Tóm lại, thái độ triết lý đồng cảm với những tan rã vô định của thời đại. Và tháiđộ văn nghệ yêu chuộng sự tân kỳ vượt khuôn khổ, vì phi lý cần phải lồng trong hìnhthức phi lý. Đó là hai thái độ chấp nhận vô điều kiện nền văn học phi lý, càng phi lýcàng được hoan nghênh, miễn sao nói lên được chủ đề phi lý. Nhưng còn một tháiđộ nữa, không phải là thái độ triết lý vì có thể ta không sống trong cuộc cuốn lốc củahai trận thế chiến, ta không ở trong sự vong thân của nền văn minh cơ khí, ta khôngbị tác động bởi chủ nghĩa cực đoan. Ta cũng có thái độ văn nghệ thích điều tân kỳ,nhưng là Tân Kỳ Có Điều Kiện (phản ảnh sự điều tiết không bị ảnh hưởng nặng nềcủa kinh nghiệm phi lý).Điều kiện đó là phải có tính chất văn chương, nói rõ hơn là tính chất thi ca, đặtnền tảng trên mỹ cảm. Mỹ cảm không nhất thiết là óng chuốt, mà là rung động nghệthuật, tế vi của truyền thống thi ca dân tộc. Dù là tiếng hát ru con nơi thôn xóm, lờihát dạo nơi phố phường đông đúc, nhưng đọc kỹ thì vẫn là những lời đẹp, khôngquái dị, không quá giả tưởng. Vì vậy ta có thái độ thi ca, cảm thức thi ca, khi đọc cáctác phẩm của nền văn học phi lý Tây Phương, có lựa chọn tác phẩm phi lý hợp vớicảm quan thưởng ngoạn của ta.Đó là thưởng thức văn chương, không phải là triết lý hay quan điểm nhìn đời.Tại sao cũng là tác phẩm thuộc dòng văn học phi lý, mà ta yêu tác phẩm "Sự BuồnNôn" (La Nausée) của Sartre hơn tác phẩm "Dịch Hạch" (La Peste) của Camus. Tạisao cũng là tác phẩm nói về thân phận con người bị cuốn lốc phi lý vào guồng máyphi nhân mà ta yêu tác phẩm "Giờ Thứ Hai Mươi Lăm" của Georghiu (?) hơn tácphẩm "Vụ Án" (The Trial) của Kafka. Đồng thời đều là "Phản Tiểu Thuyết" không cócốt truyện và nhân vật chưa là nhân vật, chưa là một nhân cách, tại sao ta yêu tácphẩm "Khoảng Một Đêm" của Jean Cayrol hơn tác phẩm "Les Gommes" (NhữngCục Tẩy) và "Dans le labyrinthe" (Trong Mê Lộ) của Alain Robbe-Grillet). Và cũng làKịch Phi Lý (The Theatre of the Absurb), tại sao ta yêu tác phẩm "Đợi Xe Buýt" (Arrêtd'autobus) của Cao Hành Kiện hơn tác phẩm tiên phong "Đợi Godot" (En attendantGodot) của Samuel Beckett.Rất tiếc là người viết bài này không hề đọc nguyên tác của các tác phẩm đãkể trên, chỉ biết qua trung gian các bài giới thiệu bằng Việt Ngữ của các Giáo Sư,Học Giả, người viết báo, Nhà Văn…nhưng cũng thấm được tính chất thi ca khi cảmthức. Tính chất thi ca hoặc do sự tân kỳ qua kỹ thuật diễn tả của kịch phi lý, trong đónhững người đợi xe buýt nói năng hỗn độn, vì đầu bứt tai, những cử chỉ bâng quơ,và chuyến xe buýt đợi chờ không bao giờ tới. Nhờ bối cảnh trạm xe buýt ở ngoại ôBắc Kinh, chuyến xe vô hình, Cao Hành Kiện đã dựng kịch vô-kịch-tính có vẻ thơhơn Samuel Beckett với sân khấu là một phòng đợi, những nhân vật nói lắp bắp lắmđiều vô nghĩa…Tính chất thi ca của hiện sinh phi lý do cái nhìn sâu vào vật giới,khám phá sự hàm hồ của ngôn ngữ gán cho sự vật, trong khi chúng là những hiệnhữu thật vô nghĩa. Ta đọc được tính chất thi ca đó qua một trang dịch từ Pháp Văndo ông Nghiêm Xuân Hồng chọn trong tác phẩm "Sự Buồn Nôn" của Sartre: "Lúcvừa rồi, tôi (nhân vật Roquentin) đương ngồi chơi trên chiếc ghế công viên. Dưới ghếtôi ngồi, một nhánh rễ to của cây hạt dẻ đâm sâu vào lòng đất.Nhìn một lúc, tôi chợt quên hẳn rằng vật đó là một nhánh rễ cây. Trong tâmnão tôi, những danh từ thấy biến mất dần, không còn nhớ lại ý nghĩa thông thườngcủa sự vật, những cách thức sử dụng hoặc những điểm căn cứ khác mà mọi ngườithường mang ấn tượng về một vật nào. Một mình tôi cứ ngồi thừ ra đó, đầu cúi gầm,lưng khom khom, với trước mắt một chất khối lù lù, đen ngòm và sần sùi (chiếc rễcây), khiến tôi phát sợ.Ngay lúc ấy, tôi chợt thức giác điều đó. Sự thức giác đó làm tôi ngạt thở. Từtrước tới lúc đó, tôi chưa bao giờ ý thức được thế nào là hiện sinh. Tôi cũng như tất70 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
cả những kẻ khác, những kẻ mặc bộ đồ đẹp đi hóng gió xuân trên bãi biển. Tôi cũngnói như họ: Bể hôm nay xanh quá, và cái điểm trắng đằng xa kia tức là con hải điểu.Nhưng tôi không bao giờ cảm thấy rằng tất cả những thứ đó đều hiện sinh, và conhải điểu là một hải điểu hiện sinh…Thế rồi, bỗng chợt, sự hiện sinh của chiếc rễ câyđã hiển hiện trong tâm não tôi. Nó đã mất hẳn dáng điệu hiền lành của một vật trừutượng, nó đầy rẫy và thấm nhuần bởi chất hiện sinh" (La Nauseé, trang 162-163, nhàxuất bản Gallimard).Câu nói "Địa Ngục Là Những Kẻ Khác" (L'enfer c'est les autres), ta thườnghiểu theo nghĩa tương quan xã hội, con người làm khổ cho nhau vì mâu thuẫn xungđột. Thật ra, cả tri thức của ta đối với người khác và đối với vũ trụ cũng có sự tranhchấp như vậy. Thật là thơ qua một đoạn trích trong tác phẩm "Hữu Thể Và Hư Vô"(L'être et le Néant) của Sartre nói về "thế giới thuộc về tôi" (Le Monde-pour-Moi),cũng qua bản dịch của ông Nghiêm Xuân Hồng: "Tỉ dụ như tôi đương một mìnhngắm cảnh bên một bờ suối ven rừng. Phong cảnh đó, lúc đó, chỉ hoàn toàn có trongthức giác của tôi, và đã thành như một bầu vũ trụ của riêng tôi. Chợt một bộ hànhkhác đi tới, cũng dừng chân ngắm cảnh. Một mặt, người ấy chỉ là một sự vật đemthêm một chi tiết vào trong bầu vũ trụ được tạo trong thức giác của tôi. Song một mặtkhác, tôi nhận luôn thấy rằng đứng trước phong cảnh ấy trong đó có tôi nữa làm sựvật, người ấy cũng đương tạo trong thức giác một bầu vũ trụ của riêng anh ta. Nhưthế, tôi sẽ cảm thấy rằng tác động biểu hiện về vũ trụ của mình bị dần dần tan rã đểkết tập chung quanh thức giác người kia. Và cả một khoảng vũ trụ gần như bỏ rơi tôiđể trở thành vũ trụ một kẻ khác" (2)…Ta nói về tính chất thi ca do kỹ thuật kịch phi lý,và tính chất thi ca do ý thức phi lý khi nhận thức, bây giờ là tính chất xã hội do bốicảnh phi lý: Phi lý do chiến tranh, phi lý do tai ương. Ta không ở trong hoàn cảnhcuốn lốc của hai trận thế chiến, ta không ở trong hoàn cảnh xảy ra trận dịch bệnhkhủng khiếp, cho nên ta không có thái độ triết lý "phản loạn siêu hình" chống lại taiương phi lý cho nhân loại, như một số người rung cảm đối với tác phẩm của Camus.Tác giả có thái độ triết lý siêu hình đối với tai ương bỗng dưng ập xuống. Tính chấtnội hướng trong nhận thức phi lý về hiện hữu vật giới cũng có vẻ siêu hình, nhưng làcái siêu hình khám phá thế giới ngôn ngữ chỉ đồ vật cho nên dễ bắt gặp với thi cavẫn thường xuyên tra hỏi ngôn ngữ. Còn nổi loạn siêu hình (Metaphysical rebellion)chỉ dành cho thái độ triết lý đối với tai ương...Tác phẩm chống lại sự vong thân dohoàn cảnh dễ cảm hứng cho thơ hơn.Thử đọc cuốn sách chiến tranh "Giờ Thứ Hai Mươi Lăm": Chuyện một ngườinông dân xứ Romania thời Đệ Nhị Thế Chiến, bị bắt nhập ngũ chống Đức vì là côngdân một xứ đồng minh của Liên Xô, không biết lý do vì sao mình phải chống Đức,tượng trưng cho thân phận bị đẩy đưa của một nước nhược tiểu. Bị Đức bắt làm tùbinh, đến giờ phút cuối, giờ thứ hai mươi lăm của thời hưng thịnh sắp tiêu vong củaĐức Quốc Xã, anh ta được người Đức đo sọ thấy tương ứng với sọ của chủng tộcĐức, nên được đặc cách xung vào đội Công An Đặc Vụ của Đức Quốc Xã. Cũng làlúc quân Đức bị tan rã, anh bị quân Đồng Minh bắt vì đã là Công An Đặc Vụ. Hếtchiến tranh, mòn hạn tù, anh trở về xứ Romania thì mới biết vợ mình nay đã hai con,kết quả đó đã tượng trưng cho đất nước nhược tiểu của anh với nhiều phe lâm chiếnđến trấn đóng. Con người bị trôi giạt, bị đưa đẩy vô tình nhập vào phe này phe nọ,có những nét tương đồng với con người bị cuốn lốc vào chiến tranh trong thơĐường cách đây hàng ngàn năm. Tính chất hoàn cảnh đưa đẩy đó dễ thấm thía đốivới đa số hơn tính chất bị đè bẹp không lối thoát trong guồng máy vô hình mê cungcủa luật pháp. Guồng máy pháp luật ném con người vào phiên xử trừu tượng, tộinhân bị kết án qua giấy tờ, phòng giấy thư lại, trong khi cái tội thật thì không xảy ra,vậy mà rốt cuộc là phải hứng chịu bản án. Tác phẩm "Vụ Án" (The Trial) của Kafka71 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20: Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22: các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24: Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26: (Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28: Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30: Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32: Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34: lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36: miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38: tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40: Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42: Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44: iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46: nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48: Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50: thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52: Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54: (Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56: ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58: cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60: tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62: Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64: (Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66: văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68: như những lớp sóng, hết l
- Page 69: tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 73 and 74: Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76: trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78: Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80: chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82: sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84: Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86: ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88: nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90: "Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92: (2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94: Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122:
ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124:
hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126:
nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128:
nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130:
Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131 and 132:
một minh chứng. Vì vậy các
- Page 133 and 134:
Ngu Yên sưu tầm được một
- Page 135 and 136:
thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138:
nhận định văn chương một
- Page 139 and 140:
sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142:
những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144:
quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146:
tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148:
văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150:
xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152:
như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154:
Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156:
hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158:
cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160:
(2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162:
cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164:
Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166:
Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168:
mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170:
Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172:
Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174:
không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176:
Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178:
Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180:
Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182:
Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184:
trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186:
nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188:
hướng về những người con
- Page 189 and 190:
những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192:
Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194:
trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196:
Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư