Trong một cuộc phỏng vấn mới đây trên đài truyền hình "Little Saigon" vàotháng 6 năm 1998, Nhà Văn Võ Phiến so sánh mình với Nhà Văn Mai Thảo, một bênlà gốc gác thôn quê, một bên là Nhà Văn của thành thị. Và ông tự nhận đã chịu ảnhhưởng và tiếp thu cái đẹp của văn nói từ các Nhà Văn miền Nam như Lê Xuyên,Vương Hồng Sển và mới đây là Nguyễn Văn Trấn. Ông muốn viết sao cho giản dị tựnhiên như nói chuyện, truyền thống khởi xướng từ Nguyễn Đình Chiểu, Trương VĩnhKý, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh. Quan điểm này của ông không mấy khác vớinhững bài báo ông viết cách nay độ ba mươi năm mỉa mai "văn chương hôm nay"của nhóm Sáng Tạo và "văn học viễn mơ" của văn chương bên lề cuộc chiến. (Xinđọc bài Đặng Tiến viết về thi tập "Thơ Thẩn").Nhưng có phải Võ Phiến là Nhà Văn viết xuề xòa, dễ dãi, thiếu chăm sóc vănchương. Có lẽ là không, vì ông đã từng nổi tiếng là Nhà Văn chẻ sợi tóc làm tư, quansát và phân tích tinh tường cảnh vật và con người (Ví dụ đoạn ông viết về cách ănuống biểu lộ cá tính trong tập truyện "Thác Đổ Sau Nhà"). Và trong văn của ông còncó chất thơ, cái thi tính không do cấu trúc của hành văn như Mai Thảo mà do ócquan sát tinh tế vẻ khác thường của cảnh vật bình thường (như đoạn viết về hìnhảnh người mẹ chới với giữa mây trắng bên kia bờ sông cao). Trong tập "Tùy Bút I",Nhà Văn Võ Phiến thường cảm hứng viết về những đề tài bình dân như món mắmdân tộc, món bánh tráng Bình Định, thú uống trà bằng tô lớn, ông chủ quán làm việcrụp rụp hào hứng, những món ăn phổ biến nhờ thời cuộc...Đọc vẫn thấy ông nhưmột người đứng ở ngoài nói về những điều bình dân, chưa thực sự nhập cuộc bằngvăn phong dân gian miền Nam như Hồ Biểu Chánh và Lê Xuyên. Cũng qua tập tùybút đó, ông ưa phân tích đặc điểm địa phương ở Việt Nam như tiếng Huế có âm vựchẹp nhất nước (đều đều, ít trầm bổng), giọng nói Bình Định gần giống như giọng nóimiền Nam (nếu ta nghe danh hề Hoài Linh hát đúng giọng dân ca Phú Yên qua bài"Trách Thân" thì thấy nhận xét của Võ Phiến thật chính xác), tại sao món "cao lầu"chỉ quanh quẩn ở Phố Hội An, người miền Nam khai khẩn đất mới ở đâu thì lấy tênmình đặt tên cho vùng đó (khai thác tới Sài Gòn thì có Bà Điểm Bà Quẹo, tới Cà Mauthì có sông Ông Đốc, gần tới biên giới phía Tây thì có núi Bà Đen...)Như đã nói trên, trong văn Võ Phiến có chất thơ, và ta có cảm tưởng tùy bútmới là thể thơ thích hợp cho ông, Nhà Văn ưa quan sát tỉ mỉ, thích phân tích chi li, vàvới tâm hồn Thi Sĩ. Ta nhận ra được tâm hồn thơ đó qua một số bài tùy bút (khôngphải tất cả) và qua sự nhạy cảm của ông về một vài nhà thơ miền Nam (Tập I và TậpII). So sánh Thơ Võ Phiến và Tùy Bút Võ Phiến, ta thấy thơ như con sông đào khuônkhổ quy định bởi vần điệu, còn tùy bút như con sông thiên nhiên mặc tình trổ nhánhquan sát, tự do đi vào ngõ ngách phân tích. Không cố ý kỳ vọng mà các bài tùy bútsau đây đã là Thơ Võ Phiến. Ít nhất ta lấy ra được ba bài thơ trong tập Tùy Bút I:Mùa xuân Con Én, Hạt Bọt Trà và Những Đám Khói. Ta bay chơi cùng con én: Én cómấy tên, én ăn gì, én ngủ ra sao, én kêu thế nào, én Phan Thiết, én Hà Tiên, énKhánh Hòa...Ta thưởng thức một bát trà Huế qua văn chương của Võ Phiến: Cáchnấu trà cho khách, cách uống trà một hơi thật ngon, cách quệt râu dính bọt trà saukhi uống...Và những đám khói đốt cỏ trên đồng ruộng mênh mông miền Kiến Tườngcứ vất vưởng chất thơ vào tâm hồn ta. Lần đầu tiên đọc được trên tuần báo KhởiHành cách nay chừng 25 năm, vậy mà vẫn là "những hình ảnh tan biến chậm chạp"trong cảm quan người đọc:"Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúcđộng, cảm hoài. Những đám khói kể lể nỗi niềm bao la cuối một chân trời mênhmông. Đứng him mắt mà trông: Khói lặng lờ, không vội vì, khói bát ngát, nhẫn nại, xavời, hàng giờ, hàng giờ, khói tỏa, vừa hiền từ vừa mơ mộng...Sau một ngày đi, mệtmỏi, tê mê, đến đêm ta vừa đặt lưng xuống nằm ngủ, những đám khói ấy lại ùn lên182 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
trong giấc mơ. Và trong giấc mơ, không gian mênh mông càng vắng lặng, khói tỏacàng chậm, càng bát ngát..."Xin trích một đoạn văn dài kể trên để thấy chất thơ của ông do óc quan sáttinh tế, thấy vẻ khác thường của cảnh vật bình thường. Cấu trúc văn chương VõPhiến không cầu kỳ, không dùng những chữ mới lạ, nhưng đâu phải là thiếu cái malực ngôn ngữ của tiếng thơ vang vọng và bàng bạc. Giai đoạn viết những bài báoquy tụ thành Tùy Bút I là lúc ông chưa chủ trương triệt để viết văn như nói chuyện.Ta cũng nhận ra tâm hồn thơ đó qua một số bài nhận định của ông về nhà thơTô Thùy Yên, Phạm Thiên Thư, Phạm Công Thiện, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn ĐứcSơn, Quách Tấn, Nhã Ca, Trần Dạ Từ...Những rung động về thơ của ông nghiêngvề mỹ cảm giao lưu với thiền cảm, tìm thấy chất thơ trong vẻ giản dị mà không thôsơ, vẻ khác thường siêu hình trong cảnh vật bình thường. Ví dụ về Quách Tấn, ôngviết:"Quách Tấn là người như thế. Ông không đi nhiều, không thấy bao nhiêu cảnhlớn lao hùng vĩ, không vào Nam ra Bắc gì ráo. Ông chỉ vào ra một thư phòng, mộtmái hiên, một khoảnh vườn, nghe một tiếng lá, nhìn một tia nắng của thường nhật,và chỉ viết về những cái như thế. Nhưng thơ ông, nhất là những bài thơ con con củaông sau này, gây một sợ hãi vu vơ, mơ hồ, mà mênh mang. Sợ hãi trước sự tịchmịch".Nhận định tinh tế do rung cảm về thơ sâu sắc. Một tâm hồn không thơ thì cóthể nào nhặt ra được những hạt vàng lóng lánh trên một bãi cát. Họ thu lượm nhữngviên sỏi khuôn sáo mà tưởng lầm là các câu thơ hay. Một Thi Sĩ khác, với đề tài giảndị, lời thơ đơn sơ (trừ hai câu cuối) và đặt câu văn phạm bình thường, như bài thơdưới đây của Nguyễn Đức Sơn (Nhà Văn Võ Phiến sưu tập trong tập Thơ MiềnNam), chứng minh sự giản dị đó không phải là thiếu mỹ cảm, thiếu cấu trúc:Xem cha đốt cỏ ngoài rừngNâng niu mẹ ẵm theo mừng không conCó vài chiếc lá còn nonGió xua lửa khói nổ gi.n trên khôngNắng tà trải xuống mênh môngBước theo chân mẹ cha bồng hư vô(Đốt Cỏ Ngoài Rừng, Nguyễn Đức Sơn)Cả bài thơ tập trung xuống hai câu cuối, những lời đơn sơ ở đoạn trên chỉnhằm để chuẩn bị. Hình ảnh thơ quyện lấy tứ thơ. "Bồng hư vô" âm vang tư tưởngPhật Giáo, có sinh thì có diệt, có hiện hữu thì có hư vô, hiện tượng chỉ là sắc sắckhông không vô thường. Và hai câu này có lẽ là một linh cảm của Nguyễn Đức Sơn:Sau năm 1975, ông có một người con chết vì ăn phải nấm độc khi gia đình sinh sốngvất vưởng ở một miền rừng trên cao nguyên Trung Phần. Trở lại điều đã nói: Tùy bútmới là thơ của Võ Phiến. Đọc trong thi tập "Thơ Thẩn" của ông, thỉnh thoảng ta gặpvài câu thơ mà nếu là tùy bút thì sẽ là những dịp ông triển khai óc quan sát, đi vàongõ ngách phân tích như con sông rẽ nhiều nhánh khi đến chỗ trũng thấp, chỗ mờigọi của vẻ đẹp tinh tế. Nhưng vì là thơ, câu và vần gò bó, nên chỗ mời gọi của tiếngvọng, của âm vang, của bàng bạc, phải đành khép cửa, chấm dứt ở ngõ cụt. Ví dụ,đi sau câu thơ "Trời gần sáng mới có mưa rón rén" đáng lẽ phải còn nhiều tiếng títách của giọt mưa, của bao nhiêu tiếng động chung quanh, của bao nhiêu liên tưởng,khi mà lúc gần sáng còn nằm trên giường, trí óc dễ dàng phiêu linh. Và như câu"Sáng thức giấc mình nghe quạ kêu ngoài công viên. Nghe tiếng chân con chim khuatrên mái thiếc". Cũng buổi sáng, cũng tiếng động rón rén, vậy mà câu thơ đến đó thìthôi, đã bắt qua ý tưởng khác, không liên quan gì nữa đến tiếng con chim mời gọi183 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82:
sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84:
Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86:
ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88:
nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90:
"Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92:
(2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94:
Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96:
Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98:
xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100:
ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102:
mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104:
trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106:
gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108:
thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110:
(Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112:
thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114:
Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116:
chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118:
tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120:
đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122:
ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124:
hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126:
nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128:
nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130:
Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134: Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 185 and 186: nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188: hướng về những người con
- Page 189 and 190: những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192: Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194: trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196: Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198: Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200: Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202: người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204: Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206: Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208: ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210: chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212: Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214: hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216: chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218: đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220: Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222: khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224: Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226: Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228: vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230: Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232: Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư