Kẻ Đồng Thời, Đọc Thơ Người Ra Chiến TrậnLấy vị trí một người cùng lứa tuổi, cùng thời chiến với Trần Hoài Thư, ta thửsong hành cùng người lính Trần Hoài Thư qua thi ca...Song hành nghe thấy, vì chiếntranh hiện diện mọi nơi bằng âm vang, bằng ảnh hưởng, không ai thoát ra ngoài cáilưới lồng lộng của nó. Gặp gỡ không cùng đi một đường, mà là song hành giữangười nơi hậu phương và người lính tác chiến. Xin lấy cái riêng làm cái chung, vìcuộc gặp gỡ này cũng là của nhiều người, chỉ khác chi tiết mà thôi. Một cuộc songhành qua chữ nghĩa sách báo, mặc dù chưa một lần gặp mặt.Gặp gỡ đầu tiên là khi đọc trên tuần báo Đời (hay tuần báo Sống, không nhớ)ở Sài Gòn khoảng năm 1969 hay 1970 gì đó (hình như Chủ Nhiệm Chủ Bút cũng làNhà Thơ Nguyên Sa, giống như tạp chí Đời xuất hiện sau này tại California), tôi códịp biết đến bài phóng sự chiến trường của Trần Hoài Thư nói về cái chết của TiểuĐoàn Trưởng Tiểu Đoàn Ó Biển. Chết vì mất máu do sự chần chờ không lên trựcthăng đưa về Quân Y Viện Nha Trang, muốn ở lại cao nguyên cùng chiến hữu đanglâm trận tại đó. Tiểu Đoàn Trưởng là Trung Tá Võ Anh Tài, một người anh đangtrong gia đình tôi (Anh là con bà trước, tôi là con bà sau, cũng không phải là cùngcha, nhưng chúng tôi cùng ở chung một nhà ngay từ thời thơ ấu tại Nha Trang). Aicũng có người thân quen mất mát trong chiến tranh. Từ đó tôi biết tên Trần HoàiThư, rồi sau này đọc nhiều truyện của ông trên các tạp chí Văn tại Sài Gòn trước1975. Khoảng năm 1972, tôi nhận được một tập truyện của ông gởi tặng, mà tôi nhớchắc không lầm là gởi từ Châu Đốc, khi ấy tôi đang ở tại bến phà Mỹ Thuận, VĩnhLong, nhưng làm việc thì ở Tỉnh Sa Đéc. Kể chuyện riêng cũng không ngoài ý hướnglấy cái riêng làm cái chung: Người hậu phương đọc thơ người ra chiến trận để cùngnghe thấy âm vang của một thời, bối cảnh của đất nước, làm người song hành dânsự và quân sự, nói cho long trọng hơn là làm chứng nhân cho những hình ảnh buồnvui đời lính hiện diện trong thơ Trần Hoài Thư.Trần Hoài Thư là một Trung Đội Trưởng đóng quân tại Quận Lỵ, Quận BồngSơn Tỉnh Bình Định. Đơn vị Quận thời chiến tranh là nơi có những hoạt động quânsự rất bận rộn, nơi xuất phát các cuộc tảo thanh, có đồn pháo binh yểm trợ, có BanCố Vấn Quân Sự Mỹ, có tiểu đỉnh Hoa Kỳ trú đóng nếu Quận lỵ ven sông, và cũng lànơi thường hứng bích kích pháo của đối phương bắn vào ban đêm. Tôi cũng làngười từng ở Quận lỵ, Quận Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long. Hình ảnh chiến tranh ở Quậnlỵ nào cũng giống nhau, cũng gần như giới nghiêm lúc 5 giờ chiều, cũng có nhữngngười tản cư từ vùng sâu ra mang theo tin tức quân địch hiện diện, làm áp lực baovây. Cuộc sống của người dân làm ăn mua bán đầy lo âu. Cũng những xôn xao khicác Tiểu Đoàn ở Tỉnh đổ về để giải tỏa áp lực. Bồng Sơn ở Bình Định cận kề cácmật khu Đệ Đức hay Tam Quan. Trà Ôn ở Vĩnh Long cận kề các mật khu Tam Bìnhhay Cầu Kè. Đã từng ở đơn vị Quận mới sống lại cái không khí chiến tranh nặng nềđè lên nếp sống của người dân tại đây:Bồng Sơn mùa nước dâng Sông LạiNgày sũng loang trên những mảng dừaMặt trận đổ theo bìa Đệ ĐứcNghe cận kề lửa hướng Tam QuanBồng Sơn, mây ám toàn tin dữChiều chưa buông, quận đóng năm giờGiặc chiếm Cận Sơn, người chạy loạnCòn bên cầu, trơ trọi cây đaKhi ra sống ở Tỉnh, áp lực như xa dần, nhưng những hoạt động chiến tranhvẫn tiếp tục. Người làm việc dân sự thông cảm những biệt ly ra đi, nghe vang vọngbuồn thương của tiếng quân xa qua vỉ cầu sắt, biết nỗi niềm của ánh đèn gia binh124 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
nhạt nhòa giữa đêm khuya khi đoàn quân xa ra khỏi cổng trại, hiểu được chất bitráng cố giữ sự bình tĩnh của những điếu thuốc chuyền tay nhau của người sắp ratrận:Tôi qua Phù Cát, qua Cầu SắtMiếng vỉ cầu rền nghiến bánh lănNhững chiến xe đi về mặt trậnNhững người đợi một chuyến ra quân...Nửa đêm kẻng giục quân ra trậnKinh động cả lòng đêm tối bưngNhận lấy ba ngày cơm gạo sấyKhông buồn, chỉ một chút bâng khuâng...Lên xe, bỏ lại đồi thiên cổBỏ trại gia binh lạnh ánh đènCùng lên chiếc xe mười bánhCùng mồi điếu thuốc chuyền nhau.Những hình ảnh quen thuộc: Quân xa qua vỉ cầu sắt, cơm gạo sấy, xe nhàbinh mười bánh, trại gia binh, điếu thuốc chuyền tay nhau, bi đông rượu đế, hỏachâu đồng minh bắn, đêm trăng quận đường, lính trùm Poncho ngồi bên bờ ruộngnước, lính ngồi châm điếu thuốc bên đường xe lửa...gợi lại thời của một đoàn quânbận rộn với các cuộc hành quân, trực thăng vần vũ...Lại gặp gỡ với Trần Hoài Thư ở đơn vị Quận, bấy giờ là lúc Trần Hoài Thư vềchiến trường Vùng 4 nên sự gặp gỡ gần gũi hơn, vì lúc ấy tôi cũng đang làm việc tạimiền Tây Nam Phần. Quen thuộc ở đây là những quán nhậu ven sông mà khi đóngquân người lính nào cũng vào ra giải buồn, tìm cái quên giây lát khi xa gia đình. Bitráng thật sự, vì sống chết không biết lúc nào đối với người lính thời chiến tranh vàolúc căng thẳng sau Tết Mậu Thân, không phải chỉ là bắt chước câu thơ xưa: “Túyngọa sa trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Như tôi đã thấy cáivội chia lìa của một Chi Khu Phó (Chi Khu Trưởng là Quận Trưởng, cấp bậc Đại Úylo về hành chánh, Chi Khu Phó cấp bậc Trung Úy thường trực tiếp dẫn quân đi tảothanh hay tiếp cứu giải vây). Vào lúc 9 giờ sáng còn ngồi với chúng tôi trong quánăn, vậy mà khoảng 11 giờ thì có tin ông đã tử trận khi dẫn quân băng đồng. Vì vậyxin làm chứng nhân cho một trường hợp thời chiến, nghe thấy y như Trần Hoài Thưđã nói trong thơ:Chiến tranh thì vẫn là tranh chiếnMặc. Kéo nhau vào quán chị HaiMặt trời đỏ ối trên vàm sángBanh áo. Ngâm bài thơ cổ lai.Trần Hoài Thư là Trung Đội Trưởng tác chiến nên đơn vị thường vãng lai ởQuận, đêm đêm nằm ngoài đồng phòng ngự cho Quận Đường. Có những đêm, saukhi phân phối cho quân mai phục đâu đó ngoài vườn ngoài ruộng, ông cùng vàingười bạn, có thể là viên chức của Quận phải ở lại ban đêm, có thể là các giáo chứcở ngôi trường lân cận đêm đêm phải đến trường ngủ làm công tác nhân dân tự vệ,họ bày ra một cuộc vui nhỏ, trải chiếu trong Quận Đường hay trước sân trường mộtđêm trăng, nhấm nháp rượu đế với con khô mực hay trái ổi trái xoài. Hình như đây làniềm vui nhỏ, có vẻ thơ mộng, của đời lính đóng quân nơi buồn tẻ, nên Trần HoàiThư đã nhắc lại một đôi lần trong hai tập thơ “Thơ Trần Hoài Thư” và “Qua SôngMùa Mận Chín":Thấy như thể đêm qua về Quận lỵ.125 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74: Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76: trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78: Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80: chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82: sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84: Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86: ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88: nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90: "Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92: (2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94: Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176:
Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178:
Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180:
Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182:
Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184:
trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186:
nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188:
hướng về những người con
- Page 189 and 190:
những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192:
Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194:
trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196:
Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư