Anh ngồi chỗ hẹn hôm quaĐám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng,Giấc mơ mặc áo lụa vàngNơi anh nằm ngủ có hàng thùy dương(Nhẹ Nhàng)Mùa xuân em mặc áo vàngỞ trong thơ cổ chim hoàng hạc bayEm vừa xoay nhẹ vai gầyNhìn coi vũ điệu vào đầy giấc mơNhìn coi chỗ cuối bài thơNụ hôn màu đỏ trời cho rượu đàoAnh nhìn em mới bước vàoNhìn xuân, xuân cất tiếng chào đầu năm(Thơ Xuân Áo Vàng)Áo Vàng, áo lụa vàng êm ái, màu áo phụ nữ, thường lai vãng trong thơNguyên Sa. Có lẽ áo xanh áo tím, ông cho thêm vào để đủ bộ trong thơ, không phảilà sở thích độc tôn của tác giả "Áo Lụa Hà Đông".Như đã nói trên, ý hướng của ông là sáng tạo nhạc tính, thứ nhạc tính tìnhyêu. Nhạc tính tình yêu là gì ? Để biết rõ điều này, ta thử đọc lại thơ Nguyên Sa:Điều ta dễ dàng nhận ra là có nhiều chữ ông thường lặp lại, rất nhiều điệp vận.Những vần bằng êm ái, gần như là khuôn sáo đối với thi ca, lại thấy thật dồi dàotrong thơ của ông, một lặp lại có chủ ý, rõ ràng như: Mây bay, áo bay, sương sa,trăng khuya, vòng tay, hiền ngoan, tuyệt vời, ngon, tròn, mưa, xưa, chiều, anh, em,nụ môi...Chú trọng về sự nhẹ nhàng, thơ tình dịu ngọt, thơ tình dành riêng cho âu cahạnh phúc, ông không ngại sử dụng điệp ngữ điệp âm, trong thơ lục bát cũng nhưtrong thơ bảy chữ. Đây không phải một khám phá của người đọc, mà chính ông có ýthức rất rõ về sự sáng tạo nhạc tính tình yêu đó qua loạt bài "Cuộc hành trình tên lụcbát", đoạn nói về điệp vận trong bài thơ "Paris, Có Gì Lạ Không Em": "Vần là mộthiện tượng cơ cấu, là sự phối âm của toàn thể chữ trong đoạn thơ hay bài thơ...Vẻđẹp của giáo đường không phải là cộng lại của những viên gạch. Kiến trúc của giáođường mang lại vẻ đẹp cho mỗi viên gạch...Tôi lựa chọn nền âm thanh, chọn lựa sựxuất hiện của những tiếng đồng âm, tạo nên một nền âm thanh...Vần sương và trănghoàn toàn lạc vận, vần em trở lại hai lần, trăng vần với trăng điệp âm điệp vận...Tôi không thấy người đọc nào than trách những sử dụng vần điệu vượt rangoài khuôn khổ của vần điệu, hoàn toàn xây dựng trên sự mơ ước sáng tạo, sựphối hợp âm thanh của cả đoạn, của nhiều đoạn, của toàn bài. Chỗ dung thân củathơ phải chăng là sự bao dung có tên là tình yêu ?" Quả thật khi nghe bản nhạc phổthơ Nguyên Sa "Paris Có Gì Lạ Không Em", ta không hề lưu ý về những điệp ngữđiệp vận của lời thơ. Tác giả khiêm tốn gọi đó là do sự "bao dung tình yêu", cám ơnngười đọc người nghe. Còn ta gọi đó là "nhạc tính tình yêu" do tác giả chủ tâm tạonên. Ta thử đọc bài thơ "Tương Tư", sự chủ tâm của tác giả biểu hiện trong nhữngđặc tính tương tự. Bài thơ có sáu đoạn mà vần khuya lặp lại đến ba lần: "Kể từnguyệt bạch xuống đêm khuya...Hay là gió lạnh lúc đêm khuya...Buổi tối tôi ngồinghe sao khuya...” Vần quen và em cũng lặp lại hai lần mà khi nghe giọng ngâm thơhay của Phương Hạnh trên đài truyền hình ta như hoàn toàn không lưu ý đến nhữngđiệp ngữ này. Lời thơ và giọng ngâm thơ, cũng như lời thơ và điệu nhạc hay, tăngcường cho nhạc tính tình yêu, vượt lên những săm soi quá để ý về chữ:Có phải rằng tôi chưa được quenLàm sao buổi sáng đợi chờ emHay từng hơi thở là âm nhạc190 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
Đàn xuống cung trầm, mắt nhớ thương.…Tôi không biết rằng lạ hay quenChỉ biết em mang theo nghê thườngCho nên cặp mắt mờ hư ảoCả bốn phương trời chỉ có em.Còn rất nhiều điệp ngữ trong bài "Tương Tư" và điệp ngữ từ bài này đến bàikhác, trong đó bao gồm những vần trại có tính cách tương đương mà tác giả khiêmtốn gọi là lạc vận. Vần trại thuộc về kỹ thuật cao, làm cho người đọc đừng thấy "quákỹ thuật" nếu dùng toàn là vần khít khao. Dĩ nhiên, kỹ thuật cao là để đưa tới nghệthuật:Có phải em mang trên áo bayHai phần gió thổi, một phần mâyHay là em gói mây trong áoRồi thở cho làn áo trắng bay ?...Anh nhớ em ngồi áo trắng thonNgàn năm còn mãi lúc gần quenEm gầy như liễu trong thơ cổAnh bỏ trường thi lúc Thịnh ĐườngĐến đây, ta nhận ra có một chút mâu thuẫn. Chủ ý dùng vần trại, vần tươngđương, tránh né vần khít khao, đó cũng là một hình thái đăm chiêu về từ ngữ, vềcách dùng chữ. Trong khi chủ ý của tác giả là để ta quên chữ mà cất cánh bay theonhạc tính tình yêu. Quên chữ, quên điệp ngữ, lâng lâng với tình yêu, chắc chỉ dànhriêng cho tình ca Nguyên Sa, tình ca dịu ngọt, tình ca âu yếm. Những thứ tình cakhác như tình say đắm quá đáng của Xuân Diệu, tình hoang đường siêu thực củaĐinh Hùng, tình phụ rẫy của Thái Can, tình vu vơ "đi lên đi xuống Thành Phố có em"của Vũ Hữu Định, tình đơn phương một chiều "thà là giọt mưa tan trên tượng đá, cócòn hơn không" của Nguyễn Tất Nhiên...chắc là phải có một thứ ngôn ngữ riêng, mộtcách làm thơ với kỹ thuật riêng nào đó. Mà cũng có thể họ chỉ cốt ý diễn tả tình ý,không chủ tâm tìm một sự hòa điệu chặt chẽ giữa nội dung và hình thức. Làm chotan loãng vào sự thưởng ngoạn, điều Thi Sĩ Nguyên Sa muốn đạt tới: "Chỗ dungthân của thơ phải chăng là sự bao dung có tên là tình yêu".Có nhà thơ nào định sáng tác thứ tình đau "Một Đời Tan Vỡ" như trong nhạcLam Phương, tình lỡ làng nhưng còn một chút gì hình diện vì người yêu lên xe hoachỉ vì sức ép của gia đình như trong bài "Gợi Giấc Mơ Xưa" của Nhạc Sĩ Lê HoàngLong, hoặc thứ tình hy sinh như trong bản "Nghìn Trùng Xa Cách" của nhạc sĩ PhạmDuy...liệu các nhà thơ ấy có liên tưởng đến sáng tạo cách cấu trúc riêng, chưa kể vềsự sáng tạo thể thơ riêng, tương tự việc tìm cơ cấu như Nhà Thơ Nguyên Sa. Chẳnghạn, dùng nhiều điệp ngữ vần trắc để tả tình hậm hực, cứ một hai chữ lại xuốnghàng để tả tình ấp úng (như Nguyễn Vỹ dùng để tả từng giọt mưa rơi)...Đa phầnchắc là chỉ mượn các thể thơ đã có sẵn, đừng dùng chữ quá xưa đã lỗi thời, đừngdùng chữ quá táo bạo ít ai dám đá động tới. Điều cốt yếu là có được một cái gì riêng,có chất thơ, không lập dị.Ngoài ra, trong các bài thơ lục bát ở tập ba, và một số bài thơ đăng rải ráctrong tạp chí ông dự định in vào tập bốn, đã thấy xuất hiện những hình ảnh dườngnhư là ảo giác, hóa thân vào các sự vật thiên nhiên:Cây tây chết ở Sơn KhêCây đông tróc gốc cành chia lá vàng(Trong bài: Phân Thân)Em đi mỗi nhánh một lầnNhánh xa đi trước, nhánh gần đi sau.191 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82:
sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84:
Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86:
ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88:
nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90:
"Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92:
(2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94:
Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96:
Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98:
xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100:
ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102:
mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104:
trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106:
gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108:
thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110:
(Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112:
thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114:
Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116:
chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118:
tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120:
đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122:
ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124:
hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126:
nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128:
nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130:
Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132:
một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134:
Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136:
thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138:
nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184: trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186: nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188: hướng về những người con
- Page 189: những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 193 and 194: trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196: Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198: Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200: Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202: người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204: Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206: Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208: ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210: chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212: Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214: hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216: chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218: đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220: Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222: khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224: Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226: Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228: vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230: Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232: Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234: Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236: Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238: phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240: Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư