Trước hết, ta dựa vào từ ngữ bướm trắng được nhắc lại một đôi lần trong tácphẩm. Nếu thế, ta dễ đi đến một kết luận vội vàng, tưởng đâu rằng ý nghĩa của tácphẩm nằm trong một vài từ ngữ được nhắc lại ấy. Trong tác phẩm Nhất Linh đá độngđến cánh bướm trắng, đó là khi nhân vật Trương biết chàng mắc bệnh lao, có thể chỉsống trong vòng một năm nữa, lúc ấy chàng nhìn hoa cẩm chướng trắng mà mườngtượng những con bướm trắng của một thời thơ ấu lành mạnh và xa xôi. Dựa vàomột vài từ ngữ đá động đến nhan đề bướm trắng mà tưởng rằng ý nghĩa của tácphẩm là sự nuối tiếc thời thanh xuân tươi đẹp trong sáng, như thế cũng có phần nàođúng, nhưng ý nghĩa tìm ra ấy hình như quá dễ dàng. Có lẽ đâu Nhà Văn mở cửacho độc giả thấy ý nghĩa của nhan đề quá lộ liễu như thế:"Một bông hoa cẩm chướng trắng, gió lọt vào làm rung động như một cánhbướm. Tưởng đến một ngày chủ nhật nắng, một ngày đã xa lắm chàng đứng nhìnnhững con bướm trắng, bay trên một luống cải lấm tấm hoa vàng...".Vậy ta dựa vào cốt truyện để truy ra ý nghĩa của nhan đề xem sao.Trong phần cốt truyện, nhân vật Trương là một người bệnh hoạn, mang cáiám ảnh gần ngày chết nhưng lại cố dấu căn bệnh trầm kha của mình để yêu tha thiếtmột người con gái còn tràn đầy sức sống, trẻ đẹp và hơi kiêu hình. Trương tự làmkhổ mình với mối tình ấy, tự thấy mình quấy nhiễu người khác nhưng vẫn muốnđược yêu, tự đưa mình xuống hàng thấp kém hơn người yêu bằng con đường trụylạc và biển thủ, cho đến khi biết mình lành bệnh thì người yêu đã trở thành một viễnđích không vói tới được nữa. Và Trương cũng đã khám phá được tình yêu của mìnhtừ trước đến nay chỉ là thứ tình yêu xây trên ảo ảnh, vọng tưởng hóa người yêu đểtự làm khổ mình.Chàng tìm thấy một tình yêu giản dị hơn: Một người con gái đẹp hiền và giảndị nơi làng mạc quê hương vẫn sẵn sàng đến với chàng, một thứ tình yêu êm đềmnhư người vợ săn sóc chồng. Căn cứ vào cốt truyện trên đây, ta có thể kết luậnbướm trắng là biểu tượng của tình yêu giản dị, không phức tạp. Con bướm trắngkhông sặc sỡ nhưng êm ái đậu trên cây cỏ của vườn xưa…Nhưng dựa vào khuynh hướng viết tiểu thuyết của Nhất Linh, khuynh hướngphân tách tâm lý, đào sâu vào những ngõ ngách lòng người, ta lại có một ý nghĩakhác về biểu tượng con bướm trắng.Bướm trắng là con vật chập chờn, phất phơ trên cành lá, cho nên bướm trắngcó thể là biểu tượng cho cái nội tâm bí ẩn và bất trắc của con người. Tác phẩmBướm Trắng bày ra một cuộc phiêu lưu của tâm trạng, một cuộc tranh chấp của nộitâm, những khúc quanh đột ngột của tâm hồn: Trương muốn yêu Thu nhưng lạimuốn chết để thoát khỏi tình yêu của nàng, muốn thụt két nhưng trong thâm tâm lạimong người chủ hãng buôn đến sớm để làm cho mình không thể thụt két, biết mìnhkhông xứng đáng nhưng lại tìm cách làm cho Thu coi trọng mình và căm tức khinàng kiêu hình, gạt Thu gặp mình lần cuối cùng để lợi dụng cơ hội cho dục vọngnhục thể, nhưng lại sung sướng bỏ lỡ dịp ấy, cuối cùng về ở hẳn với Nhan nơi chốnthôn quê nhưng lại không dám vội vàng vướng víu Nhan để lòng mình đừng quênThu… Bướm Trắng, biểu tượng chập chờn của nội tâm con người bất trắc. BướmTrắng, biểu tượng giản dị của tình yêu êm đềm không phức tạp. Có lẽ đó là nhữnggiải thích gần nhất về nhan đề Bướm Trắng của Nhất Linh.(Trích Tạp Chí Thời Tập, ấn hành tại Sài Gòn ngày 25 tháng 10 năm 1974)Cảm Nghĩ Vài Bài Hát Đã Nghe1.- Âm nhạc là bộ môn văn nghệ truyền đạt rộng rãi nhất vào quảng đạiquần chúng.168 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
Rộng rãi hơn bộ môn Văn giới hạn trong một thiểu số người ham chuộng sáchvở, dĩ nhiên là phải có ít nhiều trình độ học vấn ngôn ngữ Việt Nam. Cho nên bộ mônVăn giới hạn trong thời gian nếu một mai người Việt thuộc thế hệ thứ ba không cònhiểu biết nhiều về ngôn ngữ Việt Nam. Bộ môn Thơ lại còn bị giới hạn nhiều vàongôn ngữ dân tộc, bởi vì ngôn từ thi ca có tính cách vi diệu, mang trong nó cái hồncủa đất nước, của dân tộc.Điển hình của vi diệu ngôn ngữ Việt ở trong các bài ca dao, hát ru con, đúckết trong tâm hồn Nguyễn Du mà nhào nặn ra tác phẩm Truyện Kiều với thể thơ lụcbát thần kỳ. Thi tính là một điều khó đạt. Không phải ai hễ đặt ra câu ra vần là thànhra thơ. Bộ môn nghệ thuật hội họa có lẽ không bị giới hạn bởi ngôn ngữ dân tộc. Tácgiả thể hiện cảm nghĩ của mình qua màu sắc đường nét. Màu sắc đường nét có tínhcách quốc tế. Đem cái chung thể hiện cái đặc thù riêng biệt của màu sắc dân tộc,quang cảnh đất nước, đó là do tài sử dụng của họa sĩ. Nhưng hội họa lại bị giới hạntrong thiểu số người biết thưởng ngoạn. Bộ môn sân khấu như cải lương, hát bội,hát chèo, giới hạn bởi vấn đề trình diễn đòi hỏi phải có sân khấu, đòi hỏi phải có sốkhán giả đông đảo thì mới tồn tại nổi. Những điều kiện đó chỉ có nơi quê nhà, khóthực hiện nơi hải ngoại mà số người yêu thích ít, lại còn phân tán rải rác khắp thếgiới. Trái lại bộ môn âm nhạc có giá trị phổ biến cao. Mọi người, mọi giới, mọi trìnhđộ, mọi nơi, đều có thể cảm nhận cái hay, cái đẹp, qua âm thanh. Ta cảm nhận ýnghĩ của tác giả qua lời ca, tiếng nói của dân tộc. Cho dù các thế hệ thứ hai, thứ bacủa lớp người di dân Việt không giỏi về văn học ngôn ngữ, nhưng vẫn còn ngheđược tiếng nói của người Việt truyền miệng trong gia đình, trong cộng đồng, do đócòn cảm nhận được lời ca trong âm nhạc Việt nơi hải ngoại. Cho dù các thế hệ thứhai thứ ba không có các hình ảnh kỷ niệm về lũy tre, đình làng, ao bèo, ngõ trúc,cánh đồng, con trâu, không thể mường tượng được về nếp sống làng xóm bên dòngsông Cửu Long, sông Mã hay Hồng Hà, không thể thông cảm được cái ấm cúng củaThành Phố Sài Gòn, Nha Trang hay Hà Nội, nhưng có lẽ họ vẫn cảm nhận được cácmối tình xảy ra ở các nơi ấy mà nhạc sĩ nào đó phổ vào âm thanh, vào tiếng hát, vàcó lẽ họ vẫn cảm nhận được mối liên hệ thắm thiết của tình gia đình, cha mẹ, anhem, tình láng giềng, bà con thân cận, mà nhạc sĩ nào đó phổ vào tiếng hát, gởi vàoâm thanh. Tóm lại, họ vẫn còn cảm nhận được các giá trị tinh thần không bị giới hạnbởi không gian, bởi hình ảnh về một đất nước ở xa xôi tận bên kia bờ đại dương. Đólà nói về giá trị phổ biến của nghệ thuật âm thanh đối với thế hệ thứ hai thứ ba. (Biếtđâu nhờ sự đi lại dễ dàng, việc khứ hồi Việt Nam hải ngoại là thường xuyên do sựlàm ăn khấm khá của người Việt thế giới, sự phân chia thế hệ thứ nhất, thứ hai, thứba sẽ dần dần ít cách biệt)2.- Nghĩ về nhạc ngoại quốc phổ thông đã có thời kỳ phổ biến tại ViệtNam.Lời ca điệu nhạc thích hợp cho con người đang có nỗi buồn phiền, hoặc sôinổi, hoặc nhớ thương, hoặc lo lắng. Tóm lại là những bài ca diễn tả thất tình của conngười. Có thể nghe nhạc trong bất cứ cảnh ngộ nào, không cần phải thính phòngsành điệu. Có thể hát nghêu ngao cho vơi nỗi buồn, nỗi thất vọng. Có thể hát để bộclộ vui mừng, phấn khởi. Loại nhạc mô tả thất tình, điệu nhạc phổ thông không đòi hỏitrình độ thẩm âm cao cấp, xem ra đây là loại nhạc sinh động thích hợp cho các lớpngười trong xã hội. Nhưng khi nhìn lại các bản nhạc đã có thời kỳ phổ biến tại ViệtNam, thời kỳ Quân Đội Mỹ có mặt tại đó, người Việt Nam hải ngoại có ấn tượng cácbản nhạc ấy bị vây chặt bởi kỷ niệm, bởi quá khứ. Vì họ đã từng nghe điệu nhạc lờica ấy tại một đất nước và trong một thời kỳ. Cho nên dù là các bài ca ngoại quốc,bằng tiếng Việt hay bằng tiếng nước ngoài, các bài ca như bị giới hạn bởi khônggian quê hương Việt Nam, và thời gian lúc có cuộc chiến tranh lớn tại đó. Nghe lại169 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82:
sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84:
Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86:
ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88:
nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90:
"Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92:
(2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94:
Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96:
Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98:
xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100:
ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102:
mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104:
trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106:
gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108:
thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110:
(Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112:
thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114:
Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116:
chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184: trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186: nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188: hướng về những người con
- Page 189 and 190: những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192: Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194: trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196: Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198: Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200: Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202: người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204: Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206: Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208: ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210: chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212: Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214: hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216: chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218: đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư