 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82:
sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84:
Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86:
ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88:
nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90:
"Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92:
(2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94:
Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96:
Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98:
xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100:
ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102:
mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104:
trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106:
gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108:
thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110:
(Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112:
thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114:
Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116:
chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118:
tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120:
đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122:
ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124:
hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126:
nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128:
nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130:
Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132:
một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134:
Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136:
thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138:
nhận định văn chương một
- Page 139 and 140:
sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142:
những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144:
quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146:
tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148:
văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150:
xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152:
như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154:
Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156:
hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158:
cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160:
(2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162:
cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164:
Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184: trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186: nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188: hướng về những người con
- Page 189 and 190: những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192: Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194: trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196: Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198: Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200: Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202: người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204: Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206: Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208: ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210: chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212: Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214: hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215: chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 219 and 220: Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222: khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224: Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226: Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228: vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230: Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232: Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234: Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236: Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238: phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240: Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242: Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244: nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246: thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248: Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250: Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252: Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254: ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256: làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258: Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260: Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261: Hoàng Lộc trong bài Phố ngư