Nguyên Sa không chủ trương nghệ thuật theo tinh thần Apollo, nhưng hìnhthức văn chương trầm bổng, lời thơ êm đẹp, còn nội dung là tình yêu dịu ngọt trongbối cảnh thành thị, vì vậy thơ Nguyên Sa cũng là một phối hợp gắn bó giữa lời thơ,thể thơ và ý thơ.Ông đã trở thành nhà thơ tình yêu số một trong Văn Học Miền Nam. Ngônngữ êm đẹp và hiện đại, Thơ Tự Do nhưng vẫn trầm bổng, đó là hai yếu tố làm chothơ ông gần với tuổi trẻ thời bấy giờ: Đổi mới về phát biểu yêu đương nhưng chưađến mức độ nổi loạn phá luật lệ. Danh xưng nhà thơ tình yêu tuổi trẻ này đã theoông ra tới hải ngoại, và tại đây ông đã truy nghiệm ra sự phối hợp chặt chẽ hơn nữacho tình yêu dịu ngọt, tăng cường cho lời cùng thể thơ vốn đã du dương. Đó là chủtâm điệp vận ở các vần bằng như một điệp khúc mơn man vuốt ve tình yêu. Chủ tâmđiệp ngữ để làm thính giả tan loãng vào sự lâng lâng thưởng ngoạn khi nghe ngâmthơ hay đọc thơ êm ái, nhất là khi trên sân khấu tất cả đều lộng lẫy, đó là chủ trươngrất mới cho văn học mà ít người lưu ý. Nguyên Sa muốn đưa thơ vào trình diễn, tạo"nhạc tính tình yêu". Vì thơ Nguyên Sa đã được phổ nhạc rất nhiều và rất hay, phổbiến rộng rãi, nên một chủ trương thêm nữa của ông thành ra dư dả, do đó ngườiđời chưa lưu ý sự khám phá từ kinh nghiệm Nguyên Sa: "Chỗ dung thân của thơphải chăng là sự bao dung có tên là tình yêu". Có lẽ ý ông muốn nói: Trong khi talâng lâng thưởng ngoạn, tan loãng vào mơ màng tình yêu, khi ta trôi vào giai điệu vớiđiệp khúc du dương hay giọng ngâm thơ êm ái, ta sẽ không còn săm soi về chữ, vềđiệp ngữ tạo ra nhạc tính tình yêu đó. Dư dả thành ra không được lưu ý, thật đángtiếc.Đọc lại hai bài thơ "Paris Có Gì Lạ Không Em" và "Tương Tư", ta sẽ nhận rachủ tâm điệp ngữ. Nguyên Sa nói rõ chủ tâm điệp ngữ về vần là cơ cấu hòa điệu chonội dung và hình thức, tạo ra điệp khúc dịu ngọt tình yêu: "Vần là một hiện tượng cơcấu, là sự phối âm của toàn thể chữ trong đoạn thơ hay bài thơ...vẻ đẹp của giáođường không phải là cộng lại của những viên gạch. Kiến trúc của giáo đường manglại vẻ đẹp cho mỗi viên gạch...Tôi lựa chọn nền âm thanh, chọn lựa sự xuất hiện củanhững tiếng đồng âm, tạo nên một nền âm thanh".(Trích ra từ bài đã đăng trong báo Dân Chúng, được nhuận sắc dưới tựa đề"Luật Phản Thanh", in trong tập "Hồi Ký" của Nguyên Sa). Phục hoạt trình diễn chothơ, với chủ tâm điệp ngữ như trên, không cần ngâm thơ mà chỉ đọc thơ chắc cũngđủ lâng lâng.Xin được nhắc lại, Nguyễn Vỹ đã dùng chữ để tượng hình những giọt sươngrơi, đi kèm với nội dung. Phải chăng ông là người tiền phong đã đi trước trường phái"Thơ Cụ Thể". Theo Ngu Yên, trường phái "Thơ Cụ Thể" (Concrete Poetry) phát xuấttừ Đức và Ba Tây khoảng giữa Thế Kỷ 20, nghĩa là sau thời tiền chiến Việt Nam(1932-1945), tức thời điểm Nguyễn Vỹ sáng tác. Trường phái Thơ Cụ Thể cực thịnhkhoảng năm 1960 đến 1970, đúng thời kỳ chiến tranh ác liệt tại Việt Nam, nên giớivăn nghệ ta ít biết đến.(Ngu Yên, tạp chí Văn Học số 121, trong bài "Thơ Cụ Thể"). Nhưng trườngphái Thơ Cụ Thể chỉ coi từ ngữ như những vật liệu vật lý, chẳng khác vật liệu Plastichay vỏ bánh xe mà vài người thuộc trường phái này sắp xếp thành bài thơ. Sắp xếpnhư vậy để nói lên một ý nghĩa nào đó, nghĩa là nói lên một nội dung. Vậy hình thứcvăn chương và có thể thơ là điều không đáng kể. Cho nên ta không thể quy định đâylà sự phối hợp hình thức và nội dung, là kiến trúc một cơ cấu gắn bó giữa lời thơ, thểthơ và ý thơ mà bài viết này đặt trọng tâm để nêu ra. "Đọc", nói đúng ra cần phải"nhìn" ý nghĩa qua vật liệu sắp xếp (đây là "Thơ Thị Kiến", Visual Poem, thuộctrường phái Thơ Cụ Thể), và cần phải "nghe" từ ngữ vô nghĩa nhưng phát ra âmthanh (đây là "Thơ Âm Thanh", Sound Poetry, cũng thuộc trường phái ''Thơ Cụ Thể".132 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
Ngu Yên sưu tầm được một bài thơ Anh Ngữ: Điều quan yếu không phải nơi nghĩacủa từ mà quan yếu ở chỗ đọc lên nghe như âm thanh bánh xe lửa đang sình sịchchuyển mình. Trong cuốn "Thơ Việt Hiện Đại" của Uyên Thao xuất bản tháng 10năm 1969 tại miền Nam, trang 432, có nêu trường hợp một bài thơ Pháp Văn, nhưngtừ ngữ Pháp này không có trong từ điển. Nhà thơ đặt ra các từ ngữ ấy để đọc lênnghe như âm thanh tiếng chuông nhà thờ. Isidore Isou là người đề xướng thi phái"Duy Từ Ngữ" đó (Lettrisme). Thi phái Duy Từ Ngữ coi chữ là trên hết, trong khi thiphái Cụ Thể coi chữ là vật liệu vật lý, đồng giá trị với các vật liệu vật lý khác. Ta liêntưởng đến vật liệu là vài tảng đá đơn sơ trong các khu vườn cổ năm sáu trăm năm ởNhật, hoặc vật liệu là đóa hoa thiên nhiên với phiến lá xanh được cố ý cho nhô ra từdãy hàng rào nâu xám của một thiền giả Phù Tang. Nhưng các vật liệu ấy cốt để gợisự chiêm nghiệm tâm linh, đốn ngộ siêu hình. Thi phái Cụ Thể đi tìm một ý nghĩaqua cách sắp xếp vật liệu, không phải để đi vào diệu vợi siêu hình. Đọc từ ngữ trongthơ Cụ Thể đôi khi ta cũng bắt gặp được chất thơ, nhưng chất thơ này nếu khôngđược dẫn giải trước, chắc ta không nắm bắt được hình tượng mà nhà thơ muốn độcgiả phải thị kiến, như bài thơ "Con Đường Và Mặt Trời" của một nhà thơ xứ Ba Tây(do Ngu Yên trích dẫn trong bài "Thơ Cụ Thể"). Bài thơ gồm năm câu tiếng Bồ ĐàoNha (có lẽ Ba Tây là xứ nói tiếng Bồ Đào Nha, Portuguese). Bốn câu đầu gồm cácchữ mặt trời và con đường kề cận nhau, chỉ khác là chữ mặt trời từ bên phải dịchdần về bên trái từ câu hai đến câu bốn. Ta phải thị kiến đó là mặt trời đang lên cao.Câu năm không còn chữ mặt trời mà gồm toàn chữ con đường: Ta phải thị kiến khiấy mặt trời đã lặn rồi, trả lại bóng tối cho các con đường trên mặt đất. Quả là có chấtthơ. Hoặc như Trần Long Hồ giới thiệu vài bài thơ cụ thể trong "nhóm tạp chí Thơ",trong đó có nhà thơ (không thấy nêu tên) cho ấn loát nhập nhòe câu thơ của bàĐoàn Thị Điểm trong "Chinh Phụ Ngâm". Hình ảnh nhập nhòe của các chữ "TrốngTràng Thành lung lay bóng nguyệt. Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây" quả là tượnghình tiếng trống dồn dập như làm lay động ánh trăng trên mặt trường thành. Thậtcũng có chất thơ. (Trần Long Hồ, trong bài "Đầu Năm Nói Chuyện Thơ", tạp chí VănHọc, số Mùa Xuân 2001). Nhưng chất thơ hình như không phải là điều mà Thơ CụThể nhắm tới. Ví dụ lấy vật liệu như Plastic hay vỏ bánh xe thì không còn gì chất thơ.Cái họ nhắm tới: Nói lên một ý nghĩa nào đó, không nhất thiết phải đạt chất thơ.Và nếu không có sự dẫn giải trước, tức là cần từ ngữ diễn tả ý tưởng, thì chắcnhững sắp xếp tượng hình không tự mình bộc lộ được ý nghĩa, không phơi bàyđược chất thơ.Trong bài báo đã kể trên thì vài nhà thơ trong "nhóm tạp chí thơ" được gọi là"các nhà thơ cách tân" thay vì các nhà thơ thuộc thi phái Thơ Cụ Thể.Ngẫu nhiên mà mỗi thời kỳ trong văn học ta có một nhà thơ sáng tác thể hiệnsự phối hợp Nội Dung và Hình Thức, thể hiện cơ cấu gắn bó lời thơ, thể thơ và ýthơ. Thời Tiền Chiến thì có Nguyễn Vỹ với đầy ý thức làm thơ tượng hình bằng từngữ, bằng câu thơ.Thời Văn Học Miền Nam thì có Thanh Tâm Tuyền đầy ý thức Thơ Tự Do pháhủy ước lệ với nội dung là tinh thần nghệ thuật Dyonysos. Thời Văn Học Việt NamHải Ngoại có Nguyên Sa với đầy ý thức điệp ngữ điệp vận tăng cường thêm cho tínhâu yếm dịu ngọt trong thơ tình. Ngoài ra các nhà thơ khác chỉ mượn thể Thơ Tự Dođể lồng vào nội dung nào đó cũng được, như thời kháng chiến có Thơ Tự Do lồngvào nội dung yêu nước, đánh đuổi ngoại xâm. Hoặc chỉ lấy các thể thơ có sẵn nhưbảy chữ, lục bát, ngũ ngôn, tám chữ...để diễn tả đề tài đặc biệt hoặc đề tài chung.(Tạp chí Văn Học số 205, tháng 5/2003)Biển Đông Huyền Ảo Trong Thơ Viên Linh133 <strong>TRONG</strong> DÒNG CẢM THỨC VĂN HỌC MIỀN <strong>NAM</strong>
- Page 4 and 5:
nướng đang phồng ra, thiên h
- Page 6:
đến những thành phố kỹ ng
- Page 12 and 13:
Văn học hải ngoại, danh xưn
- Page 15 and 16:
Về ngả lưng tư lựlâng lân
- Page 17 and 18:
ta quên ông có vài bài thơ nh
- Page 19 and 20:
Ngàn tia sầu nhớ vút hư khô
- Page 21 and 22:
các bụi hơi này bị quay cu
- Page 23 and 24:
Vua Quang Trung muốn thực hiệ
- Page 25 and 26:
(Trích bài “Tóc Em Chưa Úa N
- Page 27 and 28:
Cánh quạ ôTrên cành héo hắ
- Page 29 and 30:
Lời của chim ch.m vào tiếng
- Page 31 and 32:
Bay qua ngọn ráng hồngNhững
- Page 33 and 34:
lãng quên nhưng đôi khi còn t
- Page 35 and 36:
miền Tây trong mùa đốt cỏ.
- Page 37 and 38:
tưởng tượng của con ngườ
- Page 39 and 40:
Cõi nạm ngọc bằng trăng và
- Page 41 and 42:
Xuân đến trần gian kiếm th
- Page 43 and 44:
iến điệu chỉ hơi khang khá
- Page 45 and 46:
nghĩ các người thông bác Đ
- Page 47 and 48:
Hồng có những câu thơ thuộ
- Page 49 and 50:
thị trấn, FENGJIE, nhà báo M
- Page 51 and 52:
Ca dao xưa có câu “Lênh đên
- Page 53 and 54:
(Thơ làm năm 1976)9.Triệu tri
- Page 55 and 56:
ngữ, từ ngữ không tương qu
- Page 57 and 58:
cái xe cũng gẫy càng long bán
- Page 59 and 60:
tâm hồn là những câu ca dao
- Page 61 and 62:
Hàn Mặc Tử, Lãng Mạn Hay T
- Page 63 and 64:
(Twinkle, twinkle, little starI don
- Page 65 and 66:
văn chương, chủ nghĩa Siêu T
- Page 67 and 68:
như những lớp sóng, hết l
- Page 69 and 70:
tạo ra vô tuyến viễn vọng
- Page 71 and 72:
cả những kẻ khác, những k
- Page 73 and 74:
Nếu ta thấy tính chất thi ca
- Page 75 and 76:
trong Thơ tượng trưng, đặc
- Page 77 and 78:
Yên, ngôn ngữ "tân kỳ pha v
- Page 79 and 80:
chấm làm lặng thời gian tron
- Page 81 and 82: sau một đêm mưa rào tôira x
- Page 83 and 84: Đến đây ta đề cập đến
- Page 85 and 86: ông như mất vẻ nghiêm chỉn
- Page 87 and 88: nhích" cho thơ đi tới, nghĩa
- Page 89 and 90: "Derrida thay cách đánh vần tr
- Page 91 and 92: (2) Năm tác giả: Hoàng Ngọc
- Page 93 and 94: Hán Việt nào là cần thiết
- Page 95 and 96: Trong khi cảm thức, ta thườn
- Page 97 and 98: xuất bản 1992, Nhớ Đất Th
- Page 99 and 100: ngỡ hồn tu xứ mưa baytôi ch
- Page 101 and 102: mùa hạ ta qua vùng thảo nguy
- Page 103 and 104: trong văn học sử, nhưng trong
- Page 105 and 106: gió từ đèo Le gió về Trung
- Page 107 and 108: thừa bạn thừa taThiếu tình
- Page 109 and 110: (Tạp chí Hợp Lưu, số 71/200
- Page 111 and 112: thời di tản 1975, có hai nhà
- Page 113 and 114: Từ phòng ngủ mang xuống nhà
- Page 115 and 116: chăng vì Thủ Đô ánh sáng na
- Page 117 and 118: tháng lãnh lương. Xa lộ đế
- Page 119 and 120: đỉnh mơ ước đi hoài chưa
- Page 121 and 122: ài thơ của ông, cách khoảng
- Page 123 and 124: hợp nhất là thơ Tự Do. Như
- Page 125 and 126: nhạt nhòa giữa đêm khuya khi
- Page 127 and 128: nói về thơ của mình. Hồi
- Page 129 and 130: Chiếc xẻng cá nhân đào hố
- Page 131: một minh chứng. Vì vậy các
- Page 135 and 136: thấy qua đài truyền hình, n
- Page 137 and 138: nhận định văn chương một
- Page 139 and 140: sự sách giáo khoa nào thuở t
- Page 141 and 142: những kiến thức văn hóa, nh
- Page 143 and 144: quân đội. Một bài thơ hay m
- Page 145 and 146: tâm, lòng sợ hãi, tình nhân
- Page 147 and 148: văn chương thuần túy, mặc d
- Page 149 and 150: xuất được những áng văn c
- Page 151 and 152: như thơ của tác phẩm "U Hoà
- Page 153 and 154: Muốn gặp nhau mang cảm tình
- Page 155 and 156: hết Đại Học, ngược lại
- Page 157 and 158: cách xu thời của "thời trang
- Page 159 and 160: (2) Thơ và triết học của Tr
- Page 161 and 162: cuối cùng, thường không tạ
- Page 163 and 164: Anh nói bằng tiếng hônKhông
- Page 165 and 166: Trong bài đó, tôi nói về nh
- Page 167 and 168: mô phỏng tiếng kêu của thú
- Page 169 and 170: Rộng rãi hơn bộ môn Văn gi
- Page 171 and 172: Nghe nhạc song ngữ, người Vi
- Page 173 and 174: không biết viết về “Hiện
- Page 175 and 176: Nai cao gót lẫn trong mùXuống
- Page 177 and 178: Những Ngọn Cỏ Thi Trong Thơ
- Page 179 and 180: Như tiếng chim tiền kiếpVề
- Page 181 and 182: Sớm ra đi sớm hoa không biế
- Page 183 and 184:
trong giấc mơ. Và trong giấc
- Page 185 and 186:
nghệ thuật dưới những bề
- Page 187 and 188:
hướng về những người con
- Page 189 and 190:
những hoàng điệp bay...Dĩ nh
- Page 191 and 192:
Đàn xuống cung trầm, mắt nh
- Page 193 and 194:
trích vài câu tiêu biểu dễ
- Page 195 and 196:
Ôi những nhà ga rất cổ xưa
- Page 197 and 198:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
- Page 199 and 200:
Dòng sông là con đường thiê
- Page 201 and 202:
người con đầu trong nhà gọ
- Page 203 and 204:
Phố Liverpool, nhặt được m
- Page 205 and 206:
Hú qua hai mẫu nhân vật Heath
- Page 207 and 208:
ị coi là hình thức bề ngoà
- Page 209 and 210:
chảy rất Đông phương, khôn
- Page 211 and 212:
Hồn im nghe chiếc xe đã về
- Page 213 and 214:
hình xã hội bi quan, giai đo
- Page 215 and 216:
chán chường. Nghĩ vậy mà kh
- Page 217 and 218:
đen, không có cả những sách
- Page 219 and 220:
Mười hình thái diễn tả n
- Page 221 and 222:
khuôn sáo mà vẫn hay dùng, c
- Page 223 and 224:
Lữ Quỳnh trong bài Người b
- Page 225 and 226:
Nguyễn Lập Đông trong bài Ba
- Page 227 and 228:
vật biến đổi vô thường,
- Page 229 and 230:
Người về miền lửa táp/ n
- Page 231 and 232:
Ôn/ [con cá thích trầm sâu gi
- Page 233 and 234:
Vi Thùy Linh trong bài Vili I:Con
- Page 235 and 236:
Em ở bên kia trời cách biệt
- Page 237 and 238:
phạm trù trình bày ở đoạn
- Page 239 and 240:
Thơ siêu hình hải ngoại: bó
- Page 241 and 242:
Lưu vực điêu tàn ở biển
- Page 243 and 244:
nghĩa, nhưng ta không đồng c
- Page 245 and 246:
thực thực, nhờ thông qua ki
- Page 247 and 248:
Thu của Bích Khê là sương kh
- Page 249 and 250:
Sưu tầm sắp xếp những câu
- Page 251 and 252:
Tình thảo dã, bởi vậy mang
- Page 253 and 254:
ở những nơi chen chúc bình t
- Page 255 and 256:
làm cái bóng lớn thứ hai. Nh
- Page 257 and 258:
Ông lão khô quắt như thanh đ
- Page 259 and 260:
Ở đất nước xa xăm/ nơi m
- Page 261:
Hoàng Lộc trong bài Phố ngư