Những hiện thực có khi cũng lạc quan, so sánh với đời sống trước đây ở quênhà, cũng là một khía cạnh đã đi vào văn chương. Nổi bật nhất trong hình thái vănhọc hải ngoại này là thi phẩm của Nhà Thơ Cao Tần. Những phản ảnh của đất vàngười in rõ nét trong suốt tập thơ. Cảm hứng từ chỗ tìm ra được những phản ảnhđó, người viết bài này cũng đã thử đi tìm những nét phản ảnh "đất và người" trongthơ Viên Linh, Nguyễn Mạnh Trinh, Nguyên Sa, Thái Tú Hạp (tất cả đều đã đăngtrong tuần báo Saigon Times). Công việc đành bỏ dở dang vì cảm thấy gượng ép,tìm cho bằng được những phản ảnh này trong các tác phẩm mà tác giả không hề cóchủ định hiện thực đời sống nơi xứ người. Ví dụ tập thơ Thủy Mộ Quan của ViênLinh là những cảm hứng về Biển Đông huyền ảo có giải đất rất huyền sử, rất đẹp dùsuốt tập thơ là bóng tối của đáy vực Thái Bình Dương, là một thủy mộ bao la củangười Việt ra đi bằng vượt biển. Tác phẩm không có chỗ đứng cho những phản ảnhhiện thực đời sống nơi chốn tạm dung. Đi tìm chỉ là gượng ép đi tìm. Ví dụ tập ThơNguyễn Mạnh Trinh (do Người Việt xuất bản) là một kiến trúc nhiều tầng, trong mỗiđoạn thơ tác giả có cố gắng đổi mới ngôn ngữ, đổi mới hình ảnh ước lệ, xuất phát từmột duyên cớ, nên bài thơ có nhiều vấn đề đan chéo vào nhau, không phải chỉ mộtchủ đề xuyên suốt. Đi tìm những phản ảnh về đất và người chỉ là gượng ép, quyđiểm vào một điều mà tác giả không có chủ định thể hiện đậm nét. Ví dụ tập thơMiền Yêu Dấu Phương Đông của Thái Tú Hạp rõ ràng là một chủ đề về miền yêudấu của tác giả, cũng là hoài cảm chung của một cộng đồng đến một nơi xứ lạ gầnnhư trái ngược với truyền thống, với tâm hồn. Tuy nhiên tác giả không nêu ra sự sosánh trái ngược đó, nên vấn đề đi tìm những phản ảnh trái ngược đó, cũng chỉ làgượng ép. Tác giả chỉ có hoài cảm miền yêu dấu, hoài cảm mà không nêu ra nhữngbất mãn nào với hiện tại như ta đã thấy rất rõ qua Thơ Cao Tần. Đã nói hơi nhiều vềthơ, mặc dù là nói về thơ không mang dấu vết của hiện thực đời sống. Thơ "HiệnThực" thực sự có hiện diện, nhưng rải rác, xuyên suốt trong các thi phẩm đã xuấtbản. Vì các bài thơ không quy tụ hẳn thành một chủ đề, sự kiểm điểm thành mơ hồ.Trong số phải kể bài thơ "Đất Khách" rất cảm động của Thanh Nam.Về văn cũng vậy, văn chương thể hiện đời sống hiện diện rải rác trên các tạpchí qua các truyện ngắn. 14 năm tạp chí Văn là một tấm gương phản ảnh đầy đủ xãhội, đủ mọi nơi trên thế giới phản ảnh đời sống gởi về 14 năm cho tạp chí Văn quavô số truyện ngắn.Một tấm gương hiện thực đời sống làm quà cho quê hương, Nhà Văn MaiThảo đã trao tặng món quà đó trong 1 đêm kỷ niệm: "Đêm Mai Thảo và 14 Năm TạpChí Văn".Nhưng tạp chí Văn không hẳn là tấm gương chủ ý phản ảnh, nó là một tạp chívăn chương được Nhà Văn Mai Thảo trân quý săn sóc, coi nó như hóa thân củamình, một hóa thân hệ lụy với văn chương.3. Văn Học Hải Ngoại như một món quà thuần túy văn chương.Văn chương thuần túy, trước hết căn cứ vào ý hướng viết của một Nhà Văn,sau đó căn cứ vào mặt thể hiện của tác phẩm, tức là căn cứ ý hướng viết thế nào(bút pháp). Viết cái gì (câu truyện, đề tài) như là một thứ yếu, nhưng nếu không cónó, không có sự lựa chọn đề tài như một tiên khởi, thì Nhà Văn không thể có đượctác phẩm. Tại sao tác giả không chọn đề tài này mà là đề tài khác, không chọn đề tàiviễn xứ mà chọn đề tài chiến tranh đã xảy ra ở quê hương, điều đó tiềm ẩn . hướngviết cho ai. Viết cho người trong nước, người của chính thể mới, hay viết cho ngườihải ngoại, người của chế độ sụp đổ, hay viết cho người yêu văn chương. Ta có thểnói ý hướng tác giả là làm văn chương thì tác giả dĩ nhiên viết cho người yêu vănchương, không nhắm vào người cán bộ cao cấp hay một chính khách một tướnglãnh lưu vong. Căn cứ vào ý hướng đó mà ta truy ra một tác phẩm gọi là tác phẩm146 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
văn chương thuần túy, mặc dù tác phẩm là một dàn trải chiều dài của một thời kỳ lịchsử, một chứng liệu dồi dào của một thời chiến tranh. Xin kể tác phẩm trường thiêntiểu thuyết Mùa Biển Động của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác và Người Đi Trên Mâycủa Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng. Đề tài của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác là kể lạinhững biến cố lịch sử từ khi chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập đến khi miền Namsụp đổ năm 1975. Đây là chứng liệu sống vì tất cả là những điều chính tác giả đãmắt thấy tai nghe, chính tác giả đã sống trong thời kỳ ấy, bắt đầu lúc có ý thức vềchính trị. Những điều mắt thấy tai nghe không phải qua báo chí mà là những kinhnghiệm sống thực của những người trong ba gia đình tác giả quen biết, đó là nhữngchứng nhân bình thường, mẫu số chung của người dân sống trong thời kỳ chiếntranh. Tác giả không viết như loại bút ký mà như loại tiểu thuyết, một thể loại do hưcấu để thể hiện bằng bút pháp văn chương. Và Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác cũng đãnhiều lần xác định: Viết cái gì, trước hết là viết cho hay cái đã, viết hay là thẻ hànhnghề của một Nhà Văn. Do đó, ta có thể nói đây là một tác phẩm văn chương thuầntúy, mặc dù cái nhìn, sự nhận định của tác giả về một vấn đề là nhìn từ một góc độ,từ một phía, từ một lập trường, từ một vị trí quan sát.Và tác phẩm Người Đi Trên Mây của Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng cũng làtác phẩm về đề tài chiến tranh của đất nước ta, nhưng ý hướng viết của Nhà Văn làviết theo trường phái "Tiểu Thuyết Mới". Đề tài không quan trọng bằng bút pháp thểhiện đề tài đó, mà bút pháp theo trường phái "Tiểu Thuyết Mới" là bút pháp làm saotránh được những tiên kiến về tâm lý, chính trị, một bút pháp càng vô ngã thì càngtốt. Ý hướng của Nhà Văn là viết theo tiểu thuyết mới, đó là một ý hướng vănchương. Chưa có bài phê bình đầy đủ về mức độ thể hiện ý hướng đó đến đâu. Mặcdù tác phẩm cũng là một truyện kể, có hư cấu của một cốt truyện, có chất liệu của đềtài về chiến tranh, cho đến nay chưa có ai xếp loại đó là tác phẩm dấn thân hay hiệnthực đời sống. Nó là tiểu thuyết văn chương vậy.4. Văn Học Hải Ngoại như một món quà ngôn ngữ tinh luyện.Tác phẩm văn chương với ngôn ngữ tinh luyện, vấn đề này chỉ là đào sâuthêm hình thái của vấn đề văn chương thuần túy. Nó thành một đề mục mới vì cóliên quan đến tác phẩm người Việt viết bằng ngoại ngữ. Tạp chí Văn Học đã hơnmột lần bàn đến vấn đề này. Bài này chỉ thêm vài ý kiến: Món quà cho quê hươngkhông thể là món quà viết bằng ngoại ngữ. Trước đây đã có Les légendes desTerres Sérènes của Phạm Duy Khiêm, Le fils de la baleine của Cung Giũ Nguyên,các nhà viết văn học sử Việt Nam mặc nhiên đã không hình diện xếp các tác phẩmtrên vào văn học Việt Nam. Trái lại, các bài thơ với ngôn ngữ tinh luyện như "KhépKín" của Cung Trầm Tưởng, "Paris Có Gì Lạ Không Em" của Nguyên Sa, đã lànhững món quà từ viễn xứ gởi về cho quê hương, cho văn học Việt Nam. Cái haycủa các bài thơ trên, đại diện cho văn chương với ngôn ngữ tinh luyện viết từ hảingoại, vượt thoát các đề tài thường hay trở thành thông lệ cho văn chương viễn xứlà tình hoài hương, hiện thực đời sống tha phương. Văn chương họ mang dấu vếtcủa một nơi chốn đi du học. Đành rằng đi du học, mà du học ở một nơi thơ mộngnhư Thành Phố Paris, tất nhiên văn chương cũng lạc quan và đẹp như một truyệntình, không như bây giờ lưu vong miền hải ngoại. Lưu vong hay di dân, tất nhiênbước đầu sẽ gặp khó khăn gian khổ, tất nhiên văn chương là món quà hiện thực đờisống gởi về quê hương, kèm theo nỗi nhớ nhà, nhớ miền quê nghèo nhưng thânthiết hơn chốn tạm dung.Món quà đó ta đã nói rồi. Nhưng sau 10 năm hay 20 năm hải ngoại, chẳng lẽchỉ có món quà buồn bã đó. Ở đây, ta muốn đề cập đến loại văn chương với ngônngữ tinh luyện, nằm ngoài nỗi bất mãn cuộc sống, nằm ngoài niềm ray rứt nhớ quêhương, nằm ngoài giai đoạn dấn thân. Văn chương mang dấu vết miền viễn xứ,147 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82:
sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84:
Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86:
ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88:
nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90:
"Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92:
(2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94:
Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184: trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186: nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188: hướng về những người con
- Page 189 and 190: những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192: Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194: trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196: Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư